Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Luận văn Thạc sĩ: Chất lượng công chức cấp xã trên địa bàn huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 141 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số 
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố 
trong bất kỳ luận văn nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã 
được chỉ rõ nguồn gốc.
Hải Phòng, ngày 02 tháng 11 năm 2019
Tác giả

 Nguyễn Hồng Diễn

i


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ  sự  cảm  ơn trân trọng nhất tới giáo viên hướng dẫn 
khoa học Tiến sĩ Bùi Thị  Hồng Việt đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ  tôi 
trong suốt quá trình hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm  ơn sự góp ý chân thành của các thầy, cô giáo 
Trường Đại học Đại Nam đã nhiệt tình giúp đỡ  tôi trong quá trình hoàn 
thành luận văn. Tôi cũng xin gửi lời cảm  ơn tới các công chức UBND  
huyện Vĩnh Bảo và người dân địa phương đã hỗ  trợ  dữ  liệu và các thông  
tin cần thiết cho luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, những người thân, công chức 
đồng nghiệp và bạn bè đã tạo điều kiện về mọi mặt cho tôi trong quá trình 
thực hiện đề tài này.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn! 
Hải Phòng, ngày 02 tháng 11 năm 2019
Tác giả



 Nguyễn Hồng Diễn

ii


MỤC LỤC

iii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
CC
CNH­HĐH
CNXH
HĐND
KTXH
NTM
NXB
UBND

Giải thích
Công chức
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
Chủ nghĩa xã hội
Hội đồng nhân dân
Kinh tế ­ xã hội
Nông thôn mới

Nhà xuất bản
Ủy ban nhân dân

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số 

Tên bảng

Trang

bảng 
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7
2.8
2.9
2.10
2.11
2.12
2.13
2.14
2.15

2.16

Số lượng Công chức cấp xã của huyện Vĩnh Bảo giai 
đoạn 2014­2018
Số lượng CC của các xã, thị trấn trên địa bàn huyện 
Vĩnh Bảo
Cơ cấu độ tuổi và giới tính của đội ngũ công chức cấp 
xã huyện Vĩnh Bảo
Công chức cấp xã của huyện Vĩnh Bảo theo thâm niên 
công tác vào năm 2018
Trình độ chuyên môn của đội ngũ CC cấp xã huyện 
Vĩnh Bảo
Thực trạng công chức đạt chuẩn theo trình độ lý luận, 
ngoại ngữ, tin học
Thực trạng công chức là đảng viên năm 2018
Kết quả điều tra khảo sát về kỹ năng công tác
Kết quả điều tra khảo sát về kỹ năng công tác
Kết quả điều tra khảo sát về Phẩm chất đạo đức, thái 
độ ứng xử trong quá trình làm việc với công dân
Đánh giá tâm lực của đội ngũ CC cấp xã
Kết quả điều tra khảo sát về Phẩm chất đạo đức, thái 
độ ứng xử trong quá trình làm việc với công dân
Đánh giá tâm lực của đội ngũ CC cấp xã (Do CC cấp 
huyện đánh giá)
Kết quả khảo sát các nhân tố ảnh hưởng đến chất 
lượng công chức cấp xã (Do CC cấp xã đánh giá)
Kết quả tuyển dụng công chức các xã, thị trấn của 
huyện Vĩnh Bảo giai đoạn 2014­2018
Kết quả đào tạo theo nội dung đào tạo
v


36
37
39
41
42
45
45
48
50
55
56
57
58
62
66
69


2.17

Kết quả đánh giá, phân loại CC cấp xã năm 2018

70

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số biểu 

Tên biểu đồ


Trang

đồ
2.1

Đánh giá tác phong làm việc của đội ngũ CC cấp xã

55

vi


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Cấp xã (xã, phường, thị trấn) là một cấp trong hệ thống hành chính 
bốn cấp của Nhà nước Việt Nam; có vị  trí, vai trò đặc biệt quan trọng, là 
nền tảng của bộ  máy Nhà nước, là chỗ  dựa, là công cụ  sắc bén để  thực  
hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm cơ sở cho chiến lược ổn  
định và phát triển đất nước, là yếu tố  chi phối mạnh mẽ  đến đời sống  
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng dân cư trên địa bàn.
Khoản 2 Điều 111 Hiến pháp năm 2013 xác định: “Cấp chính quyền 
địa phương gồm có HĐND và UBND được tổ chức phù hợp với nông thôn, 
đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính ­ kinh tế đặc biệt do luật định”. Việc thể 
chế hóa quy định này của Hiến pháp đặt ra các yêu cầu đổi mới cách thức 
tổ chức, hoạt động của chính quyền xã theo hướng tổng hợp đa ngành, liên 
ngành và không đơn thuần chỉ là “cánh tay nối dài” của cơ  quan Nhà nước 
cấp trên. Nhìn chung, ở cấp cao hơn, các cơ quan Nhà nước cần phải được 
tổ chức thành một hệ thống các cơ quan có tính chuyên môn hóa cao, để có  
điều kiện chuyên sâu nghiên cứu, chỉ đạo, quản lý hoặc giải quyết về một  

lĩnh vực cụ thể  nhất định trong hoạt động của nhà nước, còn ở  cấp cơ  sở 
như xã, thường mang tính đa ngành, liên ngành. Chẳng hạn, khi giải quyết  
các công việc quan trọng có liên quan đến cơ  sở, như  tài chính, giáo dục,  
xây dựng, trật tự  ­ an ninh thì UBND xã bắt buộc vừa phải tuân theo các 
quy định của cơ quan nhà nước cấp trên, vừa phải tuân theo quyết nghị của 
HĐND xã. Như  vậy, nếu các chức năng, nhiệm vụ  của Nhà nước  ở  cấp 
cao hơn do nhiều loại cơ quan khác nhau cùng thực hiện thì ở cấp xã chỉ do  
một cơ  quan là UBND xã, thực hiện theo cách tổng hợp đa ngành và liên 
ngành.
1


Cho đến nay, nhiều vấn đề  quan trọng đang đặt ra trong phương 
thức quản lý của chính quyền xã, như: thể  chế  quản lý một cách dân chủ 
và hiệu lực, hiệu quả phù hợp với đặc điểm vùng miền, tộc người và phát 
huy đúng mức được truyền thống tự  quản của thôn/làng; nội dung, cấu  
trúc, chức năng quản lý của chính quyền xã đối với phát triển xã hội; năng 
lực, kỹ  năng thực hành, các phương thức, điều kiện, thủ  tục, quy trình  
quản lý một cách dân chủ  và hiệu quả; mối quan hệ giữa cơ  chế quản lý 
với ý thức dân chủ, văn hóa pháp luật, tính minh bạch và trách nhiệm giải 
trình... của chính quyền xã. 
Một số  nội dung về  công tác quản lý trong hoạt động của chính 
quyền xã, tuy đã được thể chế hóa và thực hiện trên thực tế, nhưng do việc  
nhận thức chưa thống nhất, các thiết kế  cụ  thể  của mô hình chính quyền  
xã chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, nên sau khi thể chế hóa đã không vận hành  
được. Trong công tác quản lý của chính quyền địa phương nói chung, chính  
quyền xã nói riêng, chưa làm rõ được mối quan hệ  giữa sự  lãnh đạo/chỉ 
đạo của tổ chức Đảng với thực hành quản lý của chính quyền và sự  giám  
sát, phản biện của hội đồng nhân dân và các tổ chức xã hội ở xã; chưa giải 
quyết được mối quan hệ giữa quyền, lợi ích, nghĩa vụ của các chủ thể phát 

triển KTXH và chủ  thể  quản lý phát triển KTXH trên địa bàn xã; nhất là  
giữa quản lý của chính quyền xã với việc bảo đảm truyền thống tự  quản 
của các thôn/làng.
Đây là những nguyên nhân căn bản dẫn tới những bất cập trong công 
tác quản lý của chính quyền xã thời gian qua, đề ra yêu cầu đổi mới, hoàn  
thiện tổ chức hoạt động của chính quyền xã trong điều kiện triển khai thực 
hiện Hiến pháp năm 2013.
Công chức xã hiện nay chủ  yếu xuất thân từ  nông dân, lớn lên và 
2


trưởng thành trong môi trường nông thôn, nên năng lực và trình độ  còn 
nhiều hạn chế. Công tác đào tạo CC xã, đặc biệt kỹ năng thực hành có tính 
nghề nghiệp lại chưa được chú ý đúng mức. Trong điều kiện trình độ  dân 
trí của nhân dân đã được nâng cao, tính chất quản lý ngày càng phức tạp, 
đòi hỏi việc quản lý Nhà nước cần phải khoa học, bài bản, nên CC cấp xã 
cần phải có trình độ, nhất là kỹ năng thực hành tổng hợp. Nếu CC cấp trên  
cần phải chuyên sâu, thì CC cấp xã lại phải có tri thức  ở  diện rộng, đa 
năng, có thể giải quyết được hoặc ít ra cũng biết được thủ tục và cách giải 
quyết nhiều vấn đề  rất khác nhau trực tiếp nảy sinh  ở  cơ  sở, để  hướng  
dẫn cho người dân thực hiện. 
Hiện nay, chúng ta mới có nhiều trường đào tạo chuyên sâu, nên về 
cơ bản chỉ đáp ứng được việc đào tạo CC cho các cơ quan trung ương hoặc  
địa phương, mà hầu như  chưa đáp  ứng được nhu cầu của cơ  quan chính 
quyền cấp xã, đặc biệt tại các địa phương vùng núi, vùng sâu, vùng biên  
giới, hải đảo, hay vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số  sinh sống. Do  
vậy, cần nghiên cứu đổi mới tiêu chuẩn các chức danh CC xã, kể  cả  cơ 
chế điều chuyển CC cấp huyện cho các cơ quan cấp xã và nghiên cứu đổi 
mới tại các cơ sở đào tạo CC cấp cơ sở theo hướng đa chức năng hơn, coi  
trọng kỹ năng thực hành hơn.

Việc nâng cao chất lượng CC là liệu pháp quan trọng, hữu hiệu để 
ngăn ngừa sự suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống trong CC, 
tìm ra những người biết lo cái lo của dân, hết mình vì đời sống nhân dân xã 
càng cấp thiết hơn lúc nào hết. Vì vậy, tác giả  chọn đề  tài: “Chất lượng  
công chức cấp xã trên địa bàn huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng” 
làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 
3


Đề  cập đến chất lượng đội ngũ CC đã có nhiều đề  tài, công trình  
nghiên cứu cấp Bộ, luận án tiến sỹ, các tác phẩm đăng trên tạp chí nghiên  
cứu về  đội ngũ CC cấp xã dưới nhiều góc độ  khác nhau. Tác giả  sẽ  giới  
thiệu các công trình khoa học: Sách, đề tài khoa học cấp Bộ trở lên, luận án  
tiến sỹ, các bài báo có liên quan đến chủ đề, đồng thời chỉ ra khoảng trống  
về lý luận và thực tiễn mà luận văn này sẽ kế thừa và tiếp tục hoàn thiện. 
Có thể liệt kê một số tác phẩm như sau: 
­ Cuốn sách "Luận cứ  khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội  
ngũ công chức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất  
nước" do PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm (đồng  
chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003. Trong cuốn sách này, hai  
tác giả  đã nêu và phân tích các luận cứ  khoa học cho việc nâng cao chất  
lượng đội ngũ CC trong thời kỳ  đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
đất nước. Tuy nhiên, tác phẩm viết ở tầm rộng: đội ngũ CC Nhà nước nói  
chung, chứ chưa chuyên sâu về đội ngũ CC cấp xã nói riêng. 
­ Luận án tiến sĩ, đề  tài “Hoàn thiện việc xây dựng đội ngũ công  
chức hành chính nhà nước chuyên nghiệp ở Việt Nam ” của Nghiên cứu sinh 
Chu Xuân Khánh, năm 2010, Học viện Chính trị ­ Hành chính quốc gia Hồ 
Chí Minh. Nội dung luận án tác giả chủ yếu đề cập đến những quan niệm 
về CC Nhà nước một số quốc gia khác nhau, làm cơ sở cho việc phân tích, 

so sánh với thực tiễn  ở  Việt Nam, từ đó góp phần vào việc hệ  thống hóa 
cơ  sở  lý luận về  đội ngũ CC hành chính Nhà nước và tính chuyên nghiệp  
của đội ngũ này. Luận án đưa ra quan niệm về tính chuyên nghiệp của đội  
ngũ CC hành chính Nhà nước, những biểu hiện của tính chuyên nghiệp và 
hệ thống chuẩn mực của đội ngũ CC hành chính Nhà nước chuyên nghiệp. 
Tác giả đã hệ thống lại quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ CC ở 
Việt Nam qua các giai đoạn cách mạng; phân tích đánh giá thực trạng về 
4


xây dựng và phát triển đội ngũ CC hành chính Nhà nước  ở  Việt Nam trên 
cơ  sở  đó rút ra các nguyên nhân cản trở  việc xây dựng đội ngũ CC hành 
chính Nhà nước. Đồng thời, tác giả  đã nêu một số  giải pháp nhằm xây  
dựng đội ngũ CC hành chính Nhà nước chuyên nghiệp  ở  Việt Nam, phục  
vụ cho công cuộc cải cách hành chính Nhà nước.
­ Thạc sỹ  Nguyễn Huy Hoàng, Trường Đại học Chính trị, Bộ  Quốc 
phòng: "Vai trò của đội ngũ công chức chủ chốt xã, phường, thị trấn trong  
thời kỳ mới", Tạp chí Tổ chức nhà nước số 10/2011.
Trong điều kiện cải cách hành chính Nhà nước đang diễn ra mạnh 
mẽ  như  hiện nay, vấn đề  nâng cao chất lượng đội ngũ CC cấp xã được 
đặc biệt quan tâm. Dưới góc độ  khoa học, các công trình trên rất có giá trị 
đối với những người nghiên cứu vấn đề  này. Tính đến nay, chưa có công 
trình, đề tài nào nghiên cứu về chất lượng đội ngũ CC cấp xã trên địa bàn  
huyện Vĩnh Bảo, thành phố  Hải Phòng. Chính vì vậy, tác giả  chọn đề  tài 
trên là thực sự cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục tiêu nghiên cứu
­ Mục đích nghiên cứu: 
Nghiên cứu đánh giá thực trạng chất lượng CC cấp xã trên địa bàn 
huyện Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng và đề xuất một số giải pháp nhằm 
nâng cao chất lượng đội ngũ CC cấp xã huyện Vĩnh Bảo.

­ Nhiệm vụ nghiên cứu: 
+ Làm rõ cơ sở lý luận về chất lượng đội ngũ CC cấp xã. 
+ Phân tích và đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ CC cấp xã 
huyện Vĩnh Bảo, từ đó chỉ rõ những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế 
và ưu điểm chất lượng công chức cấp xã trên địa bàn huyện Vĩnh Bảo. 
+ Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng CC cấp xã 
trên địa bàn huyện Vĩnh Bảo.
5


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
­ Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng CC xã trên địa bàn huyện Vĩnh 
Bảo, Thành phố Hải Phòng. 
­ Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: Nghiên cứu tại huyện Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng. 
+ Thời gian: Số  liệu thu thập cho giai đoạn 2014 – 2018 và đề  xuất 
giải pháp cho giai đoạn đến năm 2025.
5. Phương pháp nghiên cứu 
­ Phương pháp thu thập số liệu:
+ Thu thập dữ  liệu sơ  cấp: Bằng phương pháp điều tra xã hội học  
cụ  thể  như  sau: dự  kiến xây dựng 100 phiếu hỏi, với 4 mẫu phiếu, mỗi  
mẫu phiếu gồm một số  câu hỏi với nội dung xoay quanh chủ  đề  nghiên 
cứu của luận văn (có phụ lục kèm theo). Trong đó: 
Mẫu phiếu 1: Điều tra, công chức xã: 100 người 
Mẫu phiếu 2: Điều tra công dân trên địa bàn huyện Vĩnh Bảo: 100  
người
Mẫu phiếu 3: Điều tra, công chức huyện: 40 người 
Thông qua ý kiến nhận xét của 2 đối tượng được phát phiếu bảng  
hỏi trên, chúng ta có thêm cơ sở để đánh giá chất lượng đội ngũ CC cấp xã  
một cách khách quan nhất.

+ Thu thập số liệu thứ cấp: Thu thập số liệu t ừ các bài báo, các báo 
cáo, số liệu của Văn phòng UBND huyện Vĩnh Bảo.
­ Phương pháp xử lý số liệu:
+ Phương pháp phân tích tổng hợp
+ Phương pháp thống kê, so sánh
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
6


Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng công chức cấp xã
Chương 2:  Thực trạng chất lượng công chức cấp xã trên địa bàn 
huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng 
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công chức cấp xã 
trên địa bàn huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG
CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1. Công chức cấp xã
1.1.1. Khái niệm công chức cấp xã
1.1.1.1. Khái niệm công chức
Ở Việt Nam, khái niệm CC được hình thành và thường gắn liền với  
sự  hình thành và phát triển ngày càng hoàn thiện của nền hành chính Nhà 
nước. Khái niệm CC lần đầu tiên được nêu ra trong Sắc lệnh 76/SL ngày 
20/5/1950 của Chủ  tịch nước Việt Nam dân chủ  cộng hòa ban hành Quy 
chế  CC như  sau: “Những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân 
tuyển dụng, giao giữ  một chức vụ thường xuyên trong các cơ  quan Chính 
phủ,  ở  trong hay  ở  ngoài nước, đều là CC theo Quy chế  này, trừ  những 
trường hợp riêng biệt  do Chính phủ  định”. (Trích  Điều 1, Sắc lệnh số 
76/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950).

Đến năm 2008, Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã thông 
qua Luật Cán bộ, công chức số 22/2008/QH12. Đây là bước tiến mới, mang 
7


tính  cách  mạng  về  cải   cách  chế   độ  công   vụ,  CC,  thể  chế   quan  điểm, 
đường lối của Đảng về công tác bổ nhiệm CC, đáp ứng yêu cầu xây dựng 
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Điều 4, Khoản 2 Luật Cán bộ, công chức năm 2008, xác định: “Công 
chức là công dân Việt nam, được tuyển dụng, bổ  nhiệm vào ngạch, chức 
vụ, chức danh trong cơ  quan của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ 
chức chính trị  ­ xã hội  ở  Trung  ương, cấp thành phố, cấp huyện; trong cơ 
quan, thuộc đơn vị Quân đội nhân dân mà không phải là sỹ quan, quân nhân 
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan đơn vị  thuộc công an 
nhân dân mà không phải là sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp và trong bộ 
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị  sự  nghiệp công lập của Đảng cộng sản 
Việt nam, Nhà nước, tổ chức Chính trị ­ xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị 
công lập) trong biên chế  và hưởng lương từ  ngân sách Nhà nước; đối với 
công chức trong bộ  máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị  sự  nghiệp công lập 
thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo 
quy định của pháp luật”.
Để hướng dẫn thi hành Luật cán bộ công chức, Chính phủ và các bộ 
ngành  đã  ban  hành  nhiều  văn  bản  pháp  luật  mới  như  Nghị  định  số 
06/2016/NĐ­ CP ngày 25 tháng 01 năm 2016 quy định CC là “Công dân Việt 
nam, được tuyển dụng, bổ  nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong 
biên chế, hưởng lương từ ngân sách Nhà nước hoặc được bảo đảm từ quỹ 
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”.
Như  vậy CC  ở  Việt Nam không chỉ  là những người làm việc trong 
các cơ  quan Hành chính Nhà nước mà còn bao gồm cả  những người làm  
việc ở các Phòng Ban của Đảng, Mặt trận tổ quốc (MTTQ) Việt nam; các 

tổ  chức Chính trị  xã hội như: Hội Liên hiệp phụ  nữ, Hội nông dân, Hội  
Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt  
8


Nam, các cơ quan đơn vị  thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, Tòa 
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân từ  cấp Trung  ương đến cấp huyện 
[17].
1.1.1.2. Khái niệm công chức cấp xã
Hiện nay, CC cấp xã được quy định tại Khoản 3, Điều 4 của Luật 
cán bộ, công chức   2008 như  sau: “... công chức cấp xã là công dân Việt  
Nam được tuyển dụng giữ  một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ  thuộc  
UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước”. 
Như   vậy,   CC   xã   được   tuyển   dụng   và   phụ   trách   những   lĩnh   vực 
chuyên môn, nghiệp vụ  cụ  thể tại UBND cấp xã, trực tiếp tham mưu cho 
lãnh đạo UBND cấp xã trong việc điều hành, chỉ  đạo công tác, thực hiện  
các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước [17].
­ Cơ cấu CC cấp xã:
+ Theo Khoản 3, Điều 61 của Luật cán bộ, công chức 2008, CC cấp 
xã có các chức danh sau đây: 
a) Trưởng Công an;
b) Chỉ huy trưởng Quân sự;
c) Văn phòng ­ thống kê;
d) Địa chính ­ xây dựng ­ đô thị  và môi trường (đối với phường, thị 
trấn) hoặc địa chính ­ nông nghiệp ­ xây dựng và môi trường (đối với xã);
đ) Tài chính ­ kế toán;
e) Tư pháp ­ hộ tịch;
g) Văn hóa ­ xã hội.
Công chức cấp xã do cấp huyện quản lý.
Ngoài các chức danh theo quy định trên, CC cấp xã còn bao gồm cả 

CC  được luân chuyển, điều động, biệt phái về cấp xã.
9


­ Số lượng CC cấp xã
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 4 của Nghị định số 92/2009/NĐ­CP  
ngày 22/10/2009 của Chính phủ quy định: Số lượng CC cấp xã được bố trí 
theo loại đơn vị hành chính cấp xã: cấp xã loại 1 không quá 25 người, cấp  
xã loại 2 không quá 23 người, cấp xã loại 3 không quá 21 người (bao gồm 
cả CC được luân chuyển, điều động, biệt phái về cấp xã).
Việc xếp loại đơn vị  hành chính cấp xã thực hiện theo quy định tại  
Nghị   định số  159/2005/NĐ­CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ  về  việc  
phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn [17].
1.1.2. Vai trò của công chức cấp xã
Xã là một đơn vị  cấp hành chính cuối cùng trong bốn cấp của hệ 
thống quản lý hành chính, là cấp thấp nhất theo sự phân cấp quản lý nhưng 
thấp nhất không đồng nghĩa với ít quan trọng nhất.
Do vậy, xây dựng đội ngũ CC xã là nhiệm vụ rất quan trọng. Có thể 
đánh giá vị trí, vai trò của CC cấp xã trên một số khía cạnh sau:
­ Đội ngũ CC xã là người giữ vai trò quyết định trong việc hiện thực 
hoá sự  lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước về  mọi mặt của đời 
sống KTCH ở cơ sở.
­ Đội ngũ CC xã là người giữ vai trò quyết định trong việc quán triệt,  
tổ chức thực hiện mọi quyết định của cấp uỷ cấp trên, cấp uỷ cùng cấp và  
mọi chủ trương, kế hoạch, sự chỉ đạo của chính quyền cấp trên, cũng như 
mọi chương trình, kế hoạch của chính quyền xã. 
­ Công chức xã là cầu nối quan trọng nhất giữa Đảng, Nhà nước với  
nhân dân. 
­ Đội ngũ CC xã giữ  vai trò quyết định trong việc xây dựng và thúc 
đẩy phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ sở.

10


Công tác CC là một bộ  phận trong công tác xây dựng Đảng, là công 
tác Đảng liên quan chặt chẽ với việc xác định đường lối, chủ trương, chính 
sách và nhiệm vụ  chính trị, với việc sắp xếp tổ chức, bộ máy, cơ  chế  và 
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong cả hệ thống chính trị. 
Hiểu một cách tổng quát xây dựng đội ngũ CC cấp xã toàn bộ  hoạt 
động của chủ  thể  có đủ  thẩm quyền và trách nhiệm pháp lý, nhằm làm  
nên, tạo ra một đội ngũ CC xã  đủ  về  số  lượng, mạnh về  chất lượng, có 
lập trường chính trị vững vàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa  
phương, cơ  sở. Đồng thời còn bao hàm cả  việc nâng cao chất lượng đội  
ngũ CC xã hiện có, để đội ngũ này thích ứng với cơ chế mới, yêu cầu mới  
của nhiệm vụ chính trị đang đặt ra.
Chủ thể xây dựng đội ngũ CC chủ chốt cấp xã bao gồm: các Huyện 
uỷ, Thị  uỷ, trong đó trước hết là Ban Thường vụ  Huyện uỷ, Thị  uỷ  và 
những người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp huyện; tổ 
chức cơ sở đảng xã, mà trực tiếp là Ban Thường vụ  đảng uỷ  xã, phường,  
thị trấn, và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị xã.
­ Công tác xây dựng đội ngũ CC xã nhằm tìm ra những con người  
thật sự  có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất đạo đức và năng lực đủ  sức 
gánh vác những trọng trách của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. 
Công tác đó bao gồm: việc xác định đường lối, chủ  trương, chính  
sách về  CC và công tác công chức của Đảng; xác định tiêu chuẩn, cơ  cấu  
công chức, những tiêu chí nhằm xây dựng đội ngũ CC và thực hiện đồng 
bộ  các khâu trong công tác tổ  chức: quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy 
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố  trí, sử  dụng, bảo vệ  chính trị 
nội bộ và thực hiện chính sách đối với CC [1], [17].
 1.1.3. Đặc điểm công chức cấp xã 
11



Công   chức   cấp   xã   là   những   người   trưởng   thành   về   thể   chất   và 
trưởng thành về mặt xã hội, họ được tuyển dụng hoặc bổ nhiệm giữ một  
chức vụ thường xuyên trong các công sở  của Nhà nước, họ  đang trực tiếp  
tham gia vào bộ máy công quyền của nền hành chính quốc gia, như vậy họ 
là những người tự làm chủ được hành vi, thái độ  của mình và phải tự chịu 
trách nhiệm trước pháp luật với tư  cách là một công dân, một CC hành  
chính. Họ trưởng thành ở mặt xã hội còn biểu hiện ở giá trị  sản phẩm lao 
động của họ được xã hội công nhận và bằng sức lao động của mình, họ đã 
nuôi sống được bản thân. Hơn nữa, sự trưởng thành về mặt xã hội còn thể 
hiện ở cuộc sống riêng tư của họ, họ là những người có đầy đủ điều kiện  
hành vi trước pháp luật.
Họ  là những người đã có vị  thế  xã hội, vì CC là những người đang  
giữ chức vụ hoặc trách nhiệm nhất định theo trình độ đào tạo và được xếp  
vào ngạch bậc tương  ứng trong hệ  thống hành chính, bởi vậy, người CC 
đang có một vị thế xã hội nhất định để thực hiện quyền lực của Nhà nước  
quản lý toàn xã hội.
Công chức có nhiều kinh nghiệm sống, được tích luỹ  tuỳ  theo lĩnh 
vực mà họ  hoạt động. Bởi là CC, họ  phải được đào tạo  ở  trình độ  nhất  
định, cùng với vị trí làm việc của mình trong bộ máy công quyền [1], [17].
1.2. Chất lượng công chức cấp xã
1.2.1. Khái niệm chất lượng công chức cấp xã
Chất lượng là một phạm trù trừu tượng, nó mang tính chất định tính 
và khó định lượng, chúng ta không thể  cân đo đong đếm được. Dưới mỗi  
cách tiếp cận khác nhau thì quan niệm về chất lượng cũng khác nhau.
Theo từ điển tiếng Việt, chất lượng được xem là: “Cái tạo nên phẩm 
chất, giá trị của mỗi con người, một sự vật, một sự việc”. Đây là cách đánh 
12



giá một con người, một sự việc, một sự vật trong cái đơn nhất, cái tính độc  
lập của nó.
Theo một cách hiểu khác thì: Chất lượng là một phạm trù triết học 
biểu thị  những thuộc tính bản chất của sự  vật, chỉ  rõ nó là cái gì, tính  ổn  
định tương đối của sự vật để phân biệt nó với sự vật khác. Chất lượng là  
đặc tính khách quan của sự vật, biểu hiện ra bên ngoài qua các thuộc tính. 
Nó là cái liên kết các thuộc tính của sự vật lại làm một, gắn bó với sự vật 
như một tổng thể, bao quát toàn bộ sự vật và không tách khỏi sự vật.
Như  vậy, trong phạm vi đề  tài nghiên cứu về  chất lượng đội ngũ 
công chức, có thể hiểu chất lượng c ủa độ i ngũ công chức là khả năng giải 
quyết các vấn đề thuộc tất cả các lĩnh vực, khả năng thỏa mãn các yêu cầu  
của tổ  chức, cá nhân (khách hàng) về  cung  ứng các dịch vụ  hành chính. 
Tiêu chí để  đánh giá chất lượng công chức cũng đa dạng: có thể  là tỷ  lệ 
giải quyết hồ sơ đảm bảo đúng quy định về thời gian, quy trình, thủ tục; có  
thể là sự đo lường về mức độ thỏa mãn của người dân khi hưởng thụ dịch  
vụ  hành chính liên quan đến các yếu tố, như  sự  hài lòng về  thái độ  phục  
vụ, sự hài lòng về thời gian giải quyết công việc của người dân…
Chất lượng đội ngũ CC được đánh giá dựa trên tiêu chuẩn của đội 
ngũ CC, là những quy định cụ thể các yêu cầu về trình độ, năng lực, phẩm  
chất đạo đức… của những người CC theo những tiêu chí nhất định đối với 
từng ngành nghề riêng biệt.
Để đánh giá chất lượng đội ngũ CC, cần nói tới chất lượng của mỗi  
CC vì mỗi CC là một phần, một bộ phận của đội ngũ CC.
Chất lượng CC là tổng hợp những phẩm chất nhất định về sức khỏe, 
trí tuệ khoa học, chuyên môn nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, ý chí, niềm 
13


tin, năng lực, luôn gắn bó với tập thể, với cộng đồng và khả  năng thực 

hiện có hiệu quả nhiệm vụ đựoc giao. Trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước  
yêu cầu chất lượng đối với CC ngày càng cao, đòi hỏi người CC không 
những có trình độ, phẩm chất theo tiêu chuẩn CC mà còn phải gương mẫu, 
đi tiên phong về lý luận và thực tiễn, có tinh thần kỷ luật rất cao, có tư duy  
khoa học, lý luận sắc bén, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, luôn 
gắn bó với tập thể, với cộng đồng, có kỹ  năng tốt trong việc kết hợp tri 
thức khoa học, kinh nghiệm, kỹ  năng thực tiễn một cách nhạy bén, linh 
hoạt, đồng thời luôn chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, chính 
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Chất lượng của đội ngũ CC ngoài những yếu tố  nêu trên còn phụ 
thuộc vào cơ cấu đội ngũ CC, đó là tỷ lệ hợp lý giữa các độ tuổi, giữa nam  
và nữ, giữa CC lãnh đạo, quản lý, CC phụ trách chuyên môn nghiệp vụ.
Mỗi CC không tồn tại một cách biệt lập mà phải đặt trong một chỉnh  
thể thống nhất của cả đội ngũ CC. Vì vậy quan niệm chất lượng đội ngũ 
CC phải được đạt trong mối quan hệ biện chứng giữa chất lượng của từng  
CC với chất lượng của cả đội ngũ.
Bên cạnh đó cũng cần phải giải quyết tốt mối quan hệ  giữa chất  
lượng và số lượng đội ngũ CC. Chỉ khi nào hai mặt này có quan hệ hài hòa 
mới tạo nên sức mạnh đồng bộ của cả đội ngũ.
Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu, chất lượng đội ngũ CC xã là 
chỉ  tiêu tổng hợp chất lượng của từng công chức cấp xã, thể  hiện qua 
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực, kỹ  năng công 
tác, chất lượng và hiệu quả  thực nhiệm vụ  được phân công của mỗi CC  
cũng như cơ cấu hợp lý về độ tuổi, về ngạch, bậc và số lượng đội ngũ CC  
bảo đảm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của UBND cấp xã [4].
14


1.2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ công chức cấp xã
1.2.2.1. Kết quả hoàn thành công việc được giao

Năng lực của người CC quyết định sức mạnh để  có thể  hoàn thành  
công việc với mục đích cuối cùng là hiệu quả, được thể  hiện  ở  các mặt  
như: trình độ  văn hóa, kiến thức quản lý nhà nước, trình độ  chuyên môn  
nghiệp vụ.
+ Trình độ  văn hóa là nền tảng cho nhận thức, tiếp thu đường lối,  
chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và tạo điều kiện  
thuận lợi cho việc áp dụng chủ trương, chính sách trong thực tiễn.
+ Trình độ quản lý hành chính Nhà nước: Quản lý Nhà nước là sự tác  
động mang tính tổ chức lên các quan hệ xã hội, đó là thủ pháp mà nhà quản  
lý sử dụng trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình để giải quyết các  
vụ  việc cụ  thể đặt ra. Hoạt động quản lý vừa được coi là một khoa học, 
vừa là nghệ thuật. Để  thực hiện được các hoạt động này, đòi hỏi đội ngũ 
CC   xã cần phải được đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức cơ  bản về 
quản lý Nhà nước thì mới có được những kỹ năng, phương pháp thực hiện 
nhiệm vụ được giao
+ Trình độ  chuyên môn nghiệp vụ: Được hiểu là trình độ  được đào 
tạo ở các lĩnh vực khác nhau theo cấp độ: Sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại 
học. Đó là những kiến thức mà nhà trường trang bị cho người học theo các  
chuyên   ngành   nhất   định   được   thể   hiện   qua   hệ   thống   bằng   cấp.   Chính 
quyền cấp xã là nơi trực tiếp thực hiện mọi hoạt động quản lý, giải quyết  
mọi tình huống phát sinh trên thực tế. Nếu đội ngũ CC xã không có chuyên  
môn, nghiệp vụ, chỉ làm theo kinh nghiệm hoặc giải quyết mang tính chắp 
vá, tùy tiện chắc chắn sẽ hiệu quả không cao thậm chí còn mắc sai phạm 
nghiêm trọng [1], [2].
15


1.2.2.2. Các tiêu chí cấu thành chất lượng công chức cấp xã
­ Về trình độ đào tạo bao gồm:
Trình độ  chuyên môn nghiệp vụ  là điều kiện tiên quyết trong thực 

hiện các nhiệm vụ  và tạo ra sản phẩm công việc. Trình độ  là mức độ  về 
sự hiểu biết, về kỹ năng được xác định hoặc đánh giá theo tiêu chuẩn nhất 
định nào đó thể  hiện  ở  văn bằng chứng chỉ  mà mỗi CC nhận được thông 
qua quá trình học tập.
Năng lực chuyên môn cũng là yếu tố rất quan trọng đối với đội ngũ  
CC xã, thị trấn. Chính năng lực quyết định hiệu quả công việc của đội ngũ  
CC xã, thị trấn.
Năng lực chuyên môn là tập hợp các đặc điểm phẩm chất tâm lý phù 
hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định đảm bảo  
cho hoạt động đó đạt kết quả. Năng lực hình thành một phần dựa trên cơ 
sở  tư  chất tự  nhiên của cá nhân, và một phần lớn dựa trên quá trình đào  
tạo, giáo dục và hoạt động thực tiễn, cũng như rèn luyện của cá nhân.
Năng lực thể  hiện  ở  chỗ, con người làm việc tốn ít sức lực, ít thời 
gian, của cải, mà kết quả lại tốt. Việc phát hiện ra năng lực của con người 
căn cứ vào những dấu hiệu sau: Sự hứng thú đối với công việc nào đó, sự 
dễ  dàng tiếp thu kỹ  năng nghề  nghiệp, hiệu suất lao động trong lĩnh vực 
đó.
Đối với CC xã, năng lực thường bao gồm những tố  chất cơ bản về 
đạo đức cách mạng, về tinh thần phục vụ nhân dân, về trình độ  kiến thức  
về  pháp luật, kinh tế, văn hóa, xã hội... Sự  am hiểu và nắm vững đường  
lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, thành thạo nghiệp vụ chuyên môn, kỹ 
thuật xử  lý thông tin... để  giải quyết các vấn đề  đặt ra trong quản lý Nhà 
nước một cách khôn khéo, minh bạch, hợp lòng dân và không trái pháp luật. 
16


Đội ngũ CC xã phải có sự  ham mê, yêu nghề, chịu khó học hỏi, tích lũy  
kinh nghiệm. Đội ngũ CC xã phải có khả năng thu thập thông tin, chọn lọc  
thông tin, khả  năng quyết định đúng đắn, kịp thời. Vì vậy, việc nâng cao  
hiểu biết và năng lực tổ chức thực hiện cho đội ngũ CC xã là vấn đề quan  

trọng và bức xúc trong mục tiêu nâng cao chất lượng đội ngũ CC cấp xã.
Năng lực là khả năng của một người để làm một việc gì đó, để xử lý 
một   tình  huống  và   để   thực   hiện   một   nhiệm   vụ   cụ   thể   trong  một  môi 
trường xác định. Nói cách khác năng lực là khả  năng sử  dụng các tài sản,  
tiềm lực của con người như kiến thức, kỹ năng và các phẩm chất khác để 
đạt được các mục tiêu cụ  thể trong các điều kiện xác định. Thông thường 
người ta chỉ  rằng năng lực gồm có các thành tố  là kiến thức, kỹ  năng và 
thái độ.
Năng lực của CC không phải là năng lực bất biến, được sử  dụng  
trong mọi hoàn cảnh, môi trường.  Ở  thời điểm hay môi trường này năng 
lực được thể hiện, phát huy tác dụng nhưng ở thời điểm khác thì cẩn phải 
có loại năng lực khác. Mỗi thời kỳ, mỗi hoàn cảnh, môi trường khác nhau 
đặt ra yêu cầu về  năng lực khác nhau. Người có năng lực tổ  chức trong  
kháng chiến không có nghĩa là có năng lực tổ  chức trong sản xuất kinh  
doanh, dịch vụ trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa thị  trường cũng  
không có nghĩa là người đó cũng có khả năng trở thành một giáo viên ngay 
được. 
Năng lực của CC luôn gắn liền với mục đích tổng thể  với chiến 
lược phát triển của tổ chức và phải gắn với lĩnh vực điều kiện cụ thể.
Năng lực tổ chức quản lý bao gồm khả năng động viên và giải quyết 
các công việc, đó là khả  năng tổ  chức và phối hợp các hoạt động của các  
nhân viên của đồng nghiệp, khả  năng làm việc với con người và đưa tổ 
17


chức tới mục tiêu, biết dự đoán, lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, điều hành,  
phối hợp công việc và kiểm soát công việc. Năng lực này đặc biệt cần  
thiết và quan trọng đối với CC, vì vậy nó hay được xem xét khi đề bạt, bổ 
nhiệm. Cách nhận biết một người có năng lực tổ chức quản lý có thể dựa 
vào những tiêu chuẩn mang tính định tính [2], [4].

+ Biết mình nhất là biết mình qua nhận xét của người khác
+ Biết người, nghĩa là biết nhìn nhận con người đúng với thực chất  
của họ và biết sử dụng họ.
+ Có khả  năng tiếp cận với những người khác. Biết tập hợp những 
người khác nhau vào một tập thể theo nguyên tắc bổ  sung nhau. Biết giao  
việc cho người khác và kiểm tra việc thực hiện của họ.
+ Tháo vát, sáng kiến biết cần phải làm gì và làm như thế nào trong 
mọi tình huống có những giải pháp sáng tạo.
+ Quyết đoán dám ra quyết định và dám chịu trách nhiệm
Kỹ năng, uy tín trong công tác:
Uy tín là sự tín nhiệm và mến phục của mọi người. Uy tín là sự phản  
ánh phẩm chất và năng lực của một cá nhân, do đó tất yếu nó phải do 
phẩm chất và năng lực quyết định. Tức là người CC phải có chuyên môn 
giỏi, không có tì vết về phẩm chất đạo đức, quan hệ  gần gũi, hòa nhã với 
mọi người; luôn lo sự  nghiệp chung nhưng vẫn không quên trách nhiệm, 
tình cảm của mình với người thân trong gia đình. Người CC có uy tín thì  
những người dưới quyền không chỉ phục tùng mà quan trọng hơn là họ  tự 
giác phục tùng với niềm tin mãnh liệt.
Như  vậy, uy tín là kết quả  tổng hợp của nhiều yếu tố thuộc về sự 
nỗ  lực chủ  quan của một người trên cả  hai mặt phẩm chất và năng lực,  
trong đó nổi bật nhất, quan trọng nhất là những yếu tố sau đây:
18


­ Sự gương mẫu, gương mẫu đến mực thước về các mặt, trước hết 
là về mặt phẩm chất đạo đức, có lối sống trong sạch, tận tụy, khiêm tốn,  
“mình vì mọi người”; sự thấu cảm và chia sẻ.
­ Có học thức cao, năng lực lãnh đạo và quản lý giỏi; tầm hiểu biết 
sâu rộng, bao gồm cả nhãn quan chính trị, trình độ nhận thức và vốn sống; 
sự đổi mới và khả năng thích nghi; khát vọng và hoài bão.

­ Có tinh thần trách nhiệm, có năng lực tổ chức, thể hiện ở chỗ hoàn 
thành xuất sắc chức vụ mà mình đảm trách.
­ Nắm vững kỹ năng lãnh đạo,  ứng xử  có văn hóa; có quan hệ  đúng 
đắn, trước hết là với những người cùng cộng tác hoặc có quan hệ trực tiếp 
với mình; biết tự kiểm soát, tự kiềm chế.
Tóm lại là hội đủ cả ba yếu tố: Tâm, Tầm, Tài.
Uy tín là kết quả  của sự  phấn đấu rèn luyện gian khổ, bền bỉ  của  
bản thân người CC. Đặc biệt với người lãnh đạo cần phải giành lấy uy tín 
tuyệt đối trong tập thể  bằng chính tài năng, đức độ, nghị  lực, bằng  ảnh 
hưởng tư tưởng và hành động thực tế của mình chứ không phải bằng danh 
hiệu và chức vụ  hoặc bằng thủ  đoạn và tiểu xảo. Như  Chủ  tịch Hồ  Chí  
Minh đã nói: “Không phải ta cứ viết lên trán chữ  “Cộng sản” mà được họ 
yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn 
hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Uy tín không phải bao giờ cũng tỉ lệ thuận với chức vụ. Chức vụ chỉ 
là điều kiện khách quan để  củng cố  và nâng cao uy tín, còn uy tín là cái 
quyết định sự  tồn tại của chức vụ. Nếu uy tín mất đi thì theo quy luật 
thông thường, chức vụ trước sau cũng sẽ mất theo. Giữa chức vụ và uy tín  
có mối quan hệ  chặt chẽ  với nhau. Theo ý nghĩa nào đó, có thể  hiểu mối  
quan hệ  giữa chức vụ và uy tín như  là mối quan hệ  giữa hình thức và nội 
19


×