Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu thực tiễn thực hiện tại công ty cổ phần phú việt phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.32 KB, 60 trang )

TÓM LƯỢC

Nền kinh tế thị trường hiện nay có nhiều thành phần kinh tế tồn tại và các thành
phần này cạnh tranh với nhau trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật. Tại sự cạnh tranh
đầy khốc liệt đó, các doanh nghiệp luôn phải có những chiến lược, tổ chức sản xuất
kinh doanh hợp lý để khẳng định sự tồn tại và phát triển của mình. Trong một số lĩnh
vực công nghiệp đặc thù, các doanh nghiệp cạnh tranh nhau chủ yếu thông qua hình
thức đấu thầu do các chủ đầu tư tổ chức. Sự cạnh tranh bắt đầu “căng thẳng” hơn khi
Quy chế đấu thầu được ban hành. Để vừa đạt được mục tiêu kinh doanh lại không vi
phạm các quy chế pháp luật ban hành, không ít doanh nghiệp đã sử dụng những chiêu
thức cạnh tranh tiêu cực, làm ảnh hưởng đến nền kinh tế trong khu vực cũng như làm
hạn chế khả năng các doanh nghiệp khác cạnh tranh với mình. Qua nghiên cứu kết hợp
với các vấn đề thực tiễn phát hiện trong quá trình học tập cũng như thực tập tại đơn vị,
em đã chọn đề tài: “Pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Phú Việt Phú Thọ” .
Về lý thuyết, đề tài tập hợp các lý thuyết cơ bản về hành vi hạn chế cạnh tranh
trong hoạt động kinh doanh nói chung và trong lĩnh vực đấu thầu nói riêng. Đề tài
nghiên cứu cũng sẽ tập trung nghiên cứu về vấn đề pháp luật đã quy định như thế nào
về hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu hiện nay, hạn chế cạnh tranh
trong đấu thầu biểu hiện dưới những hình thức nào và pháp luật đã đưa ra các chế tài
xử phạt các hành vi đó ra sao. Từ cơ sở lý luận đó đưa ra những nguyên tắc điều chỉnh
và đánh giá chung nhất về pháp luật hiện nay.
Kết hợp với nghiên cứu thực trạng về tình hình hạn chế cạnh tranh trong đấu
thầu, đề tài đưa ra những phát hiện về thực tiễn pháp luật điều chỉnh và thi hành các
quy định hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực đấu thầu tại Công ty Cổ phần Phú Việt Phú
Thọ. Qua đó đề tài đã đưa ra được những thành tựu cũng như bất cập còn tồn tại trong
hệ thống pháp lý này. Trên những cơ sở đó, đưa ra những quan điểm, định hướng, đề
xuất giải pháp và kiến nghị cho việc cải thiện những hạn chế còn tồn đọng trong hoạt
động này cũng như phát huy những điểm tích cực của hành lang pháp lý cạnh tranh.

1



LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, em đã nhận được sự hướng dẫn, giúp
đỡ và góp ý nhiệt tình của các thầy cô trường Đại học Thương Mại.
Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô đã tận tình dạy bảo em trong
suốt quá trình em học tập tại trường Đại học Thương Mại. Em xin gửi lời biết ơn sâu
sắc đến các thầy cô trong bộ môn Luật Kinh tế, đặc biệt là Thạc sĩ Hoàng Thanh Giang
đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình để em có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Đồng
thời, em cũng xin cảm ơn các bác, các cô, các chú, các anh chị trong Công ty Cổ phần
Phú Việt Phú Thọ đã giúp em có được những thông tin cần thiết cho khóa luận tốt
nghiệp.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thiện khóa luận của mình nhưng do hạn chế về kiến
thức, kinh nghiệm nên khóa luận tốt nghiệp không thể tránh được những thiếu sót, rất
mong nhận được sự nhận xét, góp ý của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn !

2


MỤC LỤC
TÓM LƯỢC.................................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN..............................................................................................................ii
MỤC LỤC................................................................................................................... iii
DANH MỤC BẢNG BIỂU..........................................................................................v
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu......................................................................1
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan....................................................2
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu..................................................................2
4. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu..........................................................3

5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................4
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp..................................................................................5
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU........7
1.1 Một số khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu................................7
1.1.1 Đấu thầu................................................................................................................ 7
1.1.2 Hành vi hạn chế cạnh tranh.................................................................................10
1.1.3 Hạn chế cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu.....................................................12
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh
trong hoạt động đấu thầu..........................................................................................13
1.2.1 Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động
đấu thầu.......................................................................................................................13
1.2.2 Một số nội dung pháp luật về hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động đấu
thầu.............................................................................................................................. 14
1.3 .Nguyên tắc về pháp luật điều chỉnh...................................................................22
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1............................................................................................23
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HÀNH VI HẠN CHẾ
CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN PHÚ VIỆT PHÚ THỌ......................................24
2.1 Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh hành
vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu....................................................24
2.1.1 Tổng quan tình hình về pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh trong
hoạt động đấu thầu.......................................................................................................24
2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh
trong hoạt động đấu thầu.............................................................................................25
3


2.2 Phân tích thực trạng một số quy định của pháp luật điều chỉnh hành vi hạn
chế cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu................................................................27

2.3 Thực trạng thực hiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế
cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu tại Công ty Cổ phần Phú Việt Phú Thọ.....33
2.3.1 Khái quát về hoạt động đấu thầu tại Công ty Cổ phần Phú Việt Phú Thọ...........33
2.3.2 Thực tiễn thực hiện các quy phạm pháp luật về hành vi hạn chế cạnh tranh trong
hoạt động đấu thầu tại Công ty Cổ phần Phú Việt Phú Thọ.........................................36
2.4 Các kết luận và phát hiện qua quá trình nghiên cứu........................................38
2.4.1 Thành quả đạt được.............................................................................................38
2.4.2 Bất cập trong việc áp dụng các quy định.............................................................39
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2............................................................................................41
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU......42
3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh
trong hoạt động đấu thầu..........................................................................................42
3.2 Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh
trong hoạt động đấu thầu..........................................................................................45
3.3 Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu....................................................48
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3............................................................................................50
KẾT LUẬN................................................................................................................51
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................52

4


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1. Bảng thống kê một số dự án Công ty Cổ phần Phú Việt Phú Thọ thi công.....34
Bảng 2. Bảng thống kê thiết bị máy móc tại Công ty Cổ phần Phú Việt Phú Thọ.......37

5



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Khi nền kinh tế thị trường đang trong giai đoạn bùng nổ, vấn đề các doanh
nghiệp cạnh tranh nhau thị phần để kinh doanh là điều tất yếu. Cạnh tranh đã trở thành
nguồn động lực cho các doanh nghiệp và là một phần không thể thiếu trong suốt quá
trình làm kinh tế. Đặc biệt, đối với các lĩnh vực kinh doanh có vốn đầu tư lớn, cạnh
tranh lành mạnh hay không lành mạnh lại càng được quan tâm.
Trong khi đó, đấu thầu được biết đến là một phương thức lựa chọn đối tác cung
cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ mang lại nhiều lợi ích kinh tế to lớn. Trở thành một
trong những công cụ quan trọng không thể thiếu trong các dự án có chi phí và quy mô
đầu tư lớn, hoạt động đấu thầu (lựa chọn nhà thầu) ngày càng được mở rộng trong
nhiều lĩnh vực, từ đấu thầu hàng hóa, xây dựng cho đến tư vấn, phi tư vấn và hỗn hợp.
Tuy nhiên, thực tế thực hiện công tác đấu thầu trong những năm gần đây nảy sinh rất
nhiều vấn đề tiêu cực đã làm giảm tính cạnh tranh giữa các nhà thầu khiến cho hoạt
động đấu thầu không phát huy được hiệu quả. Các hành vi bán thầu, đấu thầu giả,
thông đồng, phá giá bỏ thầu, thiên vị trong đánh giá hồ sơ dự thầu,.. Có thể được hiểu
là một trong những hành vi hạn chế cạnh tranh, cụ thể là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
trong đấu thầu. Hành vi hạn chế cạnh tranh trên thực tế gây ra nhiều sự sai lệch và làm
mất bình đẳng trên “thương trường” cũng như gây ra những thiệt hại về lợi ích của các
doanh nghiệp, thậm chí là của nhà nước.
Hành vi hạn chế cạnh tranh trong đấu thầu được điều chỉnh và giám sát chủ yếu
bởi Luật cạnh tranh, bên cạnh là Luật đấu thầu và một số văn bản pháp luật chuyên
ngành khác, tuy nhiên trong đó vẫn còn những lỗ hổng khiến cho việc áp dụng vẫn
chưa thực sự có hiệu quả. Đặc biệt, hành vi hạn chế cạnh tranh thể hiện sự chênh lệch
giữa các doanh nghiệp lớn và nhỏ trong quá trình “đấu” với nhau rất rõ ràng, các
doanh nghiệp lớn “cá lớn nuốt cá bé”, lạm dụng những ưu thế về kinh tế, quy mô và
những lỗ hổng của pháp luật để chèn ép khiến cho các doanh nghiệp nhỏ mất đi cơ hội
tranh thầu. Vì vậy, việc nghiên cứu kỹ lưỡng các quy định pháp luật về hạn chế cạnh
tranh trong hoạt động đấu thầu từ đó kiến nghị các phương hướng hoàn thiện và nâng

cao hiệu quả thực thi là vấn đề hết sức cấp bách.
Qua quá trình thực tập tại Công ty Cổ phần Phú Việt Phú Thọ, nhận thấy vấn đề
hạn chế cạnh tranh đã gây ra những tác động không tốt đến vấn đề làm kinh tế, cụ thể
là trong thực tiễn hoạt động đấu thầu, kết hợp với những kiến thức đã được học về
cạnh tranh, em đã quyết định chọn đề tài “Pháp luật về hành vi hạn chế cạnh tranh
1


trong hoạt động đấu thầu - thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Phú Việt Phú Thọ”
làm đề tài tốt nghiệp của mình. Với mong muốn tìm hiểu các quy định pháp luật, đánh
giá thực trạng về các quy định pháp luật hiện hành từ đó tìm ra những điểm còn chưa
phù hợp và đề xuất các phương hướng giúp hoàn thiện các quy định này, góp phần
nâng cao hiệu quả của pháp luật kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực
đấu thầu.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Các phân tích chủ yếu được đưa ra dựa trên tinh thần của các quy định của pháp
luật hạn chế cạnh tranh được quy định cụ thể tại Luật cạnh tranh 2004, Luật cạnh tranh
2018 các quy định hiện hành về đấu thầu tại Luật thương mại 2005, Luật đấu thầu
2013, Luật xây dựng 2014 và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Các cơ sở lý thuyết, lý luận dựa trên những trích dẫn, phân tích đánh giá tại
giáo trình chuyên môn về đấu thầu, cạnh tranh của các trường đại học lớn trên cả nước
như Đại học Luật Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội (khoa Luật), Đại học Quốc gia
Tp. Hồ Chí Minh, Đại học Kinh tế Quốc dân,… là những cơ lý luận tiên quyết cho các
vấn đề được đề cập trong đề tài nghiên cứu.
Dựa trên các cơ sở lý luận có được, từ đó có sự tìm tòi và nghiên cứu của các
công trình nghiên cứu, luận văn thạc sỹ liên quan sau: Phạm Thị Huyền (2017), Thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực đấu thầu theo pháp luật Việt Nam; Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội;
Trần Thái Tuân (2017), Quản lý nhà nước trong lĩnh vực đấu thầu cấc dự án đầu tư ở
ban quản lý dự án, tổng cục hậu cần - kỹ thuật, Bộ Công an, Luận văn Thạc sỹ Quản lý

kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Kinh tế; Nguyễn Thành Nam
(2014), Pháp luật về đấu thầu xây dựng – thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn
Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật; Kim Hoàn Mỹ Linh
(2014), Chế tài liên quan đến hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật
học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật.
Các số liệu thu thập được từ những bài báo điện tử, báo in, tạp chí chuyên môn
như Báo Đấu thầu, Báo Xây dựng và Đô thị, Tạp chí công thương, Tạp chí khoa học
pháp lý,.. là những số liệu thể hiện thực tiễn hoạt động của vấn đề nghiên cứu.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Xuất phát từ tính cạnh tranh tất yếu trong kinh doanh mà pháp luật cho phép
các chủ thể thực hiện cạnh tranh với nhau tuy nhiên phải dựa trên tinh thần “lành
mạnh”. Trong khi việc lựa chọn nhà thầu trong kinh doanh đã trở thành một phần quan

2


trọng không thể thiếu đặc biệt là đối với các dự án đầu tư. Tuy nhiên, việc lựa chọn
chưa bao giờ là dễ dàng trong khi các doanh nghiệp luôn tranh giành nhau những
“món hời” và có thể thực hiện mọi hành vi để có thể đạt được mục tiêu của mình.
Chính vì vậy mà pháp luật trong những năm gần đây liên tục được hoàn thiện để có thể
điều chỉnh các hành vi này song việc áp dụng thực hiện vẫn chưa đưa ra kết quả khả
quan. Tình trạng các nhà thầu thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh – cụ thể là thỏa
thuận với nhau hay dàn xếp trước kết quả thầu vẫn diễn ra liên tục trước các phiên thầu
và ngày càng có tính chất phức tạp hơn.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này, nhìn chung các
công trình nghiên cứu này đã tiếp cận được tinh thần của pháp luật cạnh tranh cũng
pháp luật đấu thầu ở những phạm vi và mức độ khác nhau. Tuy nhiên, các công trình
này vẫn chưa đi sâu nghiên cứu, phân tích những nội dung pháp lý về hành vi hạn chế
cạnh tranh trong lĩnh vực đấu thầu. Kết hợp với quá trình thực tập tại Công ty Cổ phần
Phú Việt Phú Thọ và định hướng của Thạc sĩ Hoàng Thanh Giang, em thấy việc

nghiên cứu, đánh giá để góp phần cùng các công trình trước đây hoàn thiện pháp luật
điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực đấu thầu ở Việt Nam là hết sức
cần thiết. Do đó, em chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình là “Pháp
luật về hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu - thực tiễn thực hiện tại
Công ty Cổ phần Phú Việt Phú Thọ”.
4. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu đề tài giúp trau dồi kiến thức, nâng cao khả năng phân
tích, đánh giá, vận dụng những vấn đề lý thuyết vào hoạt động nghiên cứu, đề tài đặt ra
các mục tiêu sau đây:
Thứ nhất, tập hợp, hệ thống lại lý thuyết để làm rõ những vấn đề liên quan hành
vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu. Cụ thể là việc pháp luật quy định về
hành vi hạn chế cạnh tranh trong đấu thầu như thế nào và đặc điểm của hành vi này ra
sao; ngoài ra đề tài còn hướng tới mục tiêu tìm hiểu lý thuyết về các hình thức thực
hiện hành vi cạnh tranh trong đấu thầu bị pháp luật nghiêm cấm thực hiện và những
hình thức xử lý khi chủ thể tham gia hoạt động đấu thầu vi phạm các quy định đó.
Mục tiêu thứ hai là đánh giá được thực trạng pháp luật điều chỉnh hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực đấu thầu hiện nay và tại Công ty Cổ phần Phú
Việt Phú Thọ. Từ đó phát hiện ra những mặt tích cực, mặt tiêu cực của pháp luật trong

3


việc điều chỉnh hành vi này dựa trên những số liệu, đánh giá thu được qua quá trình
nghiên cứu.
Cuối cùng, từ việc chỉ ra những thành công, tồn tại cũng như những nguyên
nhân của tồn tại đó, đề xuất ra các định hướng và giải pháp thực tế cho việc cải thiện
thực trạng hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu. Cũng như hướng đến
hoàn thiện các quy định của pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực này.
4.2 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính là những vấn đề lý luận chung về các hành vi hạn
chế cạnh tranh trong đấu thầu cụ thể là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm
dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền và thực tiễn tại Công ty Cổ phẩn Phú Việt Phú Thọ.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
Thứ nhất, luận văn tập trung nghiên cứu về những quy định của pháp luật về
hành vi hạn chế cạnh tranh hiện nay. Vấn đề nghiên cứu là những vấn đề lý thuyết
cũng như thực tiễn liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu
và thực trạng việc thực hiện các quy định pháp luật này tại Công ty Cổ phần Phú Việt
Phú Thọ.
Thứ hai, đề tài tập trung nghiên cứu vào thị trường tỉnh Phú Thọ, đơn vị nghiên
cứu là Công ty Cổ phần Phú Việt Phú Thọ. Đề tài sử dụng số liệu nghiên cứu về thực
trạng hoạt động thương mại của Công ty thông qua các hợp đồng được thực hiện trong
vòng 03 năm từ 2015 – 2018.
5. Phương pháp nghiên cứu
Hệ phương pháp nghiên cứu mô tả hệ thống các cách thức, mục đích, nội dung
tiến hành phân tích, thu thập thông tin có liên quan để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu,
cụ thể là làm rõ vấn đề pháp luật quy định về hạn chế cạnh tranh trong đấu thầu và
thực trạng của việc thực hiện vấn đề đó, tìm ra những tồn tại, nguyên nhân của thực
trạng nghiên cứu. Để có thể làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu cần phải sử dụng kết hợp
rất nhiều kỹ năng, phương pháp như: Thu thập, xử lý thông tin, thống kê, tổng hợp, chỉ
số… nhưng đề tài tập trung vào hai phương pháp sau:
5.1 Phương pháp thu thập thông tin
Các tài liệu thu thập chủ yếu lấy từ các văn bản quy phạm pháp luật liên quan
đến hoạt động cạnh tranh trong đấu thầu như: Luật đấu thầu 2014, Luật xây dựng
2014, Luật cạnh tranh 2004, Luật cạnh tranh 2018 và các văn bản đi kèm liên quan

4


khác. Từ đó đưa ra những lý luận cơ bản về vấn đề hạn chế cạnh tranh trong hoạt động

đấu thầu tại chương 1 của đề tài nghiên cứu.
Mục đích của việc sử dụng phương pháp thu thập thông tin không chỉ là để đưa
ra những cơ sở lý luận về hành vi hạn chế cạnh tranh trong đấu thầu mà còn phải dùng
nó để chỉ ra những số liệu, nội dung cần thiết, chi tiết làm sáng tỏ những lý thuyết trên.
Vì vậy mà ở đề tài nghiên cứu này em còn sử dụng phương pháp thu thập thông tin,
lấy thông tin từ các hợp đồng, sổ sách liên quan thực tế tại Công ty Cổ phần Phú Việt
Phú Thọ. Các tài liệu thu thập được dùng để làm sáng tỏ thực trạng áp dụng pháp luật
về đấu thầu hiện nay cũng như tại Công ty và đưa vào Chương 2 của đề tài nghiên cứu.
5.2 Phương pháp phân tích so sánh và tổng hợp
Sau khi thu thập đầy đủ thông tin liên quan đến nội dung đề tài nghiên cứu, cần
phải sử dụng phương pháp phân tích dữ liệu, so sánh và tổng hợp. Dựa vào các thông
tin trong và ngoài công ty, tiến hành phân tích thông tin về tình hình pháp luật hiện
hành cũng như các quy định đang được thực hiện tại Công ty Cổ phần Phú Việt Phú
Thọ. Sử dụng kỹ năng tổng hợp số liệu thành một hệ thống logic rồi thực hiện so sánh,
thống kê so sánh tuyệt đối, tương đối số liệu các năm để tiến hành phân tích. Phương
pháp này được dùng xuyên suốt cả 03 chương của đề tài nghiên cứu, tuy nhiên em sử
dụng chủ yếu chúng tại chương 2 nhằm đưa ra những phân tích cụ thể và chi tiết cho
đề tài của mình. Từ những phân tích đó, em rút ra những đánh giá tổng quát về tình
hình nghiên cứu trên mọi mặt, tìm ra những vấn đề chủ chốt và định hướng cũng
những giải pháp tại Chương 3.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo kết cấu của
luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế
cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu
Nội dung chương tập trung đưa ra những lý luận chung về hành vi hạn chế cạnh
cũng như về hoạt động đấu thầu. Trong đó, bao gồm các khái niệm, định nghĩa, đặc
điểm cũng như vai trò của 02 nội dung nêu trên. Ngoài ra, chương 1 còn chỉ ra những
cơ sở pháp lý và nội dung pháp luật quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt
động đấu thầu. Từ đó đưa ra đánh giá chung về pháp luật cạnh tranh hiện nay về vấn

đề hạn chế cạnh trong hoạt động đấu thầu.

5


Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh
trong hoạt động đấu thầu và thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Phú Việt
Phú Thọ
Chương 2 là chương nêu ra thực trạng pháp luật quy định liên quan đến hành vi
hạn chế cạnh tranh trong đấu thầu, cụ thể là các quy định tại Luật cạnh tranh, Luật đấu
thầu – 02 văn bản luật điều chỉnh trực tiếp đến vấn đề này. Cùng với việc nghiên cứu,
tìm hiểu thực tiễn việc thực hiện các quy định của pháp luật tại Công ty Cổ phần Phú
Việt Phú Thọ, chỉ ra những ưu điểm và hạn chế trong việc áp dụng quy định pháp luật
vào thực tế nói chung và tại Công ty nói riêng.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hành vi hạn chế
cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu
Từ những nghiên cứu và phát hiện đã đạt được tại 02 chương trước đó, đưa ra
những định hướng chung nhất và những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện khung pháp
lý về hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu.

6


CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU

1.1 Một số khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.1.1 Đấu thầu
1.1.1.1 Khái niệm đấu thầu
“Đấu thầu” được định nghĩa dưới nhiều góc độ và khía cạnh với những cách mô

tả khác nhau, tuy nhiên tất cả những khái niệm đó đều chung quy về một cách hiểu,
gọi đó là việc “lựa chọn nhà thầu”.
Dưới góc độ ngôn ngữ, theo Từ điển Tiếng Việt thì “Đấu thầu được hiểu là đọ
công khai, ai nhận làm, nhận bán với điều kiện tốt nhất thì được giao cho làm hoặc
được bán hàng”; theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Đấu thầu là phương thức giao
dịch đặc biệt, theo đó người muốn xây dựng một công trình (người gọi thầu) công bố
trước các yêu cầu và điều kiện xây dựng công trình để người nhận xây dựng công
trình (người dự thầu) công bố giá mà mình muốn nhận. Người gọi thầu sẽ lựa chọn
người chủ thầu nào phù hợp với điều kiện của mình và có giá thấp hơn”. Như vậy, bản
chất của đấu thầu được thừa nhận như một sự ganh đua nhằm đáp ứng tốt nhất các
điều kiện để thực hiện một công việc, một yêu cầu nào đó.
Dưới góc độ kinh tế, Từ điển kinh doanh của Anh (Longman Dictionary of
Business) không nêu rõ đấu thầu là gì mà chỉ giải thích đấu thầu mua sắm là việc sử
dụng các phương pháp hoặc nỗ lực đặc biệt để nhận được hay mua được. Như vậy, đấu
thầu là phạm trù kinh tế tồn tại trong nền kinh tế thị trường, trong đó, người mời thầu
đóng vai trò tổ chức để các nhà thầu cạnh tranh nhau. Mục tiêu của người mua là có
được hàng hóa, dịch vụ thỏa mãn các yêu cầu của mình về kỹ thuật, chất lượng với chi
phí thấp nhất. Mục tiêu của các nhà thầu là giành được quyền cung cấp hàng hóa, dịch
vụ đó với giá cả bù đắp các chi phí đầu vào đồng thời đảm bảo mức lợi nhuận cao nhất
có thể, trong điều kiện cạnh tranh với nhiều nhà thầu khác.
Dưới góc độ pháp lý, có một số định nghĩa khác nhau về thuật ngữ “đấu thầu”
trong các công trình khoa học cũng như trong các văn bản pháp luật. Khái niệm "đấu
thầu" được ghi nhận tại Luật Thương mại năm 2005 như là một hoạt động thương mại.
Điều 214 Luật Thương mại quy định "Đấu thầu hàng hoá, dịch vụ là hoạt động
thương mại, theo đó một bên mua hàng hoá, dịch vụ thông qua mời thầu (gọi là bên
mời thầu) nhằm lựa chọn trong số các thương nhân tham gia đấu thầu (gọi là bên dự
thầu) thương nhân đáp ứng tốt nhất các yêu cầu do bên mời thầu đặt ra và được lựa

7



chọn để ký kết và thực hiện hợp đồng (gọi là bên trúng thầu)". Khoản 12 Điều 4 Luật
đấu thầu năm 2013 quy định: "Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu để ký kết và
thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa,
xây lắp; lựa chọn nhà đầu tư để ký kết và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình
thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh,
công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế". Khái niệm về đấu thầu đã được ghi nhận
trong hai văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao là Luật Thương mại 2005 và Luật
Đấu thầu 2013. Theo đó, Luật Đấu thầu 2013 có vai trò là công cụ pháp lý để quản lý
Nhà nước đối với việc đấu thầu các dự án liên quan đến hoạt động chi tiêu, sử dụng
vốn Nhà nước trong mua sắm hàng hóa, cung cấp dịch vụ tư vấn và xây lắp. Còn Luật
Thương mại 2005 điều chỉnh quản lý hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong
thương mại. Như vậy có thể thấy, Luật Đấu thầu 2013 và Luật Thương mại 2005 đều
quy định đấu thầu là quá trình bên mời thầu lựa chọn nhà thầu (bên dự thầu) thỏa mãn
những yêu cầu của mình để ký kết và thực hiện hợp đồng. Do đó, đấu thầu là cuộc đua,
cạnh tranh giữa các bên dự thầu để thắng thầu, để được ký kết và thực hiện hợp đồng
với bên mời thầu.
1.1.1.2 Đặc điểm của đấu thầu
Đấu thầu chính là một hoạt động thương mại. Các bên dự thầu hướng đến lợi
nhuận còn bên mời thầu là kí kết được hợp đồng mua bán hàng hóa, sử dụng dịch vụ
với các tiêu chí tốt nhất dành cho họ.
Đấu thầu chỉ xuất hiện khi con người có nhu cầu mua sắm hàng hóa và sử dụng
dịch vụ tức là gắn với quan hệ mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Và sau đó là ký
kết hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ hay xây lắp công trình. Hơn nữa,
quan hệ đấu thầu luôn được xác lập giữa một bên mời thầu và nhiều bên dự thầu. Hồ
sơ mời thầu và hồ sơ dự thầu là hình thức pháp lí của quan hệ đấu thầu hàng hóa, dịch
vụ.
Xét về bản chất, hoạt động đấu thầu có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, đấu thầu luôn gắn liền với quan hệ mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ. Trong nền kinh tế, đấu thầu không diễn ra như một hoạt động độc lập, mục đích

của hoạt động này là giúp bên mời thầu có thể tìm ra chủ thể có khả năng cung cấp
hàng hóa, dịch vụ có chất lượng tốt nhất với giá cả họp lý nhất. Về thực chất đấu thầu
chỉ là giai đoạn tiền hợp đồng cung cấp hàng hóa, dịch vụ giữa các bên trong hợp
đồng. Kết quả đấu thầu là cơ sở để các bên thương thảo hợp đồng mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ và các chi tiết của hồ sơ dự thầu sẽ được đưa vào nội dung hợp đồng.
Thứ hai, đấu thầu là một quá trình đa chủ thể. Trong quá trình đấu thầu luôn có
hai bên là bên mời thầu và bên dự thầu. Bên mời thầu là bên (có thể là thương nhân)
8


có nhu cầu mua sắm hàng hóa, sử dụng dịch vụ còn bên dự thầu là các thương nhân có
năng lực cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho gói thầu. Về nguyên tắc số lượng nhà thầu
tham dự một gói thầu luôn phải nhiều hơn một. Theo nguyên tắc này thì chỉ định thầu
là một trường hợp ngoại lệ của đấu thầu. Trong quan hệ đấu thầu chủ thể thứ ba
thường xuất hiện là các nhà tư vấn, hiện diện như một nhân tố đảm bảo cho quá trình
đấu thầu được thực hiện nghiêm túc. Ngoài các chủ thể trên còn có thêm chủ thể là các
cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt kết quả đấu thầu nhằm đảm bảo
cho quá trình đấu thầu diễn ra theo đúng trình tự, thủ tục, nhanh chóng phát hiện và
sửa chữa kịp thời những sai sót trong toàn bộ quy trình và kiểm tra lần cuối cùng trước
khi bước sang giai đoạn ký và thực hiện hợp đồng.
Thứ ba, đấu thầu là quá trình cạnh tranh bình đẳng, công khai, minh bạch. Khi
tham gia vào hoạt động đấu thầu, bên mời thầu đưa ra trước các yêu cầu của mình để
các bên dự thầu căn cứ vào đó để đưa ra mức giá cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Vì thế,
đấu thầu là sự cạnh tranh giữa các bên dự thầu. Và sự cạnh tranh giữa các bên dự thầu
phải tuân theo những nguyên tắc, những yêu cầu nhất định, đảm bảo sự cạnh tranh
công bằng giữa các nhà thầu: có nhiều bên tham gia dự thầu; các nhà dự thầu phải độc
lập với nhau và với bên mời thầu; đồng thời các bên dự thầu phải được hưởng các điều
kiện và cơ hội ngang nhau trong quá trình đấu thầu, không được tạo ra bất kì sự phân
biệt đối xử nào; không tồn tại bất cứ thỏa thuận nào giữa các bên dự thầu dẫn tới việc
làm sai lệch kết quả đấu thầu.

Như vậy, trước khi đi đến giai đoạn đàm phán, ký kết hợp đồng các nhà thầu
phải trải qua giai đoạn xem xét về khả năng, kinh nghiệm, tài chính, kỹ thuật có thể
đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu, có khả năng thực hiện dự án hay không. Để
chứng minh khả năng của mình các nhà thầu có nhu cầu thực hiện dự án phải trải qua
giai đoạn đấu thầu. Thông qua cạnh tranh bình đẳng, công khai và minh bạch trong
đấu thầu bên mời thầu sẽ hiểu rõ hơn năng lực của từng nhà thầu và tuyển chọn được
đối tác thích hợp để hợp tác.
1.1.1.3 Vai trò của đấu thầu
Có thể nói đầu thầu là một phương thức giao dịch đặc biệt, là một hình thức
kinh doanh dựa vào tính chất cạnh tranh của thị trường. Khi có một thương vụ mua
bán hay kinh doanh xây dựng các công trình có liên quan đến nhiều người hoặc nhiều
bên khác nhau người ta sẽ áp dụng hình thức đầu thầu để có thể cạnh tranh một cách
công khai và công bằng. Vì vậy, có thể nói, hoạt động đấu thầu mang lại những lợi ích
to lớn đối với chủ đầu tư, nhà thầu và nền kinh tế quốc dân nói chung.
Đối với chủ đầu tư

9


Thông qua đấu thầu, chủ đầu tư có thể lựa chọn các nhà thầu đáp ứng được yêu
cầu về chất lượng công trình, tiết kiệm được vốn đầu tư xây dựng cơ bản, bảo đảm tiến
độ xây dựng công trình. Bảo đảm quyền chủ động, tránh tình trạng phụ thuộc vào một
nhà xây dựng trong xây dựng công trình. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng và lành
mạnh giữa các doanh nghiệp xây dựng. Cho phép chủ đầu tư nâng cao trình độ, năng
lực đội ngũ cán bộ kinh tế kỹ thuật của chính các chủ đầu tư.
Đối với nhà thầu
Khi tham dự đấu thầu và hướng tới mục tiêu thắng thầu, các nhà thầu phải tự
hoàn thiện mình trên tất cả phương diện. Nhờ nguyên tắc công khai và bình đẳng trong
đấu thầu: các nhà thầu cạnh tranh bình đẳng trên thương trường, các nhà thầu phải phát
huy tối đa tính chủ động trong việc tìm kiếm các cơ hội tham dự đấu thầu và kí kết hợp

đồng (khi trúng thầu) tạo công ăn việc làm cho người lao động, phát triển sản xuất.
Thông qua đấu thầu, các nhà thầu phải đầu tư có trọng điểm nhằm nâng cao năng lực
công nghệ và kỹ thuật của mình. Từ đó sẽ nâng cao năng lực của doanh nghiệp trong
tham gia đấu thầu. Là cơ hội để nhà thầu có thể nâng cao năng lực của mình, nâng cao
công nghệ kỹ thuật từ đó nâng cao năng lực của nhà thầu trong việc tham gia đấu thầu
các dự án.
Đối với nền kinh tế quốc dân
Đấu thầu góp phần nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về đầu tư
và xây dựng, hạn chế và loại trừ được tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư. Đồng
thời hoạt động này cũng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong lĩnh
vực xây dựng cơ bản nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung. Đấu thầu tạo ra môi
trường cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh giữa các đơn vị xây dựng. Đây là động lực
to lớn thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp xây dựng nước ta và tạo điều kiện
ứng dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ xây dựng, từng bước hội nhập với khu
vực và thế giới.
1.1.2 Hành vi hạn chế cạnh tranh
1.1.2.1 Khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh
Cạnh tranh tồn tại trong tất cả các lĩnh vực của đời sống - xã hội. Đối với nền
kinh tế, cạnh tranh được biết đến là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Trên thực tế các chủ thể kinh doanh đều mong muốn nâng cao năng lực, vị thế của
mình, thu hút được nhiều khách hàng và nhằm thu được nhiều lợi nhuận. Vì vậy, để
cạnh tranh với nhau các chủ thể kinh doanh sẽ không ngừng cải tiến nâng cao kĩ thuật,
chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Tuy nhiên, thay vì cạnh tranh chính đáng bằng các
cánh thức trên thì vì mục tiêu lợi nhuận mà không ít các chủ thể kinh doanh mong

10


muốn hạn chế những áp lực cạnh tranh bằng cách tiến hành thực hiện các hành vi gây
hạn chế cạnh tranh.

Theo định nghĩa về mặt pháp lý, tại Khoản 2, Điều 4 Luật cạnh tranh 2018,
hành vi hạn chế cạnh tranh được quy định là “hành vi gây tác động hoặc có khả năng
gây tác động hạn chế cạnh tranh, bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh,
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và lạm dụng vị trí độc quyền”. Như vậy, để hiểu
rõ về hành vi hạn chế cạnh tranh, cần hiểu về những hành vi bao gồm trong đó.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là thỏa thuận chính thức giữa các doanh nghiệp;
là quyết định của một nhóm doanh nghiệp; sự thỏa thuận này được xem là hành vi có
bàn tính. Người ta có thể xem, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là một dạng "hợp đồng".
Mặc dù hành vi này xuất hiện khá lâu nhưng hiện nay vẫn chưa có một khái niệm
thống nhất về “thỏa thuận hạn chế cạnh tranh”. Tại Khoản 4, Điều 3 Luật cạnh tranh
2018, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy định là “hành vi thỏa thuận giữa các
bên dưới mọi hình thức gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh
tranh”. Theo đó, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh dùng để chỉ sự thông đồng của một số
chủ thể kinh doanh có những lợi thế trên những thị trường nhất định mà nội dung của
những thỏa thuận này nhằm vào việc duy trì và tiếp tục nâng cao hơn nữa vị thế của
các thành viên của thỏa thuận, đồng thời hạn chế cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh
khác.
Trong khi đó, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và lạm dụng vị trí độc quyền
được hiểu là hành vi của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường hoặc độc nhằm hạn chế sự cạnh tranh trên thị trường, củng cố vị trí thống lĩnh,
độc quyền thu lợi nhuận thông qua các biện pháp loại bỏ đối thủ ra khỏi thị trường,
ngăn cản sự gia nhập của đối thủ cạnh tranh tiềm năng hoặc bóc lột khách hàng.
Khoản 5, Điều 3, Luật cạnh tranh 2018 quy định hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, lạm dụng vị trí độc quyền “là hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh
tranh”. Như vậy, vị trí thống lĩnh thị trường hay độc quyền là vị trí của doanh nghiệp
hoặc nhóm doanh nghiệp trên thị trường liên quan mà nhờ vào vị trí ấy, doanh nghiệp
hoặc nhóm doanh nghiệp có khả năng quyết định các điều kiện giao dịch trên thị
trường độc lập với các đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng ở mức độ đáng kể.
Từ các phân tích trên, có thể hiểu hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi mà các

chủ thể kinh doanh bằng năng lực và hành vi của mình thực hiện việc kìm hãm khả
năng cạnh tranh của đối thủ trên thị trường liên quan. Ở góc độ pháp lý, hành vi hạn
chế cạnh tranh bao gồm các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường và lạm dụng vị trí độc quyền. Luật cạnh tranh 2004 và Luật cạnh
11


tranh 2018 đã có sự khác biệt trong việc định nghĩa khái niệm hành vi hạn chế cạnh
tranh. Cụ thể là tại Khoản 2, Điều 3 Luật này đã bãi bỏ hành vi tập trung kinh tế ra
khỏi khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh và thừa nhận tập trung kinh tế là quyền của
doanh nghiệp.
1.1.2.2 Đặc điểm của hạn chế cạnh tranh
Hành vi hạn chế cạnh tranh luôn hướng đến việc hình thành một sức mạnh thị
trường hoặc tận dụng sức mạnh thị trường để làm cho tình trạng cạnh tranh trên thị
trường bị biến dạng.
Hành vi hạn chế cạnh tranh mang 03 đặc điểm đặc trưng như sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh là doanh nghiệp hoặc
nhóm doanh nghiệp. Phần lớn là doanh nghiệp có vị trí nhất định trên thị trường để có
khả năng hạn chế cạnh tranh, hoặc sự kết hợp hành động của các doanh nghiệp này tạo
nên khả nănghạn chế cạnh tranh. Việc xác định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường
phụ thuộc vào thị phần hoặc khả năng hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp đó.
Thứ hai, hành vi hạn chế cạnh tranh có thể là hành vi mang tính độc lập của
một doanh nghiệp hoặc là hành vi của một nhóm doanh nghiệp trên cùng một thị
trường liên quan.
Thứ ba, mục đích của các hành vi hạn chế cạnh tranh là nhằm cản trở và làm sai
lệch cạnh tranh trên thị trường. Hậu quả của hành vi hạn chế cạnh tranh bao gồm thay
đổi cấu trúc cạnh tranh của thị trường hoặc tương quan cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp; gây ra hiện tượng phá sản hoặc giải thể của các doanh nghiệp hay lợi ích của
các khách hàng, của người tiêu dùng bị xâm hại,…
1.1.3 Hạn chế cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu

Dưới góc độ lý thuyết về cạnh tranh, đấu thầu được nhìn nhận là phương thức
để lựa được chọn bên cung cấp hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ tốt nhất, theo đó bên
mời thầu sử dụng cơ chế đấu thầu cạnh tranh với mong muốn lựa chọn được người
cung cấp hàng hoá hay cung ứng dịch vụ có chất lượng tốt nhất với mức giá rẻ nhất.
Cơ chế cạnh tranh trong đấu thầu chỉ đạt được hiệu quả khi thông qua đó để một bên
lựa chọn được đối tác tốt nhất. Cạnh tranh trong đấu thầu chỉ được đảm bảo khi có
nhiều bên dự thầu, các bên dự thầu độc lập với nhau và với bên mời thầu, không có bất
cứ thỏa thuận nào giữa người mời thầu với một, một số người dự thầu, hoặc giữa
những người dự thầu với nhau. Trong cuộc đấu thầu, trên cơ sở các nội dung mời thầu,
các bên dự thầu phải tự mình đưa ra các gói thầu có tính cạnh tranh với cam kết về
chất lượng, giá cả đối với các hàng hoá hay dịch vụ của mình và đáp ứng các điều kiện
khác của bên mời thầu. Từ góc độ đó, hành vi hạn chế cạnh tranh xuất hiện giống như

12


một hành vi nhằm ngăn cản sự minh bạch của quá trình hoạt động kinh tế, trong đó có
lĩnh vực đấu thầu.
Hạn chế cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu được hiểu là sự thỏa thuận, dàn
xếp giữa các bên dự thầu nhằm làm sai lệch kết quả của cuộc đấu thầu. Hành vi này
biểu hiện dưới các dạng hình thức như bán thầu, đấu thầu giả, thông đồng, phá giá bỏ
thầu, thiên vị trong đánh giá hồ sơ dự thầu,…biểu hiện chủ yếu dưới hình thức của các
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Điển hình trong đó là hành vi thông đồng trong đấu
thầu (thông thầu).
Ở Việt Nam hiện nay, chưa có một định nghĩa chính thống nào về hành vi thông
đồng trong đấu thầu. Luật cạnh tranh 2018 cũng như Luật Đấu thầu 2013 chỉ dừng lại
ở việc liệt kê các hành vi được coi là thông thầu mà chưa đưa ra khái niệm cụ thể về
hành vi này. Tuy nhiên, nếu phân tích Khoản 4 Điều 11 Luật cạnh tranh 2018 thông
đồng trong đấu thầu được hiểu là việc các bên dự thầu giàn xếp, thỏa thuận cùng hành
động để một hoặc các bên trong số họ thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung

ứng dịch vụ.
Như vậy, mặc dù hiện nay chưa có một định nghĩa pháp lý cụ thể nào về hạn
chế cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu, nhưng từ những phân tích trên có thể kết
luận, hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu là sự thỏa thuận giữa các
bên dự thầu với nhau theo đó các bên thống nhất dàn xếp để một hoặc các nhà thầu
tham gia thỏa thuận thắng thầu nhằm loại bỏ hoặc cản trở cơ chế cạnh tranh trong cuộc
đấu thầu.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế
cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu
1.2.1 Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh trong
hoạt động đấu thầu
1.2.1.1 Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh trong
hoạt động đấu thầu
Báo cáo Tổng kết 12 năm thi hành Luật cạnh tranh (năm 2016) của Bộ Công
Thương có đưa ra các con số thực tiễn về các vụ việc cạnh tranh: xử lý 08 vụ việc hạn
chế cạnh tranh, với gần 70 doanh nghiệp bị điều tra, các cơ quan quản lý cạnh tranh đã
ra quyết định xử lý, Bộ Công Thương đã thu về ngân sách nhà nước tổng số tiền phạt
và phí xử lý vụ việc cạnh tranh gần 5,5 tỷ đồng. Chỉ tính riêng trong lĩnh vực đấu thầu,
nhiều chuyên gia cho biết, hành vi vi phạm Luật Đấu thầu cũng như Luật Cạnh tranh
từ phía các chủ đầu tư/bên mời thầu là cực kỳ phổ biến. Các hồ sơ mời thầu chứa đựng
nội dung mang tính mệnh lệnh để chỉ định nhà thầu cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch
13


vụ hoặc phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp là phổ biến. Những hành vi này can
thiệp trực tiếp vào hoạt động cạnh tranh trên thị trường như đề cập có thể gây những
tác động tiêu cực làm phương hại đến môi trường cạnh tranh, tạo ra sự phân biệt đối
xử bất bình đẳng, làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp khác trên thị trường.
Hơn thế nữa, trong lĩnh vực đấu thầu, hành vi thỏa thuận thông thầu mang bản
chất phản cạnh tranh, vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cạnh tranh và có tác động

trực tiếp đến các yếu tố thị trường như giá cả, sản lượng,…, nên được nhiều nước coi
là một trong những thỏa thuận đặc biệt nguy hại, phải cấm tuyệt đối trong mọi trường
hợp, cũng như không được miễn trừ. Thực tế cho thấy, hành vi hạn chế cạnh tranh
thường có xu hướng ngầm hóa. Điều này làm cho việc phát hiện và điều tra trở nên
khó khăn, phức tạp.
Như vậy, pháp luật về vấn đề nghiên cứu được ban hành dựa vào 02 cơ sở, là cơ
sở thực tiễn và dựa trên tính chất của vấn đề. Theo thực tế nghiên cứu, hiện nay, vấn đề
gian lận trong cạnh tranh nói chung vẫn đang có dấu hiệu tăng trưởng từng ngày với
mức độ nghiêm trọng ngày một lớn. Điều này làm thúc đẩy sự ra đời của pháp luật liên
quan điều chỉnh và làm ngăn chặn sự phát triển của vấn đề cạnh tranh mang tính tiêu
cực. Một mặt, trong đấu thầu, hành vi thông thầu xảy ra thường xuyên và mang tính
chất phức tạp khiến cho việc phát hiện, quản lý cũng như ngăn chặn trở nên khó khăn
hơn đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.2.1.2 Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành điều chỉnh hành vi hạn chế
cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu
Pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực đấu thầu là tổng
thể các quy phạm pháp luật điều tiết và kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh trong đấu
thầu nhằm tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, hợp pháp, bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi
ích của các bên tham gia đấu thầu, góp phần đảm bảo sự phát triển của nền kinh tế.
Pháp luật hiện hành của Việt Nam điều chỉnh hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực đấu
thầu bao gồm nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau nhưng tựu chung thuộc hai
nhóm văn bản chủ yếu gồm nhóm pháp luật Cạnh tranh với Luật Cạnh tranh là văn bản
cốt yếu và nhóm pháp luật đấu thầu trong đó Luật đấu thầu là văn bản cốt yếu. Ngoài
ra, các thỏa thuận giữa Việt Nam với các nước về tự do cạnh, mua sắm chính phủ cũng
như đấu thầu quốc tế cũng năm trong khuôn khổ pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong
hoạt động đầu thầu cần phải tính đến.
Luật Thương mại 2005 cũng quy định về đấu thầu với tư cách là hành vi thương
mại của các thương nhân tuy nhiên lại không có quy định về hành vi hạn chế cạnh
tranh trong đấu thầu. Chính vì vậy những hành vi hạn chế cạnh tranh trong đấu thầu
hàng hóa, dịch vụ giữa các thương nhân sẽ do Luật cạnh tranh đảm nhiệm.

14


1.2.2 Một số nội dung pháp luật về hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động
đấu thầu
1.2.2.1 Nội dung pháp luật quy định về bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu
Dưới góc độ lý luận, trong các cuộc đấu thầu phải gồm nhiều bên có liên quan
một cách trực tiếp và/hoặc gián tiếp với nhau gồm bên mời thầu hay chủ đầu tư, các
bên dự thầu, các bên tư vấn, giám sát thầu…Mỗi bên khi tham gia đấu thầu phải độc
lập, có chức năng, nhiệm vụ và mục đích riêng. Tuy nhiên, khi tham gia vào cùng một
cuộc đấu thầu sẽ tạo nên một hệ thống các hành vi và quan hệ thầu phức tạp đan xen
lẫn nhau.
Để đảm bảo cạnh tranh trong đấu thầu, pháp luật đấu thầu phải hướng tới điều
chỉnh và kiểm soát đối với các hành vi và mối quan hệ giữa nhiều bên liên quan, ngăn
chặn và loại trừ đối với các dạng hành vi, các quan hệ có thể gây tác động xấu, làm
mất đi mục đích và ý nghĩa hay làm triệt tiêu tác dụng, hiệu quả của cuộc đấu thầu.
Với ý nghĩa như vậy, Điều 6, Luật đấu thầu 2013 quy định các bên liên quan
đến hoạt động đấu thầu phải có sự độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính. Theo đó,
các nhà thầu tham dự phải độc lập về pháp lý và tài chính với nhà thầu tư vấn lập hồ
sơ, nhà thầu tư vấn giám sát, chủ đầu tư và bên mời thầu trong gói thầu đó. Trên cơ sở
đó, cũng để đảm bảo cạnh tranh trong đấu thầu, Điều 2, Nghị định số 63/2014/NĐ-CP
ngày 26 tháng 06 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật đấu thầu về lựa chọn nhà thầu.
Nhờ tính cạnh tranh công bằng của đấu thầu, các nhà thầu cùng nhau đưa ra
những điều kiện tối ưu của mình về kinh nghiệm, năng lực, tài chính, kỹ thuật,…để có
thể trúng thầu. Điều này giúp hạn chế tình trạng giao thầu cho bên không đủ năng lực
thực hiện dẫn đến dự án kéo dài, phát sinh tranh chấp.
Nhà thầu tham dự quan tâm, tham dự sơ tuyển phải đáp ứng quy định về nộp hồ
sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển phải độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính với các
nhà thầu tư vấn lập hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển; đánh giá hồ sơ quan tâm,

hồ sơ dự sơ tuyển; thẩm định kết quả mời quan tâm, kết quả sơ tuyển.
Nhà thầu tư vấn có thể tham gia cung cấp một hoặc nhiều dịch vụ tư vấn cho
cùng một dự án, gói thầu bao gồm: Lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, lập báo cáo
nghiên cứu khả thi, lập hồ sơ thiết kế kỹ thuật, lập hồ sơ thiết kế bản vẽ thi công, tư
vấn giám sát.
Nhà thầu được đánh giá độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính với nhà thầu
khác; với nhà thầu tư vấn; với chủ đầu tư, bên mời thầu khi đáp ứng các điều kiện sau
đây: Không cùng thuộc một cơ quan hoặc tổ chức trực tiếp quản lý đối với đơn vị sự

15


nghiệp; nhà thầu với chủ đầu tư, bên mời thầu không có cổ phần hoặc vốn góp trên
30% của nhau; nhà thầu không có cổ phần hoặc vốn góp trên 20% của nhau khi cùng
tham dự thầu trong một gói thầu đối với đấu thầu hạn chế; nhà thầu tham dự thầu với
nhà thầu tư vấn cho gói thầu đó không có cổ phần hoặc vốn góp của nhau; không cùng
có cổ phần hoặc vốn góp trên 20% của một tổ chức, cá nhân khác với từng bên.
Trường hợp đối với tập đoàn kinh tế nhà nước, nếu sản phẩm, dịch vụ thuộc gói
thầu là ngành nghề sản xuất kinh doanh chính của tập đoàn và là đầu ra của công ty
này, đồng thời là đầu vào của công ty kia trong tập đoàn thì tập đoàn, các công ty con
của tập đoàn được phép tham dự quá trình lựa chọn nhà thầu của nhau.
Trường hợp sản phẩm, dịch vụ thuộc gói thầu là đầu ra của công ty này, đồng
thời là đầu vào của công ty kia trong tập đoàn và là duy nhất trên thị trường thì thực
hiện theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
Trường hợp sau khi tính ưu đãi, nếu các hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất xếp hạng
ngang nhau thì ưu tiên cho nhà thầu có đề xuất chi phí trong nước cao hơn hoặc sử
dụng nhiều lao động địa phương hơn (tính trên giá trị tiền lương, tiền công chi trả).
Trường hợp nhà thầu tham dự thầu thuộc đối tượng được hưởng nhiều hơn một
loại ưu đãi thì khi tính ưu đãi chỉ được hưởng một loại ưu đãi cao nhất theo quy định
của hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu. Đối với gói thầu hỗn hợp, việc tính ưu đãi căn cứ

tất cả các đề xuất của nhà thầu trong các phần công việc tư vấn, xây lắp. Nhà thầu
được hưởng ưu đãi khi có đề xuất chi phí trong nước (chi phí tư vấn, hàng hóa, xây
lắp) từ 25% trở lên giá trị công việc của gói thầu.
Từ việc đưa ra các quy định về bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu, pháp luật đã
đặt ra biện pháp để bảo đảm trách nhiệm tham gia dự thầu của mình trong suốt quá
trình đấu thầu. Theo đó, việc quy định về bảo đảm dự thầu được quy định nhằm hạn
chế các hành vi tiêu cực trong đấu thầu quy định cụ thể như sau tại Điều 11 Luật đấu
thầu 2013. Theo đó, bảo đảm dự thầu được áp dụng trong hầu hết các gói thầu, nhà
thầu và nhà đầu tư phải thực hiện các biện pháp bảo đảm dự thầu trước thời điểm đóng
đầu đối với hồ sơ dự thầu và hồ sơ đề xuất. Điều này cũng quy định về giá trị bảo đảm
dự thầu theo trong từng trường hợp khác nhau cũng như thời gian có hiệu lực của các
biện pháp bảo đảm dự thầu. Đối với các trường hợp nhà thầu không đáp ứng hoặc
không tiến hành hoàn thiện hồ sơ, hợp đồng theo các quy định có liên quan của pháp
luật thì bảo đảm dự thầu sẽ không được hoàn trả đảm bảo công bằng cho việc tiến
hành lựa chọn nhà thầu.
Qua đó, có thể thấy đảm bảo dự thầu được hiểu như là một biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự mà bên dự thầu đảm bảo cho bên mời thầu việc sẽ thực hiện
đúng những nghĩa vụ của mình. Nếu không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ mà
họ đã cam kết thì bên mời thầu có thể áp dụng biện pháp bảo đảm mà hai bên đã cam
16


kết, yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền can thiệp để buộc bên có nghĩa vụ phải
thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết nhằm bảo đảm quyền lợi cho mình.
1.2.2.2 Nội dung pháp luật quy định về các loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
trong lĩnh vực đấu thầu
Mặc dù cũng hướng tới mục tiêu bảo vệ cạnh tranh trong đấu thầu để đảm bảo
cho bên mời thầu có thể chọn lựa được doanh nghiệp cung cấp hàng hoá, cung ứng
dịch vụ có chất lượng tốt và giá cả phù hợp nhưng pháp luật cạnh tranh chủ yếu hướng
tới kiểm soát và điều chỉnh hành vi cũng như mối quan hệ giữa các bên dự thầu nhằm

đảm bảo các bên dự thầu có sự cạnh tranh một cách lành mạnh.
Vì vậy, Điều 11 Luật cạnh tranh 2018 quy định cấm tuyệt đối đối với hành vi
thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng
hoá, cung ứng dịch vụ. Các thủ đoạn thông đồng trong đấu thầu trong Luật cạnh tranh
tuy chưa được quy định cụ thể tại văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, nhưng trước
đó, tại Điều 21 Nghị định 116/2005/NĐ-CP đã quy định về các hình thức “thông thầu”
như: các nhà thầu thỏa thuận trước với nhau rút đơn dự thầu để một hoặc nhiều nhà
thầu trong thỏa thuận đó thắng thầu; nhà thầu tham gia thỏa thuận gây khó khăn cho
nhà thầu không tham gia thỏa thuận đó bằng các hình thức gây “khó dễ” khác nhau
hay là các bên thỏa thuận trước nhau số lần thắng thầu trong một khoảng thời gian
nhất định nào đó;…
Với những quy định trên thì tựu chung lại pháp luật Việt Nam sẽ gồm 03 hình
thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong đấu thầu.
Ngăn cản đấu thầu
Chiến lược ngăn cản đấu thầu là việc các doanh nghiệp tham gia thoả thuận
cùng thống nhất thực hiện một trong hai thỏa thuận sau đây:
Thứ nhất, một hoặc nhiều bên tham gia thoả thuận rút khỏi việc dự thầu hoặc
rút đơn dự thầu được nộp trước đó để một hoặc các bên trong thoả thuận thắng thầu.
Trong trường hợp này, các doanh nghiệp tham gia thông đồng đã chỉ định một, một số
doanh nghiệp trong số họ có quyền thắng thầu. Các doanh nghiệp còn lại sẽ rút đơn dự
thầu hoặc không tham gia phiên đấu thầu. Do đó, trong phiên đấu thầu sẽ chỉ còn lại
những người được chỉ định tham gia. Như vậy, cuộc cạnh tranh khốc liệt trong cuộc
đấu thầu đã không xảy ra. Người mời thầu buộc phải giao dịch với doanh nghiệp còn
lại tham gia đấu thầu. Loại thông đồng này thường được thực hiện khi lôi kéo tất cả
các doanh nghiệp dự thầu tham gia thoả thuận. Nếu còn một số doanh nghiệp dự thầu
không tham gia vào thoả thuận, doanh nghiệp được chỉ định sẽ phải tiếp tục cạnh tranh
với các doanh nghiệp không tham gia.
Thứ hai, một hoặc nhiều bên tham gia thoả thuận gây khó khăn cho các bên
không tham gia thoả thuận khi dự thầu bằng cách từ chối cung cấp nguyên liệu, không


17


ký hợp đồng phụ hoặc các hình thức gây khó khăn khác. Bản chất ngăn cản của thoả
thuận còn thể hiện thông qua việc ngăn cản sự tham gia đấu thầu của những doanh
nghiệp không tham gia vào thoả thuận bằng cách gây khó khăn cho họ trong hoạt động
kinh doanh hòng tạo sức ép buộc phải rời bỏ cuộc đấu thầu. Loại thông đồng này
thường được thực hiện khi lôi kéo được toàn bộ các doanh nghiệp dự thầu tham gia.
Do đó để tạo điều kiện cho người được chỉ định thắng thầu, các doanh nghiệp đã thống
nhất thực hiện những hành vi hỗ trợ bằng cách gây áp lực cho người dự thầu không
tham gia thoả thuận để những người này chấp nhận thua trong cuộc cạnh tranh với
doanh nghiệp được chỉ định. Trong trường hợp này, quyền dự thầu của doanh nghiệp
khác đã bị ngăn cản.
Hỗ trợ tham gia đấu thầu (còn gọi là đấu thầu mang tính bổ sung)
Hỗ trợ tham gia đấu thầu là việc các bên tham gia thoả thuận thống nhất đưa ra
mức giá không có tính cạnh tranh hoặc đặt mức giá cạnh tranh nhưng kèm theo những
điều kiện mà bên mời thầu không thể chấp nhận để xác định trước một hoặc nhiều bên
sẽ thắng thầu. Khác với ngăn cản thầu, trong trường hợp này các doanh nghiệp tham
gia thoả thuận vẫn tiếp tục hoạt động đấu thầu và tham gia vào phiên đấu thầu. Nhưng
để tạo điều kiện cho người được chỉ định thắng thầu, các doanh nghiệp còn lại tham
gia đấu thầu đã tự loại mình khỏi khả năng thắng thầu bằng mức giá không cạnh tranh
hoặc bằng những điều kiện kèm theo khó có thể được chấp nhận. Bằng thỏa thuận này
các doanh nghiệp dự thầu đã hoàn toàn khống chế được ý chí của người mời thầu bởi
mức giá hoặc các điều kiện thương mại của người được chỉ định thắng thầu là tốt nhất
trong số những người dự thầu.
Trường hợp này khiến cho người mời thầu lầm tưởng mình đã đạt được kết quả
tốt thông qua đấu thầu nhưng thật ra cơ chế cạnh tranh mà bên mời thầu mong muốn
sử dụng đã bị xoá bỏ, đồng thời họ còn phải chịu những thiệt hại không mong muốn
do hình thức thông thầu này gây ra.
Quay vòng thắng thầu

Bằng các phương thức quay vòng đấu thầu kết hợp với ngăn cản đấu thầu các
nhà thầu tham gia thỏa thuận đã đưa ra giá cả và điều kiện kém cạnh tranh hơn với
từng gói thầu để lần lượt các nhà thầu được chỉ định thắng thầu. Như vậy, quay vòng
thắng thầu là việc các bên trong thỏa thuận xác định trước số lần mỗi bên được thắng
thầu trong một khoảng thời gian nhất định. Thông thường để thực hiện thỏa thuận
quay vòng trong đấu thầu có một bản ghi nhớ, các bên thường thực hiện một trong hai
cách là ngăn cản đấu thầu hoặc hỗ trợ tham gia đấu thầu để mở đường cho người đến
lượt trúng thầu. Cụ thể để thực hiện quay vòng thắng thầu các bên sẽ sử dụng các
phương pháp như rút hồ sơ dự thầu, đe dọa không ký hợp đồng thầu phụ hoặc đưa ra

18


giá không cạnh tranh…làm thế nào để chắc chắn bên được xác định trước sẽ thắng
thầu theo lượt đã thỏa thuận giữa các bên.
1.2.2.3 Nội dung pháp luật điều chỉnh về hành vi lạm dụng vị trí độc quyền, lạm
dụng vị trí thống lĩnh trong hoạt động đấu thầu
Trong đấu thầu, hành vi lạm dụng vị trí độc quyền hay vị trí thống lĩnh để gây
hạn chế không bộc lộ rõ như hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Điều này bắt
nguồn từ bản chất của các hành vi này và hoạt động đấu thầu mang tính đối lập. Pháp
luật về hạn chế cạnh tranh chỉ đặt ra những quy định chung về hành vi lạm dụng vị trí
độc quyền, vị trí thống lĩnh bị cấm để điều chỉnh các hoạt động kinh tế tiêu cực.
Như vậy, có thể thấy pháp luật chỉ đưa ra những nguyên tắc cấm chung đối với
các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh hay độc quyền gây ra hạn chế cạnh tranh. Trong
đấu thầu, hầu như các hành vi hạn chế cạnh tranh không thực hiện dưới hình thức lạm
dụng vị trí độc quyền hay vị trí thống lĩnh mà chủ yếu các bên tham gia trong phiên
thầu sẽ dàn xếp, thỏa thuận với nhau. Các doanh nghiệp dù có độc quyền trên thị
trường liên quan hay có thị phần trên thị trường liên quan là doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thì trong “trận chiến” đấu thầu cũng sẽ phải đáp ứng các quy định mà pháp
luật đấu thầu đặt ra để có cơ hội trúng thầu. Chính vì vậy mà pháp luật đưa ra quy định

về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong đấu thầu rõ hơn vì đặc tính riêng biệt
của lĩnh vực này.
1.2.2.4 Nội dung pháp luật điều chỉnh về việc xử phạt đối với các hành vi gây
hạn chế cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu
Các hình thức xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực đấu thầu là hệ
thống các biện pháp pháp lý bất lợi mà chủ thể có thẩm quyền có thể áp dụng đối với
chủ thể thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh trong đấu thầu. Do có nhiều văn bản
pháp luật khác nhau cùng điều chỉnh về hành vi hạn chế cạnh tranh trong đấu thầu nên
cũng có những quy định về các hình thức xử lý vi phạm khác nhau cho hành vi này.
Cụ thể thì hình thức xử lý vi phạm sẽ được quy định trong Luật cạnh tranh 2018 và
Luật đấu thầu 2013.
Luật cạnh tranh quy định nghiêm cấm mọi hành vi hạn chế cạnh tranh trong
lĩnh vực đấu thầu Luật cạnh tranh năm 2018 sử dụng phương pháp cấm tuyệt đối đối
với hành vi hạn chế cạnh tranh trong đấu thầu, cụ thể tại Điều 12 và Điều 27 Luật cạnh
tranh 2018. Theo đó, hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong đấu thầu bị cấm
không cần quan tâm đến thị phần kết hợp của các bên dự thầu, đồng thời không được
hưởng miễn trừ như các loại khác như thỏa thuận ấn định giá, hay thỏa thuận phân
chia thị trường... Điều đó là bởi hành vi này có bản chất hạn chế cạnh tranh rõ nét, có
khả năng làm vô hiệu cơ chế cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu. Vì vậy, hành vi này
cũng không có cơ hội được hưởng miễn trừ theo quy định tại Điều 14, Luật cạnh tranh

19


2018. Quy định cấm tuyệt đối thể hiện sự nghiêm khắc của pháp luật cạnh tranh đối
với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong đấu thầu. Cũng giống như hành vi
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, đối với trường hợp các doanh nghiệp lạm dụng vị trí
thống lĩnh, độc quyền để lấn át thị trường, làm giảm cơ hội dự thầu của các doanh
nghiệp khác cũng bị cấm theo quy định tại Điều 27. Tuy nhiên, theo quy định tại Luật
cạnh tranh 2018 thì hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền không có trường hợp

được miễn trừ, vì vậy, đây là hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm tuyệt đối theo quy
định mới.
Ở Việt Nam các biện pháp xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh được quy định tại
Điều 110 Luật cạnh tranh 2018 và quy định chi tiết tại Nghị định số 75/2019/NĐ-CP
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh. Theo đó, hành vi
hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực đấu thầu phải chịu hình phạt chính là phạt tiền. Căn
cứ theo các Điều 6,7,8,9 tại Nghị định này, mức phạt tiền tối đa lên đến 10% tổng
doanh thu của năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Tuy nhiên với hình
thức xử lý phạt tiền có khung phạt quá rộng và không hề có quy định về mức phạt tiền
tối thiểu sẽ gây khó khăn trong quá trình xử lý.
Mặc dù có những chế tài nghiêm ngặt về xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh,
pháp luật cạnh tranh cũng có những chính sách khoan hồng và mức xử phạt giảm nhẹ
đối với các doanh nghiệp tự nguyện khai báo để Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia xử lý và
phát hiện các trường hợp vi phạm tại Điều 112, Luật cạnh tranh 2018. Việc miễn hoặc
giảm mức phạt đối với các doanh nghiệp sẽ được Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc
gia quyết định khi đáp ứng đủ các quy định tại Khoản 3 này và dựa trên tinh thần tự
nguyện, trung thực hợp tác với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, pháp luật
chỉ cho phép 03 doanh nghiệp khai báo đầu tiên và nộp hồ sơ xin khoan hồng mới
được xem xét hưởng chế độ này với mức giảm 100% đối với doanh nghiệp đầu tiên,
60% và 40% đối với lần lượt doanh nghiệp nộp thứ hai và thứ ba đối với phương thức
phạt tiền.
Tại Nghị định số 75/2019/NĐ-CP quy định với mỗi tình tiết tăng nặng hoặc với
mỗi tình tiết giảm nhẹ hoặc tình tiết tăng nặng mức tiền phạt sẽ được điều chỉnh giảm
hoặc tăng tương ứng 15%. Tuy nhiên, không có hướng dẫn cách tính cụ thể. Điều này
gây ra nhiều tranh cãi về việc áp dụng, có thể kéo theo sự tùy tiện của cơ quan cạnh
tranh trong quá trình cân nhắc và xử phạt.
Trong khi đó, Luật đấu thầu 2013 quy định nghiêm khắc với các hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh trong đấu thầu so với hành vi vi phạm pháp luật đấu thầu
khác. Thể hiện thái độ mạnh tay với các hành vi thông thầu nhưng Luật Đấu thầu
không quy định chế tài riêng để xử lý các chủ thể thực hiện hành vi thông thầu mà quy

định chung tại Điều 90 Luật đấu thầu 2013 về xử lý vi phạm. Theo đó, tổ chức, cá

20


×