Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ HỢP TÁC CỦA NGÂN HÀNG FINTECH NĂM 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (612.81 KB, 12 trang )

XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ HỢP TÁC
CỦA NGÂN HÀNG - FINTECH NĂM
2020
1. Bối cảnh suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu 2019 ảnh hưởng đến hiệu quả
hoạt động của lĩnh vực ngân hàng và Fintech
Trong báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới (World Economic Outlook) tháng 10/2019,
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã dự báo tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thế giới năm
2019 sẽ giảm xuống 3%. Đây là mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
năm 2008-2009. Nguyên nhân chính là do ảnh hưởng của cuộc chiến tranh thương mại
Mỹ- Trung, dẫn đến tình trạng sụt giảm hoạt động sản xuất, đầu tư và kinh doanh thương
mại toàn cầu. Trong bối cảnh đó, các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới đã phải nới
lỏng chính sách tiền tệ gần như đồng thời để ngăn nguy cơ suy thoái kinh tế. Ngoài
những ảnh hưởng của kinh tế vĩ mô, các ngân hàng cũng phải đối mặt với việc áp dụng
các tiêu chuẩn ngân hàng mở (open banking standards) khiến cho lợi nhuận ngân hàng bị
giảm sút. Mặt khác, hoạt động ngân hàng trên thế giới nói chung và tại khu vực Châu ÁThái Bình Dương nói riêng bị suy yếu còn là hệ quả của các thay đổi đáng kể từ thị
trường, cụ thể là tỷ lệ nợ xấu (NPL) và chi phí dự phòng rủi ro gia tăng ở hầu hết các
quốc gia. Năm 2018, tỷ lệ nợ xấu ở Châu Á lên đến mức 0.3%, là mức cao nhất kể từ
năm 2012 (0.31%). Đối với các thị trường mới nổi, chi phí rủi ro bình quân tăng vọt từ
0,43% năm 2015 lên 0,49% năm 2018. Nhìn chung, tỷ lệ nợ xấu ở Thái Lan, Việt Nam và
Indonesia khá cao, nhưng vẫn còn thấp so với Ấn Độ với mức nợ xấu chiếm 11,7% các
khoản tín dụng. Xu hướng hợp nhất trong lĩnh vực ngân hàng và công ty Fintech vẫn
đang diễn ra nhằm đối phó với thực trạng tăng trưởng chậm, tỷ xuất lợi nhuận thấp, chi
phí dự phòng rủi ro cao và nhu cầu tăng qui mô để hoạt động hiệu quả hơn.


Hơn một thập kỷ qua, kinh tế khu vực Châu Á luôn tăng trưởng mạnh, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế toàn cầu. Hiện nay, do tốc độ tăng trưởng của Châu Á bị chậm lại, kết hợp
với chi phí rủi ro và chi phí vốn gia tăng khiến cho lợi nhuận của các ngân hàng Châu Á Thái Bình Dương giảm xuống gần mức trung bình so với toàn cầu. Ước tính lợi nhuận
trên vốn chủ sở hữu (ROE) của các ngân hàng Châu Á - Thái Bình Dương giảm từ 12,4%
năm 2010 xuống còn 10,1% năm 2018, gần với mức ROE trung bình cho ngân hàng toàn
cầu là 9,5% (Hình 1). Các ngân hàng phải đối mặt với mức độ cạnh tranh ngày càng cao


giữa các ngân hàng với nhau và với các công ty Fintech (được mệnh danh là những kẻ
tấn công về kỹ thuật số - Digital Attackers).
Khác với các ngân hàng trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, các ngân hàng Trung
Quốc đã có sự phát triển vượt bậc trong 10 năm qua. Ngành ngân hàng Trung Quốc đã
vượt qua Liên minh Châu Âu (EU) về quy mô. Vào năm 2007, không có ngân hàng nào
trong số 10 ngân hàng hàng đầu thế giới là ngân hàng Trung Quốc, thì đến năm 2018 có
bốn ngân hàng lớn nhất thế giới là ngân hàng Trung Quốc. Đồng thời, khả năng sinh lời
của các ngân hàng Trung Quốc cũng đạt mức rất cao, tăng trưởng ROE đạt 15,3% trong
năm 2017. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại và cuộc chiến thuế
quan với Mỹ đã ảnh hưởng đến triển vọng phát triển kinh tế và hiệu quả hoạt động ngân
hàng của Trung Quốc.


Hình 1: ROE của ngân hàng Châu Á - Thái Bình Dương đang giảm dần về mức ROE
trung bình toàn cầu.
Nguồn: SNL; McKinsey Global Banking Pools, 2019
2. Đẩy mạnh dịch vụ ngân hàng kỹ thuật số
Ngân hàng số được triển khai khá tốt ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, với mức độ
áp dụng kỹ thuật số ở mức trung bình từ 58% tại Indonesia đến 99% tại Hàn Quốc. Kỹ
thuật số cho phép các ngân hàng tiếp cận được địa bàn mới và các phân khúc thị trường
cho khách hàng thu nhập trung bình và thấp. Tuy nhiên, nhiều khách hàng vẫn muốn đến
các chi nhánh ngân hàng để thực hiện các giao dịch phức tạp hơn. Thách thức của ngân
hàng hiện nay là tạo ra trải nghiệm kỹ thuật số thu hút được khách hàng tại chi nhánh
chuyển sang sử dụng các kênh di động và trực tuyến. Ví dụ như Ngân hàng Thương gia
Trung Quốc (CMB) đã chuyển khoảng 75% hoạt động kinh doanh tại chi nhánh qua giao
dịch kỹ thuật số trong năm 2017, từ đó giảm được 30% số nhân sự tại chi nhánh, 50% chi
phí cho việc đăng ký khách hàng mới. Nhìn chung, chi phí hoạt động của ngân hàng số
thấp hơn 67% so với chi phí hoạt động của chi nhánh truyền thống, nhưng lại tạo ra mức
độ doanh thu gấp đôi (Deloitte, 2019).



Theo báo cáo của công ty kiểm toán Deloitte về xu hướng phát triển ngân hàng toàn cầu
năm 2019, những lĩnh vực quan trọng trong phát triển công nghệ ngân hàng bao gồm:
Khả năng sáng tạo trong công nghệ (chiếm 28%); hệ thống hiện đại (chiếm 23%); an
ninh và bảo mật (18%); văn phòng làm việc hiện đại (15%) (Hình 2). Công ty Deloitte
cũng đưa ra nhận định rằng: Về cơ bản, sự thành công trong chuyển đổi kỹ thuật số của
ngân hàng sẽ phụ thuộc vào sự phối hợp đồng bộ như một “dàn nhạc giao hưởng” giữa
chiến lược phát triển (strategy); công nghệ (technology) và điều hành hoạt động của cả hệ
thống (operations).

Hình 2: Những lĩnh vực quan trọng để phát triển công nghệ trong ngành ngân hàng.
Nguồn: “ICT Enterprice Insights 2019”, Deloitte Center for Financial Services.
Tuy nhiên, theo báo cáo kết quả điều tra khảo sát toàn cầu của công ty
PricewaterhouseCoopers (PCW) năm 2019, phỏng vấn 235 giám đốc điều hành ngành
ngân hàng và thị trường tài chính (CEO BCM) ở 90 quốc gia về kế hoạch sử dụng công
nghệ kỹ thuật số, các CEO đều có chung nhận định rằng, nếu ngân hàng chỉ tập trung
riêng vào công nghệ thì không thể đáp ứng được mong đợi của khách hàng trong môi
trường cạnh tranh hiện nay. Phần lớn khách hàng vẫn coi trọng sự tương tác với nhân
viên ngân hàng và tính trách nhiệm trong xử lý vấn đề của con người hơn là giao tiếp với
máy móc. Như vậy làm thế nào để ngân hàng có thể đảm bảo con người và máy móc làm


việc hài hòa? Khi được hỏi về các yếu tố ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng của ngân
hàng, 64% các CEO cho rằng sự thiếu hụt kỹ năng đổi mới công nghệ của con người là
mối đe dọa đối với triển vọng phát triển, chất lượng dịch vụ và tăng trưởng của ngân
hàng

(hình

3).


Hình 3: Các yếu tố ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng của ngành ngân hàng.
Nguồn: PricewaterhouseCoopers (PCW),2019.

Vì vậy, khi được hỏi ngân hàng có chiến lược gì để thu hẹp khoảng cách về kỹ năng sử
dụng công nghệ của nhân viên, 40% các CEO tin rằng ngân hàng cần có kế hoạch đào tạo
lại và nhân viên phải chủ động nâng cao năng lực công nghệ (hình 4). Mặt khác, hơn
90% trong số CEO tin rằng trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ thay đổi đáng kể cách thức kinh
doanh ngân hàng trong vòng năm năm tới.


Hình 4: Các biện pháp để nâng cao năng lực công nghệ cho nhân viên ngân hàng.
Nguồn: PricewaterhouseCoopers (PCW), 2019.
3. Các dịch vụ Fintech ngày phát triển
Fintech là tên viết tắt chỉ các công ty công nghệ tài chính, kết hợp của 2 từ tiếng Anh là
“Finance” và “Technology”. Có nhiều định nghĩa về Fintech: Theo định nghĩa của Ernst
& Young (EY), Fintech là những tổ chức thực hiện việc kết hợp các mô hình kinh doanh
và công nghệ tiên tiến để tăng cường hiệu quả của các dịch vụ tài chính, đồng thời cũng
phá vỡ và thách thức mô hình kinh doanh ngân hàng truyền thống. FinTech cũng được
coi là lĩnh vực cách mạng hóa công nghệ tài chính, ngân hàng. Có thể kể đến một số các
sản phẩm dịch vụ phổ biến hiện nay của Fintech như: Các loại ví điện tử (PayPal, Alipay,
Google Wallet) là phương tiện dùng để thanh toán, nhận và gửi tiền qua Internet; Bitcoin
(đồng tiền điện tử) là một loại tiền tệ kỹ thuật số phân cấp, phát hành dưới dạng phần
mềm mã nguồn mở, trao đổi trực tiếp qua Internet mà không cần thông qua các tổ chức
tài chính trung gian; TransferWise là một ứng dụng chuyển tiền quốc tế được xem như
một trong những nhà cách mạng FinTech tiêu biểu với mức phí thấp và cũng là mối đe
dọa cho các ngân hàng truyền thống về dịch vụ chuyển tiền quốc tế. Hiện nay,
TransferWise còn liên kết với Apple Pay và Facebook Messenger, nhằm mở rộng dịch vụ
chuyển khoản thông qua việc tiếp xúc với khối lượng khách hàng lớn của Apple và



Facebook. GoBear là ứng dụng trực tuyến đầu tiên của Châu Á giúp người dùng tìm
kiếm các sản phẩm tài chính và so sánh chúng với nhau khi lựa chọn các sản phẩm tài
chính phức tạp như bảo hiểm, thẻ tín dụng và cho vay; Lending Club là ứng dụng cho
vay vốn, cho phép khách hàng nhận được các khoản vay và các nhà đầu tư có thể mua
các phiếu ghi nợ tương ứng với các khoản thanh toán trực tiếp từ người vay; Kickstarter
là ứng dụng gọi vốn cộng đồng giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp (Startup) có cơ hội
huy động vốn đơn giản và dễ dàng từ những người sử dụng internet, đồng thời tạo thêm
cơ hội, nguồn động lực cho nhiều ý tưởng kinh doanh tốt nhưng lại thiếu nguồn vốn;
Robinhood (hỗ trợ giao dịch chứng khoán) là ứng dụng di động điện thoại thông minh
cho phép các cá nhân đầu tư vào các công ty đại chúng và vào các quỹ giao dịch được
niêm yết trên các sàn giao dịch tại Mỹ mà không phải trả tiền phí môi giới. Nguồn doanh
thu chính của Robinhood đến từ tiền lãi thu được từ số dư tiền gởi và cho vay ký quỹ của
khách hàng. (Hình 5)

Hình 5: Hệ sinh thái FinTech trên thế giới.
Nguồn: “FinTech Report”, Sajniv R. Das, Santa Clara University.


Fintech ngày càng có ảnh hưởng mạnh trên toàn cầu và các công ty khởi nghiệp
Fintech đã thu hút hơn 40 tỷ USD trong vòng 4 năm qua. Tính riêng khu vực Châu Á Thái Bình Dương đã nhận được gần 15 tỷ USD đầu tư vào Fintech trong năm 2018.
4. Mức độ chấp nhận các dịch vụ Fintech của người tiêu dùng ngày càng cao
Theo kết quả khảo sát của EY đối với 27.000 người tiêu dùng tại 27 thị trường trên thế
giới về việc áp dụng các dịch vụ Fintech cho thấy số người sử dụng dịch vụ Fintech
toàn cầu đã tăng dần từ 16% năm 2015 lên mức trung bình 64% vào năm 2019 (Hình
6). Lý do hàng đầu để người tiêu dùng sử dụng dịch vụ Fintech là mức giá và phí của
công ty Fintech hấp dẫn hơn so với ngân hàng. Hiện nay, các thị trường mới nổi như
Trung Quốc và Ấn Độ, đang dẫn đầu với tỷ lệ chấp nhận Fintech của người tiêu dùng
là là 87%, kế tiếp là Nga và Nam Phi với tỷ lệ chấp nhận 82%. Singapore, Hongkong,
Hàn Quốc có tỷ lệ chấp nhận giống nhau ở mức 64%, Mỹ có tỷ lệ chấp nhận thấp hơn





46%,

tiếp

theo



Nhật

Bản



mức

Hình 6: Mức độ áp dụng Fintech của một số quốc gia trên thế giới.
Nguồn: “Global Fintech adoption in 2019”, Ernst & Young.
5. Xu hướng phát triển các lĩnh vực hợp tác giữa ngân hàng và Fintech

34%.


Theo báo cáo về hoạt động ngân hàng năm 2019 của Cornerstone, hợp tác ngân hàng và
Fintech tập trung nhiều nhất ở lĩnh vực mở tài khoản kỹ thuật số (chiếm 73%), tiếp theo
là thanh toán (chiếm 54%) và cho vay (chiếm 52%) (Hình 7).


Hình 7: Các dịch vụ hợp tác chủ yếu của ngân hàng và FinTech.
Nguồn: “Báo cáo hoạt động ngân hàng 2019”, Cornerstone.
Khi được phỏng vấn về mục tiêu chiến lược mà hai bên cùng nhắm đến trong mối hệ
Ngân hàng - Fintech, 85% các ý kiến cho rằng "cải thiện trải nghiệm của khách hàng" là
mục tiêu quan trọng hàng đầu của cả hai bên. Kế đến là mục tiêu “nâng cao năng lực, qui
mô hoạt động” (55%) và củng cố khả năng, vị trí cạnh tranh hiện có (53%).


Hình 8: Các mục tiêu chiến lược của mối quan hệ ngân hàng và FinTech.
Nguồn: “Báo cáo hoạt động ngân hàng 2019”, Cornerstone.
Như vậy, trước làn sóng phát triển mạnh mẽ của các công ty Fintech, câu hỏi “Ngân
hàng và Fintech sẽ vẫn là đối thủ hay trở thành đối tác trong tương lai?” đang còn gây
nhiều tranh cãi. Tổ chức tư vấn tài chính Cornerstone nhận định “Ngành ngân hàng
đang ở buổi bình minh của một kỷ nguyên mới tuyệt vời để thay đổi trong mối quan
hệ đối tác với các công ty Fintech”. Công ty kiểm toán PWC cho rằng “Một khi công
nghệ tài chính của các công ty Fintech đã trở thành chuẩn mực, các ngân hàng phải
phấn đấu để nổi bật hơn và khẳng định lại vai trò của mình trong hệ thống tài chính
toàn cầu”. Vậy các ngân hàng truyền thống cần phải làm gì trong 5 hay 10 năm tới?
Câu trả lời là phải thay đổi từ diện mạo đến phương thức hoạt động trong môi trường
mới để cùng tồn tại với sự phát triển của Fintech.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Deloitte (2019). Banking and Capital Markets Outlook 2019
2. Dermine, J. (2016). Digital banking and market disruption: a sense of déjà vu?. FSR
FINANCIAL, 17


3. Mohan, D. (2016). How banks and Fintech startups are partnering for faster
innovation. Journal of Digital Banking, 1(1), 13-21.

4. McKinsey & Company (2019). Global Banking Practice, Asia-Pacific Banking
Review 2019
5. PricewaterhouseCoopers (PCW), (2019). Banking and capital markets trends 2019 Part of PwC’s 22nd CEO Survey trend series.
6. Sajniv R. Das (2018). FinTech Report “ML, AI, DL in FinTech”. Santa Clara
University
7. Manoonkunchai, B (2019). “Regulating and Promoting Fintech”. Bank of Thailand’s
report
8. Velde, F. (2016). Money and payments in the digital age: innovations and
challenges. FSR FINANCIAL, 103



×