Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đánh giá chất lượng nước mặt sông Đà đoạn chảy qua thành phố Hòa Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 6 trang )

Kiều Thị Dương1, Đặng Đình Chất1
Nguyễn Đức Hùng2, Kiều Thuý Quỳnh2
Đỗ Thị Kim Thanh2

TÓM TẮT

Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá
chất lượng nước sông Đà đoạn chảy qua thành
phố Hòa Bình. Đề tài phân tích 12 chỉ tiêu pH,
TSS, DP, BOD5, COD, NO2-, NH4+, PO43-, NO3-, Fe,
độ đục, Coliform của 24 mẫu nước tại 4 vị trí lấy
mẫu: Lòng hồ Hoà Bình, cầu Cứng, cầu Đen và
cảng Bến Ngọc. Thời gian lấy mẫu được chia làm
3 đợt 15/2, 15/3 và15/4/2018. Kết quả phân tích
cho thấy, điểm quan trắc cầu Đen, cảng Bến Ngọc
hầu hết các chỉ tiêu (TSS, BOD5, COD, N-NH4, NNO2, P-PO4, Coliform…) vượt quá tiêu chuẩn cho
phép QCVN 08-MT:2015/ BTNMT từ 1- 10 lần.
Chỉ số WQI (Water Quality Index, theo hướng dẫn
của Bộ TNMT, 2011) trong khu vực dao động từ
11- 88, tại điểm quan trắc cầu Đen giá trị WQI
từ 11-13, thể hiện bằng màu đỏ, nước bị ô nhiễm
nặng trong thời gian dài, cần các biện pháp xử
lý kịp thời trong tương lai. Chỉ số WQI tại cảng
Bến Ngọc thể hiện bằng màu vàng, giá trị từ 5473 trong hầu hết thời gian quan trắc, chất lượng
nước thấp chỉ phù hợp với mục đích tưới tiêu.
Những điểm quan trắc còn lại nhìn chung các chỉ
số nằm trong giới hạn cho phép cả khi phân tích
bằng các yếu tố riêng lẻ và phân tích theo chỉ
số WQI. Dựa trên các kết quả nghiên cứu, nhóm
nghiên cứu đã xác định một số nguyên nhân gây
ô nhiễm nước mặt sông Đà và đã đề xuất một số


giải pháp cải thiện chất lượng nước tại khu vực
nghiên cứu.
Từ khóa: Chất lượng nước mặt, Chỉ số chất
lượng nước (WQI), Sông Đà, Hoà Bình.

1
2

Giảng viên, cán bộ ĐHLN
Sinh viên trường ĐHLN

32

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Nước là một phần tất yếu của cuộc sống,
70% diện tích của Trái Đất được nước che phủ
nhưng chỉ 0,3% tổng lượng nước trên Trái Đất
nằm trong các nguồn có thể khai thác dùng làm
nước uống (Lê Văn Khoa, 2006). Theo đánh giá
của các Bộ Y tế và Bộ NN&PTNT, trung bình mỗi
năm, Việt Nam có khoảng 9.000 người chết vì
nguồn nước và điều kiện vệ sinh kém (Tapchimoitruong.vn, 2015). Sông Đà, còn gọi là phụ lưu
lớn nhất của sông Hồng, được bắt nguồn từ tỉnh
Vân Nam, Trung Quốc chảy theo hướng Tây Bắc
- Đông Nam là nguồn cung cấp lưu lượng nước
lớn cho sông Hồng và là một nguồn tài nguyên
thủy điện lớn cho ngành công nghiệp điện Việt
Nam. Đoạn sông Đà ở Việt Nam dài 527 km với
2,2 triệu người sinh sống quanh lưu vực sông.

Tuy nhiên hiện nay rừng đầu nguồn bị tàn phá,
các công ty, nhà máy xả thải nguồn ô nhiễm ra
sông, nước thải sinh hoạt có xu hướng càng tăng.
Lưu lượng và chất lượng sông Đà đoạn chảy qua
thành phố Hòa Bình có nguy cơ bị ảnh hưởng
nghiêm trọng. Vì vậy việc nghiên cứu đánh giá
chất lượng nước sông Đà đoạn chảy qua thành
phố Hòa Bình nhằm đưa ra các giải pháp nâng
cao chất lượng nước Sông Đà là thực sự cần thiết
và có ý nghĩa.

II. MỤC TIÊU VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1. Mục tiêu
Đánh giá chất lượng nước sông Đà đoạn chảy
qua thành phố Hòa Bình, thông qua các chỉ tiêu
phản ánh chất lượng nước bao gồm: pH, TSS, DP,
BOD5, COD, NO2-, NH4+, PO43-, NO3-, Fe, độ đục,
Coliform.


Bảng 1. Các phương pháp phân tích mẫu

Bảng 2. Các thông số chất lượng nước mặt sông Đà tại khu vực nghiên cứu

Thượng lưu - lòng hồ Hòa Bình
(20048’25”B;
105019’33”Đ);
Trung lưu - cầu Cứng
(20 0 49’20”B,105 0 20’32”Đ);

Trung lưu - cầu Đen
(20 0 49’41”B,105 0 21’19”Đ);
Hạ lưu - cảng Bến Ngọc
(20051’6”B,105021’2”Đ).
Các phương pháp phân tích
chất lượng nước mặt như sau
(Bảng 1):
Ngoài ra đề tài áp dụng
phương pháp phỏng vấn các
đối tượng khác nhau để có
thêm thông tin về các vấn đề
liên quan.

IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN

2. Nội dung:
Đánh giá hiện trạng chất
lượng nước mặt sông Đà đoạn
chảy qua Thành phố Hòa Bình;
xác định các yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng nước mặt sông
Đà tại khu vực nghiên cứu; đề
xuất giải pháp quản lý và bảo
vệ chất lượng nước sông Đà tại
khu vực nghiên cứu.

III. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU


Nhóm tác giả đã lấy mẫu
nước, phân tích và đánh giá
theo QCVN 08-MT:2015/BTNMT. Bên cạnh đó, chất lượng
nước được đánh giá theo chỉ số
chất lượng nước- Water quality

Index - WQI (Quyết định 879/
QĐ-TCMT, 1/7.2011 - Quyết
định về việc ban hành sổ tay
hướng dẫn tính toán chỉ số chất
lượng nước, Bộ TNMT).
Thời gian lấy mẫu: 3 đợt:
15/2, 15/3, 15/4/2018, lấy vào
khoảng từ 9h15’ đến 10h30
phút. Phương pháp lấy mẫu và
bảo quản mẫu theo TCVN 66633:2008 và TCVN 6663-6:2008.
Dụng cụ lấy mẫu: Mẫu được lấy
bằng dụng cụ chuyên dùng sau
đó đổ vào can nhựa có dung
tích 2 lít. Số lượng và vị trí lấy
mẫu: 24 mẫu nước ở 4 vị trí, tại
mỗi vị trí lấy mẫu ở độ sâu cách
bề mặt 50cm và 100cm. Cụ
thể các điểm lấy mẫu như sau:

1. Đánh giá chất lượng nước
mặt sông Đà tại khu vực nghiên
cứu bằng các chỉ tiêu đơn lẻ.
(Bảng 2).
Trong đó TB: Giá trị trung

bình, Std là độ lệch chuẩn, V%
là hệ số biến động.
Kết quả nghiên cứu cho
thấy, BOD5 dao động từ 3-22
mg/l, trung bình là 9.5 so với
QCVN là 6, có 17/24 mẫu vượt
quá quy chuẩn cho phép từ 1-3
lần. COD dao động từ 5-44,
trung bình là 16.5 so với quy
chuẩn là 15, chỉ có 4/24 mẫu
vượt quá quy chuẩn cho phép
tuy nhiên đều vượt từ 2-3 lần.
NH4+ dao động từ 0.09 đến
3.06, chỉ có 6/24 mẫu vượt quá
quy chuẩn và vượt gấp 10 lần
so với mức cho phép. Xấp xỉ
50% các mẫu phân tích có hàm
lượng N-NO2 cao hơn gấp nhiều
lần so với QCVN. 2-3/24 mẫu bị
ô nhiễm đối với hai chỉ tiêu NNO3 và P-PO4. Coliform là các
vi khuẩn hình que, gram âm,
không sinh bào tử, được xem
là vi khuẩn chỉ thị an toàn vệ
sinh môi trường. Số lượng của
33


chúng trong mẫu thể hiện có sự tồn tại của vi
sinh vật gây bệnh trong mẫu. Thậm chí sự tồn
tại của vi khuẩn E.Coli cho thấy nguồn nước đã

có dấu hiệu nhiễm phân. Nguồn nước nhiễm bẩn
là một trong những yếu tố quan trọng hơn cả,
gây các bệnh liên quan đến tả, thương hàn, hay
nhiễm trùng máu. Coliform trong khu vực dao
động từ 1500-24000 MNP/100ml, có 50% số mẫu
vượt quy chuẩn cho phép (5000 MNP/100ml). Kết
quả điều tra cho thấy nhiều hộ gia đình, nhà hàng
trên địa bàn xả trực tiếp nước thải sinh hoạt, nước
thải chuồng trại mà không qua xử lý. Đây có lẽ là
nguyên nhân dẫn đến hàm lượng Coliform trong
nước cao hơn so với quy định.
Trong 12 chỉ tiêu phản ánh chất lượng nước
nêu trên Fe tổng số là chỉ tiêu luôn thấp hơn
ngưỡng cho phép theo QCVN ở mọi thời điểm và
các độ sâu lấy mẫu. 03 chỉ tiêu nằm trong giới
hạn cho phép theo QCVN 08-MT:2015/BTNMT
khi so giá trị trung bình đó là TSS, N-NO3-, PPO4+. Tuy nhiên ở một số mẫu giá trị của các chỉ
tiêu này vẫn vượt ngưỡng cho phép. Trong 8 chỉ
tiêu còn lại vượt ngưỡng cho phép nhiều lần, thì
chỉ tiêu vượt ngưỡng cho phép lớn nhất là amoni
- NH4+ trung bình vượt 173% so với QCVN, NNO2 vượt 88%, Coliform trung bình vượt 72% và
BOD5 trung bình vượt 59%. Giá trị các chỉ tiêu
này trung bình lần lượt là: 0.8mg/l (NH4+), 0.09
(N-NO2) và 8606 MNP/100ml với Coliform. Các
chỉ tiêu khác vượt từ 2-15% so với quy chuẩn cho
phép.
Hệ số biến động V% giữa các mẫu rất lớn từ
5%- 139% trong đó chủ yếu các chỉ tiêu có hệ số
biến động trên 50% điều này cho thấy có sự biến
động lớn về chất lượng nước giữa các thời điểm

và vị trí lấy mẫu khác nhau. Một số hình ảnh dưới
đây sẽ làm rõ hơn về điều này
Hình 1. Nhu cầu oxy hoá sinh học - BOD5 tại các
điểm điều tra.

34

Hình 2. Số lượng Coliform tại các điểm điều tra.
Từ kết quả nghiên cứu đi đến một số nhận xét

sau:
Các chỉ tiêu chất lượng nước ở 4 vị trí lấy mẫu
Thượng lưu lòng hồ Hoà Bình, Trung lưu Cầu
Cứng, Trung lưu cầu Đen và Hạ lưu cảng Bến
Ngọc là rất khác biệt. Đặc biệt khu vực Cầu Đen,
tất cả các chỉ tiêu phân tích đều cao hơn so với
QCVN từ 1 đến 10 lần.
Ở độ sâu 100cm so với nước mặt, các chỉ tiêu
thường có giá trị thấp hơn so với mẫu được lấy
ở độ sâu 50cm, mặc dù sự khác biệt không lớn.
Điều này cho thấy với lưu lượng nước lớn, khả
năng pha loãng của nước sông Đà đã làm giảm
sự khác biệt hàm lượng ô nhiễm theo độ sâu so
với mặt nước.
Giữa các thời điểm lấy mẫu cách nhau 1 tháng,
giá trị các chỉ tiêu không thay đổi nhiều, ngoại lệ
N-NO3 và N- NO2 phân tích tại ngày 15/4 cao hơn
hẳn so với hai thời điểm lấy mẫu 15/2 và 15/3.
2. Đánh giá chất lượng nước mặt thông qua chỉ số
WQI tại khu vực nghiên cứu

Dựa vào hướng dẫn tính toán giá trị WQI do Bộ
tài nguyên và Môi trường ban hành, nhóm nghiên
cứu đã tính được giá trị WQI tại khu vực nghiên
cứu được thể hiện ở biểu đồ sau đây.


Hình 3. Giá trị WQI ở các mẫu
điều tra tại khu vực nghiên cứu
Kết quả tính WQI theo các
vị trí và độ sâu lấy mẫu ở 3 giai
đoạn được thể hiện ở bảng 3:
Xác định hiện trạng chất
lượng nước mặt sông Đà đoạn
chảy qua thành phố Hoà Bình
theo các chỉ số WQI đã xây
dựng được biểu đồ hiện trạng
chất lượng nước mặt Sông Đà
tại khu vực nghiên cứu theo
WQI.
Kết quả cho thấy, chất lượng
nước mặt sông Đà đoạn chảy
qua thành phố Hoà Bình từ
trung bình đến ô nhiễm nặng,
WQI có giá trị từ 11-88. Kết quả
đánh giá theo WQI có 25% mẫu
nước bị ô nhiễm nặng, thể hiện
màu đỏ, giá trị WQI dao động
từ 11-13, cần có các biện pháp
xử lý kịp thời trong tương lai.
25% số mẫu có chất lượng nước

thấp, thể hiện màu vàng có giá
trị WQI dao động từ 54-73, chỉ
sử dụng cho mục đích tưới tiêu
hoặc tương đương. Còn lại 50%
mẫu nước có thể được sử dụng
cho mục đích sinh hoạt nhưng
cần có biện pháp xử lý trước khi
đưa đến người tiêu dùng, thể
hiện màu xanh da trời, giá trị
WQI dao động từ 77-88. Trong
tổng số mẫu nước phân tích,
không có một mẫu nước nào
đảm bảo tốt cho mục đích sinh
hoạt mà không cần phải có biện
pháp xử lý nước. Kết quả WQI
của cả 3 đợt khảo sát cho thấy,
các đoạn sông có mức độ ô
nhiễm nặng nhất biểu thị màu
đỏ, nằm trong khu vực cầu Đen

và kéo dài trong suốt cả 3 đợt
khảo sát, ở cả 2 độ sâu so với
mặt nước. Cầu Cứng bắt đầu có
dấu hiệu ô nhiễm, chất lượng
nước thấp thể hiện màu vàng,
còn ở cảng Bến Ngọc và lòng
hồ Hoà Bình chất lượng nước
đảm bảo ngưỡng an toàn thể
hiện màu xanh da trời. Những
kết quả này phù hợp với kết

quả đánh giá theo từng chỉ tiêu
riêng lẻ đã phân tích ở trên.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến
chất lượng môi trường nước mặt
sông Đà tại khu vực nghiên cứu
a. Yếu tố ảnh hưởng trực
tiếp:
Khu vực nghiên cứu chất
lượng nước sông chịu ảnh
hưởng trực tiếp của các nguồn
nước thải như nước thải Công
nghiệp, y tế, nông nghiệp và
nước thải sinh hoạt. Kết quả
phỏng vấn được tổng hợp như
sau:
Nước thải công nghiệp: Tại
khu vực nghiên cứu có 11 nhà

Bảng 3. Kết quả chất lượng nước theo WQI

máy và các khu công nghiệp
đang hoạt động, khối lượng
nước thải ra rất lớn tương ứng
172m3/ ngày (kết quả phỏng vấn
và tính toán của đề tài, 2018).
Nước thải tập trung chủ yếu
vào các nhóm ngành: Chế biến
nông sản, thực phẩm, nước giải
khát, dệt nhuộm, chăn nuôi...
Nước thải y tế: Trong khu

vực nghiên cứu có bệnh viện
Đa khoa Hoà Bình, bệnh viện
Nội tiết tỉnh Hoà Bình, bệnh
viện Y học cổ truyền Hoà Bình
và các cơ sở y tế khác. Vì vậy
nước mặt sông Đà ngoài chịu
ảnh hưởng của yếu tố ô nhiễm
thông thường như chất hữu cơ
còn chịu ảnh hưởng của các
vi khuẩn gây bệnh, chế phẩm
thuốc, chất khử trùng, dư lượng
thuốc kháng sinh, hoá chất, kim
loại nặng, dung môi hữu cơ…
Nước thải nông nghiệp:
Ngành nông nghiệp chủ đạo
của thành phố Hòa Bình là
trồng lúa và các cây hoa màu.
Công tác quản lý thuốc bảo
vệ thực vật vẫn còn lỏng lẻo,
thị trường tràn lan những loại
thuốc độc hại cấm sử dụng,
thuốc quá hạn sử dụng... Hiện
35


tượng chai, túi đựng thuốc bảo vệ thực vật vứt tại
ruộng vườn, mương nước trên địa bàn nghiên cứu
vẫn còn phổ biến. Đây cũng chính là một trong
những nguyên nhân làm hoang hóa tài nguyên
đất, ô nhiễm nguồn nước ngầm và nguồn nước

sông Đà, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của
cộng đồng địa phương.
Nước thải sinh hoạt 2 bờ sông Đà: Thành phố
Hòa Bình với mật độ dân số ngày càng tăng, hệ
thống các nhà hàng, khách sạn mọc lên càng
nhiều, trong khi đó khu vực trung tâm thành phố
chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Các
tuyến thoát nước thải chung với nước mưa, hầu
hết nhà dân và công trình công cộng đều đã có bể
tự hoại và xử lý sơ bộ trước khi thoát ra hệ thống
chung, nhưng do quá trình xây dựng và vận hành
chưa hợp lý nên hiệu suất xử lý không tốt, chất
lượng nước thải sau khi xử lý đều không đạt tiêu
chuẩn vệ sinh. Nước thải chảy qua hệ thống cống
rãnh thoát nước của thành phố rồi đổ thẳng trực
tiếp xuống sông Đà.
b. Yếu tố ảnh hưởng gián tiếp:
Về nguồn lực: Thiếu cán bộ môi trường cấp
tỉnh, cán bộ tại các phòng Tài nguyên và Môi
trường tuyến huyện, xã còn thiếu về số lượng
và yếu về chuyên môn nên gặp nhiều khó khăn
trong việc triển khai, thực hiện công tác bảo vệ
môi trường tại địa phương. Mức đầu tư cho hoạt
động bảo vệ môi trường còn thấp, chưa tương
xứng với yêu cầu. Mức chi ngân sách sự nghiệp
môi trường chủ yếu dành cho việc chi nhiệm vụ
thường xuyên và thu gom rác tại một số đô thị.
Về công nghệ: Ở nhiều cơ sở sản xuất còn sử
dụng công nghệ, thiết bị sản xuất lạc hậu, hệ
thống thiết bị xử lý không đáp ứng được yêu cầu

xử lý, nhất là ở những cơ sở có nguy cơ gây ô
nhiễm lớn như các cơ sở luyện kim, sản xuất xi
măng, khai thác khoáng sản kim loại…
Việc tuân thủ quy định pháp luật bảo vệ môi
trường: Nhiều ngành chưa làm tốt công tác quy
hoạch và quản lý quy hoạch, lồng ghép các yếu
tố môi trường vào các quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội, chưa quan tâm chỉ đạo và
triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường
thuộc lĩnh vực quản lý theo quy định của Luật
BVMT.
4. Giải pháp bảo vệ nước sông Đà đoạn chảy qua
thành phố Hòa Bình
a. Xử lý, khắc phục kịp thời nước bị ô nhiễm
36

nặng tại khu vực Cầu Đen: Đây là khu vực bị ô
nhiễm và ô nhiễm nặng. Do hoạt động khai thác
cát trái phép và ồ ạt, mất kiểm soát, dân cư sinh
sống ngay trên sông, nguồn chất thải rắn được xả
ra sông trực tiếp. Vì vậy cần có quy định nghiêm
ngặt, hình thức xử phạt đích đáng trong các hoạt
động khai thác cát trái phép. Làm tốt công tác thu
gom rác thải đối với cụm dân cư ven sông, tránh
tình trạng xả rác trực tiếp ra sông. Sớm xây dựng
hệ thống xử lý nước tập trung cho thành phố nói
chung và hệ thống ống dẫn nước thải ở các hộ gia
đình ven sông nói riêng.
b. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức hệ thống quản
lý môi trường: Tại khu vực cần phân cấp và phân

công trách nhiệm rõ ràng, cụ thể theo hướng tổ
chức quản lý tập trung. Tăng cường năng lực cho
cán bộ quản lý bảo vệ môi trường. Tăng cường
phối hợp các đơn vị có liên quan.
c. Đẩy mạnh việc triển khai công tác BVMT của
thành phố: Xây dựng, hoàn thiện các hệ thống xử
lý nước thải tập trung của thành phố, xử lý rác
thải chợ tạm ven sông. Các doanh nghiệp hoạt
động trong khu vực cần thực hiện nghiêm túc
việc xử lý nước thải. Thực hiện nghiêm túc chế độ
tự quan trắc và báo cáo môi trường
d. Xây dựng trạm quan trắc, giám sát môi
trường nước cho lưu vực sông đoạn chảy qua
thành phố Hòa Bình.

V. KẾT LUẬN

1. Đề tài đã sử dụng 2 cách đánh giá theo các
chỉ tiêu đơn lẻ - so sánh với QCVN 08-MT:2015/


BTNMT và sử dụng chỉ số chất lượng nước WQI để
đánh giá chất lượng nước sông Đà đoạn chảy qua
TP. Hoà Bình. Kết quả cho thấy, tại điểm quan trắc
lòng hồ Hoà Bình và cầu Cứng chất lượng nước
nhìn chung đảm bảo yêu cầu cung cấp nước sinh
hoạt nhưng cần xử lý. Điểm quan trắc cầu Đen,
cảng Bến Ngọc hầu hết các chỉ tiêu (TSS, BOD5,
COD, N-NH4, N-NO2, P-PO4, Coliform…) vượt quá
tiêu chuẩn cho phép QCVN 08-MT:2015/ BTNMT

từ 1- 10 lần.
2. Chỉ số WQI dao động từ 11- 88, tại điểm
quan trắc cầu Đen thể hiện bằng màu đỏ trong
thời gian dài, nước ô nhiễm nặng, cần các biện
pháp xử lý trong tương lai. Chỉ số WQI tại cảng
Bến Ngọc thể hiện bằng màu vàng trong hầu hết
thời gian quan trắc, chất lượng nước thấp chỉ phù
hợp với mục đích tưới tiêu. Những điểm quan trắc
còn lại đều nằm trong giới hạn cho phép có chỉ số
WQI tương đối cao và ổn định, thể hiện bằng màu
xanh da trời, phù hợp cho mục đích cấp nước sinh
hoạt nhưng cần các biện pháp xử lý phù hợp.
3. Đề tài cũng đã xác định một số nguyên
nhân chính gây ô nhiễm nước sông Đà đoạn chảy
qua thành phố Hòa Bình và đề xuất một số giải
pháp cải thiện chất lượng nước sông tại khu vực
nghiên cứu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015). QCVN
08-MT:2015/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia về chất lượng nước mặt, Hà Nội.
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2011). Quyết
định 879/QĐ-TCMT - Quyết định về việc ban
hành sổ tay hướng dẫn tính toán chỉ số chất lượng
nước, Hà Nội.
3. Cục thống kê Hòa Bình (2016). Niên giám
thống kê tỉnh Hòa Bình. NXB thống kê, Hòa
Bình.

4. Lê Văn Khoa (2006). Khoa học môi trường.
NXB Giáo dục, Hà Nội.
5. Lê Văn Khoa, Đoàn Văn Cánh, Nguyễn Văn
Hùng, Lâm Minh Triết (2011). Giáo trình con
người và môi trường. NXB Giáo Dục Việt Nam.
6. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội tỉnh Hòa Bình đến năm 2020. định hướng đến
năm 2030.
7. Lưu Đức Hải (2009). Cơ sở khoa học môi
trường. NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
8. EPA (2013), The National Rivers and Stream

Assessment 2008-2009: A Collaborative Survey.
9. Suzan Oelofse (2010), Wilma Strydom. A
CSIR Perspective on Water in South Africa, 2010.
CSIR

Evaluating the surface water quality of Da river
in segment passing Hoa Binh city

Kieu Thi Duong, Nguyen Van Hung, Dang
Dinh Chat, Kieu Thuy Quynh
Do Thi Kim Thanh

Summary

The research was conducted to evaluate the
quality of Da river surface water in segment passing Hoa Binh city. The project analysis 12 indicators including: pH, TSS, DP, BOD5, COD, NO2-,
NH4+, PO43, NO3-, Fe, Turbidity, and Coliform of
24 water samples at 4 sampling locations: Hoa

Binh reservoir, Cung bridge, Den bridge and Ben
Ngoc port. The sampling schedule was divided
into 3 periods from 15/2, 15/3 and 15/4 of 2018.
The results show that the Den bridge, Ben Ngoc
monitoring points most of the indicators (TSS,
BOD5, COD, NH4+, N-NO2, P-PO4, Coliform ...) exceeds 1 to 10 times as mentioned in the QCVN
08-MT:2015/BTNMT. The WQI (the Water Quality Index, under the guidance of MONRE, 2011)
in the area ranged from 11-88, at Den bridge,
the WQI ranged from 11 to 13, expressed in red,
indicating long-term contaminated water, really in need of to be treated in the future time.
The WQI at Ben Ngoc port were shown in yellow,
ranging from 54-73 in most monitoring periods,
indicating poor water quality and should be suitable only for irrigation purposes. The rest of the
observation locations were generally within the
allowable limits of both individual analyses and
analyses of the WQI. Based on the research findings, we identified some issues causing water
pollution in the river and we proposed some solutions to improve the water quality in the study
area.
Keywords: Surface water quality, water quality
index (WQI), Da river, Hoa Binh.
Người phản biện: PGS.TS. Nguyễn Thế Hưng
Ngày nhận bài: Tháng 9/2018
Ngày phản biện thông qua: Tháng 9/2018
Ngày duyệt đăng: Tháng 9/2018
37



×