Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

Pháp luật về hợp đồng gia công xuất khẩu thực tiễn thực hiện tại công ty cổ phần may xuất khẩu VINA CAPITAL

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (974.45 KB, 68 trang )

TÓM LƯỢC
Hoạt động gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài của công ty Cổ phần
may xuất khẩu VINA CAPITAL đã tồn tại, giữ vững và ngày càng phát triển sau gần
bảy năm ra đời. Tuy rằng quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng gia công xuất khẩu
tại công ty đã đạt được những hiệu quả nhất định song việc áp dụng pháp luật về hợp
đồng gia công xuất khẩu tại công ty vẫn chưa được nhận thức đầy đủ. Chính vì vậy, đề
tài “Pháp luật về hợp đồng gia công xuất khẩu - thực tiễn thực hiện tại công ty Cổ
phần may xuất khẩu VINA CAPITAL” đã được triển khai nhằm giúp cho công ty có
nhận thức rõ hơn về một số nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng gia công xuất
khẩu, từ đó nâng cao hiệu quả trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng tại công
ty. Đề tài được thực hiện thông qua việc tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện hành
điều chỉnh quan hệ gia công hàng hóa có yếu tố nước ngoài và thực trạng thực hiện
pháp luật của các bên tham gia hợp đồng gia công xuất khẩu tại công ty Cổ phần may
xuất khẩu VINA CAPITAL. Khóa luận có kết cấu 3 chương, tập trung nghiên cứu
những vấn đề cụ thể như sau:
Đầu tiên, em nêu ra một số lý luận cơ bản về hợp đồng gia công xuất khẩu trong
Chương 1. Nội dung chương được hình thành thông qua việc phân tích, đánh giá và rút
ra nhận xét về những quy định chung và quy định riêng về hợp đồng gia công xuất
khẩu thông qua các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về vấn đề này, chủ yếu
thông qua hai văn bản Bộ luật dân sự 2015 và Luật thương mại 2005.
Tiếp theo, trong Chương 2 em tập trung tìm hiểu về thực trạng áp dụng pháp luật
về hợp đồng gia công xuất khẩu và thực tiễn thực hiện tại công ty Cổ phần may xuất
khẩu VINA CAPITAL. Từ đó đưa ra những đánh giá, nhận xét về quá trình giao kết và
thực hiện hợp đồng gia công xuất khẩu tại công ty Cổ phần may xuất khẩu VINA
CAPITAL.
Cuối cùng, Chương 3 em đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật hợp
đồng nói chung, pháp luật điều chỉnh hợp đồng gia công xuất khẩu nói riêng và một số
đề xuất về phía nhà nước cũng như phía doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả trong
quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng gia công xuất khẩu tại công ty Cổ phần may
xuất khẩu VINA CAPITAL.
Tuy nhiên, do đề tài được thu hẹp trong phạm vi hoạt động của một công ty nên


đề tài không tránh khỏi những nhìn nhận và đánh giá thiếu tính khái quát. Dù vậy
nhưng em hi vọng nội dung nghiên cứu sẽ góp phần nào nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về hợp đồng gia công xuất khẩu trong các công ty gia công hàng hóa cho

1


thương nhân nước ngoài nói chung và đặc biêt là nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
trong công ty Cổ phần may xuất khẩu VINA CAPITAL.

2


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Kinh tế - Luật, trường Đại học Thương Mại và sự
đồng ý của cô giáo hướng dẫn Th.S Hoàng Thanh Giang, em thực hiện đề tài: “Pháp
luật về hợp đồng gia công xuất khẩu, thực tiễn thực hiện tại công ty Cổ phần may xuất
khẩu VINA CAPITAL”. Để hoàn thành khóa luận này, em xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến ban giám đốc và cán bộ công nhân viên trong công ty Cổ phần VINA
CAPITAL đã cho em có thời gian thực tập trực tiếp tại bộ phận Hành chính - Nhân sự
trong công ty. Em xin cảm ơn các thầy, cô giáo đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy em
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện tại trường Đại học Thương Mại.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn Th.S Hoàng Thanh Giang
đã hết lòng hướng dẫn tỉ mỉ, tận tình, chu đáo và cho em những kiến thức quý báu để
em thực hiện trọn vẹn đề tài khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 03 tháng 12 năm 2019
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Thanh Thư


3


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ cái viết tắt/ký

Cụm từ đầy đủ

BLDS

Bộ luật dân sự

LTM

Luật thương mại

CQNN

Cơ quan nhà nước

CP

Cổ phần


CNXH

Chủ nghĩa xã hội

FTA

Hiệp định thương mại tự do

TPP

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương

WTO

Tổ chức Thương mại Thế giới

VCG

VINA CAPITAL GARMENT

FOB

Giao hàng lên tàu

FAS

Giao hàng dọc mạn tàu

NK


Nhập khẩu

ASEAN

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á

AFTA

Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN

hiệu

APEC

Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình
Dươg


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài khóa luận
Việt Nam có lợi thế là một quốc gia có chính trị ổn định, nguồn nhân lực đang
trong thời kỳ dân số vàng, chi phí nhân công rẻ,… vì thế mà nước ta là điểm tìm kiếm
gia công hàng hóa của nhiều công ty đa quốc gia trên thế giới. Hoạt động gia công
hàng hóa với thương nhân nước ngoài đã góp phần giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất
nghiệp cho xã hội, tăng thu nhập cho người dân; đồng thời giúp các doanh nghiệp
trong nước thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ nước ngoài, tiếp cận với thị trường thế
giới. Những năm gần đây, số doanh nghiệp gia công hàng hóa cho thương nhân nước
ngoài ngày càng tăng. Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, tính đến năm 2016, có đến
1687 doanh nghiệp trong nước nhận gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài,
trong đó chiếm tỉ trọng lớn nhất là các doanh nghiệp gia công hàng dệt may (chiếm

48% tổng phí gia công). Chính vì xuất hiện ngày càng nhiều doanh nghiệp gia công
hàng hóa có yếu tố nước ngoài nên các doanh nghiệp này đều quan tâm đến việc tìm
hiểu pháp luật liên quan đến hợp đồng gia công xuất khẩu - sự ràng buộc quan trọng
về mặt pháp lý giữa doanh nghiệp và thương nhân nước ngoài. Bởi vì hợp đồng không
chỉ liên quan đến quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp và đối tác nước ngoài mà còn là
cơ sở để bảo vệ các bên trong hợp đồng trước pháp luật trong trường hợp phát sinh vi
phạm dẫn đến tranh chấp trong hợp đồng. Tuy vậy nhưng vẫn có nhiều doanh nghiệp
gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài không thực sự chủ động trong việc tìm
hiểu pháp luật điều chỉnh hợp đồng gia công xuất khẩu dẫn đến việc giao kết và thực
hiện hợp đồng không đạt hiệu quả như mong đợi.
Thực tế cho thấy, kinh tế gia công đang là xu hướng của kinh tế toàn cầu. Hầu hết
các quốc gia trên thế giới, kể cả các quốc gia phát triển như Anh, Mỹ, Đức,… đều
nhận gia công, rất khó để tìm ra một quốc gia tự mình làm hết mọi công đoạn sản xuất
các sản phẩm hoàn chỉnh. Kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO và ký kết các hiệp định
FTA đến nay, các hợp đồng có yếu tố nước ngoài ngày càng trở nên phổ biến, đặc biệt
là các hợp đồng gia công cho thương nhân nước ngoài. Điều này đòi hỏi các doanh
nghiệp muốn tìm kiếm thị trường tiềm năng trong lĩnh vực gia công đều phải hiểu và
nắm rõ pháp luật về hợp đồng gia công có yếu tố nước ngoài. Hiện nay, ngoài BLDS
2015 và LTM 2005 thì pháp luật liên quan đến hợp đồng gia công xuất khẩu còn được
đề cập trong Luật Quản lý ngoại thương 2017, Luật hải quan 2014,... và một số văn
bản dưới luật khác. Thực tiễn cho thấy, sự hiểu biết về pháp luật của các doanh nghiệp
còn bộc lộ nhiều hạn chế dù đã tìm hiểu các quy định của pháp luật liên quan đến loại
hợp đồng này. Đồng thời, pháp luật về hợp đồng gia công xuất khẩu ngày càng hoàn
thiện theo hướng phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế và pháp luật hợp đồng thế giới
1


song vẫn còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu và hoàn thiện. Trong quá trình thực tập tại
công ty CP may xuất khẩu VINA CAPITAL, em nhận thấy công ty ký kết rất nhiều
hợp đồng gia công xuất khẩu nhưng thực tế việc áp dụng pháp luật về hợp đồng gia

công xuất khẩu tại công ty vẫn còn nhiều hạn chế và cần giải pháp để công ty cải thiện
quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng. Trong quá trình giao kết, công ty chưa nắm rõ
được một số quy định của pháp luật liên quan đến nguyên tắc giao kết, trình tự giao
kết, thời điểm giao kết và hợp đồng vô hiệu. Quá trình thực hiện hợp đồng giữa công
ty và đối tác nước ngoài bao gồm các nguyên tắc thực hiện hợp đồng, nội dung thực
hiện, sửa đổi hợp đồng, bảo đảm thực hiện hợp đồng và chấm dứt hợp đồng cũng còn
nhiều bất cập. Điều này được thể hiện thông qua việc tìm hiểu thực tế về quy trình ký
kết và các điều khoản trong hợp đồng của công ty CP may xuất khẩu VINA CAPITAL
với các đối tác nước ngoài. Thêm vào đó, do thị trường nhận gia công chủ yếu của
nước ta là Trung Quốc và Hoa Kỳ - hai quốc gia sử dụng luật hợp đồng và không có
quy định về hợp đồng gia công như nước ta thì rất khó để họ phân biệt được hai loại
hợp đồng gia công hàng hóa và hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong trường hợp hai bên
không xác định đúng loại hợp đồng cần ký kết, các bên thể bị mất một số quyền thuộc
về mình và khi xảy ra thiệt hại hay vi phạm hợp đồng thì rất khó để tìm ra căn cứ giải
quyết. Vì vậy, việc nghiên cứu, áp dụng pháp luật về hợp đồng trên khía cạnh giao kết,
thực hiện hợp đồng gia công xuất khẩu không chỉ có ý nghĩa với riêng công ty mà còn
có ý nghĩa đối với nhiều doanh nghiệp khác nhận gia công hàng hóa cho thương nhân
nước ngoài.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Pháp luật về hợp đồng gia công được hình thành và phát triển với các quy định
tại BLDS 1989, BLDS 2005 (đã hết hiệu lực); LTM 1997 (đã hết hiệu lực) và bốn văn
bản pháp luật hiện hành là BLDS 2015, LTM 2005, Luật hải quan 2014 và Luật quản
lý ngoại thương 2017. Vấn đề pháp luật điều chỉnh hợp đồng gia công xuất khẩu cũng
được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, dưới những góc độ khác nhau. Trên
thực tế, đã có nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu các đề tài liên quan đến
hợp đồng, cụ thể như:
“Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam”, luận văn thạc sĩ Luật
học năm 2018 của Th.S Hoàng Tùng.
“Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam”, luận án tiến sĩ
Luật học năm 2010 của T.S Lê Minh Hùng.

“Hợp đồng gia công thương mại theo pháp luật Việt Nam”, luận văn thạc sĩ Luật
học năm 2019 của Th.S Đinh Đức Thiện.

2


“Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, luận văn Thạc sĩ
Luật học năm 2011 của Th.S Nguyễn Thị Hường.
Ngoài ra còn có một số một số sách chuyên khảo và giáo trình có đề cập đến các
khía cạnh pháp lý của hợp đồng như:
“Hiệu lực của hợp đồng” của T.S Lê Minh Hùng (2015).
“Thời điểm giao kết hợp đồng” của T.S Lê Minh Hùng (2015).
“Bình luận khoa học Bộ Luật dân sự 2015” của PGS.TS Nguyễn Văn Cừ PGS.TS Trần Thị Huệ (2016).
“Những biện pháp phòng chống rủi ro khi soạn thảo, ký kết hợp đồng - Tuyển
chọn, Tham khảo các mẫu hợp đồng thường dùng” của Nguyễn Hữu Đại (2017).
Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 2 (2015) của đại học Luật Hà Nội.
Giáo trình Luật thương mại tập 2 (2015) của đại học Luật Hà Nội.
Cùng với các công trình nghiên cứu và các sách, giáo trình nêu trên là các bài
báo khoa học đăng trên các tạp chí như:
“Đề nghị giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật số 05/2010, tr.29 của tác giả Ngô Huy Cương (2010).
“Những điểm mới của quy định về giao kết hợp đồng trong bộ luật dân sự 2015”,
Tạp chí tòa án nhân dân số 22/2016, tr.13 của tác giả Nguyễn Thị Minh Phượng
(2016).
Tất cả các công trình nghiên cứu trên đều có những thành công nhất định về một
số khía cạnh pháp lý của hợp đồng, trong đó bao gồm những nghiên cứu liên quan đến
giao kết và thực hiện hợp đồng gia công thương mại.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Xuất phát từ thực tiễn, em nhận thấy pháp luật về hợp đồng gia công xuất khẩu
còn nhiều vấn đề cần được tìm hiểu và làm rõ. Trong quá trình thực tập tại công ty CP

may xuất khẩu VINA CAPITAL em nhận thấy rằng pháp luật điều chỉnh hợp đồng gia
công xuất khẩu vô cùng quan trọng và cần được nghiên cứu cụ thể. Tuy nhiên do chưa
có bộ phận pháp chế nên cán bộ công nhân viên trong công ty chưa chú trọng tìm hiểu
chuyên sâu về vấn đề này.
Nghiên cứu về pháp luật điều chỉnh hợp đồng gia công xuất khẩu, các đề tài đã
được công bố trước đó chưa đi sâu vào nghiên cứu pháp luật về vấn đề này mà chỉ là
những đề tài mang tính tổng quát chung. Tuy nhiên, tất cả những thành công của các
công trình nghiên cứu trước đó chính là cơ sở để em thực hiện nghiên cứu, nhằm
hướng tới nhận thức thêm, nhận thức sâu hơn và đầy đủ hơn một số khía cạnh của
pháp luật về hợp đồng gia công xuất khẩu. Trước nhu cầu phát triển và hội nhập kinh
tế quốc tế, trước thực trạng pháp luật về hợp đồng gia công xuất khẩu cần được bổ
3


sung, hoàn thiện và thiết thực hơn, giúp cho công ty CP may xuất khẩu VINA
CAPITAL đạt hiệu quả trong việc áp dụng pháp luật liên quan đến quá trình giao kết
và thực hiện hợp đồng, em chọn đề tài: “Pháp luật về hợp đồng gia công hàng hóa thực tiễn áp dụng tại công ty Cổ phần may xuất khẩu VINA CAPITAL” làm khóa luận
tốt nghiệp của mình.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những vấn đề lý luận chung về một số
khía cạnh pháp lý liên quan đến hợp đồng gia công xuất khẩu, thực tiễn áp dụng pháp
luật về hợp đồng gia công xuất khẩu tại công ty CP may xuất khẩu VINA CAPITAL.
Trong đó, đề tài sẽ tập trung nghiên cứu những chế định pháp luật có liên quan trực
tiếp đến quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng gia công xuất khẩu, thực tiễn áp
dụng những quy định này tại công ty CP may xuất khẩu VINA CAPITAL.
4.2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là thông qua việc nghiên cứu các đối tượng nêu trên để có
thể:
Thứ nhất, tiếp cận nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định hiện hành của

pháp luật về hợp đồng gia công xuất khẩu cũng như thực tiễn thi hành các quy định
này.
Thứ hai, lập luận đưa ra một số đề xuất về phía nhà nước và phía doanh nghiệp
nhằm nâng cao hiệu lực của pháp luật cũng như tính hiệu quả của hợp đồng gia công
xuất khẩu trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
Thông qua việc tìm hiểu thực tế việc áp dụng các quy định của pháp luật liên
quan đến hợp đồng nói chung và hợp đồng gia công xuất khẩu nói riêng tại công ty CP
may xuất khẩu VINA CAPITAL, em nhận thấy việc xảy ra vi phạm hay tranh chấp
trong hợp đồng đều bắt nguồn từ bất cập trong quá trình giao kết và thực hiện hợp
đồng giữa công ty và phía đối tác nước ngoài. Chính vì vậy, mặc dù tên đề tài khóa
luận là “Pháp luật về hợp đồng gia công xuất khẩu - thực tiễn thực hiện tại công ty Cổ
phần may xuất khẩu VINA CAPITAL” nhưng xuất phát từ vấn đề pháp luật điều chỉnh
hợp đồng gia công xuất khẩu rất rộng và xuất phát từ nhu cầu thực tế trong việc tìm
hiểu một số khía cạnh pháp lý liên quan đến hợp đồng của công ty nên trong giới hạn
của khóa luận này, em chỉ đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp
dụng pháp luật về quá trình giao kết và thực hiện một số nội dung cơ bản của hợp
đồng gia công xuất khẩu. Về mặt không gian nghiên cứu: Các văn bản pháp lý điều
chỉnh liên quan đến hợp đồng gia công hàng hóa, điển hình là BLDS 2015, LTM 2005,
4


Luật quản lý ngoại thương 2017, quy trình giao kết hợp đồng và các hợp đồng gia
công đã ký kết tại công ty CP may xuất khẩu VINA CAPITAL. Về mặt thời gian: Các
số liệu và dữ kiện liên quan đến hoạt động gia công xuất khẩu của công ty từ năm
2014 đến năm 2018.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và môn phương pháp nghiên cứu khoa học đã được giảng dạy trên nhà trường, em áp
dụng để nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận và pháp lý liên quan trực tiếp đến

các quy định về hợp đồng gia công xuất khẩu. Khóa luận này sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: Phương pháp phân tích - tổng hợp, phương
pháp so sánh luật học, phương pháp thu thập thông tin, phương pháp chứng minh,...
Dưới đây là phương pháp chủ yếu mà em sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài
khóa luận:
Phương pháp duy vật biện chứng:
Mục đích của việc sử dụng phương pháp này nhằm dựa trên những cơ sở lý luận,
thực tiễn thực thi pháp luật để đi sâu vào việc phân tích, đưa ra những kết luận gắn kết
chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, chỉ ra một số hạn chế dẫn đến việc áp dụng pháp
luật không hiệu quả liên quan đến vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng gia công xuất
khẩu. Phương pháp này thể hiện thông qua việc:
Thu thập thông tin, tài liệu, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quá
trình giao kết và thực hiện hợp đồng nói chung và hợp đồng gia công xuất khẩu nói
riêng như LTM 2005, BLDS 2015, Luật quản lý ngoại thương 2017 và một số văn bản
liên quan khác. Từ đó phân tích và đưa ra kết luận về một số lý luận cơ bản về hợp
đồng gia công xuất khẩu trong chương 1, bao gồm lý luận về khái niệm, đặc điểm, nội
dung, quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng...
Thu thập dữ liệu từ sổ sách, số liệu liên quan đến quá trình giao kết và thực hiện
hợp đồng trong công ty CP may xuất khẩu VINA CAPITAL để làm rõ thực trạng áp
dụng pháp luật về hợp đồng gia công xuất khẩu trên khía cạnh giao kết và thực hiện
hợp đồng gia công tại công ty, nguyên nhân gây ra thực trạng đó và kết quả tác động
của những thực trạng này đến hoạt động kinh doanh của công ty. Những thông tin, số
liệu cụ thể này sẽ được đưa vào chương 2 bao gồm: Điều lệ công ty, quy trình giao kết
hợp đồng, báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh của công ty CP may xuất
khẩu VINA CAPITAL từ năm 2014 đến năm 2018.
Phương pháp phân tích - tổng hợp:
Dựa trên cơ sở các tài liệu đã thu thập được, đưa ra các phân tích và đánh giá nội
dung các quy định pháp luật về hợp đồng gia công xuất khẩu trong chương 1 và thực
5



trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng gia công xuất khẩu tại công ty CP may xuất khẩu
VINA CAPITAL trong chương 2. Từ những phân tích, tổng hợp lại để có thể nhận
thức đầy đủ, đúng đắn về các quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp đồng gia công xuất
khẩu và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật liên quan đến vấn đề này. Phương pháp
phân tích - tổng hợp được sử dụng xuyên suốt chương 1, chương 2 và chương 3 của đề
tài khóa luận.
6. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp
Dựa trên phần tóm lược và phần đối tượng, phạm vi lẫn mục đích nghiên cứu đã
nêu trên thì khóa luận có kết cấu 3 phần như sau:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh hợp đồng gia công
xuất khẩu
1.1 Một số khái niệm cơ bản liên quan đến pháp luật về hợp đồng gia công xuất
khẩu.
1.2 Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng gia công xuất
khẩu.
1.3 Nguyên tắc về pháp luật điều chỉnh hợp đồng gia công xuất khẩu.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng gia công xuất khẩu và
thực tiễn thực hiện tại công ty Cổ phần may xuất khẩu VINA CAPITAL
2.1 Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh hợp
đồng gia công xuất khẩu.
2.2 Phân tích thực trạng một số quy định của pháp luật về hợp đồng gia công
xuất khẩu.
2.3 Thực trạng thực hiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp đồng gia công
tại công ty CP may xuất khẩu VINA CAPITAL.
2.4 Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu.
Chương 3: Một số giải pháp (kiến nghị) nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp
đồng gia công xuất khẩu
3.1 Một số định hướng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hợp đồng gia công xuất
khẩu.

3.2 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng gia công xuất khẩu.
3.3 Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu.

6


CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
HỢP ĐỒNG GIA CÔNG XUẤT KHẨU
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến pháp luật về hợp đồng gia công
xuất khẩu
1.1.1 Khái quát về hợp đồng gia công xuất khẩu
Ngay từ thời xa xưa, con người đã tự ý thức được việc bảo vệ quyền lợi, lợi ích
của bản thân trong quan hệ giao dịch thông qua “văn tự” hay “văn khế” và sau này là
thuật ngữ “khế ước” được sử dụng chính thức trong Sắc lệnh ngày 21 tháng 7 năm
1925. Đây là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong dân luật Việt Nam đến tận nửa
sau của thế kỷ XX, cho đến khi được thay thế bởi thuật ngữ hiện đại “hợp đồng”.
Thuật ngữ “khế ước” xuất phát từ tập quán của người xưa khi thực hiện các giao dịch,
theo đó các bên viết lên tờ giấy, xé đôi ra mỗi bên giữ một mảnh để làm tin. Đồng thời,
các giao dịch này dựa trên tinh thần đồng thuận, hợp ý lẫn nhau, ràng buộc mỗi bên
phải làm theo đúng những giao hẹn đó và “khế ước” được sử dụng như một bằng
chứng khi có tranh chấp xảy ra. Qua đây có thể thấy được tầm quan trọng của khế ước
đối với việc xác lập và thực hiện nghĩa vụ giao dịch giữa các bên.
Ngày nay, trong bất kỳ một lĩnh vực nào, từ dân sự, kinh tế đến lao động làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên thì đều có sự hiện diện của yếu tố hợp đồng.
Về mặt pháp lý, thuật ngữ “hợp đồng” được định nghĩa rõ ràng hơn thuật ngữ “khế
ước”, theo Từ điển Luật học 1999 thì “Hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên có tư
cách pháp nhân hoặc giữa những người có đầy đủ năng lực hành vi nhằm xác lập, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên”. Đến nay, “hợp đồng” được
quy định qua Điều 385 của BLDS 2015 như sau: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các
bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, có thể

hiểu hợp đồng nói chung là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong từng quan hệ xã hội cụ thể.
Trong lĩnh vực kinh tế, yếu tố để duy trì sự ổn định và thành công của các hoạt
động kinh doanh chính là tính chặt chẽ của hợp đồng. Điều này đặc biệt đúng trong
nền kinh tế toàn cầu hóa như hiện nay thì vai trò của hợp đồng càng được thể hiện rõ
ràng khi phạm vi chủ thể của hợp đồng không chỉ nằm trong vùng lãnh thổ, một đất
nước mà còn mang yếu tố nước ngoài, vượt ra khỏi phạm vi quốc gia. Xét về mặt kinh
tế, chính trị, xã hội trong giai đoạn hiện nay thì nước ta đang là điểm tìm kiếm các đơn
7


vị gia công của nhiều công ty trên thế giới. Điều này tạo điều kiện cho nhiều doanh
nghiệp gia công ra đời, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tiếp thu máy móc,
công nghệ tiên tiến từ nước ngoài. Chính vì kinh tế gia công có yếu tố nước ngoài ở
nước ta ngày càng phát triển nên các nội dung pháp lý về hợp đồng gia công xuất khẩu
cần được nghiên cứu và tìm hiểu cụ thể, rõ ràng.
1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng gia công xuất khẩu
Hoạt động gia công diễn ra cả trong lĩnh vực dân sự và lĩnh vực thương mại.
Trong dân sự, hoạt động gia công được điều chỉnh bởi hợp đồng gia công được quy
định tại Điều 524 BLDS 2015 như sau: “Hợp đồng gia công là sự thỏa thuận giữa các
bên, theo đó bên nhận gia công thực hiện công việc để tạo ra sản phẩm theo yêu cầu
của bên đặt gia công, bên đặt gia công nhận sản phẩm và trả tiền công”. Còn trong
thương mại, hoạt động gia công được quy định tại Điều 178 LTM 2005 “Gia công
trong thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận gia công sử dụng một
phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện một hoặc
nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công để hưởng
thù lao”. Từ hai khái niệm trên, ta có thể định nghĩa: Hợp đồng gia công thương mại là
sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ
nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn
trong quá trình sản xuất sản phẩm hàng hóa theo yêu cầu của bên đặt gia công với mục

đích hưởng thù lao, còn bên đặt gia công nhận sản phẩm và trả tiền thù lao.
Hiện nay, chưa có một khái niệm cụ thể nào về hợp đồng gia công xuất khẩu
trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành điều chỉnh hợp đồng gia công. Bởi
vậy, dựa trên tính chất hợp đồng gia công xuất khẩu là một loại hợp đồng thương mại
được ký kết giữa thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài thì có thể định
nghĩa hợp đồng gia công xuất khẩu như sau:
Hợp đồng gia công xuất khẩu là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên nhận
gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để
thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất sản phẩm hàng hóa theo
yêu cầu của bên đặt gia công với mục đích hưởng thù lao, còn bên đặt gia công nhận
sản phẩm và trả thù lao; Bên nhận gia công xuất khẩu hàng gia công cho bên đặt gia
công theo thỏa thuận, bên đặt gia công là thương nhân nước ngoài có trụ sở kinh
doanh tại nước ngoài.
Khái niệm hợp đồng gia công xuất khẩu nêu trên vừa kế thừa từ khái niệm hợp
đồng gia công được ghi nhận trong BLDS 2015, vừa thể hiện được đầy đủ bản chất
của hoạt động gia công thương mại ghi nhận trong LTM 2005, đồng thời cũng mang
những đặc điểm riêng của loại hợp đồng này.
8


1.1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng gia công xuất khẩu
Hợp đồng gia công xuất khẩu mang một số đặc điểm chung của hợp đồng gia
công trong dân sự như sau:
Thứ nhất, hợp đồng gia công xuất khẩu là hợp đồng song vụ. Cả bên đặt gia công
và bên nhận gia công đều có những quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng, trong đó quyền
của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Chẳng hạn, bên đặt gia công có
quyền yêu cầu bên nhận gia công gia công hàng hóa theo đúng mẫu mã và bên nhận
gia công có nghĩa vụ phải gia công theo đúng mẫu thiết kế mà bên đặt gia công yêu
cầu. Bên nhận gia công sau khi xuất khẩu hàng hóa cho bên đặt gia công thì có quyền
nhận thù lao và bên đặt gia công có nghĩa vụ trả thù lao cho bên nhận gia công.

Thứ hai, hợp đồng gia công xuất khẩu là hợp đồng ưng thuận. Hợp đồng được
thành lập dựa trên sự thỏa thuận, tự nguyện giữa các bên và có hiệu lực ngay từ thời
điểm các bên đã thỏa thuận xong các điều khoản cơ bản của hợp đồng. Hợp đồng gia
công xuất khẩu không bao giờ có thể thực hiện và chấm dứt ngay tại thời điểm giao
kết mà đòi hỏi thỏa thuận giữa các bên về thời hạn để bên nhận gia công thực hiện việc
gia công của mình.
Thứ ba, hợp đồng gia công xuất khẩu là hợp đồng có đền bù. Bên đặt gia công
nhận được hàng hóa đã gia công từ bên nhận gia công thì phải chuyển giao cho bên
nhận gia công một lợi ích tương xứng với công sức đã bỏ ra. Bên đặt gia công có nghĩa
vụ thanh toán tiền công cho bên nhận gia công theo thỏa thuận trong hợp đồng sau khi
nhận được đúng số lượng, chất lượng sản phẩm gia công từ bên nhận gia công theo
thỏa thuận trong hợp đồng.
Ngoài những đặc điểm trên thì hợp đồng gia công xuất khẩu còn mang một số
đặc điểm riêng về đối tượng, chủ thể, hình thức và nội dung của hợp đồng như:
Thứ nhất, về đối tượng hợp đồng: Đối tượng của hợp đồng gia công xuất khẩu là
việc thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất ra sản phẩm mới.
Sản phẩm mới được sản xuất ra theo hợp đồng gia công được gọi là hàng hóa gia công.
Tất cả các loại hàng hóa đều có thể gia công, trừ hàng hóa thuộc danh mục cấm; trong
trường hợp gia công cho thương nhân nước ngoài để tiêu thụ tại nước ngoài thì hàng
hóa thuộc diện cấm kinh doanh, cấm xuất - nhập khẩu có thể được gia công nếu được
cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định tại Luật quản lý ngoại thương 2017.
Thứ hai, về chủ thể của hợp đồng: Khác với gia công hàng hóa trong nước, gia
công xuất khẩu được thực hiện giữa bên nhận gia công là thương nhân trong nước và
bên đặt gia công là thương nhân có trụ sở chính tại nước ngoài. Chủ thể của hợp đồng
gia công là thương nhân đối với cá nhân và là tổ chức có tư cách pháp nhân theo quy
định của pháp luật.
9


Thứ ba, về hình thức hợp đồng: Hợp đồng gia công xuất khẩu phải được lập

thành văn bản hoặc bằng hình thức có giá trị tương đương như fax, telex, email, điện
báo,…Hợp đồng được xác lập bằng lời nói hoặc bằng hành vi trong trường hợp này
không được công nhận là một hợp đồng gia công xuất khẩu và không có giá trị pháp
lý.
Thứ tư, về nội dung hợp đồng: Ngoài những nội dung bắt buộc phải có trong hợp
đồng gia công theo quy định của pháp luật như hàng gia công, số lượng sản phẩm gia
công, quy cách phẩm chất, thời hạn hiệu lực của hợp đồng, nghĩa vụ các bên,... thì còn
bao gồm một số quy định do các bên thỏa thuận như giá cả, phương thức thanh toán,
phương thức giao hàng, địa điểm giao, nhận sản phẩm, tài liệu kỹ thuật,…Mục đích
thông thường trong hợp đồng gia công xuất khẩu là lợi nhuận.
1.1.2. Khái niệm pháp luật về hợp đồng gia công xuất khẩu
Hợp đồng gia công xuất khẩu chính là phương tiện pháp lý để tạo lập quan hệ
nghĩa vụ giữa bên nhận gia công là thương nhân Việt Nam và bên đặt gia công là
thương nhân nước ngoài. Khẳng định như vậy bởi vì hợp đồng này có sự can thiệp của
pháp luật. Hay nói cách khác, nếu không có pháp luật điều chỉnh hợp đồng gia công thì
một bên trong giao dịch không cần tuân thủ đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận và không bị
ràng buộc bởi bất cứ điều gì, hậu quả tất yếu là gây ra thiệt hại cho bên còn lại dẫn đến
phát sinh tranh chấp mà không có cơ sở để giải quyết. Chính vì vậy, yếu tố pháp luật là
yếu tố không thể thiếu khi xây dựng một hợp đồng nói chung và hợp đồng gia công
xuất khẩu nói riêng.
Pháp luật, trước hết, là những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống
trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích của giai
cấp mình. Pháp luật được biểu hiện cụ thể thông qua các quy phạm pháp luật. Những
quy phạm pháp luật đó mang tính bắt buộc chung, tính quy phạm phổ biến và được
đảm bảo bởi nhà nước. Pháp luật được nhà nước ban hành hay thừa nhận không chỉ
dành riêng cho một cá nhân, tổ chức cụ thể nào mà áp dụng cho tất cả các chủ thể nói
chung và chủ thể trong từng quan hệ xã hội nói riêng. Quan hệ gia công hàng hóa giữa
bên nhận gia công là thương nhân trong nước và bên đặt gia công là thương nhân nước
ngoài thông qua hình thức hợp đồng gia công xuất khẩu phải được thực hiện dựa trên

những căn cứ pháp lý nhất định, đó chính là pháp luật về hợp đồng gia công xuất khẩu.
Có thể định nghĩa pháp luật về hợp đồng gia công xuất khẩu như sau:
Pháp luật về hợp đồng gia công xuất khẩu là hệ thống những quy tắc xử sự mang
tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện bởi
các bên tham gia quan hệ hợp đồng gia công xuất khẩu. Pháp luật phải thể hiện được
10


ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình gia công hàng hóa xuất khẩu phát triển phù hợp với lợi ích giai cấp
của mình.
Trong đó, các bên tham gia quan hệ hợp đồng gia công xuất khẩu là bên nhận gia
công với tư cách thương nhân Việt Nam và bên đặt gia công với tư cách thương nhân
nước ngoài. Quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình gia công là quan hệ giữa quyền
và nghĩa vụ của bên nhận gia công đối với bên đặt gia công và ngược lại. Pháp luật
điều chỉnh hợp đồng sao cho các bên tham gia đều đảm bảo được lợi ích hợp pháp của
mình và bảo vệ một bên trong quan hệ gia công khi bên còn lại vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng.
Việc đưa ra khái niệm pháp luật về hợp đồng gia công nhằm phân biệt loại hợp
đồng này với các hợp đồng khác được pháp luật điều chỉnh, qua đó lựa chọn được các
quy phạm pháp luật để áp dụng điều chỉnh sao cho phù hợp, đạt được hiệu quả cao.
Đồng thời, khái niệm pháp luật về hợp đồng gia công xuất khẩu nêu trên đã thể hiện
đầy đủ bản chất và những đặc trưng cơ bản của pháp luật. Đó là tính giai cấp, tính xã
hội, tính quyền lực, tính quy phạm và tính ý chí.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng gia công
xuất khẩu
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật về hợp đồng gia công xuất khẩu
Thứ nhất, cơ sở chính trị:
Sau khi giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm năm
1975, nền chính trị của đất nước ta đã dần ổn định. Mục tiêu cấp thiết đặt ra lúc này là

thống nhất chính quyền, phát triển dân trí, phát triển xã hội đi kèm với đó là phát triển
kinh tế của đất nước. Chính vì vậy, ngày 15/12/1986 đến ngày 18/12/1986, Đại hội VI
của Đảng diễn ra với quyết định đổi mới toàn diện, chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN. Ngày 25/9/1989, Hội đồng nhà nước đã thông qua Pháp lệnh
Hợp đồng kinh tế và sau đó là hàng loạt các văn bản dưới luật như: Nghị định số
17/HĐBT ngày 16/01/1990 Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế;
Quyết định số 18/HĐBT ngày 16/01/1990 Việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế
theo chỉ tiêu pháp lệnh cùng một số văn bản hướng dẫn khác. Tuy trong Pháp lệnh
Hợp đồng kinh tế 1989 chưa có quy định rõ ràng cho từng loại hợp đồng mà chỉ quy
định về hợp đồng kinh tế nói chung, nhưng đây được coi là văn bản luật quan trọng để
phát triển pháp luật điều chỉnh hợp đồng trong từng lĩnh vực cụ thể sau này.
Những năm gần đây, với sự dẫn dắt và đường lối đúng đắn của Đảng, chính trị
của đất nước ngày càng ổn định, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
11


các quan hệ xã hội như quan hệ dân sự và quan hệ thương mại. Vì vậy, nhiều thương
nhân nước ngoài đã chủ động hợp tác với các doanh nghiệp trong nước để thúc đẩy
quan hệ hợp tác thương mại giữa hai phía, trong đó bao gồm quan hệ gia công hàng
hóa. Quan hệ gia công giữa thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài được
xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng gia công xuất khẩu. Để
đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ gia công có
yếu tố nước ngoài thì đòi hỏi Nhà nước phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh hợp đồng gia công xuất khẩu.
Thứ hai, cơ sở kinh tế:
Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới từ năm 1986. Sau hơn 30 năm chuyển từ
cơ chế kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nước
ta đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn. Hội nhập kinh tế quốc tế đã có tác động
không nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay. Hội nhập kinh tế

quốc tế đã cung cấp cho Việt Nam một nguồn lực kinh tế to lớn cùng với các hoạt
động chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của thế giới góp phần
giúp Việt Nam thoát khỏi nền kinh tế lạc hậu, dần phát triển theo kịp các nền kinh tế
tiên tiến trên thế giới…Trong quá trình hội nhập, không thể không kể đến sự đóng góp
của hoạt động gia công xuất khẩu đối với nền kinh tế nước ta. Với đất nước đang phát
triển như nước ta thì hoạt động gia công xuất khẩu đã và đang giúp nước ta giảm thiểu
được tình trạng thất nghiệp, gia tăng kinh nghiệm sản xuất, tiếp thu những công nghệ
tiên tiến từ nước ngoài và đặc biệt có ý nghĩa đối với quan hệ hợp tác lâu dài giữa Việt
Nam và các quốc gia khác trên thế giới. Để tạo được những kết quả này thì pháp luật
là yếu tố không thể thiếu trong quan hệ gia công xuất khẩu. Vì thị trường kinh tế luôn
luôn vận động và biến đổi nên pháp luật cũng cần phải được bổ sung hoàn chỉnh kịp
thời để phù hợp với tình hình thực tế. Chính vì vậy, Quốc hội đã thông qua BLDS
1995 (Hết hiệu lực), BLDS 2005 (Hết hiệu lực) và LTM 1997 (Hết hiệu lực) sau đó
những văn bản quy phạm pháp luật này đã được bổ sung, hoàn thiện hơn trong LTM
2005 và BLDS 2015.
Hiện nay, Việt Nam đang chú trọng chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp sang nền
kinh tế công nghiệp, đồng thời hội nhập với xu hướng toàn cầu hóa thì ngày càng
nhiều doanh nghiệp gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài được thành lập.
Điều này đòi hỏi nhà nước phải ban hành văn bản có quy định cụ thể và chi tiết hơn về
hoạt động gia công hàng hóa nói chung và hợp đồng gia công xuất khẩu nói riêng.
Thứ ba, cơ sở xã hội:
Sau thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa ra đời. Trải qua hai cuộc chiến tranh gian khổ, Nhà nước ta dưới sự
12


lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã giành được độc lập, thống nhất dân tộc và
đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ sau năm 1975. Trải qua hơn 30 năm đổi mới,
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã đưa đường lối đổi mới của Đảng vào cuộc
sống, mở ra bước ngoặt trong sự phát triển toàn diện của đất nước. Trong Hiến pháp

2013 khẳng định, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Điều này có nghĩa là, trong
tất cả mọi mặt của đời sống, từ kinh tế, chính trị đến xã hội thì đều lấy dân làm chủ và
thông qua pháp luật để bảo vệ lợi ích hợp pháp của dân. Chính vì vậy, ngoài việc đề
cao quyền công dân và quyền con người thì trong hoạt động kinh tế, các chủ thể kinh
tế cũng được bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình thông qua những quy định của pháp
luật điều chỉnh lĩnh vực này. Trong quan hệ gia công hàng hóa giữa thương nhân Việt
Nam và thương nhân nước ngoài, pháp luật đảm bảo các bên tham gia quan hệ này
được hưởng những quyền lợi, lợi ích hợp pháp của mình bằng các tạo lập các văn bản
quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp đồng gia công xuất khẩu. Thông qua việc quy định
về hợp đồng gia công xuất khẩu, các chủ thể phải tuân thủ đúng nghĩa vụ của mình
nhằm đảm bảo lợi ích cho bên còn lại, đồng thời, các chủ thể đều có quyền bình đẳng
như nhau và được bảo vệ ngang nhau trước pháp luật. Để làm được như vậy, pháp luật
đã quy định chi tiết hơn về nội dung, hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng tại Luật quản lý ngoại thương 2017 và Nghị định 69/2018/NĐ-CP.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng gia công xuất khẩu
Trong hợp đồng gia công xuất khẩu, pháp luật điều chỉnh về vấn đề giao kết hợp
đồng, thực hiện hợp đồng, giải quyết tranh chấp và chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên,
nhìn nhận từ thực tế cho thấy, việc áp dụng pháp luật trong giao kết và thực hiện hợp
đồng gia công xuất khẩu còn nhiều bất cập nên khóa luận này chỉ tập trung phân tích
pháp luật điều chỉnh hai vấn đề là giao kết và thực hiện hợp đồng gia công xuất khẩu.
1.2.2.1. Nội dung pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng gia công xuất khẩu
Thứ nhất, về nguyên tắc giao kết hợp đồng:
Theo từ điển Tiếng Việt, giao kết được hiểu là cam kết, hứa hẹn thực hiện đúng
những gì đã thỏa thuận; trong khoa học pháp lý, giao kết có nghĩa là sự thống nhất ý
chí giữa các chủ thể về quyền và nghĩa vụ. Có thể rút ra kết luận: Giao kết hợp đồng
gia công xuất khẩu là là việc các bên trong hợp đồng bày tỏ ý chí với nhau theo những
nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập, thay đổi hay chấm dứt với nhau
các quyền, nghĩa vụ liên quan đến hoạt động gia công xuất khẩu. Những nguyên tắc
và trình tự này nhằm đảm bảo sự an toàn về mặt pháp lý cho các bên tham gia giao kết,

thiết lập một mối quan hệ hợp đồng hợp pháp giữa các bên. Trong đó, những nguyên
tắc trong giao kết hợp đồng gia công xuất khẩu là:
13


Nguyên tắc bình đẳng: Nguyên tắc này được quy định tại Khoản 1 Điều 3 BLDS
2015 và Điều 10 LTM 2005. Theo nguyên tắc này, thương nhân thuộc mọi thành phần
kinh tế bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động thương mại, không được lấy bất kỳ
lý do gì để phân biệt đối xử. Việc tham gia hợp đồng hay không là do các bên có toàn
quyền định đoạt. Không một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào được áp đặt ý chí của
mình cho đơn vị kinh tế khác khi ký kết hợp đồng. Mọi hành động trái với nguyên tắc
bình đẳng giữa các bên đều khiến cho hợp đồng vô hiệu.
Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận nhưng không trái với đạo đức
xã hội: Nguyên tắc này được ghi nhận trong Khoản 2 Điều 3 BLDS 2015 và Điều 11
LTM 2005. Theo đó, các bên có quyền tự do thỏa thuận không trái với các quy định
của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ
của các bên trong hoạt động thương mại. Nguyên tắc này có hiệu lực đối với các bên ,
được chủ thể khác và nhà nước tôn trọng, bảo hộ quyền đó. Trong hoạt động thương
mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt,
cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào.
Nguyên tắc thiện chí, trung thực: Căn cứ theo Khoản 3 Điều 3 BLDS 2015, các
cá nhân và pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của mình
một cách thiện chí, trung thực. Mọi hành vi gian dối trong giao kết hợp đồng đều sẽ
dẫn đến hậu quả pháp lý nhất định, có thể dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng giữa các
bên.
Nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại được thiết lập giữa
các bên: Quy định tại Điều 12 LTM 2005, các bên được coi là mặc nhiên áp dụng thói
quen trong hoạt động thương mại đã được thiết lập giữa các bên đó mà các bên đã biết
nhưng không được trái với quy định của pháp luật. Trong một số trường hợp, khi bên
được đề nghị giao kết hợp đồng im lặng thể hiện sự chấp nhận đề nghị giao kết hợp

đồng đối với bên đề nghị mà đã có tiền lệ trước đó thì sự im lặng này cũng được coi là
một thói quen trong giao kết hợp đồng giữa hai bên.
Nguyên tắc áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại: Tại Điều 13 LTM
2005 quy định, trường hợp pháp luật không có quy định và các bên không có thói quen
đã được thiết lập giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không trái với
nguyên tắc quy định trong LTM 2005 và BLDS 2015.
Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu: Nguyên tắc này
được quy định tại Điều 15 LTM 2005. Trong giao kết hợp đồng gia công xuất khẩu,
nếu một bên gửi cho bên kia một thông điệp dữ liệu dưới dạng email, fax, telex,… đáp
ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật và bên kia đồng ý thì
được thừa nhận giá trị pháp lý như văn bản.
14


Thứ hai, về trình tự giao kết hợp đồng:
Đề nghị giao kết hợp đồng: Được quy định tại Điều 386 BLDS 2015 như sau:
“Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự
ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công
chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị)”. Nói cách khác, một lời chào hàng
thông thường không hướng đến một đối tượng cụ thể nào thì không được coi là một đề
nghị giao kết hợp đồng. Qua quy định trên, có thể thấy một đề nghị được coi là đề nghị
giao kết hợp đồng nếu đầy đủ ba dấu hiệu sau: Dấu hiệu đầu tiên, bên đề nghị phải thể
hiện rõ mong muốn giao kết hợp đồng; dấu hiệu tiếp theo là lời đề nghị phải hướng tới
chủ thể xác định và dấu hiệu cuối cùng là bên đề nghị phải chịu sự ràng buộc về lời đề
nghị nếu bên kia chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Một đề nghị giao kết hợp đồng có thể được thay đổi, rút lại trước hoặc cùng thời
điểm bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi, rút lại đề nghị theo quy
định tại điểm a Khoản 1 Điều 389. Trường hợp bên đề nghị tự thay đổi nội dung của
đề nghị trước đó khi bên được đề nghị đã chấp nhận đề nghị thì đề nghị này được coi
là một đề nghị giao kết hợp đồng mới theo Khoản 2 Điều 389.

Hiệu lực của đề nghị được bắt đầu và chấm dứt theo quy định tại Điều 388 và
Điều 391 BLDS 2015. Việc hủy bỏ đề nghị đề nghị giao kết hợp đồng được quy định
tại Điều 390 BLDS 2015.
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng: Được quy định tại Điều 393 BLDS 2015,
khi bên được đề nghị trả lời bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề
nghị trước đó được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Trong trường hợp các
bên đã xác lập thói quen im lặng thể hiện sự chấp nhận đề nghị giao kết thì cũng được
coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Thứ ba, về thời điểm giao kết hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng:
Việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các chủ thể tham gia ký kết hợp đồng gia công
xuất khẩu. Bởi vì, vào thời điểm hợp đồng được xác lập thì các bên đã bị ràng buộc
với nhau về mặt pháp lý. Khi hợp đồng có hiệu lực, pháp luật là công cụ mang tính
cưỡng chế để các bên thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận trong hợp đồng, đồng thời
pháp luật cũng bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp các chủ thể trong quan hệ hợp đồng
gia công xuất khẩu.
Thời điểm giao kết hợp đồng gia công xuất khẩu được quy định tại Điều 400
BLDS 2015 quy định chung về thời điểm giao kết hợp đồng như sau:

15


Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao
kết: Trong hợp đồng gia công xuất khẩu, khi bên đề nghị nhận được văn bản thể hiện
rõ ý định chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng hoặc fax, telex, email,... có giá trị pháp
lý tương đương từ bên được đề nghị thì hợp đồng gia công xuất khẩu được giao kết,
các bên trong hợp đồng đã có sự ràng buộc với nhau về mặt pháp lý và được bảo vệ
trước pháp luật.
Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự chấp nhận giao kết hợp đồng
trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của thời hạn

đó: Trong một thời hạn do bên đề nghị ấn định, khi bên được đề nghị nhận được đề
nghị giao kết hợp đồng và thể hiện sự im lặng là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
đó thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của thời hạn bên đề nghị ấn
định và hợp đồng bắt đầu có hiệu lực kể từ thời điểm này (trong trường hợp thời điểm
giao kết trùng với thời điểm có hiệu lực của hợp đồng).
Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn
bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản: Dựa trên quy
định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng trong BLDS 2015, có thể hiểu “bên sau
cùng ký vào văn bản” là bên nhận được đề nghị giao kết hợp đồng. Theo đó, thời điểm
giao kết hợp đồng gia công xuất khẩu bằng văn bản là thời điểm bên được đề nghị ký
vào văn bản hoặc bằng hình thức chấp nhận khác trên văn bản. Trong trường hợp giao
kết hợp đồng điện tử thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên được đề nghị ký
bằng chữ ký điện tử lên hợp đồng điện tử đó.
Nếu ban đầu hợp đồng được giao kết bằng lời nói sau đó xác lập bằng văn bản
thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các bên đã thỏa thuận bằng lời nói về nội
dung hợp đồng: Hợp đồng gia công xuất khẩu chỉ được thành lập bằng văn bản hoặc
các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương thông qua phương tiện điện tử, bởi
vậy hợp đồng đã được giao kết bằng lời nói phải được xác lập bằng văn bản thì mới có
giá trị pháp lý. Thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các bên đã thỏa thuận nội
dung hợp đồng bằng lời nói và thể hiện đúng những nội dung đó vào văn bản.
Các bên tham gia ký kết hợp đồng phải là các chủ thể có đủ thẩm quyền ký kết
hợp đồng hoặc được người có thẩm quyền ký kết ủy quyền để tham gia ký kết hợp
đồng gia công xuất khẩu.
Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng gia công xuất khẩu được quy định tại Điều
401 BLDS 2015 như sau:
Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác: Trừ trường hợp các bên
thỏa thuận hiệu lực hợp đồng là một khoảng thời gian sau thời điểm giao kết hợp đồng,
16



nếu không hợp đồng sẽ có hiệu lực ngay từ thời điểm giao kết hợp đồng và các bên
phải bắt đầu thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong nội dung hợp đồng gia công xuất
khẩu.
Từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối
với nhau theo cam kết: Bên nhận gia công phải thực hiện nghĩa vụ hoàn thành sản
phẩm gia công theo yêu cầu của bên đặt gia công và chuyển giao hàng hóa gia công
cho bên đặt gia công thông qua hình thức xuất khẩu; Bên đặt gia công chuyển tài liệu
cho bên nhận gia công, kiểm tra hàng và trả tiền thù lao cho bên nhận gia công theo
thỏa thuận hợp đồng.
Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa thuận của các bên hoặc
theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu:
Nhiều doanh nghiệp gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài thường
nhầm lẫn giữa hai khái niệm hợp đồng vô hiệu và chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên, hợp
đồng chỉ chấm dứt khi đã hoàn thành xong công việc theo thỏa thuận trong hợp đồng
còn hợp đồng vô hiệu được quy định trong Điều 407, Điều 408 BLDS 2015, theo đó:
Hợp đồng vô hiệu toàn bộ khi vi phạm một trong các trường hợp sau: Các chủ
thể trong hợp đồng vi phạm điều cấm của luật, làm trái đạo đức xã hội; Hợp đồng vô
hiệu do giả tạo; Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện; Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn; Hợp đồng vô
hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép; Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận
thức và làm chủ được hành vi của mình; Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định
về hình thức; Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được.
Hợp đồng vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của hợp đồng vô hiệu nhưng
không ảnh hưởng đến hiệu lực phần còn lại của hợp đồng.
Để xử lý hợp đồng bị vô hiệu, dù các bên đã thực thực hiện hay chưa thực hiện
hợp đồng, đã thực hiện toàn bộ hay đã thực hiện một phần hợp đồng thì đều phải xử lý
dựa trên nguyên tắc của pháp luật quy định tại Điều 133 BLDS 2015 như sau:

Khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận: Các
bên trong hợp đồng vô hiệu phải khôi phục lại tình trạng ban đầu khi tài sản được hoàn
trả không đúng với hiện trạng tại thời điểm xác lập hợp đồng và hoàn trả lại cho bên
kia những gì đã nhận
Bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại: Việc bồi thường thiệt hại do hợp đồng vô
hiệu không phải là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Trong
trường hợp xác định được lỗi, bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại cho bên còn lại.
17


Bảo vệ quyền lợi của bên ngay tình khi hợp đồng bị vô hiệu: Trong một số trường
hợp, tuy bên có quyền bị vi phạm được yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình nhưng Tòa án có thể xem xét để bảo vệ quyền lợi của người ngay tình.
1.2.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh thực hiện hợp đồng gia công xuất khẩu
Thực hiện hợp đồng gia công xuất khẩu là những hành vi của các chủ thể tham
gia hợp đồng (bên nhận gia công và bên đặt gia công) nhằm làm cho các điều khoản,
nội dung đã cam kết trong hợp đồng đó trở thành hiện thực. Để đảm bảo các bên trong
quan hệ hợp đồng thực hiện đúng nội dung đã thỏa thuận trong hợp đồng, pháp luật
đưa ra những quy định mang tính bắt buộc chung như sau:
Thứ nhất, về nguyên tắc thực hiện hợp đồng gia công xuất khẩu:
Việc thực hiện hợp đồng phải diễn ra trên tinh thần trung thực, hợp tác và cùng
có lợi, bảo đảm sự tin cậy lẫn nhau giữa các bên trong quan hệ hợp đồng. Đây là
nguyên tắc cơ bản trong việc thực hiện hợp đồng giữa các bên. Các bên trong hợp
đồng phải trung thực, không được lừa dối lẫn nhau, đảm bảo tuân thủ thực hiện đúng
những nội dung đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Thực hiện đúng các điều khoản, nội dung của hợp đồng mà các bên cam kết về
đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại hàng hóa gia công; thời hạn thực hiện hợp
đồng gia công; thời hạn và phương thức thanh toán và một số thỏa thuận khác được
nêu trong hợp đồng.
Việc thực hiện hợp đồng giữa các bên không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà

nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Nếu việc thực hiện
hợp đồng xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hay lợi ích hợp pháp
của người khác thì các bên trong hợp đồng phải chịu trách nhiệm pháp lý trước pháp
luật.
Thứ hai, về quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện hợp đồng gia
công xuất khẩu: Được quy định tại Điều 181 và Điều 182 LTM 2005; Luật hải quan
2014; Điều 32 Nghị định số 187/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Thương
mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia
công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài; Điều 42 Nghi định số 69/2018/NĐ-CP
Quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương như sau:
Đối với bên đặt gia công:
Giao toàn bộ hoặc một phần nguyên liệu, vật tư gia công theo thỏa thuận tại hợp
đồng gia công hoặc tiền mua vật liệu theo số lượng, chất lượng và mức giá thỏa thuận.
Việc giao nguyên, vật liệu cho bên nhận gia công được tiến hành thông qua việc làm
thủ tục hải quan.

18


Nhận lại toàn bộ sản phẩm gia công; máy móc, thiết bị cho bên nhận gia công
thuê hoặc cho mượn; nguyên liệu, phụ liệu, vật tư, phế liệu sau khi thanh lý hợp đồng
gia công, trừ trường hợp được phép xuất khẩu tại chỗ, tiêu hủy, biếu, tặng theo quy
định pháp luật.
Thanh toán thù lao cho bên nhận gia công theo thỏa thuận trong hợp đồng sau khi
nhận được sản phẩm gia công. Trong đó, các điều khoản cụ thể như đồng tiền thanh
toán, phương thức thanh toán, thời hạn và địa điểm thanh toán, trình tự, thủ tục thanh
toán phải thực hiện đúng như thỏa thuận.
Chịu trách nhiệm về quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng
hóa gia công, nguyên liệu, vật liệu, máy móc, thiết bị dùng để gia công chuyển cho
bên nhận gia công.

Đối với bên nhận gia công:
Được miễn thuế thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho quá trình gia công
hàng hóa theo quy định của pháp luật về thuế đối với hàng hóa thực hiện hợp đồng gia
công và đối với sản phẩm gia công xuất khẩu. Trừ trường hợp bên nhận gia công thông
qua bên thứ ba khác để hoàn thành một giai đoạn trong quá trình gia công thì sẽ không
được miễn thuế nhập khẩu theo quy định của pháp luật.
Được cung ứng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, phụ liệu, vật tư để gia công
theo thỏa thuận trong hợp đồng gia công để thực hiện công việc gia công hàng hóa;
phải nộp thuế xuất khẩu theo quy định của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối
với phần nguyên liệu, phụ liệu, vật tư mua trong nước.
Giao hàng hóa đã được gia công cho bên đặt gia công thông qua phương thức
xuất khẩu qua biên giới hoặc xuất khẩu tại chỗ. Bên nhận gia công phải đảm bảo hàng
hóa gia công đúng về số lượng, chất lượng, mẫu mã, cách thức đóng gói và vận
chuyển theo quy định trong hợp đồng. Bên nhận gia công cần kiểm tra lại hàng hóa
nhằm ngăn ngừa những sai sót về số lượng, mẫu mã sản phẩm,... trước khi giao hàng
cho bên đặt gia công. Giao hàng dựa trên một trong các điều kiện giao hàng trong
Incoterms 2010 được thỏa thuận trong hợp đồng và làm thủ tục hải quan theo quy định
của Luật Hải quan 2014, đồng thời dựa trên quy định của pháp luật nộp thuế xuất
khẩu. Theo đó, bên nhận gia công phải chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa cho bên
đặt gia công tùy thuộc vào tính chất của việc chuyển giao hàng hóa và phương thức
chuyển giao hàng hóa. Trong trường hợp xảy ra rủi ro đối với hàng hóa gia công trong
quá trình vận chuyển cho đối tác nước ngoài thì căn cứ vào điều kiện giao hàng để xác
định bên nào là bên phải chịu rủi ro.

19


×