Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa thực tiễn thực hiện tại công ty cổ phần sản xuất xuất nhập khẩu phú hưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.27 KB, 53 trang )

TÓM LƯỢC
Ngày nay, cùng với sự vươn mình trỗi dậy của mình trên con đường hội nhập
nền kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đã gặt hái được những bước tiến đáng kể.
Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, các quan hệ mua bán hàng hóa ngày
càng phát triển. Theo đó, hợp đồng mua bán hàng hóa cũng mang những nét đặc trưng
riêng để phân biệt với các loại hợp đồng khác. Các quan hệ trong hợp đồng mua bán
hàng hóa trở nên đa dạng hơn, phức tạp hơn. Trong điều kiện như vậy, pháp luật về
hợp đồng mua bán hàng hóa có tầm quan trọng lớn về nhiều mặt, nhiều khía cạnh khác
nhau. Vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa vẫn là một vấn đề gây nhiều ý
kiến trái chiều. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa là hết sức cần thiết, trên cơ sở đó đưa ra định hướng, giải pháp
cụ thể nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật nhằm giúp cho các doanh nghiệp dễ dàng
hơn trong quá trình hợp tác với bạn hàng trong giai đoạn hiện nay.

i


LỜI CẢM ƠN
Để có được những kiến thức như ngày hôm nay, em xin gửi lời cảm ơn trân
trọng đến Ban giám hiệu, các thầy cô giáo trường Đại học Thương Mại, các thầy cô
giáo khoa Kinh tế- Luật đã tận tình truyền đạt cho em những kiên thức vô cùng quý
báu để em có thể hoàn thành tốt khóa học, đủ điều kiện tham gia thực tập và viết khóa
luận tốt nghiệp Đại học.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Th.S Hoàng Thanh Giang, người đã trực
tiếp hướng dẫn em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Bên cạnh đó em cũng xin được gủi lời cảm ơn sâu sắc đến tập thể cán bộ và
nhân viên Công ty cổ phần Sản xuất xuất nhập khẩu Phú Hưng đã giúp đỡ, hướng dẫn
tạo điều kiện cho em tiến hành thực tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp Đại học
của mình.
Vì kiến thức cũng như thời gian thực tập của em còn hạnh chế nên không tránh
khỏi những sai sót trong quá trình phân tích, đánh giá cũng như đưa ra những giải


pháp. Vì vậy em rất mong nhận được những đóng góp ý kiến của quý thầy cô, ban lãnh
đạo Công ty để khóa luận của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân trọng cảm ơn!
Sinh viên
Anh
Mai Thị Phương Anh

ii


MỤC LỤC
Nghĩa vụ thanh toán tiền:......................................................................................................22
Đây là nghĩa vụ quan trọng nhất của bên mua trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa.
Điều khoản thanh toán trong hợp đồng được các bên thỏa thuận thông thường bao gồm
những nội dung cụ thể về đồng tiền thanh toán, phương thức thanh toán, thời hạn và địa
điểm thanh toán, trình tự và thủ tục thanh toán. Bên mua vẫn phải thanh toán tiền mua hàng
trong trường hợp hàng hoá mất mát, hư hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên bán
sang bên mua, trừ trường hợp mất mát, hư hỏng do lỗi của bên bán gây ra.........................22

iii


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Nghĩa vụ thanh toán tiền:......................................................................................................22
Đây là nghĩa vụ quan trọng nhất của bên mua trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa.
Điều khoản thanh toán trong hợp đồng được các bên thỏa thuận thông thường bao gồm
những nội dung cụ thể về đồng tiền thanh toán, phương thức thanh toán, thời hạn và địa
điểm thanh toán, trình tự và thủ tục thanh toán. Bên mua vẫn phải thanh toán tiền mua hàng
trong trường hợp hàng hoá mất mát, hư hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên bán
sang bên mua, trừ trường hợp mất mát, hư hỏng do lỗi của bên bán gây ra.........................22


iv


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật dân sự
Quy phạm pháp luật
Hợp đồng dân sự
Hợp đồng lao động
Sản xuất xuất nhập khẩu

BLDS
QPPL
HĐDS
HĐLĐ
SX-XNK

v


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây, nền kinh tế thị trường phát triển một cách mạnh mẽ,
tính khốc liệt ngày càng tăng cao nên hoạt động thương mại mua bán hàng hóa đã có
những bước chuyển mình mạnh mẽ và hứa hẹn sẽ ngày càng phát triển trong tương lai.
Với tư cách là một loại hình kinh doanh thương mại đặc biệt, ảnh hưởng sâu sắc đến
nền kinh tế thị trường, hoạt động mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng mua bán
hàng hóa nói riêng đòi hỏi phải có một văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh riêng
biệt. Trong bối cảnh đó, nếu pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa thực sự hoàn
hảo sẽ trở thành một hành lang pháp lý an toàn, bình đẳng, tạo điều kiện thuận lợi cho

hoạt động mua bán hàng hóa tồn tại và phát triển. Ngược lại nếu còn những bất cập,
hạn chế thì đây sẽ trở thành rào cản đối với sự phát triển và tồn tại của hoạt động
thương mại đặc thù này.
Tuy nhiên do một số yếu tố chủ quan cũng như khách quan mà pháp luật Việt Nam
hiện hành về hợp đồng mua bán hàng hóa còn nhiều bất cập và hạn chế. Đặc biệt các
văn bản pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa chưa đề cập một cách rõ ràng, thống
nhất, và hoàn chỉnh các quy định về vấn đề giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa. Chính điều đó đã đẫn tới thực trạng hợp đồng mua bán hàng hóa diễn ra một cách
lộn xộn và hiện nhiều hành vi xâm phạm trong quá trình giao kết và thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hóa.
Do đó việc tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về vấn đề giao kết, thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa thực sự là việc làm có ý nghĩa cả về mặt lý luận và
thực tiễn trong thời điểm hiện nay.
Vì vậy em đã mạnh dạn chọn vấn đề “Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hóa - Thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Sản xuất Xuất
nhập khẩu Phú Hưng”. Cá nhân em hy vọng khóa luận tốt nghiệp Đại học này sẽ góp
phần nhỏ bé vào công cuộc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa nói
riêng cũng như hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Tại Việt Nam, dù bắt đầu muộn hơn so với các nước trên thế giới nhưng hình thức
hợp đồng mua bán hàng hóa cũng đang phát triển ngày một lớn mạnh nên có rất nhiều
các nhà khoa học, sinh viên thuộc các lĩnh vực khác nhau nghiên cứu. Cụ thể như: Đề
cập dưới góc độ lý luận đơn thuần, TS Nguyễn Nhọc Khánh đã cho ra đời “Chế định
hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam”( NXB Tư Pháp, 2007). Khóa luận tốt nghiệp
của tác giả Lưu Thị Minh Trang năm 2015- Trường Đại học Thương Mại với đề tài “
1


Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa, thực tiễn áp dụng tại công ty TNHH Nhật
Việt” đã làm rõ các vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và bước

đầu đã có những áp dụng thực tiễn tại một doang nghiệp cụ thể... Bên cạnh đó ở góc
độ luận án Thạc sĩ, luận văn Tiến sĩ cũng có rất nhiều đề tài nghiên cứu về hợp đồng
mua bán hàng hóa. Ở cấp độ luận văn Thạc sĩ có thể kể đến luận văn “ So sánh chế
định giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ” năm 2009 của
tác giả Nguyễn Thị Mai Hương, luận văn đã có sự so sánh đánh giá giữa pháp luật Việt
Nam với hệ thồng pháp luật tân tiến Hoa Kỳ, tuy nhiên tác giả mới dừng lại ở việc
nghiên cứu vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Ở góc độ luận văn Tiến sĩ có
thể kể đến luận văn năm 2008 của tác giả Nguyễn Vũ Hoàng với đề tài “ Pháp luật
Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài”. Có
thể thấy luận văn chỉ tập trung nghiên cứu chuyên sâu vấn đề giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa với một chủ thể được xác định rõ ràng là thương nhân nước ngoài.
Như vậy, có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề hợp đồng mua bán hàng
hóa. Tuy nghiên các bài báo, khóa luận hay luận văn trên chỉ tập chung nghiên cứu
chuyên sâu vào vấn đề hợp đồng mua bán hàng hóa hay vấn đề giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa. Rất ít công trình nghiên cứu cụ thể kết hợp hai vấn đề giao kết và thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại Việt Nam hiện nay.
Với mục đích muốn tìm hiểu về vấn đề giao kết thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa và bằng những tìm hiểu, phân tích, bình luận của mình trong quá trình thực tập tại
Công ty cổ phần Sản xuất xuất nhập khẩu Phú Hưng, em lựa chọn đề tài: “Pháp luật
về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa - Thực tiễn thực hiện tại
Công ty Cổ phần Sản xuất Xuất nhập khẩu Phú Hưng” nhằm tiếp cận và nghiên
cứu, làm rõ hơn về hệ thống lý luận và thực trạng pháp lý về vấn đề giao kết thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hóa.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa là một trong những vấn đề pháp
lý quan trọng tác động đến hoạt động của các chủ thể trong hoạt động mua bán hàng
hóa. Tuy nhiên trên thực tế vấn đề pháp lý về giao kết, thục hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa còn tồn đọng nhiều bất cập. Mặc dù trong thời gian qua có rất nhiều công
trình nghiên cứu về vấn đề hợp đồng mua bán hàng hóa nhưng nhìn chung trên góc độ
cá nhân em nhận thấy các công trình chưa nghiên cứu chuyên sâu mọi khía cạnh của

pháp luật và thực tế thực hiện.
Bên cạnh đó, đặt trong bối cảnh tại Công ty cổ phần SX-XNK Phú Hưng, đây là
một doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, chưa có bộ phận pháp chế riêng, việc áp
dụng các quy định về hợp đồng nói chung và vấn đề giao kết, thực hiện hợp đồng mua
2


bán hàng hóa nói riêng chưa thực sự hiệu quả, còn nhiều bất cập. Xuất phát từ tầm
quan trọng cũng như những lý do thực tế của việc nghiên cứu vấn đề giao kết và thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ phần sản xuất xuất nhập khẩu Phú
Hưng, em đã quyết định lựa chọn đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình là: “Pháp
luật về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa - Thực tiễn thực hiện
tại Công ty Cổ phần Sản xuất Xuất nhập khẩu Phú Hưng”.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng, mục đích nghiên cứu
Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của khóa luận tốt nghiệp là vấn đề giao kết, thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa- thực tiễn thự hiện tại Công ty cổ phần SX-XNK Phú
Hưng. Trong nền kinh tế thị trường ngày càng biến động, ngoài việc nghiên cứu hai
văn bản quy phạm pháp luật là Luật Thương mại 2005 và Bộ luật Dân sự 2015, đề tài
còn nghiên cứu các nghị định liên quan để tìm ra kẽ hở và các biện pháp khắc phục
nhằm tạo ra sự liên kết hệ thống pháp luật với nhau, qua đó giúp việc nghiên cứu khóa
luận trở nên hoàn thiện hơn.
Xét về mục đích: khóa luận tốt nghiệp đi sâu nghiên cứu về những vấn đề pháp lý
về vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
hiện hành, phân tích làm rõ thục tiễn thực hiện vấn đè giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa tại Công ty cổ phần SX-XNK Phú Hưng giúp cho người đọc, nhà
đầu tư, doanh nghiệp hiểu rõ hơn thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành từ đó tự rút
ra cho mình vốn hiểu biết về vấn đề này tránh gặp phải những khó khăn, rủi ro không
đáng có. Đề tài đồng thời cũng đề xuất ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
về giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa- thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ

phần SX-XNK Phú Hưng. Để đạt được mục đích trên, khóa luận tốt nghiệp sẽ đi sâu
vào những vấn đề cơ bản sau:
Một là, tìm hiểu Nghiên cứu những vấn đề lý luận và nội dung về giao kết, thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa để có thể hiểu một cách rõ nét về về khái niệm và
đặc điểm của các vấn đề trên.
Hai là, phân tích rõ nét thực trạng pháp luật điều chỉnh về giao kết, thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hóa, thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần Sản xuất xuất nhập
khẩu Phú Hưng. Từ đó, nêu ra những thành tựu đã đạt được và những bất cập, hạn chế
cần khắc phục.
Ba là, Từ việc nghiên cứu các cơ sở lý luận cũng như phân tích thực tế, khóa luận
đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa,thực tiễn thực hiện tại Công ty Phú Hưng.

3


4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Về nội dung, phạm vi nghiên cứu của khóa luận giới hạn ở việc phân tích những
vấn đề lý luận chung, cơ bản về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
trong giai đoạn từ năm 2005 cho đến nay. Đồng thời phân tích, làm rõ thực tiễn thực
hiện vấn đề giao kết thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ phần SXXNK Phú Hưng giai đoạn từ 2015 đến 2018.Từ đó cá nhân em mạnh dạn nêu ra một
số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa,thực tiễn thực hiện tại Công ty Phú Hưng. Tuy nhiên do thời gian eo hẹp
cũng như kiến thức còn hạn chế, khóa luận tốt nghiệp chỉ tập trung nghiên cứu các vấn
đề giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam,
không có yếu tố nước ngoài.
Về các văn bản pháp luật, đề tài sử dụng những văn bản quy phạm pháp luật Việt
Nam hiện hành như: Bộ luật Dân sự 2015, Luật thương mại 2005 và các nghị định có
liên quan. Đồng thời khóa luận cũng có sử dụng một số tài liệu do Công ty Phú Hưng
cung cấp như báo cáo tài chính các năm từ 2015 đến 2017...

5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về giao kết thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa, thực tiễn thực
hiện tại Công ty cổ phần SX-XNK Phú Hưng được thực hiện dựa trên sự kết hợp của
nhiều phương pháp như phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, kết hợp giữa lý
luận - thực tiễn, hệ thống , thu thập số liệu và một số phương pháp khác.
Phương pháp phân tích và tổng hợp: phương pháp này được sử dụng trong tất cả
các chương của bài nghiên cứu. Cụ thể là được sử dụng để phân tích các quy phạm
pháp luật, đi sâu nghiên cứu, trình bày các quan điểm, nhận xét về các vấn đề pháp lý
của các vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa, khái quát lại để
phân tích, rút ra những cái thuộc về đặc điểm bản chất, các hiện tượng, các lỗ hổng của
pháp luật ( chương 1 và chương 2), từ đó tổng hợp lại thành các đánh giá, kết luận và
kiến nghị phù hợp nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về vấn đề giao kết, thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
Phương pháp thống kê: phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở chương mở đầu
để đưa ra tình hình nghiên cứu trong nước.
Phương pháp lý luận kết hợp với thực tiễn: phương pháp này được sử dụng ở tất cả
các chương trong bài nghiên cứu. Cụ thể, chương 1 sử dụng kết hợp lý luận và thực
tiễn để đưa ra được khái niệm, đặc điểm, các nội dung… của hợp đồng mua bán hàng
hóa đặc biệt là vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng; chương 2 đưa ra được những
bất cập tồn tại trong thực tiễn từ việc áp dụng luật trên thực tế cũng như tại Công ty cổ
phần SX-XNK Phú Hưng, chương 3 dựa vào cả lý luận và thực tiễn để đưa ra được
4


những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về giao kết
và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ phần Sẩn xuất xuất nhập khẩu
Phú Hưng.
Phương pháp thu thập dữ liệu: bài khóa luận tốt nghiệp có sử dụng số liệu trong
báo cáo Tài chính của công ty cổ phần Sẩn xuất xuất nhập khẩu Phú Hưng. Phương
pháp này sử dụng chủ yếu tại chương 2 để làm rõ quá trình giao kết và thực hiện hợp

đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ phần Sẩn xuất xuất nhập khẩu Phú Hưng.
Phương pháp hệ thống được sử dụng xuyên suốt toàn bộ luận án nhằm trình bày
các vấn đề, các nội dung trong bài nghiên theo một trình tự, một bố cục hợp lý, chặt
chẽ, có sự gắn kết, kế thừa, phát triển các vấn đề, các nội dung để đạt được mục đích,
yêu cầu đã dề ra.
6. Kết cấu của khóa luận
Bài khóa luận có kết cấu 3 chương gồm:
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh giao kết và thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
Chương II: Thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa và thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần Sản xuất Xuất nhập khẩu
Phú Hưng
Chương III. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ phần Sẩn xuất
xuất nhập khẩu Phú Hưng.

5


CHƯƠNG I: NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU
CHỈNH GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1. Khái niệm:
 Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa


Khái niệm hàng hóa và mua bán hàng hóa

Trong kinh tế chính trị Mác- Lenin, hàng hóa được định nghĩa là sản phẩm của lao
động thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa có thể hữu hình như ngôi nhà, xe cộ

nhưng cũng có thể vô hình như sức lao động. Trong thời đại phát triển hiện nay, khái
niệm hàng hóa được hiểu thông qua phạm trù giá trị. Tại Việt Nam, pháp luật thương
mại 2005 ghi nhận tại khoản 2 điều 3, hàng hóa bao gồm tất cả các loại bất động sản,
kể cả bất động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền với đất đai.
Từ khái niệm về hàng hóa, Luật thương mại 2005 tiếp tục khái quát hóa khái niệm
mua bán hàng hóa theo khoản 8 điều 3:
“ Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao
hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có
nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa
thuận.”
• Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
Trong thời đại kinh tế thị trường , hợp đồng được coi là một trong những công cụ
pháp lý hữu dụng nhất để thực hiện các cuộc giao dịch, trao đổi nhằm tìm kiếm lợi
nhuận, thúc đẩy kinh tế phát triển. Tại Việt Nam, khái niệm hợp đồng được quy định
tại điều 385 Bộ luật dân sự ( BLDS) 2015: “Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Nếu BLDS 2005 đưa ra
khái niệm thuật ngữ HĐDS thì BLDS 2015 chỉ đưa ra khái niệm chung cho thuật ngữ
HĐ. Đây không chỉ là sửa đổi về kỹ thuật lập pháp mà còn thể hiện tính minh bạch.
Phù hợp với thực tiễn áp dụng, mở rộng phạm vi điều chỉnh: Hợp đồng dân sự, hợp
đồng thương mại, hợp đồng đầu tư, hợp đồng kinh doanh bảo hiểm,….
Bên cạnh đó khoản 1 điều 3 Luật thương mại 2005 cũng đã quy định rõ: “Hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh
lợi khác”.
Tóm lại, hợp đồng mua bán hàng hóa được hiểu là sự xác lập (ký kết) giữa các bên
(bên mua và bên bán). Theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu
hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán còn bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho
6



bên bán nhận hàng nhận quyền sở hữu theo thỏa thuận., thỏa mãn về hình thức theo
quy định tại điều 24 Luật thương mại 2005. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng
hóa phải là những hàng hóa được phép mua bán theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa nhình chung cũng có những đặc điểm của hợp đồng
mua bán tài sản trong dân sự như: là hợp đồng ưng thuận, có tính đền bù và là hợp
đồng song vụ. Tuy nhiên hợp đồng mua bán hàng hóa cũng có những đặc điểm riêng
biệt.
Thứ nhất, xét về chủ thể: Chủ thể trong hợp đồng mua bán hàng hóa ít nhất một
bên phải là thương nhân. Theo quy định tại khoản 1 điều 6: “Thương nhân bao gồm tổ
chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc
lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Bên cạnh đó chủ thể của hợp đồng mua
bán hàng hóa còn có thể là các tổ chức, cá nhân khác có hoạt động liên quan đế thương
mại, hoặc chủ thể không phải thương nhân tham gia hoạt động mua bán hàng hóa
nhằm mục đích sinh lời. Trong đó thương nhân là chủ thể thường xuyên của hợp đồng
mua bán hàng hóa.
Thứ hai, về hình thức: hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa phải được tuân
thủ theo đúng quy định tại điều 24 Luật thương mại 2005. Tức là hợp đồng mua bán
hàng hóa phải được thể hiện bằng văn bản, lời nói hoặc được xác lập bằng hành vi cụ
thể của các bên khi giao kết. Một số loại hợp đồng mua bán hàng hóa, theo quy định
của pháp luật bắt buộc phải giao kết bằng hình thức văn bản như: hợp đồng ủy thác
mua bán hàng hóa; hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (bằng văn bản hoặc các hình
thức khác có giá trị pháp lý tương đương: fax, điện tử...)
Thứ ba, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là những hàng hóa được phép
mua bán không trái với quy định của pháp luật. Để tạo điều kiện cho các chủ thể tham
gia hoạt động mua bán hàng hóa, Luật thương mại 2005 đã có những quy định cụ thể
về những Hàng hoá cấm kinh doanh, hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng hóa kinh
doanh có điều kiện tại điều 25 của luật này và Nghị định 59/2006/NĐ- CP ngày
12/06/2006
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết và thực

hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa.
Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính chất bắt buộc chung do Nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện bởi quyền lực nhà nước để điều
chỉnh những quan hệ xã hội giữa các cá nhân, tổ chức. Như vậy pháp luật điều chỉnh
7


hợp đồng mua bán hàng hóa là tập hợp những quy định pháp luật do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa các bên tham gia
hợp đồng nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa bên trong hợp
đồng mua bán hàng hóa.
Chính vì thế Cơ sở ban hành các pháp luật hợp đồng nói chung và hợp đồng mua
bán hàng hóa nói riêng cũng chính là cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh vấn đề giao
kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
 Cơ sở về mặt pháp luật.
Nền tảng của sự ra đời pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa hiện nay tại Việt
Nam là sự ra đời của Hiến pháp 2013. Đây là đạo luật cơ bản của Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật đều
phải thù hợp với Hiến Pháp.
Trước hết hợp đồng mua bán hàng hóa là một dạng của hợp đồng dân sự. Chính vì
thế hợp đồng mua bán hàng hóa chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của Bộ luật dân sự
( BLDS) 2015. Cụ thể: Các quy định về hợp đồng dân sự được quy định từ điều 385420; các quy định về hợp đồng mua bán tài sản quy định từ điều 430-454; ngoài ra
BLDS còn quy định vấn đề hợp đồng mua bán hàng hóa có tính quốc tế từ điều 663671.
Tuy nhiên do tính chất là văn bản pháp luật quy định chung về các vấn đề dân sự,
BLDS 2015 không có quy định riêng, cụ thể về hợp đồng mua bán hàng hóa. Hiện nay
trong hệ thống các vă bản quy phạm pháp luật của nước ta, Luật thương mại 2005
đang đóng vai trò là luật riêng, đặc thù quy định chi tiết về hợp đồng mua bán hàng
hóa và các vấn đề có liên quan. Cụ thể: các quy định chi tiết về hợp đồng mua bán

hàng hóa được Luật thương mai 2005 quy định từ điều 24-62; các vấn đề có liên quan
như chế tài thương mại hay vấn đề giải quyết tranh chấp được quy định tù điều 292319.
Ngoài ra, còn có một số nghị định, thông tư điều chỉnh việc thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa như: văn bản hợp nhất 19/VBHN-BTC ngày 09/05/2014 quy định
chi tiết Luật thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và
kinh doanh có điều kiện; nghị định 158/2006/NĐ ngày 28/12/2006 quy định chi tiết
Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa; nghị định
51/2018/NĐ ngày 9/4/2018: sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định 158/2006/NĐ
ngày 28/12/2006 quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa
qua sở giao dịch hàng hóa......
 Cơ sở về mặt thực tiễn
Cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế
8


quốc tế như hiện nay, nền kinh tế thị trường ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ phát triển
của mỗi quốc gia. Tại Việt Nam một trong những quan hệ thương mại góp phần lớn
vào công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đât nước là qua hệ mua bán hàng hóa.
Trước tình hính đó, Nhà nước ta đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh hoạt động thương mại nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng nhằm
bảo đảm lợi ích của các chủ thể tham gia cũng như lợi ích của Nhà nước, xã hội. Tuy
nhiên kinh tế biến động không ngừng nghỉ, chính vì thế hệ thống pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa của nước ta cũng cần được bổ sung, điều chỉnh kịp thời để
phù hợp với tốc độ phát triển của kinh tế, xã hội trong nước cũng như trên thế giới.
1.2.2. Nội dung vấn đề pháp luất điều chỉnh vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa
 Nội dung pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
• Pháp luật điều chỉnh chủ thể giao kết hàng hóa
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, một bên chủ thể tham gia hợp đồng yêu cầu bắt
buộc phải là thương nhân, bên còn lại có thể là thương nhân hoặc không là thương

nhân. như vậy theo quy định của Luật thương mại 2005, chủ thể tham gia hợp đồng
mua bán hàng hóa chia làm hai loại: chủ thể là thương nhân và chủ thể không phải là
thương nhân nhưng có hoạt động liên quan đến hoạt động thương mại.
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa là thương nhân. Theo đó điều 6
Luật thương mại 2005 có quy định: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được
thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và
có đăng ký kinh doanh.” Như vậy có thể chia thương nhân thành hai nhóm: thương
nhân có tư cách pháp nhân và thương nhân không có tư cách pháp nhân.
 Thương nhân có tư cách pháp nhân.
Theo quy định của pháp luật Việt nam bao gồm: Công ty TNHH 2 thành viên trở
lên, Công ty TNHH 1 thành viên, Công ty cổ phần,Công ty hợp danh. Tất cả các tổ
chức trên đều có tư cách pháp nhân theo quy định của luật Doanh nghiệp 2014 và có
người đại diện theo pháp luật theo quy định tại điều lệ của mỗi công ty.
 Thương nhân không có tư cách pháp nhân:
Theo quy định của luật Doanh nghiệp 2014, Doanh nghiệp tư nhân là tổ chức
thương mại đặc biệt do không có tư cách pháp nhân. Khoản 4 điều 185 luật Doanh
nghiệp 2014 đã quy định chủ doanh nghiệp tư nhân đồng thời là người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể tự quản lý hoặc thuê
người quản lý, điều hành hoạt động của doanh nghiệp. Trong trường hợp thuê giám
đốc quản lý hoạt động của doanh nghiệp thì chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu
9


trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài doanh nghiệp tư nhân, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xuyên có đăng ký kinh doanh cũng là một trong số các chủ thể không có tư
cách pháp nhân tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa.
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa thương nhân là chủ thể thường xuyên và chủ
yếu. Thương nhân có thể trực tiếp tham gia vào hợp đồng mua bán hàng hóa, hoặc
thông qua người đại diện, hoặc thông qua người đại diện theo ủy quyền. Giao kết hợp

đồng ko đúng thẩm quyền (sai thẩm quyền) ko làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của
các bên trừ trường hợp người đại diện hợp pháp của bên đc đại diện chấp nhận.
BLDS 2015 đã quy định rõ vấn đề người đại diện và người đại diện theo ủy quyền
như sau:
Quy định tại Điều 134 BLDS 2015, đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây
gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác
(sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Người
đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao
dịch dân sự được xác lập, thực hiện.
Các trường hợp đại diện theo ủy quyền được quy định tại Điều 138 BLDS 2015:
“Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự.
Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có
thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác,
tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện
theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ
mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.”
Thứ hai, chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể không phải là thương nhân
nhưng có hoạt động liên quan đến thương mại. Các cá nhân, tổ chức, cơ quan không
phải là thương nhân cũng có thể được coi là chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa
trong trường hợp những chủ thể trên tiến hành giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
với các thương nhân nhằm mục đích sinh lời. Như vậy để có thể trở thành chủ thể của
hợp đồng mua bán hàng hóa các chủ thể không phải thương nhân cần đáp ứng đầy đủ
các điều kiện: có hoạt động liên quan đến thương mại; giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa với thương nhân nhằm mục đích sinh lời; có đầy đủ năng lực hành vi dân sự
theo quy định của BLDS 2015.
• Pháp luật điều chỉnh trình tự, thủ tục giao kết hợp đồng mua bán hàng
10



hóa
Trình tự và thủ tục giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa không có quy định riêng,
theo đó quy định về giao kết hợp đồng tại BLDS 2015 được coi là cơ sở pháp lý chung
quy định về thủ tục, trình tự giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo đó trình tự
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa được tiến hành thông qua hai bước chính là đề
nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
 Đề nghị giao kết hợp đồng.
Khoản 1 điều 386 BLDS 2015 đưa ra khá niệm: “ Đề nghị giao kết hợp đồng là
việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên
đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên
được đề nghị).” Theo đó một lời đề nghị giao kết hợp đồng được công nhận tính pháp
lý nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện: Hàm chứa các điều khoản chủ yếu như đối tượng
của hợp đồng; Thể hiện mong muốn ràng buộc trách nhiệm; Hướng đến một chủ thể
hoặc một số chủ thể nhất định; Tuân theo hình thức pháp luật quy định. Như vậy đề
nghị giao kết hợp đồng, bản chất là một hành vi pháp lý đơn phương bày tỏ ý định
giao kết hợp đồng của một chủ thể này với một chủ thể khác theo những điều kiện xác
định.
Một đề nghị như thế nào được xem là thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng? Thông
thường, một đề nghị phải đầy đủ cụ thể cho phép hình thành hợp đồng khi được chấp
nhận. Luật pháp các nước thường quy định một đề nghị giao kết hợp đồng phải hàm
chứa tất cả các nội dung thiết yếu của hợp đồng dự định ký kết. Pháp luật không liệt kê
những nội dung được coi là nội dung thiết yếu của hợp đồng, vì vậy cơ quan chức
năng sẽ căn cứ vào từng hoàn cảnh cụ thể và căn cứ vào bản chất của từng loại hợp
đồng để quyết định. Ví dụ, đối với một đề nghị giao kết một hợp đồng mua bán hàng
hóa, chỉ cần đề nghị nêu rõ đối tượng và giá cả.
Làm thế nào để xác định ý chí của người đề nghị là “mong muốn bị ràng buộc bởi
đề nghị đó”? Thực ra, không nhất thiết bên đưa ra đề nghị phải tuyên bố rõ ràng rằng
mình mong muốn bị ràng buộc bởi đề nghị này. Thông thường, người ta sẽ xem xét

đến tính cách trình bày lời đề nghị, nội dung đề nghị để tìm ý định muốn bị ràng buộc
của người đề nghị. Đề nghị càng chi tiết, càng cụ thể thì càng có cơ hội được xem như
đã thể hiện mong muốn bị ràng buộc của người đề nghị. Tuy nhiên, trong trường hợp
một lời đề nghị mặc dù nêu rất chi tiết nội dung của hợp đồng dự định giao kết nhưng
nếu người đề nghị có đưa ra một số bảo lưu thì đề nghị này chỉ được xem là lời mời
đàm phán. Trên thực tế, những bản giới thiệu, thậm chí dự thảo hợp đồng gửi cho đối
tác có kèm theo câu: “các nội dung trong bản chào hàng này không có giá trị hợp
đồng” hay “bản chào hàng này không có giá trị như một đề nghị giao kết hợp đồng”
11


cho dù đã hàm chứa đầy đủ các nội dung của hợp đồng, vẫn chỉ là lời mời đàm phán.
Về nguyên tắc đề nghị giao kết có hiệu lực tại thời điểm do bên đề nghị ấn định.
Nếu bên đề nghị không ấn định thời điểm có hiệu lực thì lời đề nghị giao kết hợp đồng
sẽ có hiệu lực từ ngày bên kia nhận được đề nghị. Đó là thời điểm: Chuyển đến nơi cư
trú của bên được đề nghị; Đưa vào hệ thống thông tin của bên được đề nghị; Bên được
đề nghị nhận được đề nghị thông qua các phương thức khác. Bên đưa ra đề nghị phải
đưa ra thời hạn trả lời đề nghị và phải chịu trác nhiệm về lời đề nghị của mình.
Ngoài ra BLDS 2015 đã quy định bổ sung quyền được phép thay đổi hoặc rút lại
lời đề nghị giao kết hợp đồng của bên đề nghị trong các trường hợp được quy định tại
điều 389 Bộ luật này. Bao gồm các trường hợp: Bên được đề nghị nhận được thông
báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề
nghị; Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có
nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh.
Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể tiến hành quyền hạn được huỷ bỏ đề nghị nếu
đã nêu rõ quyền này trong đề nghị và bên được đề nghị nhận được thông báo về việc
hủy bỏ đề nghị trước khi người này gửi thông báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng.
Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong trường hợp: Bên nhận được đề
nghị trả lời không chấp nhận; Hết thời hạn trả lời chấp nhận; Thông báo về viêc thay

đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực; Thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực;
Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn chờ bên
được đề nghị trả lời.
 Chấp nhận giao kết hợp đồng.
Đây được coi là chìa khóa then chốt để hình thành một hợp đồng mua bán hàng
hóa. Cũng giống như đề nghị giao kết hợp đồng, BLDS 2015 cũng đã nêu ra định
nghĩa chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa: “Chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề
nghị.” (Quy định tại khoản 1 điều 393 BLDS 2015).
Như vậy có thể hiểu chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên
được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề
nghị. Trên cơ sở những quy định có liên quan có thể thấy, việc trả lời chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng phải có những dấu hiệu cơ bản sau:
Một là, bên được đề nghị phải trả lời chấp nhận toàn bộ nội dung lời đề nghị. Tức
là bên được đề nghị không được đặt ra bất kỳ điều kiện, không được thêm vào bất kỳ
điều khoản cũng như không được sửa đổi bất cứ nội dung nào trong lời đề nghị. Nói
cách khác, việc chấp nhận ở đây là vô điều kiện. Nếu bên được đề nghị không đồng ý
12


về một điểm dù là thứ yếu của lời đề nghị giao kết hợp đồng thì câu trả lời đó không
được công nhận là chấp nhận giao kết hợp đồng mà sẽ được xem như một lời đề nghị
giao kết mới.
Hai là, lời chấp nhận giao kết hợp đồng phải được đưa ra trong thời hạn trả lời cho
phép. Nếu bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì bên được đề nghị phải trả lời chấp
nhận trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết
thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời. Trong
trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách quan mà
bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo chấp nhận giao
kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý

với chấp nhận đó của bên được đề nghị.
Thực tế, bên được đề nghị có thể trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo
nhiều hình thức khác nhau (gặp trực tiếp, gọi điện thoại, gửi thư điện tử), thậm chí có
thể im lặng sạu khi nhận được đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, theo quy định tại
khoản 2 Điều này, sự im lặng chỉ được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nếu
các bên đã có thỏa thuận cụ thể, hoặc đó là thói quen đã được xác lập giữa các bên.
Thời hạn chấp nhận giao kết hợp đồng được xác định trong các trường hợp sau:
Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực
khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả
lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm
trả lời. Khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có
hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý.
Trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách quan
mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo chấp nhận
giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng
ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị.
Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại
hoặc qua phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc
không chấp nhận, trừ trường hợp các bên có thoả thuận về thời hạn trả lời.
Bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết
hợp đồng, nếu thông báo về việc rút lại này đến trước hoặc cùng với thời điểm bên đề
nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
• Pháp luật điều chỉnh thời gian và địa điểm giao kết hợp đồng.
 Thời gian giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa được quy định tại điều
400 BLDS 2015
Trong giao kết hợp đồng, có thể xảy ra hai trường hợp: giao kết trực tiếp giữa các
13


bên và giao kết giữa các bên vắng mặt thông qua việc gửi lời đề nghị giao kết hợp

đồng và trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng. Đối với giao kết trực tiếp, nếu các bên
thỏa thuận bằng lời nói thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các bên đã thỏa
thuận xong về nội dung hợp đồng. Nếu các bên giao kết bằng văn bản thì thời điểm
giao kết là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản.
Cụ thể điều 400 BLDS 2015 có quy định, hợp đồng mua bán hàng hóa được coi là
đã giao kết vào các thời điểm sau đây: Thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp
nhận giao kết; Hợp đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời
mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp
nhận giao kết; Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa
thuận về nội dung của họp đồng; Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời
điểm bên sau cùng ký vào văn bản; Thời điểm giao kết họp đồng phải có công chứng
là thời điểm hợp đồng được công chứng.
Như vậy thời điểm giao kết hợp đồng dân sự trong trường hợp các bên thỏa thuận
im lặng là sự đồng ý giao kết hợp đồng sẽ được tính tại thời điểm hết hạn trả lời và
thời hạn này có thể được ghi trong đề nghị giao kết hợp đồng hoặc ghi vào bản hợp
đồng. Đồng thời theo khoản 4 Điều 400, có thể hiểu rằng: hợp đồng được lập bằng văn
bản có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực phải đăng ký hoặc xin phép cũng
là một loại hợp đồng được lập bằng văn bản, bởi vậy thời điểm giao kết hợp đồng là
thời điểm khi bên sau cùng ký vào bản hợp đồng.
Hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết hợp đồng, trừ
một số trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật khác có liên quan quy định. Thời điểm
hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lưc cũng chính là thời điểm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia theo sự thỏa thuận và theo quy định của pháp luật. Hợp
đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc chấm dứt hoặc hủy bỏ theo sự thỏa thuận của các chủ
thể tham gia hoặc theo quy định của pháp luật.
 Địa điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa được quy định tại điều
399 BLDS 2015.
Theo đó, pháp luật Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do thỏa thuận giữa các chủ
thể giam gia hợp đồng mua bán hàng hóa, do đó địa điểm giao kết hợp đồng sẽ là địa
điểm mà các bên đã thỏa thuận lựa chọn. Trong trường hợp không thỏa thuận lựa chọn

hoặc thỏa thuận lựa chọn địa điểm giao kết nhưng không thành thì địa điểm giao kết
hợp đồng là nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở của pháp nhân đã đưa ra đề nghị giao
kết hợp đồng.
• Pháp luật điều chỉnh hình thức giao kết hợp đồng
Pháp luật Việt Nam không quy định cụ thể về hình thức của giao kết hợp đồng mua
14


bán hàng hóa. Các chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể tự do lựa chọn hình
thức giao kết hợp đồng. Tuy nhiên nhìn chung hình thức của giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa phải phù hợp với quy định pháp luật về hình thức của hợp đồng mua bán
hành hóa.
Theo quy định của Điều 24 Luật Thương mại 2005, Hợp đồng mua bán hàng hóa
có thể được giao kết bằng các hình thức sau đây: Hợp đồng mua bán hàng hóa được
lập thành văn bản; Hợp đồng mua bán hàng hóa được lập bằng lời nói; Hợp đồng mua
bán hàng hóa được lập bằng hành vi
Đối với các hợp đồng mua bán hàng hóa pháp luật bắt buộc phải lập thành văn bản
thì phải tuân theo các quy định đó, chẳng hạn như các hợp đồng có đối tượng là tài sản
phải đăng ký quyền sở hữu thì phải lập thành văn bản…
Đối với hợp đồng được lập bằng văn bản: thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của hai
bên được thể hiện bằng văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương
đương như email, fax…
Hợp đồng mua bán hàng hóa được lập bằng lời nói: Hai bên thỏa thuận quyền và
nghĩa vụ bằng miệng, có thể mời người làm chứng. Tuy nhiên đây là hình thức hợp
đồng rất rủi ro vì khi có tranh chấp rất khó có chứng minh được thỏa thuận của hai
bên.
Hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết bằng hành vi: Hai bên không có thỏa
thuận bằng văn bản cũng như thỏa thuận bằng miệng. Việc giao kết hợp đồng được
minh chứng bằng các hành vi như bên bán tiến hành giao hàng hoặc bên mua tiến hành
trả tiền. Đây cũng là hình thức hợp đồng mang lại nhiều rủi ro, do đó trên thực tế các

thương nhân ít sử dụng.
• Pháp luật điều chỉnh nội dung giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa là tổng hợp các điều khoản mà các bên
đã thỏa thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong mối quan hệ hợp đồng. Cụ
thể điều 398 BLDS 2015 có quy định:
“1. Các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về nội dung trong hợp đồng.
2. Hợp đồng có thể có các nội dung sau đây:
a) Đối tượng của hợp đồng;
b) Số lượng, chất lượng;
c) Giá, phương thức thanh toán;
d) Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
đ) Quyền, nghĩa vụ của các bên;
e) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
g) Phương thức giải quyết tranh chấp.”
15


Như vậy có thể chia nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa thành 3 nhóm: nhóm
điều khoản cơ bản; nhóm thông thường và nhóm điều khoản tùy nghi.
Đối với nhóm điều khoản cơ bản, đây là nhóm điều khoản quan trọng nhất trong
nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa. Chính vì thế các bên bắt buộc phải thỏa thuận
các điều khoản cơ bản thì hợp đồng mới được giao kết. Một số điều khoản cơ bản quan
trọng như: đối tượng hàng hóa, giá cả, địa điểm, thời gian nhận hàng,...
Nhóm điều khoản thông thường, là những điều khoản mà nội dung của các điều
khoản đó đã được quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật. Các bên tham
gia có thể ghi hoặc không ghi điều khoản vào hợp đồng. Nếu không ghi vào hợp đồng,
trong trường hợp phát sinh các vấn đề pháp lý, các bên phải tuân thủ nghiêm ngặt theo
quy định của pháp luật.
Nhóm điều khoản tùy nghi, là những điều khoản chưa có trong các văn bản quy
phạm pháp luật, do các bên tự do thỏa thuận với nhau. Tuy nhiên như đã nói ở trên sự

tự do thỏa thuận của các bên phải đặt trong khuân khổ cho phép của phá luật, có vậy
những điều khoản do các bên tự thỏa thuận mới có tính pháp lý và được áp dụng linh
hoạt vào những hoàn cảnh thực tế cụ thể.
 Nội dung pháp luật điều chỉnh vấn đề thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
Luật thương mại 2005 không có những quy định cụ thể về vấn đề thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hóa, mà chỉ gián tiếp quy định về quyền và nghĩa vụ của hai
bên( bên bán và bên mua). Tuy nhiên vấn đề này lại được quy định khá chi tiết tại các
điều từ điều 410 đến điều 420 BLDS 2015.

Nghĩa vụ bên bán
So với bên mua, bên bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa có khá nhiều nghĩa vụ
phải thực hiện. Các quy định này được quy định tại mục 2 chương II Luật thương mại
2005, cụ thể bao gồm:
 Nghĩa vụ giao hàng hóa và chứng từ.
Theo điều 35 Luật thương mại 2005, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chứng từ
cho bên mua theo như thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách đóng
gói bao bì, cùng những thỏa thuận khác trong hợp đồng. Việc giao chứng từ phải được
thực hiện theo đúng quy định tại điều 42 Luật thương mại2005. Cụ thể:
Giao hàng đúng đới tượng và chất lượng:
Đối tượng và chất lượng hàng hóa là những nội dung cơ bản của hợp đồng mua bán
hàng hóa. Giao hàng đúng đối tượng và chất lượng là việc là bên bán phải thực hiện
giao hàng đúng đối tượng và chất lượng theo thỏa thuận và theo quy định của pháp
luật. Điều đó có nghĩa là khi 2 bên mua và bán giao kết hợp đồng nếu có thỏa thuận về
đối tượng và chất lượng thì bên bán phải đảm bảo thực hiện đúng như điều khoản đó.
16


Trường hợp không có thỏa thuận thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành trong trường hợp chất lượng của
vật đã được công bố hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định thì chất

lượng của vật được xác định theo các tiêu chuẩn đã công bố hoặc theo quy định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Một số loại hàng hóa do đặc thù mà đã được cơ quan
nhà nước quy định một chất lượng cụ thể. Do đó mà phải đáp ứng các điều kiện đó về
chất lượng. Khi các bên không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định về chất
lượng thì chất lượng thì chất lượng của vật mua bán được xác định theo mục đích sử
dụng và chất lượng trung bình của vật cùng loại. Chất lượng trung bình được hiểu là
chất lượng của hàng hóa trên thị trường.
Theo Điều 39 Luật thương mại 2005 thì hàng hóa được coi là không phù hợp với
hợp đồng khi hàng hóa đó thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Thứ nhất, không phù hợp với mục đích sử dụng thông thường của các loại hàng
hóa cùng chủng loại. Điều đó có nghĩa là hàng hóa mà bên bán giao cho bên mua mà
bên mua không thể sử dụng được do hàng hóa đó không phù hợp với yêu câu và mục
đích sử dụng của bên mua.
Thứ hai, không phù hợp với bất kỳ mục đích cụ thể nào mà bên mua đã cho bên
bán biết hoặc bên bán phải biết vào thời điểm giao kết hợp đồng
Thứ ba, không bảo đảm chất lượng như chất lượng của mẫu hàng hóa mà bên bán
đã giao cho bên mua. Điều đó có nghĩa là khi bên bán cho bên mua xem mẫu hàng hóa
là một loại nhưng khi giao hàng lại giao một lọa khác có chất lượng kém hơn hàng hóa
mà bên mua xem trên mẫu. Chẳng hạn, bên bán đưa cho bên mua xem mẫu gạch xây
dựng loại A và bên mua đồng ý mua loại gạch đó. Tuy nhiên khi giao hàng thì bên bán
lại giao cho bên mua loại gạch xây dựng B không đáp ứng được những yêu cầu về chất
lượng do bên mua yêu cầu.
Thứ tư, không được bảo quản, đóng gói theo cách thức thông thường đối với loại
hàng hóa đó hoặc không theo cách thức thích hợp để bảo quản hàng hóa trong trường
hợp không có cách thức bảo quản thông thường. Như chúng ta biết thì mỗi loại hàng
hóa lại có cách thức đóng gói, bảo quan riêng. Do đó mà không thể áp dụng cách thức
bản quản, đóng gói của loại hàng hóa này cho loại hàng hóa khác. Vì như vậy sẽ
không đảm bảo chất lượng của hàng hóa. Chẳng hạn chúng ta không thể đóng gói cá
đông lạnh bằng cách cho vào bao tải như khoai tây được. Vì cá phải được đóng gói
trong thùng ướp lạnh mới đảm bảo được chất lượng.


Địa điểm, thời gian giao hàng.
17


Luật thương mại 2005 tại điều 35 quy định, bên bán có nghĩa vụ giao hàng đúng
thời gian, địa điểm như đã thỏa thuận trước đó trong hợp đồng. Trường hợp không có
địa điểm giao hàng thì địa điểm giao hàng sẽ được xác định theo khoản 2 của điều này:
Trường hợp hàng hoá là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao hàng tại nơi
có hàng hoá đó;
Trường hợp trong hợp đồng có quy định về vận chuyển hàng hoá thì bên bán có
nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên;
Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển hàng hoá, nếu vào
thời điểm giao kết hợp đồng, các bên biết được địa điểm kho chứa hàng, địa điểm xếp
hàng hoặc nơi sản xuất, chế tạo hàng hoá thì bên bán phải giao hàng tại địa điểm đó;
Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại địa điểm kinh doanh của
bên bán, nếu không có địa điểm kinh doanh thì phải giao hàng tại nơi cư trú của bên
bán được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng mua bán.
Về thời gian giao hàng, bên bán phải giao hàng vào đúng thời điểm giao hàng đã
thoả thuận trong hợp đồng. Trường hợp chỉ có thỏa thuận về thời hạn giao hàng mà
không xác định thời điểm giao hàng cụ thể thì bên bán có quyền giao hàng vào bất kỳ
thời điểm nào trong thời hạn đó và phải thông báo trước cho bên mua. Trường hợp
không có thỏa thuận về thời hạn giao hàng thì bên bán phải giao hàng trong một thời
hạn hợp lý sau khi giao kết hợp đồng.
 Kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng,
Đây là một trong những khâu quan trọng trong qua trình thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hóa. Bởi nhẽ kết quả của việc kiểm tra hàng hóa sẽ ảnh hưởng trực tiếp hay
gián tiếp đến hiệu quả thực hiện hợp đồng những giai đoạn sau này. Kiểm tra hàng hóa
nghiêm ngặt, đúng quy trình sẽ bảo đảm hàng hóa được giao đúng số lượng, chất
lượng như đã thỏa thuận trong hợp đồng, hạn chế và ngăn ngừa được những rủi ro

không đáng có sẽ phát sinh sau này. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành,
bên bán có nghĩa vụ bảo đảm cho bên mua các điều kiện kiểm tra hàng hóa khi giao
hàng. Ngoài ra bên bán cũng phải đứng ra chịu trách nhiệm về các khiếm khuyết của
hàng hóa nếu bên mua hoặc đại diện của bên mua đã kiểm tra hàng hóa nhưng không
phát hiện ra những khiếm khuyết này bằng phương pháp thông thường và bên bán đã
biết trước về những khiếm khuyết đó nhưng không thông báo cho bên mua.
 Đảm bảo quyền sở hữu hàng hóa và quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng
hóa.
Chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa là nghĩa vụ đặc trưng thể hiện ý chí của bên
bán và bên mua trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Sau khi được chuyển quyền sở hữu
đối với hàng hóa, bên mua sẽ trở thành người chủ thực sự đối với những hàng hóa đó
18


với đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu như đã nêu. Với việc xác định quyền sở
hữu hàng hóa đã được chuyển giao hay chưa, địa điểm, thời gian chuyển quyền sở hữu
có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tài sản của doanh nghiệp, giải quyết phá
sản và đặc biệt là để xác định trách nhiệm về rủi ro đối với hàng hóa. Ba điều kiện về
quyền sở hữu hàng hóa mà bên bán cần đảm bảo là hàng hóa không bị tranh chấp bởi
bên thứ ba; hàng hóa là hợp pháp không trái với quy định của pháp luật; việc chuyển
giao hàng hóa là hợp pháp. Về vấn đề quyền sở hữu trí tuệ của hàng hóa, bên bán
không được bán hàng hóa vi phạm quyền sở hữu bản quyền.
Thời điểm chuyển giao , Điều 62 LTM 2005 quy định: “Trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận, quyền sở hữu được chuyển từ bên bán
sang bên mua kể từ thời điểm hàng hóa được chuyển giao”. Thông thường, khi bên
bán chuyển giao hàng hóa cho bên mua trên thực tế, đó cũng là thời điểm phát sinh
quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa đó. Trường hợp pháp luật có quy định
khác ở đây có thể nói đến là trường hợp hàng hóa mua bán mà pháp luật quy định phải
đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm
hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với hàng hóa đó.

 Nghĩa vụ bảo quản hàng hóa.
Theo quy định tại điều 49 Luật thương mại 2005, Bên bán có nghĩa vụ bảo quản
hàng hóa theo đúng nội dung và thời hạn đã thỏa thuận. Đồng thời bên bán phải đứng
ra chịu mọi chi phí trong quá trình tiến hành bảo quản hàng hóa trừ khi có các thỏa
thuận khác. Thông thường, các bên khi tham gia thỏa thuận bên bán có nghĩa vụ bảo
hành ở mức độ phạm vi nào thì bên bán sẽ chỉ chịu trách nhiệm bảo hành ở mức đó.

Chuyển giao quyền rủi ro
Rủi ro trong hợp đồng mua bán là những mất mát, hư hỏng xảy ra đối với hàng
hóa. Do vậy, một vấn đề quan trọng trong quá trình thực hiện hợp đồng là việc phân
định rủi ro. Nghĩa là xác định trong thời điểm nào bên bán phải chịu những mất mát,
hư hỏng của hàng hóa, từ thời điểm nào những hư hỏng, mất mát đó được chuyển cho
bên mua. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau
trong mỗi trường hợp, mà thời điểm chuyển rủi ro là không giống nhau. Các trường
hợp chuyển rủi ro cụ thể:
Thứ nhất, chuyển rủi ro trong trường hợp có địa điểm giao hàng xác định: trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác, bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho bên mua tại
một địa điểm nhất định thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa được chuyển cho
bên mua khi hàng hóa được chuyển cho bên mua hoặc người được bên mua ủy quyền
đã nhận hàng tại địa điểm đó. Như vậy, trong trường hợp này, thời điểm chuyển rủi ro
trùng với thời điểm bên bán giao hàng cho bên mua, và bên mua hoặc người đại diện
19


của bên mua nhận hàng. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp thời điểm bên bán
giao hàng và thời điểm bên mua nhận hàng là trùng nhau. Do vậy, cần căn cứ vào các
thỏa thuận cụ thể của các bên trong hợp đồng về thời gian giao nhận hàng, để xác định
rủi ro đã được chuyển giao hay chưa, chuyển giao vào thời điểm nào.
Thứ hai, chuyển rủi ro trong trường hợp không có địa điểm giao hàng xác định: trừ
trường hợp có thỏa thuận khác, nếu hợp đồng có quy định về việc vận chuyển hàng

hóa và bên bán không có nghĩa vụ giao hàng tại một địa điểm nhất định thì rủi ro về
mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa được chuyển cho bên mua khi hàng hóa được giao
cho người vận chuyển đầu tiên. Khi trong hợp đồng có quy định về việc vận chuyển
hàng hóa, thì từ hợp đồng mua bán hàng hóa, sẽ phát sinh thêm một hợp đồng khác:
hợp đồng vận chuyển. Tùy vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng, mà hợp
đồng vận chuyển này có thể do bên bán hoặc bên mua kí kết. Dù cho bên nào thực
hiện kí hợp đồng vận chuyển hàng hóa, và qua bao nhiều người vận chuyển, thì rủi ro
về mất mát và hư hỏng hàng hóa được chuyển cho bên mua khi hàng hóa đã được giao
cho người vận chuyển đầu tiên.
Quy định của pháp luật Thương mại trong hai trường hợp chuyển rủi ro nêu trên có
sự tương thích với quy định của công ước Viên 1980. Công ước này quy định, khi hợp
đồng mua bán quy định việc vận chuyển hàng hóa và người bán không bị buộc phải
giao hàng tại nơi xác định, rủi ro được chuyển sang cho người mua kể từ lúc hàng hóa
được giao cho người chuyên chở thứ nhất để chuyển giao cho người mua chiếu theo
hợp đồng mua bán. Nếu người bán bị buộc phải giao hàng cho một người chuyên chở
tại một nơi xác định, các rủi ro không được chuyển giao sang người mua nếu hàng hóa
chưa được giao cho người chuyên chở tại nơi đó. Tuy nhiên, trong cùng điều luật với
quy định nêu trên, Công ước nhấn mạnh, rủi ro không được chuyển sang người mua
nếu hàng hóa không được đặc định hóa rõ ràng cho mục đích hợp đồng bằng cách ghi
mã kí hiệu trên hàng hóa, bằng các chứng từ chuyên chở, bằng một thông báo gửi cho
người mua hoặc bất cứ một phương pháp nào khác. Quy định này có nghĩa rằng, hàng
hóa được đặc định hóa, là điều kiện bắt buộc để có thể thực hiện việc chuyển giao rủi
ro nói trên. Quy định của pháp luật Việt Nam không theo hướng này, mà tách riêng
quy định về đặc định hóa hàng hóa thành một trường hợp chuyển rủi ro riêng biệt.
Thứ ba, chuyển rủi ro trong trường hợp giao hàng cho người nhận hàng để giao mà
không phải là người vận chuyển: trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, nếu hàng
hóa đang được người nhận hàng để giao nắm giữ mà không phải là người vận chuyển
thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa được chuyển giao cho bên mua thuộc một
trong các trường hợp sau:khi bên mua nhận được chứng từ sở hữu hàng hóa; khi người
nhận hàng để giao xác nhận quyền chiếm hữu hàng hóa của bên mua.

20


×