Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Quản lý nhà nước về vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn huyện quảng xương, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.61 KB, 48 trang )

TÓM LƯỢC
Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm là một vấn đề nhạy cảm trong cuộc sống. Với
nhu cầu về thực phẩm rất cao như hiện nay thì việc phải quản lý vệ sinh an toàn thực
phẩm là vô cùng cần thiết. Vì vậy việc quản lý Nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm
có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của xã hội nói chung và của huyện Quảng
Xương nói riêng. Trong đó vai trò của các cơ quan chức năng có thể nói là quan trọng
nhất.
Bằng những phương pháp nghiên cứu khác nhau, đề tài chỉ ra nội dung quản lý
nhà nước về vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm trên cơ sở lý thuyết bao gồm: xây dựng
và ban hành các chính sách, văn bản pháp luật, tổ chức thực hiện, công tác thanh tra,
kiểm tra, xử lý vi phạm và công tác tuyên truyền, giáo dục về an toàn vệ sinh thực
phẩm. Đồng thời, đánh giá thực trạng quản lý tại huyện Quảng Xương những năm gần
đây. Từ đó thấy được những điểm tích cực cũng như những điểm còn hạn chế trong
công tác quản lý của huyện, để đưa ra những kiến nghị, giải pháp phù hợp nhằm hoàn
thiện, phát huy hiệu qủa chức năng quản lý của huyện, phát triển theo hướng an toàn
và bền vững.

i


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khoá luận này, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, em đã nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy, cô giáo khoa Kinh tế - Luật, đặc biệt là các
thầy cô thuộc bộ môn Quản lý kinh tế và tập thể nhiều cá nhân khác. Em xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc với thầy giáo TS. Vũ Tam Hoà, người đã quan tâm, chỉ dẫn tận
tình và trực tiếp hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện khoá luận tốt nghiệp.
Em cũng xin cảm ơn các cá nhân thuộc hệ thống quản lý nhà nước về an toàn
vệ sinh thực phẩm huyện Quảng Xương, đặc biệt là Phòng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá. Đồng thời em xin cảm ơn các cơ sở
liên quan đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu thực tiễn và thu thập
dữ liệu phục vụ cho khoá luận.


Em xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, bạn bè, những người đã động viên,
tạo động lực cho em trong suốt quá trình làm khoá luận tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Sinh viên thực hiện:

Nguyễn Thị Hằng

ii


MỤC LỤC

iii


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
STT
1

Bảng biểu,
sơ đồ
Bảng 2.2.2a

2

Bảng 2.2.2b

3


Bảng 2.3.1

4

Bảng 2.3.2

5

Sơ đồ 1.2.2

Tên bảng biểu, sơ đồ

Trang

Danh sách thành viên thuộc Văn phòng điều đối vệ
sinh an toàn thực phẩm huyện Quảng Xương
Các mô hình sản xuất, chế biến, kinh doanh thực
phẩm an toàn
Bảng kết quả thực hiện các tiêu chí về quản lý an
toàn vệ sinh thực phẩm năm 2018 của huyện Quảng
Xương
Tình hình hoàn thành các tiêu chí xã an toàn thực
phẩm của huyện Quảng Xương hiện nay
Các công cụ quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh
thực phẩm

26

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


iv

28
32

33
16


STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Tên viết tắt
UBND
ATTP
PTNT
VPHC
HĐND
TTLT
BYT

BCT
TPAT
NĐTP
LHPN

Nghĩa
Uỷ ban nhân dân
An toàn thực phẩm
Phát triển nông thôn
Vi phạm hành chính
Hội đồng nhân dân
Thông tư liên tịch
Bộ y tế
Bộ công thương
Thực phẩm an toàn
Ngộ độc thực phẩm
Liên hiệp phụ nữ

v


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
An toàn vệ sinh thực phẩm là một vấn đề vô cùng cấp thiết và quan trọng trong
đời sống xã hội. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề sức khỏe và tính mạng của con
người, đồng thời ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là thương mại,
du lịch và an sinh xã hội. Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình hội
nhập quốc tế mang lại cho nước ta nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Đó là
vấn đề cạnh tranh về chất lượng, giá cả, ...điều này đòi hỏi Việt Nam phải nâng cao
chất lượng sản phẩm, dịch vụ của mình để đáp ứng được nhu cầu của thế giới. Thời

gian gần đây, những cảnh báo về vệ sinh an toàn thực phẩm liên tục có tác động rất lớn
đến đời sống xã hội. Đây là vấn đề phải ngày càng được đẩy mạnh quan tâm hiện nay.
Hiện nay, nhà nước đã có nhiều quan tâm sát xao với vấn đề an toàn vệ sinh
thực phẩm. Tuy nhiên, an toàn vệ sinh thực phẩm trong cả nước nói chung và huyện
Quảng Xương (Thanh Hóa) nói riêng đang trở thành mối lo cho các nhà quản lý. Do
nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng tăng cao nên yêu cầu về chất lượng an toàn
thực phẩm cũng tăng lên. Theo số liệu của Cục An toàn thực phẩm, Bộ Y tế, tính đến
hết tháng 10 năm 2018, cả nước đã xảy ra 91 vụ ngộ độc thực phẩm, khiến hơn 2.010
người ngộ độc. Theo báo cáo trong năm thì tỷ lệ số trường hợp vi phạm an toàn vệ
sinh thực phẩm trên số cơ sở được kiểm tra hiện nay rất cao. Điều đó cho thấy lĩnh vực
an toàn thực phẩm vẫn còn nhiều lo ngại với tình trạng sản xuất, kinh doanh thực
phẩm bẩn diễn biến vô cùng phức tạp.
Thực tế hiện nay cho thấy vệ sinh an toàn thực phẩm của cả nước đang trong
tình trạng đáng cảnh báo và huyện Quảng Xương cũng không ngoại lệ, đặc biệt vừa
qua đã diễn ra dịch tả châu Phi, gây ảnh hưởng không nhỏ đến vệ sinh an toàn thực
phẩm. Mặc dù nhiều chính sách được ban hành nhưng vẫn chưa giải quyết được những
vấn đề còn nan giải. Bởi vì một số chính sách đưa ra chưa thực sự phù hợp với thực
tiễn, vẫn còn tình trạng chồng chéo, quy định pháp luật chưa đi sâu vào trong nhân
dân. Vì vậy đây vẫn luôn là vấn đề cần thiết phải thường xuyên quan tâm quản lý và
cần nhiều công trình nghiên cứu để hoàn thiện hơn cơ sở pháp lý cho việc quản lý nhà
nước về an toàn vệ sinh thực phẩm.
Quảng Xương là huyện chủ yếu phát triển sản xuất nông nghiệp nên vấn đề sản
xuất chế biến lương thực phẩm được quan tâm rất nhiều. Vì vậy việc an toàn vệ sinh
của thực phẩm rất được ban lãnh đạo huyện quan tâm. Nhiều chính sách đã được thực
hiện, nhiều văn bản pháp luật được huyện ban hành để quản lý vệ sinh thực phẩm, phát
triển sản xuất an toàn tại huyện. Nhưng hiện tại về nguồn nhân lực cho công tác quản
1


lý vệ sinh an toàn thực phẩm tại huyện còn nhiều hạn chế về số lượng và trình độ, vì

vậy cần được quan tâm quản lý và đào tạo trong thời gian tới.
Trong những năm qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề an toàn
vệ sinh thực phẩm trên cả nước, bao gồm các nghiên cứu tổng quát về tình hình an
toàn vệ sinh thực phẩm trong cả nước, thực tế quản lý ở các địa phương khác nhau.
Các công trình này nghiên cứu vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm ở nhiều khía cạnh
khác nhau, giúp cho các nhà quản lý có cái nhìn đa dạng về thực trạng quản lý nhà
nước về vệ sinh an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách độc lập, cụ thể về quản lý nhà nước đối với an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa
bàn huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
Vì vậy, xuất phát từ những lý do trên, cần thiết phải nghiên cứu đề tài “ Quản lý
nhà nước về vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn huyện Quảng Xương, tỉnh
Thanh Hóa”. Đề tài sẽ tiếp thu những kiến thức từ các kết luận trước đó, đồng thời bổ
sung và hoàn thiện những vấn đề chưa được phát hiện và nghiên cứu về an toàn vệ
sinh thực phẩm trên địa bàn huyện Quảng Xương.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Đã có khá nhiều bài viết đề cập đến vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, mỗi bài
viết được nhìn nhận trên những khía cạnh và các phương diện khác nhau. Tuy đề cập
về cùng một chủ đề nhưng các bài viết khác nhau sẽ mang đến cho người đọc những
sự hiểu biết khác nhau. Sau đây xin được chỉ ra một số bài viết là nghiên cứu của các
tác giả trong nước như sau:
Nguyễn Văn Anh (2017), Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm trên
địa bàn quận 8, thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ, Học viện Hành chính quốc
gia. Luận văn đã nêu khái quát những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với an
toàn vệ sinh thực phẩm, trong đó tập trung vào nội dung quản lý nhà nước đối với vấn
đề này, đưa ra những phương thức quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm.
Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra kinh nghiệm quản lý của một số nước trên thế giới.
Về thực trạng quản lý vấn đề này, tác giả phân tích việc ban hành các văn bản pháp
luật, tổ chức thực hiện các chính sách pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm, việc
thanh tra kiểm tra, xử lý vi phạm. Đánh giá được những thành công, hạn chế trong quá
trình quản lý và cuối cùng đưa ra phương hướng giải pháp hoàn thiện quản lý nhà

nước về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Nguyễn Thị Giang (2011), Quản lý nhà nước đối với vệ sinh an toàn thực phẩm
và môi trường tại các điểm giết mổ và chế biến thực phẩm dân doanh trên địa bàn Hà
Nội, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Thương mại. Trình bày những vấn đề lý luận cơ
bản liên quan đến quản lý Nhà nước đối với vấn đề Vệ sinh an toàn thực phẩm và môi
2


trường tại các điểm giết mổ, chế biến thực phẩm dân doanh trên địa bàn tỉnh, thành
phố; nghiên cứu thực trạng và đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực quản
lý Nhà nước đối với vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường tại các điểm giết mổ,
chế biến thực phẩm dân doanh trên địa bàn Hà Nội.
Trần Thị Khúc (2014), Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sỹ, Học viện nông nghiệp Việt Nam. Bài viết đã
trình bày được những cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với vấn đề an toàn vệ sinh
thực phẩm, đưa ra những cơ sở thực tiễn về kinh nghiệm quản lý trong nước cũng như
quốc tế để rủ ra bài học kinh nghiệm cho địa phương. Bài viết phân tích thực trạng
quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm tại tỉnh Bắc Ninh, bao gồm tình hình
xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện văn bản, chính sách pháp luật về vệ sinh an toàn
thực phẩm, thực trạng về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm, cơ sở vật chất, nguồn vốn phục vụ quản lý. Đồng thời đánh giá công tác thanh
tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước. Tác giả cũng đề xuất giải pháp nhằm
tăng cường quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm. Về cơ bản, bài viết đã
phân tích khá đầy đủ những vấn đề cốt yếu liên quan đến đề tài.
Hồ Thanh Mai (2011), Hoàn thiện chính sách quản lý nhà nước nhằm đảm bảo
vệ sinh an toàn thực phẩm trong kinh doanh thương mại ở các chợ nước ta hiện nay,
Luận văn tốt nghiệp, Trường Đại học Thương mại. Luận văn đã hệ thống hóa các
chính sách quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm trong kinh doanh thương
mại ở các chợ của nước ta. Luận văn đã đưa ra những đánh giá quan trọng góp phần
hoàn thiện chính sách quản lý của nhà nước nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm

trong kinh doan thương mại tại các chợ của nước ta hiện nay.
Bùi Thị Hồng Nương (2019), Quản lý nhà nước an toàn thực phẩm ở Việt Nam
hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện khoa học xã hội. Luận án đã chỉ ra được nội dung,
vai trò của quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm, đưa ra những kinh nghiệm
quản lý của một số nước trên thế giới. Luận án đánh giá chung về hoạt động quản lý
nhà nước đối với vệ sinh an toàn thực phẩm bao gồm những kết quả đạt được, tồn tại,
hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó. Từ đó tác giả đề xuất giải pháp ngằm
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với an toàn thực phẩm.
Trần Thị Thuý (2009), Tăng cường quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm đối với các siêu thị trên địa bàn chợ Hà Nội, Luận văn tốt nghiệp, Đại học
Thương mại. Luận văn tập trung nghiên cứu đến vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm tại
các siêu thị trên địa bàn chợ Hà Nội. Tác giả đã đưa ra những cơ sở lý luận về quản lý
nhà nước với vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm; đánh giá thực trạng quản lý tại các

3


siêu thị trên địa bàn chợ Hà Nội. Từ đó đề xuất giải pháp tăng cường quản lý nhà nước
về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các siêu thị trên địa bàn chợ Hà Nội.
Ngô Thị Xuân (2014), Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa
bàn huyện Thái Thịnh, tỉnh Thái Bình”, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Thương
mại. Luận văn đã hệ thống hóa một số lý luận về an toàn vệ sinh thực phẩm, phân tích
thực trạng quản lý ở huyện Thái Thụy, sau đó đề xuất giải pháp tăng cường quản lý
nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
Tác giả tập trung nghiên cứu vào hoạt động quản lý nhà nước về cơ sở sản xuất, kinh
doanh thực phẩm thuộc thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy gồm cơ sở sản xuất, chế
biến thực phẩm và cơ sở kinh doanh thực phẩm.
Có thể thấy những công trình nghiên cứu trên đã khái quát khá cụ thể được
những cơ sở lý luận về vấn đề quản lý nhà nước đối với vệ sinh an toàn thực phẩm,
đánh giá được thực trạng quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm trong phạm vi nghiên cứu.

Các công trình nói trên đã làm sáng tỏ và sâu sắc thêm những vấn đề lý luận về quản
lý nhà nước đối với an toàn vệ sinh thực phẩm. Đưa ra được một số khái niệm, kết
luận mang tính khoa học, góp phần hoàn thiện lý luận về an toàn vệ sinh thực phẩm.
Làm rõ nội dung liên quan đến quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm. Các
công trình đã nghiên cứu thực trạng vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm trên một số địa
bàn cụ thể: huyện Thái Thụy, tỉnh Bắc Ninh, thành phố Hà Nội,...Các kết luận, đánh
giá của các công trình trên giúp cho các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý có cái nhìn
tổng quát, đầy đủ hơn về các quy định cũng như cách tổ chức hiện để góp phần nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm.
Tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu về an toàn vệ sinh thực phẩm nhưng vấn
đề này hiện nay ở thực tế nước ta vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập. Do các công trình
này đề cập đến các đối tượng khác nhau nên cách nhìn cũng sẽ khác nhau không thể
toàn diện về các mặt liên quan đến an toàn vệ sinh thực phẩm. Tuy nhiên, từ trước đến
nay chưa có một công trình nghiên cứu tổng hợp độc lập nào về quản lý nhà nước đối
với vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Vì
vậy đề tài “ Quản lý nhà nước về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn huyện
Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa” sẽ là công trình nghiên cứu tiếp theo gắn với huyện
Quảng Xương sẽ góp phần bổ sung và hoàn thiện hơn những kết luận của nghiên cứu
trước đây nhằm góp phần tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh
thực phẩm ở các địa phương trên cả nước.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm là vấn đề chưa bao giờ hết nóng trong xã hội
hiện nay. Đặc biệt nhìn từ thực tế Việt Nam cho thấy một số sản phẩm của Việt Nam
4


không thể xuất khẩu sang nước ngoài vì không đạt chất lượng theo yêu cầu của nước
bạn. Chất lượng cao phải đi đôi với sản phẩm an toàn, hợp vệ sinh. Vì vậy đây cũng là
vấn đề được Nhà nước hết sức quan tâm.
Với đặc thù của Việt Nam hiện nay vẫn là sản xuất nông nghiệp là chính thì vấn

đề này lại càng quan trọng. Đặc biệt, Nhà nước luôn luôn quan tâm chỉ đạo cho các
vùng, các đơn vị sản xuất nông nghiệp về vấn đề này. Nhà nước phổ biến, chỉ đạo cho
các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương thực hiện những kế hoạch, chương trình,
mục tiêu nhằm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, giúp nâng cao chất lượng thực
phẩm của địa phương nói riêng và Việt Nam nói chung.
Là một huyện thuộc tỉnh Thanh Hoá, trong những năm qua Quảng Xương cũng
nhận được sự chỉ đạo này và luôn quan tâm quản lý tốt vấn đề an toàn vệ sinh thực
phẩm trên địa bàn toàn huyện. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề trên em đã quyết định lựa
chọn đề tài “ Quản lý nhà nước về vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn
huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá”.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống hoá cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với vấn đề an toàn vệ sinh
thực phẩm, phân tích thực trạng quản lý tại huyện Quảng Xương, từ đó đưa ra giải
pháp hợp lý để tăng cường quản lý nhà nước về vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm trên
địa bàn huyện Quảng Xương.
b) Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu lý luận: khái quát được những cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối
với vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm.
- Mục tiêu thực tiễn: làm sáng tỏ được thực trạng quản lý nhà nước về vấn đề an
toàn vệ sinh thực phẩm. Đánh giá quá trình xây dựng, ban hành chính sách, tổ chức
thực hiện cũng như việc thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về an toàn vệ sinh thực
phẩm trên địa bàn huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá. Từ đó đề xuất những giải
pháp, kiến nghị để quản lý vấn đề này trong thời gian tới.
c) Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh
thực phẩm trên địa bàn huyện Quảng Xương theo nội dung của quá trình quản lý nhà
nước về an toàn vệ sinh thực phẩm bao gồm: xây dưng, ban hành chính sách, tổ chức
thực hiện, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, tuyên truyền, giáo dục về an toàn thực
phẩm.

- Phạm vi không gian: nghiên cứu trên địa bàn toàn huyện Quảng Xương, thuộc
tỉnh Thanh Hoá.
5


- Phạm vi thời gian: trong thời gian từ năm 2014-2019.
5. Phương pháp nghiên cứu
a, Phương pháp thu thập dữ liệu
Thu thập dữ liệu là một công việc không thể thiếu để nghiên cứu một vấn đề
nào đó. Mục đích của thu thập dữ liệu là để làm cơ sở lý luận khoa học hay luận cứ để
chứng minh giả thuyết hay tìm ra vấn đề cần nghiên cứu. Để phục vụ tốt hơn trong bài
khóa luận này, đề tài sử dụng cách thu thập dữ liệu thứ cấp là chủ yếu.
Cách thu thập dữ liệu: Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ phòng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn huyện Quảng Xương, từ các báo cáo, tài liệu của phòng, báo cáo
tình hình an toàn vệ sinh thực phẩm của huyện. Ngoài ra, dữ liệu thứ cấp còn được thu
thập từ bên ngoài: thu thập số liệu qua sách, giáo trình, qua các luận văn của sinh viên
trường các Đại học, các luận án tiến sĩ, thạc sĩ…; các báo cáo, tạp chí và qua các trang
website.
Cách xử lý dữ liệu: Từ các dữ liệu thu thập được tiến hành tổng hợp, chọn lọc
dữ liệu thích hợp sau đó phân tích và đánh giá dữ liệu.
b, Các phương pháp phân tích và xử lý tổng hợp dữ liệu
Phương pháp sử dụng, phân tích số liệu sau khi đã thu thập được thông tin, số
liệu cần thiết. Phương pháp này tập trung phân tích, xử lý các thông tin, dữ liệu thu
thập được từ dữ liệu thứ cấp và sơ cấp.
Thứ nhất, phương pháp thống kê. Phương pháp này sử dụng các số liệu để trình
bày các đặc điểm của vấn đề. Ngoài tác dụng phân tích, phục vụ quá trình thực hiện
khóa luận một cách thuận tiện hơn và thấy được xu hướng thay đổi trong quản lí an
toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn huyện Quảng Xương.
Thứ hai, phương pháp phân tích cơ bản: Là sự phân tích những yếu tố ảnh
hưởng đến công tác quản lý của nhà nước đối với vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm

trên địa bàn huyện Thạch Thất.
Thứ ba, phương pháp phân tích tổng hợp: Sau khi tiến hành tổng hợp dữ liệu,
phân tích dữ liệu, phân tích tổng hợp để đưa ra các kết luận cuối cùng.
Ngoài ra, đề tài có sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp so
sánh, phương pháp quan sát,…
6. Kết cấu khoá luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu, lời cảm ơn, danh mục sơ đồ, bảng biểu, từ viết tắt, tài liệu
tham khảo,… thì kết cấu của khoá luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về quản lý nhà nước đối với vấn đề an toàn vệ
sinh thực phẩm

6


Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa
bàn huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị đối với vấn đề quản lý nhà nước về an
toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn huyện Quảng Xương

7


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI VẤN ĐỀ AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm thực phẩm
Theo Luật An toàn thực phẩm 2010 thì “Thực phẩm được hiểu là sản phẩm mà
con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực
phẩm không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm”.
Theo tiêu chuẩn thực phẩm Quốc tế (Codex): “ Thực phẩm là tất cả các chất đã

hoặc chưa chế biến nhằm sử dụng cho con người bao gồm đồ ăn, uống, nhai, ngậm,
hút và các chất được sử dụng để sản xuất, chế biến hoặc xử lý thực phẩm, nhưng
không bao gồm mỹ phẩm và những chất chỉ được dùng như dược phẩm.
Có thể thấy Thực phẩm là một trong những nhu cầu thiết yếu cho sự tồn tại của
con người. Con người sử dụng thực phẩm để ăn uống, tăng cường sức khỏe. Vì vậy
con người không thể sống thiếu nó được. Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu tiêu
dùng thực phẩm cũng ngày càng đa dạng và phong phú hơn.
1.1.2. Khái niệm an toàn vệ sinh thực phẩm
Theo quy định của Luật An toàn thực phẩm năm 2010: “An toàn vệ sinh thực
phẩm là các điều kiện và biện pháp cần thiết để bảo đảm thực phẩm không gây hại cho
sức khỏe, tính mạng của con người”.
Theo An toàn vệ sinh thực phẩm-TCCL Việt Nam: “An toàn vệ sinh thực phẩm
hiểu một cách đơn giản chính là giữ cho thực phẩm luôn sạch và đảm bảo vệ sinh cho
người sử dụng. Những thực phẩm đảm bảo vệ sinh cần được kiểm nghiệm và trải qua
quá trình công bố sản phẩm nghiêm ngặt, có sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền”.
1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước
Theo giáo trình Quản lý nhà nước về Thương mại, Trường Đại học Thương
mại: “Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà
nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người đề duy trì và
phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước và những mục tiêu đã xác định trong từng giai đoạn
phát triển của đất nước”.
1.1.4. Khái niệm quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm
Quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm là hoạt động thực thi quyền lực
nhà nước của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, mang tính quyền lực nhà nước; là
hoạt động của cơ quan quản lý có thẩm quyền thực hiện ban hành các văn bản pháp
luật, các quy chuẩn tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện pháp, chế tài xử lý để điều chỉnh
hành vi hoạt động của con người trên lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm.
8



Quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm là hoạt động có tổ chức của nhà
nước thông qua các văn bản pháp luật, các công cụ chính sách của nhà nước sẽ tác
động đến tình hình thực hiện an toàn vệ sinh thực phẩm của đơn vị sản xuất, kinh
doanh và người tiêu dùng trên cả nước nhằm định hướng, dẫn dắt các chủ thể này thực
hiện tốt các vấn đề về an toàn vệ sinh thực phẩm.
1.2. Nội dung và các công cụ quản lý nhà nước đối với an toàn vệ sinh thực
phẩm
1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước đối với an toàn vệ sinh thực phẩm
a, Xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm
Xây dựng và ban hành chính sách, chương trình về an toàn vệ sinh thực phẩm
là một trong những công đoạn quan trọng nhất và khó khăn nhất trong quy trình an
toàn vệ sinh thực phẩm. Nhà nước hoạch định các chính sách nhằm quản lý có hiệu
quả an toàn vệ sinh thực phẩm. Hoạch định chính sách là bước đầu tiên trong qúa trình
quản lý nhà nước về bất kì một vấn đề nào đó trong xã hội. Hoạch định chính sách
đúng thì mới đưa vào thực tiễn thực thi được, mới mang lại hiệu qủa quản lý tốt. Nếu
hoạch định chính sách sai thì sẽ sai ngay từ bước đầu tiên dẫn đến mọi thứ sau đó đều
sai.
Đây là một công việc vô cùng quan trọng trong nội dung quản lý nhà nước về
an toàn vệ sinh thực phẩm. Nhận định rõ quan điểm bảo đảm an toàn vệ sinh thực
phẩm chính là bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, Nhà nước đã xây dựng, chỉ đạo
thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, ban hành hệ thống quy định pháp luật
về an toàn vệ sinh thực phẩm. Đây là nhiệm vụ thường xuyên cần tập trung chỉ đạo
của các cơ quan có thẩm quyền.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hệ thống các văn bản pháp luật
hướng dẫn, điều chỉnh như Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công
thương,..Các cơ quan chuyên môn thuộc các Bộ ban hành các văn bản dưới luật để
quản lý về an toàn vệ sinh thực phẩm.
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp
luật về an toàn vệ sinh thực phẩm như: Luật An toàn thực phẩm, quy định về quản lý

chất lượng an toàn thực phẩm. Xây dựng và áp dụng hệ thống thực hành sản xuất tốt
GMP, thực hành nông nghiệp tốt GAP, thực hành vệ sinh tốt GHP, phân tích nguy cơ
và kiểm soát điểm giới hạn HACCP, xây dựng mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn
VietGAP,...và các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về an toàn vệ sinh thực phẩm.
b, Tổ chức thực hiện pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm
Sau khi đã ban hành chính sách, các quy định thì công việc tiếp là phải đưa
chính sách đó vào thực tế thực hiện. Bước đầu tiên của công tác tổ chức thực thi chính
9


sách là xây dựng bộ máy quản lý và đội ngũ cán bộ công chức thực hiện chức năng
quản lý về ATTP. Để hoạt động quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm có hiệu
quả cao, Nhà nước xây dựng bộ máy quản lý và đội ngũ cán bộ công chức thực hiện
chức năng quản lý về an toàn vệ sinh thực phẩm.
Bộ máy hành chính quản lý về ATTP có chức năng: Ban hành các văn bản quy
phạm trong quyền hạn, tổ chức thực hiện các quy định trong hệ thống văn bản quy
phạm liên quan; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy chuẩn, tiêu chuẩn đã ban
hành của các nhóm đối tượng trong chuỗi cung cấp thực phẩm cho xã hội; kiểm
nghiệm ATTP trong chuỗi cung cấp thực phẩm phục vụ công tác quản lý nhà nước về
ATTP.
Bộ máy quản lý nhà nước về ATTP có nhiệm vụ như: Ban hành và tổ chức thực
hiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ATTP; các quy chuẩn, tiêu chuẩn
về ATTP; xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phòng ngừa, khắc phục ngộ độc
thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm; xây dựng chiến lược, tổ chức hoạt động
thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức và pháp luật về ATTP; đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ về ATTP; quản lý hệ thống kiểm nghiệm, thử nghiệm 44 ATTP; quản lý, cấp
chứng về ATTP; kiểm tra, thừa nhận, chứng nhận về các quy trình quản lý ATTP; tổ
chức nghiên cứu khoa học và công nghệ trong lĩnh vực ATTP; hợp tác quốc tế về
ATTP và thanh tra chuyên ngành, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi
phạm pháp luật về ATTP.

Để có một bộ máy quản lý nhà nước về ATTP tốt thì phải xây dựng, nâng cao
chất lượng, trách nhiệm đội ngũ cán bộ công chức. Đội ngũ cán bộ là những người có
vai trò quan trọng, quyết định chính sách có thành công hay không. Cơ chế tuyển chọn
cán bộ quản lý phải hợp lý; phân công, bố trí đúng người đúng việc, phù hợp với năng
lực của từng cán bộ. Phải thường xuyên quan tâm, có chính sách đãi ngộ cán bộ quản
lý để thúc đẩy người quản lý trong công tác quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm.
Tổ chức thực hiện pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm là quá trình này bao
gồm tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Đây là công việc nhằm đưa các quy định của pháp luật vào thực tiễn hành động, hiện
thực hoá các chính sách của Nhà nước. Trong công tác này cần phân rõ trách nhiệm,
quyền hạn của từng cơ quan, tổ chức để tránh tình trạng chồng chép về chức năng,
nhiệm vụ.
Tổ chức thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho
các quy định của pháp luật trở thành hành vi xử sự của chủ thể quản lý và đối tượng
quản lý. Quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về ATTP được tiến hành bởi các cơ
10


quan về quản lý nhà nước về ATTP, các doanh nghiệp, các tổ chức, hộ gia đình và cá
nhân. Quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về ATTP được tiến hành bởi các cơ quan
về quản lý nhà nước về ATTP, các doanh nghiệp, các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân.
c, Thanh tra, kiểm tra về an toàn vệ sinh thực phẩm
Bao gồm công tác thanh tra, kiểm tra các cơ sở sản xuất để kịp thời phát hiện
các cơ sở vi phạm về an toàn vệ sinh thực phẩm; kiểm tra việc thi hành pháp luật tại
các cơ sở chế biến thực phẩm. Thanh tra về an toàn thực phẩm là thanh tra chuyên
ngành. Thanh tra an toàn thực phẩm do ngành y tế, ngành nông nghiệp và phát triển
nông thôn, ngành công thương thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra.
Chính phủ quy định việc phối hợp giữa các lực lượng thanh tra an toàn thực phẩm của
các bộ, cơ quan ngang bộ với một số lực lượng khác trong việc bảo đảm an toàn thực

phẩm.
Công tác thanh tra, kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm được Nhà nước quy
định tại điều 66, 67, 68, 69 Luật An toàn thực phẩm năm 2010. Trong đó, Điều 67 quy
định rõ nội dung thanh tra về an toàn thực phẩm: việc thực hiện các quy chuẩn kỹ
thuật, quy định về an toàn thực phẩm đối với sản xuất, kinh doanh thực phẩm và sản
phẩm thực phẩm do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành; việc thực hiện
các tiêu chuẩn có liên quan đến an toàn thực phẩm do tổ chức, cá nhân sản xuất công
bố áp dụng đối với sản xuất, kinh doanh thực phẩm và sản phẩm thực phẩm; hoạt động
quảng cáo, ghi nhãn đối với thực phẩm thuộc phạm vi quản lý; hoạt động chứng nhận
hợp quy, kiểm nghiệm an toàn thực phẩm; việc thực hiện các quy định khác của pháp
luật về an toàn thực phẩm.
Về trách nhiệm kiểm tra an toàn thực phẩm: Cơ quan quản lý an toàn thực
phẩm thuộc Bộ quản lý ngành thực hiện việc kiểm tra an toàn thực phẩm trong sản
xuất, kinh doanh thực phẩm theo quy định tại các điều 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Cơ quan quản lý an toàn thực phẩm thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc
kiểm tra an toàn thực phẩm trong phạm vi địa phương theo quy định của Bộ quản lý
ngành và sự phân công của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Trong trường hợp kiểm tra liên
ngành về an toàn thực phẩm có liên quan đến phạm vi quản lý của nhiều ngành hoặc
địa phương, cơ quan chủ trì thực hiện kiểm tra có trách nhiệm phối hợp với cơ quan
hữu quan thuộc các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có liên quan để
thực hiện.
Hoạt động kiểm tra an toàn thực phẩm phải bảo đảm nguyên tắc: Khách quan,
chính xác, công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử; bảo vệ bí mật thông tin, tài
liệu, kết quả kiểm tra liên quan đến cơ quan, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
thực phẩm được kiểm tra khi chưa có kết luận chính thức; không được sách nhiễu, gây
11


phiền hà cho tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm; chịu trách nhiệm trước
pháp luật về kết quả kiểm tra, kết luận có liên quan.

d, Xử lý vi phạm về an toàn vệ sinh thực phẩm
Nhà nước quy định về việc xử lý vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm tại điều 6,
Luật An toàn thực phẩm năm 2010:
Thứ nhất, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm vi phạm pháp luật
về an toàn thực phẩm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành
chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường và
khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, người lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm quy định của Luật này
hoặc các quy định khác của pháp luật về an toàn thực phẩm thì tùy theo tính chất, mức
độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại
thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, mức phạt tiền đối với vi phạm hành chính quy định tại khoản 1 Điều
này được thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; trường
hợp áp dụng mức phạt cao nhất theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính mà vẫn còn thấp hơn 07 lần giá trị thực phẩm vi phạm thì mức phạt được áp
dụng không quá 7 lần giá trị thực phẩm vi phạm; tiền thu được do vi phạm mà có bị
tịch thu theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, Chính phủ quy định cụ thể về hành vi, hình thức và mức xử phạt các
hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm quy định tại Điều này.
Ngoài ra, Nghị định số 115/2018/NĐ-CP: Quy định xử phạt vi phạm hành chính
về an toàn thực phẩm cũng quy định rất cụ thể, chi tiết và rõ ràng về các hành vi vi
phạm an toàn vệ sinh thực phẩm, các mức phạt và trách nhiệm của các cơ quan Nhà
nước,... Trong đó điều 28 có quy định về thẩm quyền của ủy ban nhân dân huyện như
sau: Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có quyền: Phạt tiền đến 50.000.000 đồng đối
với cá nhân và phạt tiền đến 100.000.000 đồng đối với tổ chức; tước quyền sử dụng
Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm, Giấy tiếp nhận đăng ký bản
công bố sản phẩm có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật,
phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá mức tiền
phạt quy định tại điểm a khoản này; áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại
các điểm b, c, d, đ, e, g, h, i, k và l khoản 3 Điều 2 Nghị định này.

Về trách nhiệm dân sự: người bị ảnh hưởng bởi các hành vi vi phạm an toàn vệ
sinh thực phẩm có quyền yêu cầu người vi phạm bồi thường thiệt hại do sức khỏe, tính
mạng bị xâm phạm.

12


Về trách nhiệm hình sự: trong trường hợp đủ yếu tố cấu thành tội phạm, người
vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về vệ sinh an
toàn thực phẩm theo quy định tại Điều 317 Bộ luật hình sự với mức phạt tiền từ 50
triệu đến 200 triệu hoặc phạt tù đến 5 năm; với những vi phạm nghiêm trọng hơn, mức
phạt có thể lên đến 20 năm tù.
e, Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm
Nội dung này không thể thiếu trong công tác quản lý nhà nước về an toàn vệ
sinh thực phẩm, là công tác truyền thông, đưa những chính sách, quy định của Nhà
nước vào trong nhân dân, phổ biến rộng rãi cho mọi người biết và thực hiện theo.
Thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn thực phẩm nhằm nâng cao nhận thức về
an toàn thực phẩm, thay đổi hành vi, phong tục, tập quán sản xuất, kinh doanh, sinh
hoạt, ăn uống lạc hậu, gây mất an toàn thực phẩm, góp phần bảo vệ sức khỏe, tính
mạng con người; đạo đức kinh doanh, ý thức trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh với sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng thực phẩm.
Về công tác thông tin tuyên truyền, giáo dục về an toàn vệ sinh thực phẩm được
Nhà nước quy định tại Điều 56, 57, 58,59 Luật An toàn thực phẩm năm 2010, cụ thể:
Điều 57. Nội dung thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn thực phẩm: Thông tin,
tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về an toàn thực phẩm; nguyên nhân, cách
nhận biết nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm, bệnh truyền qua thực phẩm và các biện
pháp phòng, chống sự cố về an toàn thực phẩm; thông tin về các điển hình sản xuất,
kinh doanh thực phẩm bảo đảm an toàn; việc thu hồi thực phẩm không bảo đảm an
toàn, xử lý đối với cơ sở vi phạm nghiêm trọng pháp luật về an toàn thực phẩm.
Đối tượng tiếp cận thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn thực phẩm: Tổ

chức, cá nhân được quyền tiếp cận thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn thực
phẩm. Ưu tiên tiếp cận thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn thực phẩm cho các
đối tượng sau đây: người tiêu dùng thực phẩm; người quản lý, điều hành các cơ sở sản
xuất, kinh doanh thực phẩm; người trực tiếp sản xuất, kinh doanh thực phẩm; tổ chức,
cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm tươi sống, sản xuất, kinh doanh thực phẩm
nhỏ lẻ; người dân khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Về hình thức tuyên truyền, giáo dục, truyền thông về an toàn thực phẩm: thực
hiện thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về an toàn thực phẩm, thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng, lồng ghép trong việc giảng dạy, học tập tại các cơ
sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; thông qua hoạt động văn hóa, sinh hoạt
cộng đồng, sinh hoạt của các đoàn thể, tổ chức xã hội và các loại hình văn hóa quần
chúng khác, thông qua điểm hỏi đáp về an toàn thực phẩm tại các Bộ quản lý ngành.

13


1.2.2. Các công cụ quản lý nhà nước đối với an toàn vệ sinh thực phẩm
a, Công cụ pháp luật
Công cụ pháp luật bao gồm những quy tắc xử sự bắt buộc do Nhà nước đặt ra
hay thừa nhận mà mỗi cá nhân tổ chức buộc phải tuân theo. Quản lí bằng pháp luật là
quản lý bằng sức mạnh của những quyền uy khách quan kết hợp với sức mạnh quyền
uy của Nhà nước. Nội dung của pháp luật chính là những quan hệ, những lợi ích khách
quan được xã hội thừa nhận và bảo vệ dưới dạng ý chí của Nhà nước. Sức mạnh,
quyền uy của pháp luật hay khả năng điều chỉnh hành vi con người của pháp luật trước
hết nằm ngay trong nội dung của pháp luật phụ thuộc vào tính chính xác của nội dung
đó. Tuân thủ pháp luật, hành động theo pháp luật đó là điều hiển nhiên của pháp luật
chứ không phải vì sự cưỡng chế của Nhà nước.
Quản lí bằng pháp luật chứa đựng tính phổ quát và công bằng. Đối tượng điều
chỉnh của pháp luật là những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động của người tiêu
dùng và hoạt động kinh doanh của các cơ sở sản xuất. Nhưng không phải tất cả mà chỉ

bao gồm quan hệ cơ bản nhất, quan trọng nhất. Mặt khác, việc điều chỉnh của pháp
luật là chung cho tất cả khi tham gia vào hoạt động kinh doanh chứ không phải là đối
tượng riêng lẻ. Vì vậy, những quy định của pháp luật có ý nghĩa phổ biến, bao quát tất
cả các đối tượng tham gia và không có sự phân biệt.
b, Công cụ chính sách
Chính sách là một công cụ hết sức quan trọng để Nhà nước điều tiết, kích thích
và định hướng đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội nhằm đạt hiệu quả về kinh tế xã hội. Có nhiều chính sách quản lý khác nhau dựa vào cách phân loại, mỗi chính sách
được coi là một công cụ quản lý. Một số công cụ mang tính chất đòn bẩy kinh tế như
chính sách thuế, chính sách giá cả và chính sách lãi suất.
Thuế là một công cụ quản lý gắn liền với chủ thể sử dụng là Nhà nước. Chỉ có
chủ thể quản lý là Nhà nước mới có quyền đặt ra các loại thuế và thu thuế. Việc ban
hành các loại thuế phải theo một trình tự, thủ tục nhất định do pháp luật quy định,
không thể tùy tiện. Thuế là một công cụ rất nhạy cảm, hết sức phải thận trọng khi sử
dụng, đặc biệt là công cụ trong tay chủ thể quản lý đầy quyền uy là Nhà nước. Thực tế,
chính sách thuế thường bị áp lực rất lớn từ hai phía: phía chỉ tiêu của Nhà nước và phía
công chúng nộp thuế và hai áp lực này thường ngược nhau. Khi cán cân thu - chi của
nhà nước đòi hỏi tăng nguồn thu từ thuế thì ngược lại mỗi sự thay đổi của thuế theo
hướng đó thường bị phản đối của công chúng. Nếu chính sách thuế không dựa trên
giới hạn kinh tế của thuế thi thường bị thất bại.
Giá cả là nhân tố trưc tiếp hướng dẫn các đơn vị lựa chọn lĩnh vực và phương
án kinh doanh có hiệu quả. Mọi quyết sách kinh tế cũng như các quyết định trong sản
14


xuất kinh doanh đều dựa vào giá cả với tư cách là thước đo để tính toán, đo lường của
cải của xã hội và thu nhập thực tế của các tầng lớp nhân dân. Nền kinh tế sẽ bị rối
loạn, lợi ích của mọi người sẽ bị xâm phạm nếu như giá cả không ổn định. Theo nhiều
phương thức tiếp cận, lãi suất được hiểu theo nhiều cách khác nhau: lãi suất là phần
thưởng cho người tiết kiệm, lãi suất là giá cả của tiền tệ, lãi suất là một phần của lợi
nhuận dùng để trả giá cho người vay; lãi suất là giá cả của việc sử dụng tiền.

Như vậy, lãi suất một mặt phụ thuộc vào hiệu quả của hoạt động kinh tế, mặt
khác lại phản ánh nhu cầu về tiền của các hoạt động kinh doanh và phụ thuộc vào
tương quan hàng - tiền trong lưu thông. Do vậy, dựa vào lãi suất chủ thể quản lý có thể
xác định được hướng tác động, điều chỉnh đối với các hoạt động kinh tế. Mặt
khác,thông qua lãi suất, chủ thể quản lý có thể kích thích hoặc hạn chế đầu tư vào các
hoạt động sản xuất kinh doanh.
c, Công cụ kế hoạch
Để quản lí các hoạt động kinh tế-xã hội, chủ thể quản lý các cấp phải suy nghĩ
về chương trình công tác của mình bao gồm mục tiêu, biện pháp và các điều kiện đảm
bảo thực hiện. Kế hoạch là các quyết định của chủ thể quản lý về mục tiêu, biện pháp
và cách đảm bảo vật chất cần thiết để thực hiện mục tiêu trong một thời kì nhất định.
Kế hoạch là một công cụ quản lý bao gồm việc xác định phải làm gì và làm như thế
nào để phát triển kinh tế của một đơn vị kinh tế, một ngành, địa phương cũng như trên
phạm vi cả nước. Chủ thể quản lý suy nghĩ về tương lai của tổ chức mình và dự kiến
cách thức, phương án hành động để đạt được sự phát triển trong tương lai. Điều đó có
nghĩa là, kế hoạch là một công cụ định hướng, tổ chức và điều khiển các hoạt động
kinh tế.
Vai trò của công cụ kế hoạch trong quản lý kinh tế được thể hiện ở các khía
cạnh:
Thứ nhất: Nhờ kế hoạch mà chủ thể quản lý và đối tượng quản lý biết được
hướng đi và lựa chọn được đường đi thích hợp với mục tiêu kinh tế - xã hội trên địa
bàn. Tạo ra khung để xác lập một ngôn ngữ chung qua đó mọi tổ chức, mọi thành phần
kinh tế cũng như các thành viên trong các tổ chức kinh tế hành động tự giác, chủ động
và thống nhất.
Thứ hai: Công cụ kế hoạch góp phần hình thành tư duy, giúp nhà quản lý sự
đoám được sự thay đồi từ đó chuẩn bị các phương cần thiết để phù hợp với sự thay
đổi. Kế hoạch không tạo những khả năng cho nhà quản lý thích nghi với sự biến đổi
thường xuyên của nhu cầu thị trường mà còn tạo ra tầm nhìn chiến lược cho nhà quản
lý, giúp phát hiện vấn đề một cách chính xác. Từ đó, nhà quản lý tập trung đúng đắn,


15


kịp thời vào những thời điểm quan trọng nhất mà không bị sa vào việc xử lý những
thông tin vụn vặt, sự vụ hàng ngày.
Ngoài ra, kế hoạch không chỉ là một công cụ quản lý mà còn là căn cứ đến tổ
chức bộ máy quản lý, kiểm tra và đánh giá hiệu quả các hoạt động quản lý kinh tế. Tuy
nhiên, nếu kế hoạch không chính xác, thiếu tính cơ sở khoa học sẽ gây hậu quả xấu
cho sự phát triển của kinh tế-xã hội. Khi các yếu tố khách quan tác động làm đảo lộn
mọi dự kiến ban đầu thì hậu quả trở nên nghiêm trọng.
Xuất phát từ tính chất của bản thân công tác kế hoạch và sự đòi hỏi của cơ chế
thị trường, công cụ kế hoạch trong quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm cần đáp ứng các
yêu cầu: tính khoa học, gắn kế hoạch với thị trường, chuyển từ kế hoạch pháp lệnh
sang kế hoạch hướng dẫn là chủ yếu, coi trọng các hoạt động tiền kế hoạch.
Các công cụ quản lý

Công cụ
pháp luật

Công cụ
chính sách

Công cụ kế
hoạch

Sơ đồ 1.2.2. Các công cụ quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm
( Nguồn: tổng hợp lý thuyết )
1.3. Các tiêu chí đánh giá hoạt đông quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh
thực phẩm
1.3.1. Đánh giá tính hiệu lực

Tính hiệu lực của chính sách phản ánh tác dụng đích thực của chính sách đó.
Tính hiệu lực của chính sách được đo lường bằng mức độ hiệu quả của hoạt động đạt
được so với mục tiêu. Một chính sách có hiệu lực được phản ánh thông qua mức độ
đáp ứng các nguồn lực, kỹ thuật, phương tiện để triển khai được chính sách và nhận
được sự đồng thuận, chấp hành của đối tượng thực hiện chính sách.
Trong tiêu chí này, cần chú ý các chỉ tiêu như lợi ích của các bên liên quan, sự
tương thích của nội dung chính sách, đảm bảo tính răn đe, buộc đối tượng tuân thủ,
chấp hành và mức độ đạt được mục tiêu của chính sách. Kết quả đánh giá tính hiệu lực
của chính sách cho biết chính sách có thể được thực hiện trên thực tế hay không.
1.3.2. Đánh giá tính hiệu qủa
Tính hiệu quả là việc xem xét độ lớn của kết quả thu được từ việc sử dụng
nguồn lực cố định. Có nghĩa là tính hiệu quả của chính sách được khẳng định khi một
16


chính sách có khả năng làm cho các nguồn lực phát huy hiệu quả tốt nhất. Khi đánh
giá một chính sách cần xem xét trên những số liệu thực tế để đánh giá xem chính sách
đã đạt được kết quả như kỳ vọng, đạt được mục tiêu đã đề ra chưa?
1.3.3. Đánh giá tính công bằng
Ngoài tính hiệu lực, hiệu quả, kinh tế, chính sách được lựa chọn phải thỏa mãn
lợi ích của đa số người dân thuộc các tầng lớp, giai cấp khác nhau trong xã hội. Chính
sách của Nhà nước nếu đảm bảo sự công bằng sẽ nhận được sự ủng hộ, đồng thuận
cao, tạo động lực cho xã hội phát triển. Tính công bằng vì thế là một trong những tiêu
chuẩn bắt buộc khi xem xét khả năng tồn tại và giá trị của một chính sách công. Chính
sách cần thỏa mãn lợi ích của nhiều tầng lớp, giai cấp, đối tượng khác nhau trong xã
hội. Vì vậy, việc xây dựng tiêu chí đánh giá chính sách cần phải đáp ứng yêu cầu vừa
là thước đo cụ thể của vấn đề chính sách được đề cập, vừa phản ánh được lợi ích của
đa số thành viên xã hội và được họ chấp nhận. Hình thức biểu hiện của tính công bằng
là tạo ra những tác động không thiên vị cho các đối tượng trong xã hội cả về quyền lợi
và nghĩa vụ.

Ngoài ra còn các tiêu chí khác như tính hệ thống, tính phù hợp, đáp ứng yêu cầu
của đối tượng chính sách, kết hợp hợp lý giữa hiệu quả và công bằng cũng được xem
xét khi đánh giá một chính sách.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực
phẩm
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực
phẩm, trong đó bao gồm các nhân tố chủ quan và khách quan.
1.4.1. Nhân tố khách quan
Nhân tố khách quan bao gồm các nhân tố như: Chủ trương của Đảng và Nhà
nước; Chính sách, pháp luật làm hành lang pháp lý cho hoạt động an toàn thực phẩm,
yếu tố chính trị, yếu tố văn hóa xã hội, trang thiết bị và phương tiện, sự phối hợp của
cơ quan quản lý nhà nước, hợp tác quốc tế, trình độ dân trí và mức độ ủng hộ của xã
hội.
Thứ nhất, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Cơ chế
chính sách của nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình thúc đẩy cải cách,
nâng cao hiệu quả công việc của mỗi cán bộ công chức nói riêng và các cơ quan nói
chung. Việc ban hành các hệ thống chính sách, chỉ tiêu chất lượng sản phẩm, các quy
định về sản phẩm đạt chất lượng, xử lý nghiêm việc sản xuất hàng giả, hàng kém chất
lượng, không bảo đảm an toàn vệ sinh, các chính sách ưu đãi cho đầu tư đổi mới công
nghệ là những nhân tố hết sức quan trọng. Hệ thống pháp luật về ATTP là những quy
định nhằm định hướng, điều chỉnh hành vi hoạt động của tổ chức, cá nhân và công dân
17


vì sự ổn định và phát triển xã hội. Mức độ hoàn thiện hệ thống pháp luật ảnh hưởng
trực tiếp đến công tác quản lý đảm bảo ATTP. Nếu các quy định của nhà nước phù hợp
thì công tác quản lý ATTP mang lại hiệu quả cao. Còn ngược lại sẽ không phát huy
được tác dụng, gây thiệt hại cho nền kinh tế và ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. Các
văn bản pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch sẽ góp phần nâng cao hiệu lực quản lý
nhà nước về ATTP. Ngược lại, nếu hệ thống văn bản không đầy đủ, rõ ràng, không

minh bạch sẽ gây khó khăn, làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước về ATTP.
Thứ hai, yếu tố về chính trị. Chế độ chính trị quy định mục tiêu của quốc gia và
chi phối đường lối, chính sách pháp luật của Nhà nước. Chế độ chính trị ổn định thì
công tác quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm mang lại hiệu quả hơn và
ngược lại.
Thứ ba, yếu tố văn hóa xã hội. Truyền thống sản xuất, kinh doanh, sử dụng thực
phẩm từ quá khứ cũng ảnh hưởng ít nhiều đến công tác quản lý về ATTP như việc kinh
doanh hàng rong nhỏ lẻ, các chợ truyền thống, sản xuất theo kinh nghiệm. Tuy nhiên
với góc độ ATTP và bảo đảm sức khỏe của người dân hiện nay thì một số cách thức
sản xuất đã không còn hợp lý với thực tế ngày nay, đã trở thành thách thức cho nhà
quản lý. Ngoài ra, việc nhận thức của xã hội về ATTP chưa cao.
Thứ tư, trang thiết bị và phương tiện. Các cơ quan quản lý nhà nước về ATTP
cần được trang bị các thiết bị, máy móc phù hợp trong lĩnh vực ATTP để đánh giá chất
lượng sản phẩm, phản ánh tính chính xác, giúp cơ quan quản lý nhà nước hoàn thành
tốt nhiệm vụ, trách nhiệm của mình. Về phương tiện đi lại: Các địa phương được trang
bị ô tô phục vụ công tác quản lý ATTP trên cả nước, việc trang bị phương tiện đi lại
ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của việc kiểm tra, giám sát về ATTP trên địa bàn
quản lý.
Thứ năm, sự phối hợp trong quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước về an
toàn vệ sinh thực phẩm. Công tác quản lý là một công việc không hề dễ dàng, vì vậy
cần sự phối hợp thực hiện của rất nhiều Bộ. Ngành, các phòng ban và cơ quan quản lý
có liên quan. Đây không phải là trách nhiệm của riêng một cá nhân hay tổ chức nào
mà là trách nhiệm, nhiệm vụ của toàn dân.
Thứ sáu, sự hợp tác quốc tế. Đứng trước vấn đề về môi trường ngày càng bị ô
nhiễm như hiện nay thì bất kỳ một quốc gia nào cũng cần phải quản lý về vấn đề vệ
sinh an toàn thực phẩm. Vì vậy cần tranh thủ sự hợp tác quốc tế để quản lý tốt nhất
vấn đề này, đặc biệt là trong việc thu hút đầu tư vào các chương trình, dự án đảm bảo
vệ sinh an tòa tực phẩm.
Thứ bảy, trình độ dân trí và mức độ ủng hộ của xã hội. Nếu người dân có trình
độ học vấn cao, nhận thức cao, triển khai thực thi pháp luật dễ thành công và như vậy

18


công tác quản lý nà nước về ATTP sẽ đạt kết quả cao. Nếu dân số gia tăng với tỷ lệ ý
thức về bảo đảm ATTP trong cộng đồng kém là trở ngại lớn cho các cơ quan quan lý
nhà nước trong việc bảo đảm ATTP. Bên cạnh đó, sự ủng hộ, đồng lòng của người dân
giúp các cơ quan QLNN về ATTP làm việc hiệu quả hơn.
1.4.2. Nhân tố chủ quan
Các nhân tố chủ quan đó là các yếu tố về con người. Con người luôn có vai trò
then chốt trong mọi hoạt động quản lý nói chung và quản lý về an toàn vệ sinh thẩm
nói riêng. Vì vậy cần nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý.
Cán bộ quản lý là một trong những nhân tố quyết định sự thành công của hoạt
động quản lý nhà nước. Các bộ quản lý là người trực tiếp thực hiện các chức năng
quản lý như dự báo, kế hoạch, tổ chức, kiểm tra, điều chỉnh, hạch toán. Là nười tạo ra
động lực, góp phần tích cực vào việc xây dựng và hoàn thiện đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm. Cán bộ quản lý phải có phẩm chất và
năng lực cần thiết để thực hiện các chức năng quản lý: có phẩm chất chính trị vững
vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn-kỹ thuật nhất định, có năng
lực tổ chức và quản lý. Để quản lý có hiệu quả vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm,
người quản lý phải có kiến thức và hiểu biết về chuyên môn kỹ thuật trong lĩnh vực an
toàn vệ sinh thực phẩm, hiểu biết sâu sắc về thực tiễn của đất nước, của ngành, địa
phương.
Cán bộ quản lý là người trực tiếp nắm bắt tình hình, trực tiếp tham gia và công
tác quản lý, trực tiếp nhận nhiệm vụ từ cấp trên. Để có thể nắm bắt được tình hình tốt
đòi hỏi đội ngũ cán bộ đủ năng lực quản lí và nhận thức tốt mọi vấn đề. Chỉ có như
vậy mới đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Hiện nay, đội ngũ cán bộ quản lý an toàn vệ
sinh thực phẩm trên địa bàn huyện Quảng Xương chưa được đông đảo và năng lực,
nhận thức của cán bộ còn chưa cao. Do vậy, huyện đã tổ chức nhiều lớp đào tạo dành
cho đội ngũ cán bộ quản lý nâng cao về nhận thức cho các bộ về quy định an toàn thực
phẩm, tổ chức kinh doanh, sản xuất đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.


19


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN VỆ SINH
THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẢNG XƯƠNG,
TỈNH THANH HOÁ
2.1. Tình hình an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn huyện Quảng
Xương
2.1.1. Tổng quan về huyện Quảng Xương
a, Điều kiện tự nhiên
Quảng Xương là huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Thanh Hoá. Phía Bắc giáp
thành phố Thanh Hoá, huyện Hoằng Hoá, thành phố du lịch Sầm Sơn; phía Nam giáp
huyện Tĩnh Gia, Nông Cống; phía Tây giáp huyện Đông Sơn; phía Đông giáp Biển
Đông. Trên địa bàn huyện có các tuyến quốc lộ 1A, quốc lộ 45, quốc lộ 47, tỉnh lộ 4
chạy qua đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho huyện Quảng Xương trong việc giao lưu
kinh tế, văn hoá xã hội với các huyện trong tỉnh và với các tỉnh bạn trên cả 2 miền
Nam Bắc.
Đặc biệt Quảng Xương giáp Thành phố du lịch Sầm Sơn và Vịnh Bắc Bộ, chiều
dài bờ biển trên 10 km, gần cửa Lạch Hới phía Bắc và có cửa Lạch Ghép phía Nam là
các cửa lạch lớn thông ra biển Đông tạo thế mạnh cho nghề khai thác, đánh bắt, nuôi
trồng thủy hải sản và phát triển du lịch biển; Về phía Bắc giáp khu công nghiệp Lễ
Môn của Thành phố Thanh Hoá và phía Nam gần khu kinh tế Nghi Sơn sẽ có tác động
mạnh đến phát triển kinh tế của huyện. Đây là những địa bàn thu hút hàng hoá, thực
phẩm, nông sản và lao động của Quảng Xương tham gia phát triển. Trên địa bàn huyện
Quảng Xương có các bãi biển đẹp, có vị trí thuận lợi là gần kề khu du lịch Sầm Sơn,
gần Quốc lộ 47, Tỉnh lộ 4 và bãi biển, núi ven biển ở khu vực Tiên Trang đã được quy
hoạch thành các khu công nghiệp du lịch nghỉ dưỡng, tắm biển đã và đang được đầu
tư. Phía Nam huyện có cầu Ghép lịch sử, có mũi đất Quảng Nham, vùng triều Lạch
Ghép sẽ là vùng du lịch sinh thái quan trọng; phía Tây - Bắc huyện, vùng xã Quảng

Yên có mạch nước nóng tự nhiên và đang được nghiên cứu để hình thành điểm du lịch
nghĩ dưỡng trong tương lai.
b, Điều kiện kinh tế - xã hội
Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất đạt 14,3%, vượt kế hoạch đề ra và cao hơn
0,2% so với cùng kỳ; Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng ngành
nông, lâm, thuỷ sản chiếm 26,8%; công nghiệp - xây dựng chiếm 37%; dịch vụ thương mại chiếm 36,2 %. Tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 86.189 tấn, tăng
1.189 tấn so với kế hoạch. Thu nhập bình quân đầu người đạt 40 triệu
đồng/người/năm, đạt kế hoạch đề ra. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn đạt 3.960
tỷ đồng, bằng 107,02% kế hoạch. Tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 320,774 tỷ
20


×