Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã nậm pung, huyện bát xát, tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.11 MB, 76 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------------------

NGUYỄN MINH HIẾU
NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC TẠI XÃ
NẬM PUNG, HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo

: Chính qui

Chuyên ngành/Ngành : ST&BTĐDSH
Lớp

: K47ST&BTĐDSH

Khoa

: Lâm nghiệp

Khóa học

: 2015 - 2019

THÁI NGUYÊN - 2019


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------------------

NGUYỄN MINH HIẾU
NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC TẠI XÃ
NẬM PUNG, HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo

: Chính qui

Chuyên ngành

: ST&BTĐDSH

Lớp

: K47 ST&BTĐDSH

Khoa

: Lâm nghiệp

Khóa học

: 2015 - 2019

Giảng viên hướng dẫn


: TS. Nguyễn Thị Thu Hiền

THÁI NGUYÊN - 2019


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân
tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu là quá trình điều tra trên thực địa hoàn
toàn trung thực, chưa công bố trên các tài liệu, nếu có gì sai tôi xin chịu trách
nhiệm hoàn toàn.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 06 năm 2019

XÁC NHẬN CỦA GVHD

NGƯỜI VIẾT CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Thu Hiền

Nguyễn Minh Hiếu

Xác nhận của giáo viên chấm phản biện
Giáo viên chấm phản biện xác nhận sinh viên đã sửa sai sót
sau khi hội đồng chấm yêu cầu.
(Ký, ghi rõ họ tên)

Phạm Thu Hà



ii

LỜI CẢM ƠN

Được sự phân công của Nhà trường, Khoa Lâm Nghiệp, Trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên, sau 5 tháng thực tập em đã hoàn thành khóa luận tốt
nghiệp “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Nậm Pung,
Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai”.
Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, ngoài sự nỗ lực học hỏi của bản thân
còn có sự hướng dẫn tận tình của thầy cô, bạn bè, cô chú, anh chị tại địa bàn
xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
Xin cảm ơn cô giáo – TS. Nguyễn Thị Thu Hiền, người đã hướng dẫn
cho em trong suốt thời gian thực tập đã chỉ dẫn, định hướng đi cho em để em
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Xin cảm ơn sự giúp đỡ của cán bộ Ủy ban Nhân dân
xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai và cán bộ Kiểm lâm Khu bảo tồn
thiên nhiên Bát Xát, cùng sự chỉ bảo tận tình của các thầy lang, bà mế thuộc
xã Nậm Pung.
Đồng thời xin cảm ơn thầy cô giáo Khoa Lâm nghiệp, các bộ phận liên
quan thuộc Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên và người thân trong gia
đình cùng bạn bè thân thiết đã giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành khóa
luận tốt nghiệp.
Mặc dù đã nỗ lực cố gắng, tuy nhiên do hạn chế về kinh nghiệm cũng
như về thời gian và trình độ nghiên cứu nên khóa luận tốt nghiệp không thể
tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến góp ý, chỉ bảo của
thầy cô cũng như các bạn đọc khác để khóa luận được hoàn thiện hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 06 năm 2019

Nguyễn Minh Hiếu



iii

DANH LỤC BẢNG

Bảng 3.1. Mẫu bảng điều tra nguồn cây thuốc được cộng đồng một số dân
tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và điều
trị bệnh ............................................................................................ 26
Bảng 4.1. Số loài cây thuốc đã phát hiện ở khu vực nghiên cứu .................... 30
Bảng 4.2. Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ........................... 33
Bảng 4.3. So sánh các họ có nhiều loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu (1)
với số loài của từng họ trong hệ thực vật Việt Nam (2) ................. 34
Bảng 4.4. Đa dạng về dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu . 36
Bảng 4.5. Sự phân bố nguồn cây thuốc theo môi trường sống ở khu vực
nghiên cứu ....................................................................................... 38
Bảng 4.6. Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận ..................... 40
Bảng 4.7. Đa dạng của các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc.................. 42
Bảng 4.8. Đa dạng tần số các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc .............. 44
Bảng 4.9. Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể ................. 45
Bảng 4.10. Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ cây Vú Chó và cây Khổ
sâm cho lá........................................................................................ 48


iv

DANH LỤC HÌNH

Hình 3.1: Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài .......................... 27
Hình 4.1: Hình ảnh một số loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu ................... 32

Hình 4.2. Tỷ lệ các dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu .. 37
Hình 4.3. Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống của nguồn cây thuốc
ở khu vực nghiên cứu...................................................................... 38
Hình 4.4: Hình ảnh hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết ............................... 49


v

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i
DANH LỤC BẢNG ........................................................................................ iii
DANH LỤC HÌNH ......................................................................................... iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .......................................................... vii
PHẦN 1: MỞ ĐẦU .......................................................................................... 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài ................................................................... 2
1.3. Ý nghĩa của đề tài ....................................................................................... 2
1.3.1. Ý nghía khoa học .................................................................................... 2
1.3.2. Ý nghĩa thực tiến ..................................................................................... 2
PHẦN 2: TỔNG QUAN VẪN ĐỀ NGHIÊN CỨU ...................................... 3
2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu...................................................... 3
2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước ..................................... 3
2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới....................... 3
2.2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở trong nước ................... 11
2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu ................................................................ 21
2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu ................................................ 21
2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu ..................................... 23
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU .................................................................................... 24
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 24

3.2. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 24
3.3. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 25
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .......................... 30
4.1. Đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc xã Nậm Pung, Huyện Bát Xát,
Tỉnh Lào Cai ......................................................................................... 30
4.1.1. Đa dạng các bậc taxon........................................................................... 30


vi

4.1.2. Đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc...................................... 35
4.1.3. Đa dạng về môi trường sống của thực vật làm thuốc ........................... 37
4.1.4 Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận
được tại xã Nậm Pung, huyện Bát xát, tỉnh Lào Cai ............................ 40
4.2. Đánh giá tình hình sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại
khu vực nghiên cứu ............................................................................... 42
4.2.1. Đa dạng về bộ phận sử dụng của cây thuốc .......................................... 42
4.2.2. Đa dạng về công dụng chữa bệnh của các loài cây thuốc..................... 45
4.3. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử
dụng trong cộng đồng dân tộc Dao ở khu vực nghiên cứu ................... 48
PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................... 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 52
PHỤ LỤC


vii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ cái viết tắt/ký hiệu


Cụm từ đầy đủ

Cc

Cả cây

Đ

Sống ở đồi

Ha

Quả, hoa

HTKK

Hoạt tính kháng khuẩn

KVNC

Khu vực nghiên cứu

KH&CN

Khoa học & công nghệ

L




Lp

Dây leo

Me

Cây gỗ trung bình

Mi

Cây gỗ nhỏ

Na

Cây bụi

NCTN & MT

Nghiên cứu tài nguyên & môi
trường

NĐ - CP

Nghị định Chính phủ

R

Rễ


R

Sống ở rừng

ST & TNSV

Sinh thái & tài nguyên sinh vật

Th

Thân thảo/thân

UBND

Ủy ban nhân dân

V

Vỏ

KBT

Khu bảo tồn

Vs

Sống ven sông ven suối

Vu


Sống ở vườn


1

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia có 3/4 diện tích đồi núi, là nơi có nguồn tài
nguyên cây thuốc đa dạng và là nơi cư trú của 54 dân tộc mà phần lớn là dân
tộc thiểu số với khoảng 24 triệu người, chiếm hơn 1/3 dân số quốc gia (Trần
Thúy và cộng sự, 2005) [21]. Chính sự đa dạng về dân tộc người cùng với sự
khác biệt về điều kiện, thổ nhưỡng, khí hậu, phong tục tập quán, văn hóa từng
cộng đồng dân tộc thiểu số đã tạo nên sự đa dạng và phong phú trong vốn tri
thức dân gian về kinh nghiệm sử dụng cây cỏ xung quanh mình làm cây thuốc
chữa bệnh.
Bát Xát là huyện có tài nguyên rừng tương đối phong phú và đa dạng so
với các huyện khác của tỉnh Lào Cai. Huyện có diện tích rừng là 46.421,2ha
chiếm 33,7% tổng diện tích rừng toàn tỉnh, chủ yếu là rừng hệ thứ sinh. Hệ
sinh thái ở Bát Xát còn tương đối tốt, nhiều động thực vật quý hiếm còn tồn
tại đặc biệt là ở vùng cao Ý Tý, Dền Sáng, Sàng Ma Sáo, Trung Lèng Hồ và
Nậm Pung. Huyện Bát Xát có 23 đơn vị hành chính gồm 1 thị trấn và 22 xã.
Người dân ở đây chủ yếu là các đồng bào dân tộc thiểu số gồm 14 dân tộc
nhưng chủ yếu là Dao, H’Mông, Dao, Hà Nhì, Dáy. Trong đó đời sống người
H’Mông và người Dao có quan hệ mất thiết với tài nguyên thiên nhiên. Mỗi
dân tộc lại mang bản sắc và kinh nghiệm chữa bệnh bằng thực vật làm thuốc
rất đa dạng. Trong đó, cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Nậm Pung, huyện Bát
Xát, tỉnh Lào Cai cũng có nhiều kinh nghiệm độc đáo về việc chữa bệnh bằng
cây thuốc. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng khai thác tài nguyên rừng (Cây
thuốc, cây cảnh, rau rừng,…) của người dân địa phương bán cho các thương

lái Trung Quốc và khách du lịch, tham quan dẫn đến nguồn tài nguyên cây
thuốc ngày càng bị suy giảm. Mặt khác những bài thuốc được cộng đồng dân


2

tộc thiểu số sử dụng từ lâu đời trong việc phòng và trị một số bệnh nhưng
hoạt tính sinh học và cơ sở khoa học của các bài thuốc chưa được nghiên cứu,
chứng minh bằng con đường khoa học. Vì vậy, để cung cấp các cơ sở khoa
học góp phần bảo vệ nguồn gen cây thuốc, bảo tồn và phát triển các bài thuốc
của một số cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tôi đề
xuất ý tưởng đề tài “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã
Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai”.
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài
- Đánh giá được tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc và kinh
nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Nậm Pung,
huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
- Đánh giá được hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá
trị cao được của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Nậm Pung, huyện Bát Xát,
Tỉnh Lào Cai sử dụng trong phòng và trị bệnh.
- Xác định được những cây thuốc thuộc diện quý hiếm ở Việt Nam, hiện
có ở khu vực nghiên cứu.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
- Xác định được tri thức bản địa sử dụng các loài cây thuốc của cộng
đồng dân tộc Dao tại xã Nậm Pung, Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai.
- Xác định được hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá
trị cao tại khu vực nghiên cứu.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả thu được sẽ là cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất công tác bảo tồn

và phát triển nguồn gen cây thuốc của của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Nậm
Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.


3

PHẦN 2
TỔNG QUAN VẪN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu
Phòng và chữa bệnh bằng các loài thảo dược đã được con người sử dụng
từ hàng ngàn năm nay. Nó vẫn đang tồn tại và ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Hàng năm, con người đã tìm ra được những hoạt chất quý trong các loài thảo
dược có thể phòng và chữa trị được những căn bệnh từ đơn giản hàng ngày
như cảm cúm, ho sốt đến những căn bệnh nan y như ung thư, bệnh tim, suy
thận,... hay những căn bệnh nhiệt đới nguy hiểm như dịch cúm A H5N1,
H1N1,... Các cây thuốc và bài thuốc có được nhờ kinh nghiệm tích lũy qua
nhiều thế hệ giờ đây đang dần mất đi theo thời gian. Do đó việc gìn giữ vốn
kiến thức quý báu trong việc sử dụng cây thuốc và bài thuốc từ thảo dược là
việc hết sức cần thiết. Theo tổ chức y tế thế giới WHO, khoảng 80% dân số
hiện nay trên thế giới vẫn dựa vào thuốc có nguồn gốc tự nhiên trong chăm
sóc sức khỏe cộng đồng (Nguyễn Hoàng Sơn, 2014) [76]. Trong tuyên ngôn
Alma Ata năm 1978 và “Hướng dẫn đánh giá y học cổ truyền” năm 1991,
WHO luôn khuyến nghị dùng các thuốc cổ truyền vào chăm sóc sức khỏe ban
đầu (Nguyễn Hoàng Sơn, 2014) [76]. Vậy, nghiên cứu về các loài cây thuốc
là hết sức cần thiết cho việc bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc và bài
thuốc cho thế hệ hôm nay và mai sau.
2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước
2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới
Tổ tiên loài người từ khi xuất hiện đã gắn bó với thiên nhiên, trải qua
quá trình đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật để sinh tồn. Trong quá trình

đó, tổ tiên chúng ta ngay từ khi còn là các tộc người đã sớm phát hiện ra
những cây cỏ trong tự nhiên có thể sử dụng làm thuốc, đồng thời trong cuộc
sống lao động, đấu tranh với bệnh tật đã sáng tạo ra những bài thuốc và
phương pháp chữa bệnh.


4

Khoảng 60.000 năm trước đây, bằng chứng về sự tồn tại của các loài thực
vật được sử dụng cho mục đích chữa bệnh đã tìm thấy trong ngôi mộ cổ của
người Neanderthal có 8 loài cây thuốc (Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, 2016) [73].
Đóng góp quan trọng về mô tả cây thuốc đã được thực hiện bởi
Dioscorides, một bác sĩ trong quân đội La Mã đã viết “De materia medica”
trong khoảng những năm tác giả 60 tuổi. Bộ sách này được viết bằng tiếng Hy
Lạp mô tả nguồn gốc, đặc điểm và công dụng của khoảng 500 loài thực vật và
quy trình sử dụng 1.000 loại thuốc đơn giản (Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, 2016) [73].
Trong những năm gần đây, những nghiên cứu về sử dụng cây thuốc cho
mục đích chữa bệnh của người dân bản địa ở các khu vực, các quốc gia được
các nhà khoa học thực hiện trên khắp các châu lục trên thế giới:
Ở Châu Á:
Châu Á là châu lục có nhiều dân tộc bản địa sinh sống, với vốn tri thức
bản địa về việc sử dụng các loài thực vật làm thuốc phong phú và đa dạng, đã
có những nghiên cứu cụ thể ở các cộng đồng người, các khu vực khác nhau như:
Sanjay Kr Uniyal và cộng sự (2006) [63] khi nghiên cứu về sử dụng kinh
nghiệm sử dụng cây thuốc giữa các cộng đồng của vùng Chho Bhangal, phía
Tây dãy Hymalaya đã tìm thấy 35 loài thực vật thường được người dân địa
phương sử dụng trong việc chữa các bệnh khác nhau.
Yanchun Liu và cộng sự (2009) [69], đã ghi nhận và thu thập 68 loài cây
thuốc trong 64 chi thuộc 40 họ được người Tây Tạng sử dụng để chữa các
bệnh khác nhau.

Manju Panghal và cộng sự (2010) [53] khi nghiên cứu kiến thức bản
địa về cây thuốc được sử dụng ở cộng đồng Saperas của làng Khetawas,
quận Jhajjar, Haryana, Ấn Độ đã tìm thấy 57 loài thực vật thuộc 51 chi và
35 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau, theo nghiên


5

cứu này cây thuốc được cộng đồng Saperas sử dụng nhiều nhất là các cây
thuộc họ Fabaceae.
Arshad Abbasi và cộng sự (2013) [38] khi thẩm định về thực vật học và
các giá trị văn hóa của các loại rau ăn được hoang dã quan trọng trong y học
của Lesser dãy Hymalaya đã ghi nhận 45 loại rau ăn được hoang dã thuộc 38
chi và 24 họ đã được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau và
tiêu thụ.
Mi-Jang Song và cộng sự (2013) [57] khảo sát cây thuốc ở đảo Jeju, Hàn
Quốc đã tìm thấy 171 loài thực vật thuộc 141 chi và 68 họ, 777 cách sử dụng
các loài cây thuốc của người dân bản địa được ghi lại.
Auemporn Junsongduang và cộng sự (2013) [39] nghiên cứu về cây
thuốc từ nương rẫy và rừng thiêng của dân tộc Karen và Lawa ở Thái Lan đã
chỉ ra 365 loài thực vật thuộc 244 chi và 82 họ được sử dụng làm thuốc, trong
đó các cây thuộc họ Euphorbiaceae và Lauraceae được người dân sử dụng
nhiều nhất.
Naveed Akhtar và cộng sự (2013) [61] nghiên cứu về đa dạng và sử
dụng cây thuốc dân tộc trong khu vực Swat, Bắc Pakistan đã ghi nhận 106
loài thực vật thuộc 54 họ được người dân bản địa sử dụng để điều trị bệnh.
Homervergel G. Ong và Young - Dong Kim (2014) [50] nghiên cứu về
thực vật học định lượng của các cây thuốc được sử dụng bởi các nhóm bản
địa Ati Negrito ở đảo Guimaras, Philippin đã tìm thấy 142 loài cây dược liệu
thuộc 55 họ được sử dụng trong 16 loại bệnh.

Tahira Bibia và cộng sự (2014) [65] nghiên cứu thực vật dân tộc của cây
thuốc ở quận Mastung của tỉnh Balochistan, Pakistan đã chỉ ra 102 loài thực
vật thuộc 47 họ được người dân sử dụng cho mục đích điều trị các loại bệnh
khác nhau.


6

Mi-Jang Song và cộng sự (2014) [58] khi điều tra và phân tích các kiến
thức truyền thống về cây thuốc được sử dụng bởi các cư dân tại Vườn quốc
gia (VQG) Gayasan, Hàn Quốc đã điều tra và thống kê 200 loài thực vật
thuộc 168 chi và 87 họ được các cư dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác
nhau như: rối loạn cơ xương, đau nhức, rối loạn hệ hô hấp, bệnh gan và các
vết cắt vết thương.
Dol Luitel và cộng sự (2014) [45] khi nghiên cứu cây thuốc được sử
dụng bởi cộng đồng người Tamang ở quận Makawanpur của Trung tâm Nepal
đã tìm thấy 161 loài thực vật thuộc 144 chi và 86 họ đã được người dân sử
dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau.
Ở Châu Âu:
Y học dân gian châu Âu có một lịch sử lâu dài, những tri thức dân gian
bản địa được truyền lại cho các thế hệ sau bằng việc ghi chép lại và thông qua
truyền miệng qua nhiều thế kỉ (Evidence-Based Complementary và cộng sự,
2012) [72]. Những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học
về việc sử dụng các loài thực vật để điều trị các loại bệnh của người dân bản
địa được thực hiện:
Joana Camejo – Rodrigues và cộng sự (2014) [52] khi nghiên cứu về
thực vật học của cây thuốc trong công viên tự nhiên của Sera de Saox
Mamede, Bồ Đào Nha đã cung cấp thông tin của 165 loài thực vật được sử
dụng để điều trị các bệnh khác nhau.
Maria Leporatti và cộng sự (2007) [54] khi nghiên cứu về một số công

dụng của cây thuốc trong khu vực Alto Tirreno Cosentino, Calabria, miền
Nam nước Ý đã chỉ ra 52 loài thực vật thuộc 35 họ được người dân sử dụng
để điều trị các loại bệnh chủ yếu như: bệnh ngoài da, bệnh về đường hô hấp,
đau răng, sâu răng và đau thấp khớp.


7

Montse Parada và cộng sự (2009) [60] nghiên cứu thực vật dân tộc của
khu vực Alt Empordaf, Catalonia, bán đảo Iberia đã tìm thấy trên 518 loài
thực vật thuộc 335 chi và 80 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh
khác nhau.
Maria Leporatti và Kamel Gheddira (2009) [71] khi phân tích so sánh
các cây thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền tại Ý và Tunisia đã ghi
nhận 153 loài thực vật thuộc 60 họ được người dân sử dụng trong việc điều trị
các bệnh khác nhau.
Ugur Cakilcioglu và cộng sự (2011) [67] khi khảo sát cây thuốc ở
Maden, Elazig, Thổ Nhĩ Kỳ đã tìm thấy 88 loài thực vật thuộc 41 họ được sử
dụng cho mục đích điều trị bệnh.
Behxhet Mustafa và cộng sự (2012) [41] nghiên cứu về các loài thực vật
được sử dụng làm thuốc của dãy núi Alps Albania ở Kosovo đã ghi nhận 98
loài thực vật thuộc 39 họ được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh
khác nhau, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu thuộc các họ
Rosaceae, Asteraceae và Lamiaceae.
Seyid Ahmet Sargin và cộng sự (2013) [70] nghiên cứu về các loài cây
thuốc được sử dụng bởi người dân địa phương của Alasehir, Manisa, Thổ Nhĩ
Kỳ đã thu thập được 137 loài thực vật được người dân bản địa sử dụng để
điều trị các bệnh khác nhau.
Gorka Menedez-Baceta và cộng sự (2014) [49] nghiên cứu về cây dược
liệu truyền thống được sử dụng ở phía Tây Bắc của xứ Basque, bán đảo Iberia

đã chỉ ra 139 loài thực vật thuộc 58 họ được người dân sử dụng để điều trị
bệnh, trong đó các cây được sử sụng nhiều nhất thuộc họ Asteraceae.
Ở Châu Mĩ:
Việc nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc của người dân bản địa cũng
được thực hiện:


8

Rainer W Bussmann và Douglas Sharon năm (2006) [62] nghiên cứu về
sử dụng cây thuốc cổ truyền ở miền Bắc Peru đã ghi nhận 510 loài thực vật
được người dân địa phương sử dụng để điều trị bệnh, các cây thuộc các họ
được sử dụng nhiều nhất là: Asteraceae, Fabaceae, Lamiaceae, Solanaceae,
Euphorbiaceae và Poaceae.
Cecilia Almeida và cộng sự (2006) [43] nghiên cứu cây thuốc phổ biến
được sử dụng trong các khu vực Xingo – một khu vực khô hạn ở Đông Bắc
Brazil đã tìm thấy 187 loài thực vật thuộc 128 chi và 64 họ được người dân sử
dụng để điều trị các bệnh: cảm lạnh thông thường, viêm phế quản, bệnh tim
mạch, bệnh thận, viêm và an thần.
Gabriele Volpato và cộng sự (2009) [47] nghiên cứu sử dụng cây thuốc
của người nhập cư Haiti và con cháu của họ ở tỉnh Camaguey, Cuba đã chỉ ra
123 loài thực vật thuộc 112 chi và 63 họ được người nhập cư Haiti sử dụng để
điều trị các bệnh khác nhau.
Gaia Luziatelli và cộng sự (2010) [48] nghiên cứu cây thuốc của cộng
đồng Ashaninka (một nghiên cứu từ các cộng đồng bản địa của Bajo
Quimiriki, Junin, Peru đã tìm thấy 402 loài thực vật được cộng đồng sử dụng
để điều trị các loại bệnh, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu
thuộc các họ: Asteraceae, Araceae, Rubiaceae, Euphorbiaceae, Solanaceae và
Piperaceae.
Yadav Uprety và cộng sự (2012) [68] nghiên cứu sử dụng cây thuốc

trong rừng phương Bắc của Canada đã điều tra và thống kê 546 loài cây thuốc
được sử dụng bởi những người thổ dân của rừng phương bắc Canada, các loại
cây thuốc này được sử dụng để điều trị 28 bệnh và triệu chứng rối loạn khác
nhau, trong đó các cây thuốc được sử dụng để chữa bệnh rối loạn dạ dày –
ruột, rối loạn cơ xương là chủ yếu.


9

Theo nghiên cứu “Thực vật dân tộc của người dân Rayones, Nuevo
León, Mexico” năm 2014, đã ghi nhận 252 loài thực vật thuộc 228 chi và 91
họ được người dân Rayones sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó các họ
được sử dụng chủ yếu là: Asteraceae và Fabaceae (Eduardo Estrada-Castillón
và cộng sự, 2014) [46].
Nghiên cứu “Cây thuốc trong bối cảnh văn hóa của một cộng đồng
Mapuche – Tehuelche trong thảo nguyên Datagonia Argentina” đã chỉ ra 121
loài thực vật được cộng đồng sử dụng để điều trị các bệnh liên quan đến tiêu
hóa, hô hấp, tim mạch, giảm đau, chống viêm, sản khoa, phụ khoa và sinh dục
(Soledad Molares và Ana Ladio, 2014) [64].
Ở Châu Phi:
Người dân Châu Phi đã sử dụng cây thuốc bản địa hàng nghìn năm nay
để bảo vệ sức khỏe của họ, những nghiên cứu gần đây cho thấy việc sử dụng
cây thuốc của những người dân bản địa ở châu Phi rất đa dạng và phong phú
(Cây thuốc Châu Phi, 2013) [36]:
Rainer W Bussmann (2006) [66] nghiên cứu về thực vật dân tộc của
Samburu ở Nam Turkana, Kenya đã thống kê được 448 loài thực vật mà
người dân bản địa sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau.
Tilahun Teklehaymanot và Mirutse Giday (2007) [64] nghiên cứu về
thực vật học của cây thuốc được sử dụng bởi người dân ở Zegie Peninsula,
Tây Bắc Ethiopia đã ghi nhận 67 loài cây thuốc thuộc 64 chi và 42 họ được

người dân sử dụng để điều trị các bệnh liên quan đến rối loạn tiên hóa, kí sinh
trùng và nhiễm trùng.
Woldu và Tilahun Teklehaymanot (2009) [59] nghiên cứu về kiến thức
cây thuốc của dân tộc Bench ở Ethiopia đã tìm thấy 35 loài thực vật được sử
dụng để làm thuốc, trong đó 32 loài được sử dụng để điều trị các bệnh cho
người và 3 loài được sử dụng để điều trị các bệnh cho cả người và gia súc.


10

Theo nghiên cứu của David J Simbo “Một cuộc khảo sát về các loài thực
vật được sử dụng làm thuốc trong Babungo, khu vực Tây Bắc, Cameroon”, đã
xác định và ghi nhận 107 loài thực vật thuộc 98 chi và 54 họ được người dân
địa phương sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó họ được sử dụng chủ yếu là
họ Asteraceae (David J Simbo, 2010) [44].
“Nghiên cứu về thực vật học và kiến thức bản địa về sử dụng cây thuốc
của các thầy lang trong khu vực Oshikoto, Namibia”, đã tìm thấy 61 loài cây
thuốc thuộc 25 họ được các thầy lang trong khu vực sử dụng để điều trị các
bệnh khác nhau như: Tâm thần, nhiễm trùng da, vết thương ngoài da, rắn cắn
và các vấn đề tim mạch (Ahmad Cheikhyoussef và cộng sự, 2011) [37].
“Nghiên cứu cây thuốc của Otwal và Ngãi ở quận Oyam, Bắc Uganda”,
đã chỉ ra 71 loài thực vật thuộc 41 họ được người dân địa phương sử dụng để
điều trị các loại bệnh khác nhau, trong đó họ được sử dụng chủ yếu là họ
Asteraceae (Maud M Kamatenesi và cộng sự, 2011) [55].
Nghiên cứu “cây thuốc được sử dụng bởi phụ nữ từ rừng ven biển
Agnalazaha Đông Nam Madagascar”, đã thống kê được 152 loài cây thuốc
được sử dụng bởi người dân địa phương để điều trị các bệnh, trong đó ghi
nhận 8 loài được sử dụng bởi những người phụ nữ để điều trị các biến chứng
trong khi sinh, các bệnh nhiệt đới như: sốt rét, giun chỉ và các bệnh liên quan
đến tình dục như bệnh lậu và giang mai (Mendrika Razafindraibe và cộng sự,

2013) [56].
Nghiên cứu về “sử dụng và quản lý cây thuốc truyền thống của cộng
đồng dân tộc Maale và Ari, ở miền nam Ethiopia”, đã ghi nhận 128 loài cây
thuốc thuộc 111 chi và 49 họ được cộng đồng người Maale và Ari sử dụng để
điều trị các loại bệnh khác nhau (Berhane Kidane và cộng sự, 2014) [42].
Kết quả nghiên cứu về cây thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền bởi
những người Oromo, quận Ghimbi, Tây Nam Ethiopia, đã thống kê được 49


11

loài cây thuốc thuộc 31 họ và 46 chi được người Oromo sử dụng để điều trị
các loại bệnh khác nhau (Balcha Abera, 2014) [40].
Ở Châu Úc:
Những nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc bản địa được thực hiện ở
châu Úc còn rất ít. Một nghiên cứu về các loài cây thuốc được sử dụng bởi
cộng đồng thổ dân Yaegl ở miền Bắc New South Wales, Australia, đã ghi
nhận 32 loài cây thuốc thuộc 21 họ được thổ dân Yaegl sử dụng để điều trị
các bệnh (Joanne Packera và cộng sự, 2012) [51].
Như vậy, việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc đã để lại những
công trình mang tính khoa học, tính dân tộc sâu sắc, cho thấy vốn tri thức dân
gian bản địa về sử dụng cây thuốc trên thế giới là vô cùng đa dạng và phong phú.
2.2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở trong nước
Ở Việt Nam, tập quán sử dụng cây thuốc đã có từ rất lâu đời. Trải qua
hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã phải trải qua các
cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật.
Từ những buổi đầu sơ khai, từ khi con người còn sống theo lối nguyên thủy,
trong quá trình tìm tòi thức ăn, tổ tiên chúng ta đã phát hiện ra công dụng và
tác hại của nhiều loại cây. Suốt một quãng thời gian dài như vậy, tổ tiên
chúng ta đã tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm, biết lợi dụng tính chất của

các loài cây rừng để làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh (Trần Thúy và cộng
sự, 2005) [21].
Thế kỷ thứ XI (TCN), Người dân Việt Nam ta có tục ăn trầu cho ấm
người, thơm miệng, uống nước chè xanh cho mát và nụ vối cho dễ tiêu,…
điều đó nói lên những hiểu biết về dinh dưỡng và sử dụng thuốc của dân tộc
(Lê Trần Đức, 1997) [9].
Từ xa xưa, thời Hùng Vương, tổ tiên ta đã biết nấu rượu, biết dùng Thủy
ngân để ướp xác và sử sách đã ghi chép về một lương y tên là Thôi Vỹ đã biết


12

chữa bệnh lao hạch ở thời An Dương Vương (257 – 207) (Trần Thúy và cộng sự,
2005) [21].
Thời nhà Lý (1010 – 1221) đã có tổ chức Ty Thái Y chăm lo và bảo vệ
sức khỏe cho nhà vua, có nhiều thầy thuốc chuyên lo việc chữa bệnh cho nhân
dân và phương pháp chữa bệnh bằng tâm lý liệu pháp phát triển. Trong sử
sách còn ghi lại năm 1136, vua Lý Thần Tông khi bị điên đã được lương y
Nguyễn Chí Thành người Gia Viễn – Ninh Bình dùng tâm lý liệu pháp và tắm
nước Bồ hòn chữa cho khỏi bệnh. Nhà Lý đặt quan hệ với Tống Huy Tông
(Trung Quốc) trao đổi thuốc Nam lấy thuốc Bắc (Trần Thúy và cộng sự,
2005) [21]. Ở thời này, làng Đại Yên là một làng thuốc nổi tiếng, chuyên
trồng và bán các loại cây thuốc Nam phục vụ công tác chữa bệnh (Viện dược
liệu, 1993) [27].
Thời nhà Trần (1224 – 1399), y học cũng khá phát triển, đã có kế hoạch
tự túc thuốc Nam để kháng chiến. Tướng Phạm Ngũ Lão đã trồng cây thuốc
ở Vạn An và Dược Sơn (xã Hưng Đạo – Chí Linh – Hải Dương) để cung cấp
cho quân y (Lê Trần Đức, 1997) [9]. Nổi bật ở thời này là nhà sư Tuệ Tĩnh
(Nguyễn Bá Tĩnh) – được nhân dân tôn trọng, gọi là “Ông thánh thuốc
Nam”. Tuệ Tĩnh đã xây dựng 74 ngôi chùa chữa bệnh cho nhân dân không

lấy tiền và gây phong trào trồng thuốc ở gia đình. Ông là một đại sư nước
Việt dùng thuốc Nam giảm giá trị của thuốc Bắc, sắc thuốc chữa bệnh cho
nhân dân với phương châm: “thuốc Nam chữa bệnh người Nam” ông đã
truyền bá y dược cổ truyền cho nhân dân trong các tác phẩm (Lê Trần Đức,
1997) [9]. Thời kỳ nhà Lê (1428 – 1876) đã có những chủ trương tiến bộ
trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân, tổ chức Thái Y Viện,
có lương y chăm lo việc chữa bệnh cho quân đội, hàng năm tổ chức các đợt
phòng và chống dịch bệnh cho nhân dân. Trong giai đoạn này có làng thuốc
ở thôn Nghĩa Trai, huyện Văn Lâm, hiện nay vẫn còn tồn tại và phát triển
(Trần Thúy và cộng sự, 2005) [21].


13

Thế kỷ XVIII, Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông (1729 – 1791)
đã thừa kế dược học của Tuệ Tĩnh chép vào tập “Lĩnh Nam bản thảo” nội
dung gồm 496 vị thuốc Nam của “Nam dược thần hiệu” và phát hiện thêm
hơn 300 vị nữa. Tác giả đã để lại bộ sách thuốc rất có giá trị là: “Tân Hoa Hải
Thượng Lãn Ông y tông tâm lĩnh dương an toàn trạch” gọi tắt là “Lãn Ông Y
Nghiệp” hay “Lãn Ông Y Tập” gồm 66 quyển (Nguyễn Nhân Thống, 2008)
[19]. Suốt 30 năm của cuộc dời mình, tác giả đã xây dựng được nền móng cho
nền y học cổ truyền Việt Nam toàn diện cả về lý luận, phương pháp điều trị
và dược liệu.
Ngoài các bộ sách nêu trên, còn kể đến tập “Vạn phương thập nghiệm”
của Nguyễn Nho và Ngô Văn Tĩnh gồm 8 tập, xuất bản 1763. Tập “Nam bang
thảo mộc” của Trần Nguyệt Phương mô tả 100 loài cây thuốc Nam, xuất bản
năm 1858 (Lê Trần Đức, 1997) [9].
Thời kỳ Tây Sơn (1788 – 1808) Nguyễn Hoành đã để lại tập “Nam
dược” với 620 vị thuốc, với các phương thuốc kinh nghiệm gia truyền (Lê
Trần Đức, 1997) [9].

Thời kỳ từ năm 1802 – 1883, nhà Nguyễn cũng tổ chức Thái Y Viện, tổ
chức điều trị bệnh phong tập trung, mở trường dạy thuốc ở Huế (Trần Thúy
và cộng sự, 2005) [21]. Nguyễn Quang Lượng, Nguyễn Kinh,… là những
danh y nổi tiếng thời này, đã góp phần phát triển nền y học với quyển: “Nam
dược tập nghiệm quốc âm” bằng chữ Nôm của Nguyễn Quang Lượng về
phương thuốc dân gian.
Thời kỳ Pháp thuộc (1848 – 1945), y học cổ truyền nước ta có một số
hoạt động như: Thành lập các hội y học ở Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ; mở các
lớp huấn luyện y học cổ truyền, mở các phòng chữa bệnh, tổ chức triển lãm y
học cổ truyền,… (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [21]. Đến đầu thế kỷ XX, đã
cho xuất bản một số sách Y học cổ truyền bằng chữ quốc ngữ như “Việt Nam


14

dược học” của Phó Đức Thành. Nhiều nhà thực vật học người Pháp và người
Việt góp công nghiên cứu cây thuốc Việt Nam, như: bộ “Trung Việt dược
tính hợp biên” của Đinh Nho Chân với 1.600 vị thuốc Nam Bắc. Công trình
nghiên cứu của Crévót, Pétélot. Pétélot đã cho xuất bản bộ “Catalogue des
produits de L’Indochine” (1928 – 1935), trong đó tập V (Produits
medicinaux, 1928) đã mô tả 368 cây thuốc và vị thuốc là các loài thực vật có
hoa. Năm 1952, tác giả đã cho bổ sung và xây dựng thành bộ “Les plantes de
médicinales du Cambodge, du Laos et du Vietnam”, gồm 4 tập và thống kê
được 1.482 vị thuốc thảo mộc ở ba nước Đông Dương (Lê Thị Thanh Hương,
2007) [12].
Sau cách mạng tháng 8 – 1945, y dược học cổ truyền đạt được những
thành tựu to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Bộ y tế cùng y học hiện đại, sức khỏe
của người dân được quan tâm và chăm lo chu đáo hơn. Chỉ thị số 210
TTG/VG ngày 06/12/1966 của thủ tướng chính phủ đã nhận định như sau:
“Dược liệu nước ta rất nhiều, gồm các loài cây thuốc và một số động vật. Có

nhiều loài quý, hiếm ở trên thế giới. Dược liệu ở nước ta chẳng những là cơ
sở cho nền y học dân tộc mà còn có một vị trí quan trọng trong nền y học hiện
đại, chẳng những là nguồn tự cung tự cấp về các loài cây thuốc Nam, thuốc
Bắc, thuốc Tây, mà còn là loại hàng xuất khẩu có giá trị,… phải coi trọng
dược liệu như cây công nghiệp cao cấp” (Võ Văn Chi, 1996) [5].
Chính vì vậy, sau khi nước nhà thống nhất, việc nghiên cứu cây thuốc ở
nước ta được quan tâm nhiều hơn. Có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, tìm
tòi và phát hiện thêm nhiều loài cây thuốc mới. Tiêu biểu có thể kể đến bộ
sách “Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam” gồm 3 tập, do Đỗ Tất Lợi
biên soạn năm 1957 và đến năm 1961, cuốn sách này được tái bản in thành 2
tập. Trong đó, tác giả đã mô tả chi tiết và nêu công dụng của hơn 100 cây
thuốc nam (Nguyễn Tập, 2007) [15]. Đỗ Tất Lợi đã tiếp tục dày công nghiên
cứu và trrong những năm từ 1962 – 1965, tác giả cho xuất bản bộ “Những


15

cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” gồm 6 tập, năm 1969 tái bản trong 2 tập.
Cuốn sách này của tác giả đã đề cập đến trên 500 vị thuốc có nguồn gốc thảo
mộc, động vật và khoáng vật. Tác giả đã kiên trì nghiên cứu, bổ sung liên
tục các loài cây thuốc trong các công trình nghiên cứu của mình và sách đã
được tái bản nhiều lần và các năm 1970, 1977, 1981, 1986, 1995, 1999,
2001 và năm 2003. Lần tái bản thứ 7 vào năm 1995 số cây thuốc của ông
nghiên cứu đã lên tới 792 loài và gần đây nhất là lần tái bản lần thứ 13 (dẫn
theo Lê Thị Thanh Hương, 2007) [12]. Bộ sách của ông đã mang lại giá trị
khoa học và giá trị thực tiễn sâu sắc, thể hiện sự kết hợp giữa khoa học dân
gian và khoa học hiện đại.
Trong những năm này, nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học đã được xuất bản thành các tập sách như: “Tài Nguyên cây thuốc Việt
Nam” vào 1993 của Viện Dược liệu, với khoảng 300 loài cây thuốc (Phạm

Hoàng Hộ, 2006) [11]; Trần Đình Lý với cuốn “1900 loài cây có ích” năm
1995, đã thống kê ở Việt Nam có khoảng 76 loài cho nhựa thơm, 260 loài cho
dầu béo, 160 loài có tinh dầu, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây (dẫn theo Lê
Thị Thanh Hương, 2007) [12]. Lương y lão thành, thầy thuốc ưu tú Lê Trần
Đức với cuốn: “Cây thuốc Việt Nam” năm 1995 đã giới thiệu hơn 830 loài
cây thuốc chính, phụ (Lê Trần Đức, 1997) [9]. Võ Văn Chi là một nhà thực
vật lớn của Việt Nam, đã đóng góp rất nhiều trong quá trình nghiên cứu về
các loài thực vật ở Việt Nam và ông đã biên soạn cuốn “Từ điển cây thuốc
Việt Nam”, trong đó ông mô tả rất tỷ mỷ về các cây được sử dụng làm thuốc
ở Việt Nam bao gồm 3.200 cây (Nguyễn Thượng Dong và cộng sự, 2006) [8].
Ngoài ra, cuốn “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” tập I, II đề cập đến rất nhiều cây
cỏ có ích như làm gỗ, làm lương thực, làm thuốc (Nguyễn Thượng Dong và
cộng sự, 2006) [8].
Từ những năm 2000 cho đến nay, đã có nhiều cuốn sách và các tài liệu
về cây thuốc được xuất bản nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều người quan


16

tâm tới cây thuốc trên khắp đất nước Việt Nam như: “577 bài thuốc dân gian
gia truyền” (Âu Anh Khâm, 2001) [13]; “Thuốc Nam, thuốc Bắc và các
phương thang chữa bệnh” (Tào Duy Cần, 2001) [1] và cuốn “Thuốc bệnh 24
chuyên khoa” (Tào Duy Cần, 2006) [2]; “Nghiên cứu cây thuốc từ thảo
dược” (Nguyễn Thượng Dong và cộng sự, 2006) [8]; “Cây có vị thuốc ở
Việt Nam” do Phạm Hoàng Hộ nghiên cứu và tập hợp (Phạm Hoàng Hộ,
2006) [11]; “cây thuốc, bài thuốc và biệt dược” của Phạm Thiệp và cộng sự
(2000) [16] đề cập tới 327 cây thuốc phổ biến,… Đồng thời, có nhiều công
trình nghiên cứu về cây thuốc trên cả nước công bố trên các tạp chí về cây
thuốc như: Đặng Quang Châu đã công bố một số dẫn liệu về cây thuốc của
dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn (Nghệ An) gồm 177 loài, thuộc 149 chi,

thuộc 71 họ khác nhau (Đặng Quang Châu, 2011) [4]. Đặng Quang Châu,
Bùi Hồng Hải khi điều tra các loài cây của dân tộc Thái ở huyện Quỳ Châu
(Nghệ An) đã thu được 93 loài thuộc 7 chi, 42 họ (Đặng Quang Châu và Bùi
Hồng Hải, 2003) [3].
Các tác giả đã phân loại cây được sử dụng theo các nhóm bệnh: bệnh
ngoài da, bệnh về đường tiêu hóa, bệnh về gan, bệnh về xương… Lưu Đàm
Cư và cộng sự (2004) [7] khi điều tra các loài cây có ích của dân tộc H’mông
ở vùng núi cao phía Bắc đã phân loại được 4 nhóm theo công dụng: cây lương
thực – thực phẩm, cây làm thuốc, cây có độc, cây để nhuộm màu, cây ăn quả.
Trong nhóm này cây làm thuốc đã thống kê được 657 loài thuộc 118 họ mà
người H’mông sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người và gia súc. Nguyễn
Thị Thủy và Phạm Văn Thỉnh (2004) [20] đã xây dựng các mô hình vườn bảo
tồn cây thuốc ở vùng cao Sa Pa, như vườn rừng, trang trại, vườn các hộ gia
đình. Bước đầu đã bảo tồn được 52 loài cây thuốc thuộc 28 họ, trong đó có
nhiều loài đang có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Trong Hội nghị Khoa học Toàn quốc lần thứ 4 năm 2011 tại Hà Nội, đã
có nhiều báo cáo khoa học về tài nguyên cây thuốc và cách sử dụng các loài


×