Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

thực trạng xuất khẩu thủy sản của việt nam sang eu trong những năm qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.2 KB, 21 trang )

thực trạng xuất khẩu thủy sản của việt nam sang eu trong những năm qua
i. khái quát đặc điểm thị trường eu
1. Về kinh tế - chính trị
Từ năm 1968, EU đã là một thị trường thống nhất hải quan, có định mức
thuế hải quan chung cho tất cả các nước thành viên. Ngày 07/02/1992, Hiệp ước
Maastricht được ký kết tại Hà Lan mở đầu cho sự thống nhất chính trị, kinh tế, tiền
tệ giữa các nước thành viên EU. Cho đến nay, EU đã là một thị trường rộng lớn,
bao gồm 15 quốc gia với gần 400 triệu người tiêu dùng. Thị trường EU thống nhất
cho phép tự do lưu thông người, hàng hóa, dịch vụ và vốn giữa các nước thuộc
Hiệp hội trao đổi tự do Châu Âu (AELE), tạo thành một thị trường gồm 380 triệu
người tiêu dùng.
Hiện nay, hàng rào buôn bán giữa 15 nước thành viên của EU đã bị xóa bỏ,
do vậy thị trường chung Châu Âu là thị trường lớn nhất thế giới. Thị trường chung
Châu Âu không chỉ là thị trường xuất khẩu lớn nhất thế giới mà còn là thị trường
nhập khẩu hàng đầu thế giới, ngược nghĩa với “ bức tường thành Châu Âu “.
Hơn nữa, buôn bán của EU với các nước đang phát triển cũng năng động
như với các nước công nghiệp trên thế giới. Trong thực tế, ĐôngNam á là vùng
hiện đang có nhịp độ tăng trưởng buôn bán cao nhất với EU, cả xuất lẫn nhập
khẩu.
Về chính trị, Liên minh Châu Âu (EU) không phải là một tổ chức đế quốc
với hệ tư tưởng chính trị cứng nhắc, sắp sẵn. EU hiện nay gồm 15 chính phủ nhưng
những chính phủ này không bao giờ được bầu cùng một lúc và cũng không bao giờ
chịu ảnh hưởng của các hệ tư tưởng chính trị cánh tả hoặc hữu. Tất cả 15 chính phủ
đều tuân theo một đường lối chung về đân chủ.Đặc điểm nổi bật của các nước EU
trong thời gian vừa qua là kinh tế của các nước đều tăng trưởng, tuy có cao thấp
khác nhau, nhưng ổn định. Điều đó thể hiện cụ thể qua bảng số liệu sau:
Bảng 3: Dự báo của Bundesbank về tăng trưởng GDP tại
các nước EU năm 1999 - 2000 (%)
Tên nước 1998 1999 2000
áo
3,3 2,5 3,0


Bỉ
2,9 2,0 2,3
Anh
2,3 1,0 1,5
Đức
2,8 2,0 2,5
Hy Lạp
3,5 3,0 2,8
Đan Mạch
2,7 1,5 2,3
Ai-rơ-len
9,5 7,5 7,5
Tây Ban Nha
3,8 3,4 3,3
Italia
1,4 1,6 2,6
Hà Lan
3,7 2,6 3,0
Bồ Đào Nha
4,2 3,2 2,5
Phần Lan
5,0 3,0 3,2
Pháp
3,2 2,5 2,8
Thụy Điển
2,9 2,2 2,6
Nguồn: Tạp chí Thương mại số 26/ 1999
2.Về mức sống dân cư
Liên minh Châu Âu là khu vực có mức GDP bình quân đầu người rất cao,
trong những năm gần đây mức bình quân đó là khoảng 20.000 đô la Mỹ. Tổng sản

phẩm quốc nội (GDP) trong một số năm qua là trên 8000 tỷ USD, chiếm gần 30%
GDP của thế giới. Dân số khu vực EU khoảng 375 triệu người, chiếm 6,5% dân số
toàn thế giới.
Nếu như năm 1997, mức GDP bình quân đầu người là 21.893 đô la Mỹ thì
năm 1999 là 21.764 đô la Mỹ, năm 2000 được dự báo là 22.872 đô la Mỹ và sẽ
tăng lên 29.531 đô la Mỹ vào năm 2003.
EU là thị trường mà người dân có mức sống cao với số dân ít so với các khu
vực khác, nên nhu cầu ở EU là rất lớn (luôn đạt mức 2% tăng trưởng). Hàng năm
một người dân EU chi hơn một nửa mức GDP cho tiêu dùng cá nhân.
3. Về thói quen tiêu dùng
EU đã thông qua những quy định bảo vệ quyền của người tiêu dùng về độ an
toàn chung của các sản phẩm được bán ra. Tất cả các sản phẩm để có thể bán được
ở thị trường này phải được đảm bảo trên tiêu chuẩn chung của EU.
Đối với mặt hàng thủy sản, hàng năm EU chiếm tới 40% nhập khẩu toàn thế
giới. Mức tiêu thụ bình quân đầu người là 17 kg/ năm và tăng dần hàng năm
khoảng 3%. Trong đó thị trường chính là Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Italia, Hà
Lan. Do vậy nhu cầu nhập khẩu thủy sản của EU hàng năm là rất lớn. Đây là thị
trường khó tính và có chọn lọc, với những yêu cầu nghiêm ngặt về tiêu chuẩn chất
lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Chỉ thị 91/493/EEC ban hành tháng 6 năm
1993 quy định các doanh nghiệp tại nước xuất khẩu phải có điều kiện sản xuất
tương đương như các doanh nghiệp của nước nhập khẩu và phải được cơ quan
kiểm tra chất lượng của EU công nhận. Đối với hàng thực phẩm đóng gói phải ghi
rõ tên sản phẩm, thành phần, trọng lượng, thời gian và cách sử dụng sản phẩm, nơi
sản xuất, các điều kiện để bảo quản và sử dụng, mã số, mã vạch để nhận dạng lô
hàng. Đặc biệt cấm nhập những sản phẩm thủy sản bị nhiễm độc do tác dụng của
môi trường hoặc do các chất phụ gia không được phép sử dụng.
3.1. Các đặc tính của thị trường thủy sản EU
Mặc dù có sự khác biệt trong tiêu thụ giữa các nước khác nhau, các nhà
hàng và dịch vụ ăn uống luôn là mảng thị trường lớn nhất. ở nhiều nước, mảng thị
trường này chiếm tới 3/4 mức tiêu thụ. Dù thủy sản được tiêu thụ tại nhà hàng hay

gia đình thì đều phải qua vài dạng sơ chế trước khi tới tay người mua. Giữa các
nước, thói quen ăn uống rất khác nhau. Mức tiêu thụ thủy sản theo đầu người dao
động từ 15- 17 kg. Việc thay đổi lối sống dẫn đến thay đổi cách ăn uống và thói
quen mua bán. Nhiều phụ nữ ngày nay đi làm chứ không ở nhà nên họ đánh giá
cao sự tiện lợi của các thực phẩm ăn liền, thường là ở dạng đóng gói đông lạnh.
Cũng như vậy, mức tiêu thụ sản phẩm đông lạnh tại nhà hàng và dịch vụ ăn uống
càng tăng. Người Bắc Âu không có truyền thống ăn thủy sản thì nay đang quen dần
với nó. Chính những chuyến nghỉ cuối tuần tới các nước khác góp phần cho các
thay đổi trên. Những khuynh hướng trên hy vọng sẽ đem đến những thay đổi tích
cực trong việc bán thủy sản.
3.2. Các yêu cầu của người nhập khẩu
Thủy sản được nhập khẩu chủ yếu dưới dạng đông lạnh. Hàng nhập thường
là khối đông lạnh, do phần lớn các mẻ lưới được làm lạnh ngay trên tàu. Các hải
sản đánh bắt được làm lạnh trên bờ cả khối hoặc làm đông lạnh nhanh riêng rẽ
(IQF). Nhìn chung sản phẩm đông lạnh trên tàu được ưa chuộng hơn vì lý do chất
lượng. Các nhà nhập khẩu hải sản được làm đông lạnh, nói chung, thích loại sản
phẩm được làm lạnh theo phương pháp IQF hơn.
Gần đây, nhu cầu nhập khẩu thủy sản đóng gói bán lẻ đang tăng lên, kể cả ở
các thị trường truyền thống như Đức. Tuy nhiên, phần lớn thủy sản đóng gói bán lẻ
trong buôn bán quốc tế được thực hiện ở Tây Âu cho dù xuất xứ của hàng thô là từ
các nước Châu á.
Thủy sản đóng hộp cũng có chút ít thị trường như ở Hy Lạp hoặc Đức. Thị
trường có thể mở rộng cho loại rau câu, có lẽ nên đóng lọ thủy tinh hơn là hộp
thiếc để hấp dẫn người mua.
3.4. Tiếp cận thị trường
Biểu thuế nhập khẩu chung của EU áp dụng cho tất cả các nước EU. Tất cả
việc nhập khẩu cá và các sản phẩm cá từ các nước ngoài EU đều phải có giấy phép.
Để tránh sự mất ổn định trong thị trường nội bộ do nhập khẩu, EU đã đưa ra
biểu giá tham khảo cho một số mặt hàng nhất định như mực ống và mực thẻ. Quy
định vệ sinh thực phẩm trong chế biến, kinh doanh cá và sản phẩm từ cá và là một

phần của Luật quốc gia về thực phẩm của các nước thành viên EU thì chỉ các công
ty có giấy phép mới được nhập hàng này.
Tất cả các thực phẩm đều là đối tượng của Bộ Luật quốc gia về thực phẩm
và có thể khác nhau giữa các nước.
Vấn đề cải thiện chất lượng và đóng gói là rất quan trọng đối với phần lớn
các nước đang phát triển nhằm thâm nhập các thị trường mới và tăng xuất khẩu các
sản phẩm có giá trị, phát triển sản xuất phù hợp hóa sản phẩm. Muốn thâm nhập
vào thị trường EU, cần phải tính đên sự thống nhất của thị trường này với đồng
Euro từ năm 1999, EU cũng có quy chế ưu đãi riêng đối với nhập khẩu từ các nước
ACP với việc miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu thủy sản theo hệ thống thuế ưu đãi
phổ cập GSP.
ii. thực trạng hoạt động xuất khẩu thủy sản của nước ta sang Eu trong thời gian qua
1. Cấu trúc mậu dịch thị trường thủy sản EU
Phần lớn thủy sản ở EU là hàng nhập khẩu và hầu như không có nước EU
nào có thể tự cung, tự cấp mặt hàng này. Thị trường cá EU được hình thành bởi
nhiều nhà cung cấp. chế biến và phân phối. Tuy nhiên, càng ít người tham gia thị
trường này thì thương mại càng hiệu quả và tập trung hóa cao hơn.
Những người tham gia thị trường thủy sản EU thường có những mục đích và
hoạt động tương tự như nhau. Chính về thế mà thủy sản có thể qua nhiều kênh mậu
dịch khác nhau trước khi tới địa chỉ cuối cùng. Sự lựa chọn của các kênh mậu dịch
và các bạn hàng thương mại phụ thuộc vào sản phẩm và dịch vụ có thể được thực
hiện bởi các bạn hàng thương mại đầy tiềm năng. Khi chọn một kênh và bạn hàng
thương mại đặc biệt, các nhà xuất khẩu có thể lựa chọn nhiều kênh khác nhau
trong thị trường. Một số nhà xuất khẩu sẽ giao dịch trực tiếp với người sử dụng
cuối cùng, còn một số khác lại bán cho các nhà kinh doanh độc lập (các nhà nhập
khẩu) hoặc qua các đại lý bán hàng.
Các nhà xuất khẩu tiềm năng cần liên lạc với các nhà nhập khẩu ở Châu Âu.
Những nhà trung gian này thường đã thiết lập những quan hệ làm ăn lâu dài với
người tiêu thụ của họ và có vị trí tốt hơn (so với các nhà chế biến nước ngoài) để
biết được những nhu cầu của thị trường địa phương và của người sử dụng cuối

cùng. Họ cung cấp trực tiếp tới các siêu thị, ngành chế biến hoặc các nhà sản xuất
thành phẩm. Họ có khả năng hỗ trợ tài chính, mở các chiến dịch quảng cáo và phục
vụ những nhu cầu đặc biệt.
Hầu hết các mặt hàng thủy sản dùng cho mục đích công nghiệp. Các nhà sản
xuất thành phẩm có thể mua được trực tiếp từ các nhà xuất khẩu, từ đại lý, nhà
nhập khẩu hoặc từ ngành chế biến.
Có rất nhiều công ty hoạt động trong lĩnh vực này. Một số công ty chỉ
chuyên chế biến, đông lạnh cá. Các công ty khác, đặc biệt ở Hà Lan và Bỉ, chuyên
hoạt động tái xuất khẩu thủy sản. Họ nhập khẩu ở các nước đang phát triển và xuất
khẩu sang các nước láng giềng ở Châu Âu.
Trong trường hợp muốn xuất khẩu thủy sản theo phương thức phục vụ tới
người tiêu dùng hoặc bán buôn thì phải có đại lý hoặc nhà nhập khẩu trong thị
trường EU. Các nhà bán lẻ hoặc bán sỉ rất khó khăn trong việc nhập khẩu trực tiếp
từ nước ngoài, trừ một vài siêu thị lớn.
Các quầy bán hàng trong siêu thị khác hẳn so với các sạp nhỏ truyền thống.
Các sạp nhỏ thường bán thủy sản tươi nóng hay hun khói.
2. Cơ cấu thị trường EU nhập khẩu thủy sản của Việt Nam
Thị trường EU luôn là một thị trường hấp dẫn không chỉ của các nước Châu
á, trong đó có Việt Nam mà còn là mục tiêu của nhiều nước châu lục khác, kể cả
Bắc Mỹ. Bởi không chỉ số dân đông trên 350 triệu dân với mức sống cao, ẩm thực
đa dạng, với giá cả hấp dẫn, mà còn là thị trường uy tín, xuất khẩu được hàng thủy
sản vào EU cũng có nghĩa như có trong tay chứng chỉ về trình độ, chất lượng sản
phẩm cao. Tuy vậy, EU vẫn đang sử dụng vũ khí quan thuế và phi thuế quan trừng
phạt, chia nhóm ra để hạn chế, khống chế các nước xuất khẩu theo những điều kiện
có lợi nhất cho họ. Đối với Việt Nam, thị trường này đã có một một số cải thiện
đáng kể trong việc nhập khẩu tôm, bạch tuộc, cá ngừ, mực. Trong một số năm, cơ
cấu thị trường EU nhập khẩu thủy sản của nước ta không ngừng gia tăng với giá trị
ngày một cao.
Bảng 4: Các nước EU nhập khẩu thủy sản của Việt Nam
năm 1998-1999

Nước nhập
khẩu
Năm 1998
(USD)
Năm1999
(USD)
Chênh lệch
± USD
Anh
14.086.283 9.527.170 -4559.113
áo
293.684 129.385 -164.299
Bỉ
19.076.000 25.466.772 +6.390.772
Bồ Đào Nha
92.873 126.189 +33.316
Đan Mạch
1.625.599 679.329 -946.270
Đức
10.034.280 10.840.216 +805.936
Hà Lan
27.675.547 23.187.799 -4.487.748
Italia
7.388.718 9.923.270 +2.534.808
Phần Lan
- 52.268 -
Pháp
8.218.718 5.568.664 -2.650.054
Tây Ban Nha
2.483.196 2.898.832 +415.636

Thụy Điển
563.134 713.565 +150.431
Tổng
91.537.776 89.113.459 -2.424.317
Nguồn : Bộ Thủy sản
Qua bảng số liệu trên đây, ta thấy rằng không phải tất cả 15 nước thành viên
EU đều nhập khẩu thủy sản của Việt Nam mà chỉ tập trung vào 12 nước, ngoại trừ
Lúc-xăm-bua, Hy Lạp và Ai-rơ-len. Trong số các nước Eu nhập khẩu thủy sản của
nước ta thì Anh, Bỉ, Đức, Hà Lan, Pháp, Italia luôn là những nước có giá trị nhập
khẩu thủy sản rất lớn, có thể nói đây là thị trường chính yếu của thủy sản Việt Nam
khi xuất sang EU.
Năm 1997, Việt Nam xuất sang EU với giá trị đạt được là 75.169.809 USD
(22.629 tấn thủy sản xuất khẩu). Nhưng đến năm 1998, con số này đã tăng lên rất
lớn với giá trị là 91.537.776 USD (23.081 tấn thủy sản xuất khẩu). So với năm
1997, giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 1998 sang thị trường EU đã tăng
16.367.967 USD hay tăng 21,8%. Điều này chứng tỏ rằng hàng thủy sản Việt Nam
ngày càng có được thế đứng vững chắc, được người tiêu dùng khó tính của EU
chấp nhận.
Năm 1998, các nước Anh, Bỉ, Đức, Hà Lan đã nhập khẩu thủy sản của Việt
Nam với giá trị rất lớn (trên 10 triệu USD), đặc biệt là Anh, Bỉ và Hà Lan (Anh:
14.086.283 USD , Bỉ: 19.076.000 USD, Hà Lan: 27.675.547 USD). Ngoài ra, Pháp
và Italia cũng là những nước có giá trị nhập khẩu thủy sản khá lớn của EU.
Nói chung, trong 2 năm 1997-1998, EU là thị trường có tốc độ tăng trưởng
ổn định, sức mua cao nên xuất khẩu thủy sản của nước ta có nhiều thuận lợi.
Đến năm 1999, giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào EU chỉ đạt
89.113.459 USD, giảm 2.424.317 USD hay giảm 2,65% so với năm 1998. Các
nước EU có giá trị nhập khẩu Việt Nam rất lớn trong năm 1998, thì năm 1999 đã
giảm mạnh, trong đó: Anh giảm 32,4%9 (giảm 4.559.113 USD), Hà Lan:
4.487.748 USD (giảm 16,2%), Pháp: 2.650.054 USD (giảm 32,2%), áo giảm
55,9%, Đan Mạch giảm 58,2% (giảm 946.270USD). Với giá trị nhập khẩu của

từng nước giảm mạnh như vậy, tất yếu dẫn đến sự suy giảm trong tổng giá trị mhập
khẩu thủy sản của cả EU. Nhưng năm 1999 cũng đánh dấu mức gia tăng giá trị
nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam của Bỉ, Bồ Đào Nha, Đức, Italia, Tây Ban Nha,
Thụy Điển và Phần Lan. Đặc biệt là Bỉ, giá trị nhập khẩu thủy sản năm 1999 so với
năm 1998 đã tăng 6.390.772 USD (tăng 25,1%). Bồ Đào Nha năm 1998, trị giá
nhập khẩu thủy sản Việt Nam là 92.873 USD, đã tăng lên 126.189 USD vào năm
1999 (tăng 26,4%); Đức tăng 7,4% (tăng 805.936 USD). Italia có mức tăng rất lớn
là 2.534.808 USD (tăng 26%); Tây Ban Nha tăng 14,3% (tăng 415.636 USD);
Thụy Điển từ mức giá trị nhập khẩu là 563.134 USD năm 1998, đã tăng lên
713.565 USD năm 1999 (tăng 21%).
Với 5 nước trong tổng số 12 nước nhập khẩu thủy sản của Việt Nam có mức
giá trị nhập khẩu giảm rất mạnh so với năm 1998, đã tác động rất lớn đến tổng giá
trị xuất khẩu thủy sản của nước ta sang EU trong năm 1999. Mặt khác, những nước
còn lại có tổng mức gia tăng không đáng kể so với tổng mức suy giảm của 5 nước
trên.
Sự suy giảm trong tổng giá trị nhập khẩu thủy sản của EU năm 1999 chịu sự
tác động mạnh mẽ của tốc độ tăng trưởng kinh tế các nước EU. Mặt khác, tiêu
chuẩn chất lượng cho hàng thủy sản mà EU áp dụng vẫn là bài toán nan giải cho
thủy sản xuất khẩu Việt Nam.
3. Cơ cấu mặt hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào EU
Năm 1997, Việt Nam được chính thức xuất khẩu thủy sản sang thị trường
EU. Hiện nay EU là thị trường lớn thứ hai về nhập khẩu thủy sản của Việt Nam.
Nhập khẩu chủ yếu là tôm đông, cá đông, cá hộp, mực, thịt tôm hỗn hợp và các sản
phẩm thủy sản khác.
Cho đến nay, phần lớn hàng thủy sản Việt Nam xuất đi EU đều thông qua
các công ty của ASEAN như Singapore, Thái Lan và Hồng Kông.
Năm 1997, Việt Nam xuất sang EU 22.629 tấn thủy sản các loại, trong đó:
tôm đông là 11.528 tấn, cá đông: 2708 tấn, mực đông: 1.650 tấn, thủy sản khác là
6743 tấn. Cũng trong thời gian này, EU đã thông qua quyết định bắt đầu từ năm
1997 cấm nhập khẩu nhuyễn thể hai mảnh vỏ (sò, hến...) từ nhiều nước trong đó có

Việt Nam, vì EU chưa kiểm tra được điều kiện nuôi, đánh bắt và chế biến ở các
nước xuất khẩu. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến khối lượng thủy sản của Việt
Nam sang EU, do đó tác động đến kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này.
Để xem xét cụ thể hơn về cơ cấu sản phẩm thủy sản Việt Nam xuất sang
EU, ta có bảng sau đây:
Bảng 5: Cơ cấu sản phẩm thủy sản Việt Nam xuất sang
EU năm 1997-1998
Năm
Tôm đông
(tấn)
Mực đông
(tấn)
Cá đông
(tấn)
Thủy sản
khác (tấn)
Tổng
(tấn)
1997
11.528 1.650 2.708 6.743 22.629
1998
11.849,5 1.685,64 3.432,5 6.113,36 23.081
Nguồn: Bộ Thủy sản
Qua bảng số liệu trên đây, ta thấy rằng khối lượng sản phẩm thủy sản xuất
khẩu sang EU năm 1998 so với năm 1997 có tăng nhưng tăng không đáng kể, chỉ
tăng 452 tấn hay tăng 1,96%, trong khi giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 21,8%
(tăng 16.367.967 USD). Điều đó là do cơ cấu từng loại sản phẩm đã gia tăng về
khối lượng và giá trị.

×