Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả cho các trạm xử lý nước thải mỏ than thuộc TKV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.7 KB, 6 trang )

THÔNG TIN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ MỎ

NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO CÁC TRẠM XỬ LÝ NƯỚC THẢI
MỎ THAN THUỘC TKV
Ths. Nguyễn Tiến Dũng
TS. Bùi Thanh Hoàng
TS. Nguyễn Văn Hậu
Viện KHCN Mỏ - Vinacomin
Biên tập: ThS. Hoàng Minh Hùng
Tóm tắt:
Trong giai đoạn vừa qua, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản đã không ngừng đầu tư các
trạm xử lý nước thải đặc biệt là đối với các mỏ than. Theo nghiên cứu cho thấy, tùy theo giai đoạn
áp dụng, mức độ yêu cầu về nước thải đầu ra và khả năng đáp ứng về mặt tài chính mà các hệ thống
xử lý nước thải có thể được áp dụng với những quy trình công nghệ xử lý khác nhau. Các trạm xử
lý nước thải mỏ đã và đang vận hành đáp ứng yêu cầu để xả nước thải mỏ ra môi trường theo quy
định. Tuy nhiên, việc khảo sát, đánh giá một cách tổng thể toàn bộ các trạm xử lý nước thải mỏ than
thuộc TKV để phát hiện ra những ưu, nhược điểm, từ đó nghiên cứu đề xuất các giải pháp tổng hợp
nhằm nâng cao hiệu quả, giảm chi phí xử lý nước thải mỏ than thuộc TKV là hết sức cần thiết. Bài
báo này, tóm tắt kết quả kháo sát, đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả cho các trạm xử lý nước thải mỏ than thuộc TKV cho thời gian tới.
1. Thực trạng nước thải và công nghệ xử
lý nước thải mỏ than trong TKV
1.1. Về tính chất nước thải mỏ
Ngành than hiện đang áp dụng 02 hình thức
khai thác lộ thiên và hầm lò. Khai thác lộ thiên
thường tạo ra các hố moong sâu so với địa hình
tự nhiên của khu vực, nguồn nước chảy vào
moong bao gồm nước ngầm và nước mưa. Khai
thác hầm lò tạo ra các đường lò đi sâu xuống
lòng đất, nguồn nước chảy vào hầm lò chủ yếu


là nước ngầm thấm ra. Để khai thác được than
cần thực hiện bơm thoát nước ra khỏi khu vực,
từ đó xuất hiện nước thải mỏ.
Nước thải mỏ thường có tính axít và hàm
lượng kim loại (chủ yếu là Fe, Mn) cao, nguyên
nhân là do trong các mỏ than đều có pyrít (FeS2)
đi kèm. Khi khai thác than pyrít sắt có trong than
và trong các vỉa đá tiếp xúc với không khí và
nước, bị oxy hoá, sẽ tạo ra axít H2S04. Theo
công nghệ khai thác, vùng địa lý, địa chất tầng
khai thác và thời tiết (mùa mưa, khô), thành
phần các tác nhân gây ô nhiễm trên có thể thay
đổi.

1.2. Các công nghệ xử lý nước thải mỏ
đang áp dụng
Có thể phân chia kết quả thực hiện công
tác thu gom, xử lý nước thải mỏ tại vùng than
Quảng Ninh theo hai giai đoạn sau đây:
- Giai đoạn từ năm 2009 trở về trước: Giai
đoạn này nước thải mỏ hầu như không qua xử
lý mà thải thẳng ra môi trường, một số mỏ có
chất lượng nước tương đối xấu được xử lý bằng
công nghệ hết sức đơn giản (trung hòa bằng
sữa vôi + lắng) dẫn đến hiệu quả xử lý không
cao. Vì vậy, chất lượng nước sau xử lý đa số
chưa đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn cho phép.
- Giai đoạn từ năm 2009 trở lại đây: Việc xử
lý nước thải mỏ đã được TKV quan tâm nghiên
cứu một cách bài bản, quy mô và có ứng dụng

công nghệ tiên tiến trong nước cũng như nước
ngoài, đồng thời hợp tác với nước ngoài để học
hỏi kinh nghiệm một cách khoa học.
Hiện nay, ngành than đang vận hành khoảng
40 trạm xử lý nước thải mỏ theo các nhóm công
nghệ chính như sau:
Nhóm 1: Bể điều hòa → Trung hòa → Keo
tụ → Lắng (lắng ngang, lắng tấm nghiêng).

KHCNM SỐ 5/2019 * CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG

27


THÔNG TIN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ MỎ

Sơ đồ công nghệ xử lý nước thải từ CL +38.I và
CLG +40 - mỏ than Dương Huy

Hệ thống xử lý nước thải CL +260 khu Đông Vàng
Danh - Công ty than Uông Bí

lý triệt để nước thải có tính axít, hàm lượng TSS,
Fe, Mn cao vượt giới hạn cho phép. Tuy nhiên,
công nghệ này có nhược điểm tiêu tốn nhiều
điện năng cho khâu lọc áp lực để xử lý Mn, dẫn
đến chi phí xử lý tương đối cao.
Nhóm 3: Bể điều hòa → Trung hòa → Keo
tụ → Lắng (lắng tấm nghiêng) → Khử Mangan
bằng bể lọc trọng lực. Công nghệ này đang ngày

càng được ứng dụng nhiều cho xử lý nước thải
Hệ thống xử lý nước thải CL +38.I và CLG +40 - mỏ
than Dương Huy

Nhóm công nghệ này chủ yếu áp dụng cho
nước thải mỏ có tính axít, hàm lượng TSS, Fe
vượt quy chuẩn cho phép, tuy nhiên hàm lượng
Mn tương đối thấp nằm trong giới hạn cho phép.
Nhóm 2: Bể điều hòa → Trung hòa → Keo
tụ → Lắng (lắng ngang) → Khử Mangan bằng
bình lọc áp lực. Nhóm công nghệ này có thể xử

Sơ đồ công nghệ của Hệ thống xử lý nước thải mỏ
than Cọc Sáu

Sơ đồ công nghệ xử lý nước thải CL +260 khu Đông
Vàng Danh - Công ty than Uông Bí

28

mỏ, có thể xử lý triệt để nước thải có tính axít,
hàm lượng TSS, Fe, Mn cao vượt giới hạn cho
phép. Ngoài ra, công nghệ này có ưu điểm là
chi phí đầu tư và vận hành thấp, thuận lợi trong
cải tiến, mở rộng hệ thống.
Nhóm 4: Bể điều hòa → Keo tụ → Lắng I
(lắng đứng) → Trung hòa & Oxy hóa → Keo tụ

KHCNM SỐ 5/2019 * CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG



THÔNG TIN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ MỎ

Hệ thống xử lý nước thải mỏ than Cọc Sáu

Sơ đồ công nghệ của Hệ thống xử lý nước thải tập
trung khu vực Tràng Khê - Hồng Thái

Hệ thống xử lý nước thải mỏ than Tràng Khê - Công
ty than Uông Bí

→ Lắng II (lắng đứng) → Hạ pH bằng axit H2SO4.
Công nghệ này mới được áp dụng tại Trạm xử
lý nước thải khu vực Tràng Khê - HồngThái do
MIRECO thiết kế, đây là trạm xử lý nằm trong
chương trình hợp tác với Hàn Quốc của TKV.

2. Những vấn đề bất cập hiện nay trong
quá trình vận hành các hệ thống xử lý nước
thải mỏ than thuộc TKV
2.1. Vấn đề chung
Chất lượng nước thải đầu vào là yếu tố quyết
định đến việc lựa chọn quy trình công nghệ xử lý.
Nếu nước thải đầu vào có tính axít, hàm lượng
Fe, cặn lơ lửng vượt giới hạn cho phép thì chỉ
cần xử lý qua các công đoạn trung hòa, keo tụ,
lắng (nhóm công nghệ số 1) là đảm bảo yêu cầu
trước khi thải ra môi trường. Tuy nhiên, thực tế
thì rất nhiều trạm có nước thải đầu vào như trên,
nhưng lại được đầu tư quy trình công nghệ để

xử lý cả mangan tức là bao gồm các công đoạn
như trung hòa, keo tụ, lắng và lọc khử mangan.
Việc này đã làm phát sinh thêm công đoạn xử lý
không cần thiết dẫn đến gia tăng chi phí xử lý.
2.2. Bất cập từng khâu công nghệ
* Đối với khâu trung hòa:
Việc lưu giữ vôi cho các trạm đang được
chuyển dần sang dạng silo nhằm giảm sức
người, không gây ảnh hưởng đến môi trường,
sức khỏe do phát sinh bụi bột vôi trong công
đoạn pha chế. Tuy nhiên, hầu hết các trạm đều
không cấp trực tiếp vôi bột từ sillo vào bể trung
hòa mà phải qua công đoạn pha thành dung dịch
trước khi cấp vào bể trung hòa. Kinh nghiệm
trên thế giới và ngay tại trạm XLNT mỏ than
Vàng Danh cho thấy việc cấp trực tiếp vôi bột
vào bể trung hoàn toàn khả thi, giảm khâu trung
gian không cần thiết qua đó giảm thất thoát vôi
bột. Ngoài ra, các trạm hầu hết áp dụng trung
hòa một cấp, định lượng hóa chất trung hòa
bằng kinh nghiệm sẽ khó khăn trong kiểm soát
chất lượng đầu ra.
* Đối với khâu lắng:
- Bể lắng tấm nghiêng đang được sử dụng
khá phổ biến đối với các trạm xử lý nước thải mỏ
trong những năm gần đây. Bể lắng tấm nghiêng
được biết đến có hiệu suất lắng cao, giảm diện
tích xây dựng bể. Tuy nhiên, khảo sát thực tế
tại các trạm nhận thấy đa số bể lắng sau một ca
vận hành bông bùn đã bịt kín các ống lắng gây

ảnh hưởng đến hiệu quả lắng. Để giải quyết vấn
đề trên, công nhân vận hành buộc phải dừng xử
lý, xả hết nước trong bể lắng rồi dùng vòi áp lực

KHCNM SỐ 5/2019 * CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG

29


THÔNG TIN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ MỎ
cao để xịt rửa. Việc thường xuyên phải xịt rửa
ảnh hưởng đến năng lực xử lý của trạm.
- Bể lắng ngang được sử dụng tại các trạm
xử lý nước thải mỏ được đầu tư trong giai đoạn
đầu đa số thiết kế chưa phù hợp, hay có thể nói
chưa đúng theo tiêu chuẩn quy định dẫn đến
hiệu quả lắng chưa cao, ngoại trừ các trạm xử lý
Dương Huy, Mông Dương được thiết kế tương
đối phù hợp.
* Đối với khâu xử lý bùn:
Bể lắng bùn thường có chiều cao từ 1m
đến 1,5m. Bùn thu từ các bể lắng được bơm
về bể lắng bùn. Để thoát nước trong, bể có hệ
thống ống thoát có van, bố trí thành nhiều tầng
(thường là 2 tầng). Thực tế khảo sát nhận thấy
hầu hết bùn trong bể lắng ở trạng thái khó lắng,
khó tách nước, dẫn đến thời gian lưu bùn lớn,
lại phụ thuộc vào điều kiện thời tiết (khi trời mưa,
bùn lại bị làm loãng trở lại). Ngoài ra, chưa có có
quy định cụ thể về tỷ lệ rắn/lỏng trước khi vận

chuyển đi đổ thải. Quá trình đổ thải tại bãi thải
có thể là nguồn tái ô nhiễm đối với môi trường
xung quanh.
* Đối với khâu lọc khử mangan:
Các chất bẩn dạng hạt và dạng keo thường
nhanh chóng tích tụ trên bề mặt lớp vật liệu
trong bể lọc và tạo thành một lớp màng tại các
bể lọc xuôi chiều. Lớp màng này càng dễ hình
thành khi vật liệu trong bể không có thành phần
cấp phối đồng nhất, các hạt nhỏ bị đưa lên lớp
trên, các hạt to nằm lại ở dưới sau mỗi lần rửa
ngược. Đây là lý do khiến bể lọc nhanh bị tắc,
thậm chí xảy ra hiện tượng áp suất âm do trở
lực sinh ra trong bể (đặc biệt là qua lớp màng
cặn) lớn, vượt qua cả thế năng của lượng nước
ở trên bể. Màng cặn cũng làm cho dung lượng
chứa cặn trong bể giảm vì cặn chưa vận chuyển
được xuống các lớp vật liệu bên dưới, bể đã bị
tắc, sẽ phải ngừng bể lọc rửa thường xuyên,
gây tốn kém, đồng thời nước sau lọc có chất
lượng kém. Điều này đã xảy ra ở trạm XLNT
600 m3/h, 1.200m3/h mỏ than Mạo Khê làm ảnh
hưởng tới hiệu quả lọc Mn.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới giá thành
xử lý
Nhìn chung, tính chất nước thải đầu vào là

30

yếu tố chính quyết định chi phí xử lý, nước thải

có pH thấp, hàm lượng kim loại nặng (Fe, Mn),
cặn lơ lửng lớn sẽ tiêu tốn nhiều hóa chất, tăng
chi phí xử lý bùn...dẫn đến chi phí xử lý cao.
Công nghệ xử lý cũng ảnh hưởng đến chi phí xử
lý, thực tế nhóm công nghệ II thường có chi phí
xử lý cao hơn nhóm công nghệ 3 khi so sánh ở
cùng công suất, chất lượng nước thải đầu vào.
Mặt khác, đối với các trạm có cùng tính chất
nước thải đầu vào, trạm XLNT có công suất lớn
sẽ có chi phí xử lý nhỏ hơn.
3. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu
quả cho các trạm xử lý nước thải mỏ than
thuộc TKV
Thông qua thực trạng, các vấn đề bất cập,
tham khảo công nghệ của thế giới đề xuất một
số giải pháp để nâng cao hiệu quả cho các trạm
xử lý nước thải mỏ than thuộc TKV như sau:
3.1. Các giải pháp tổng thể
- Trang bị hệ thống điều khiển tự động trong
quá trình vận hành các trạm xử lý để kiểm soát
hiệu quả của từng khâu công nghệ nhằm kiểm
soát tốt chất lượng nước sau xử lý, hạn chế sự
phụ thuộc vào yếu tố kinh nghiệm của người
vận hành trực tiếp.
- Đối với các trạm xử lý có thiết kế hệ thống
bể lọc khử mangan, trong khi thực tế hàm lượng
mangan trong nước thải đầu vào nằm trong giới
hạn cho phép cần cải tiến tách biệt hai khâu công
nghệ lắng và lọc bằng van đóng chặn, nước sau
lắng dẫn trực tiếp ra môi trường, công đoạn lọc

dự phòng trong trường hợp hàm lượng mangan
nước thải đầu vào vượt giới hạn cho phép theo
các giai đoạn khai thác. Trong trường hợp nước
thải sau bể lắng chưa đạt hoặc yêu cầu chất
lượng nước sau xử lý cao hơn thì có thể thay
thế vật liệu lọc cát mangan bằng các loại cát
thông thường khác có giá thành rẻ, thông dụng
hơn.
3.2. Các giải pháp cụ thể đối với các khâu
công nghệ
- Cần khuyến khích chuyển sang áp dụng hệ
thống chứa và cấp vôi bột tự động dạng silo để
đảm bảo vệ sinh, sức khỏe của công nhân. Vôi
bột nên cấp trực tiếp vào bể trung hòa, việc cấp
cũng cần phải phù hợp để quá trình hòa trộn

KHCNM SỐ 5/2019 * CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG


THÔNG TIN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ MỎ

Sơ đồ phương pháp Geco

được đồng đều giúp phản ứng trung hòa, kết
tủa diễn ra triệt để. Mặt khác, quan hệ giữa pH
và nồng độ hoặc khối lượng hóa chất trung hòa
cho vào nước là không tuyến tính, việc phải pha
trộn một khối lượng nhỏ hóa chất vào một khối
lượng lớn nước thải sẽ khó đều ngay tức khắc.
Để khắc phục các khó khăn trên nên tiến hành

trung hòa từ 2 bậc trở lên.
- Trong quy trình trung hòa, kết tủa, keo tụ
truyền thống hiện đang áp dụng, các hạt cặn
sẽ lớn dần lên qua quá trình keo tụ, khoảng
cách giữa các hạt tương đối lớn và hình thành
nên các lớp vô định hình xếp chồng lên nhau
dạng xốp có thể tích lớn. Phương pháp Geco
là phương pháp tuần hoàn một phần bùn được
tách ra từ bể lắng hòa trộn với nước thải trước
khi sang công đoạn trung hòa, khi đó pH nước
thải sẽ tăng do lượng vôi còn dư thừa trong bùn
và các hạt nhỏ phân tán sẽ kết tụ trên bề mặt
các hạt đã kết tụ trước đó và cuối cùng hình
thành nên một kết tụ có kích thước lớn hơn. Bùn
trung hòa khi đó có khối lượng lớn hơn và nồng
độ cao hơn nên dễ dàng tách ra khỏi nước bằng
quá trình lắng, tức là hiệu quả lắng sẽ cao hơn.
Phương pháp Geco có những ưu, nhược điểm
chính sau:
- Ưu điểm:
+ Bùn thải từ phương pháp Geco có nồng
độ đạt trên 30% (rắn/lỏng), phương pháp truyền
thống chỉ đạt tối đa 5%. Thời gian tách nước
có thể giảm xuống tối đa còn 0,5 giờ, so với
phương pháp truyền thống là 2 giờ.
- Khắc phục hiện tượng hay bị tắc đối với bể
lọc khử mangan xuôi chiều, giải pháp khả thi
nhất là cải tạo bể lọc một lớp vật liệu lọc như
hiện tại thành 2 lớp vật liệu lọc để thời gian lọc
hiệu quả hơn, độ tăng tổn thất áp lực nhỏ hơn,

chất lượng nước sau lọc tốt hơn, tuy nhiên phải
chọn loại vật liệu lọc sao cho đạt đồng thời các

yêu cầu:
+ Đường kính hạt vật liệu lớp trên lớn hơn
đường kính hạt lớp dưới, để cặn bẩn có kích
thước lớn sẽ được giữ lại ở lớp trên, cặn bẩn có
kích thước nhỏ chuyển xuống và giữ lại ở lớp
dưới, Nhờ vậy, dung lượng chứa cặn bẩn trong
lớp vật liệu tăng lên.
+ Trọng lượng riêng của vật liệu lọc lớp trên
nhỏ hơn trọng lượng riêng của vật liệu lọc lớp
dưới để tránh sự xáo trộn 2 lớp vật liệu khi rửa
lọc.
+ Hai loại vật liệu có độ giãn nở khi rửa
ngược tương đương nhau, để tránh sự xáo trộn
và kiểm soát được chiều cao lớp vật liệu giãn nở
khi rửa, tránh trôi vật liệu.
4. Kết luận
Các trạm xử lý nước thải mỏ than thuộc TKV
đã và đang vận hành đáp ứng yêu cầu xả nước
thải ra môi trường theo quy định. Tuy nhiên,
thực trạng trong quá trình vận hành đã bộc lộ
một số bất cập, hạn chế. Bài báo đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho các trạm
xử lý nước thải mỏ than thuộc TKV. Các giải
pháp cần được thử nghiệm để đánh giá trước
khi áp dụng rộng rãi trong thời gian tới.
Tài liệu tham khảo:
1. Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - Vinacomin

(2005), Báo cáo khảo sát đánh giá thực trạng
công nghệ xử lý nước thải ngành công nghiệp
sản xuất than trong nước và tổng quan công
nghệ xử lý nước thải ngành sản xuất than ở
nước ngoài, Hà Nội.
2. Viện KHCN Mỏ - Vinacomin, (2010), Đánh
giá thực trạng và đề xuất giải pháp kiểm soát ô
nhiễm từ lò chợ, lò vận tải của mỏ than hầm lò
vùng Quảng Ninh.
3. Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - Vinacomin
(2014), Báo cáo xây dựng báo cáo tình hình
tác động ngành Công thương từ hoạt động khai

KHCNM SỐ 5/2019 * CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG

31


THÔNG TIN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ MỎ
thác và chế biến than, Hà Nội.
4. Báo cáo đánh giá hiệu quả kỹ thuật, công
nghệ, quản lý các trạm xử lý nước thải mỏ than
hiện có vùng Quảng Ninh và đề xuất định hướng
áp dụng cho các trạm tiếp theo (2014), Hà Nội.
5. Bernard Aubé, P. Eng., M.A.Sc, The

Science of Treating Acid Mine Drainage and
Smelter Effluents, 2004.
6. Short Course: Mine Water Treatment Technologies, Case Studies, and Cost, May 3,
2015.


Research, evaluation on the current situation and proposal
of some solutions to improve the efficiency of coal mine
wastewater treatment stations of Vinacomin
MSc. Nguyen Tien Dung, Dr. Bui Thanh Hoang, Dr. Nguyen Van Hau
Vinacomin – Institute of Mining Science and Technology
Abstract:
In the recent period, Vietnam National Coal Mineral Industries Holding Corporation Limited has
constantly invested wastewater treatment stations, especially for coal mines. According to the study,
depending on the stage of application, the required level of output wastewater and the financial
capacity of the wastewater treatment systems that can be applied with technological processes in
different treatment. Mine wastewater treatment stations that have been operating to meet requirements
for discharging mine wastewater into the environment in accordance with regulations. However,
the overall survey and assessment of all coal mine wastewater treatment stations of Vinacomin
to identify the advantages and disadvantages, from which general solutions will be studied and
proposed to improve efficiency, reduce coal mine wastewater treatment costs of Vinacomin, which is
absolutely necessary. This paper summarizes the survey results, assesses the current situation and
proposes some solutions to improve the efficiency of coal mine wastewater treatment stations in the
coming time.

32

KHCNM SỐ 5/2019 * CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG



×