Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự (luận văn thạc sĩ luật )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.32 MB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

CHU THỊ THANH HƢƠNG

Kü N¡NG KHëI KIÖN Vô ¸N D¢N Sù

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

CHU THỊ THANH HƢƠNG

Kü N¡NG KHëI KIÖN Vô ¸N D¢N Sù
Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số

: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong luận văn đảm bảo độ tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét
để cho tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
NGƢỜI CAM ĐOAN

Chu Thị Thanh Hƣơng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG KHỞI KIỆN

8

VỤ ÁN DÂN SỰ


1.1.

Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của kỹ năng khởi kiện vụ án

8

dân sự
1.1.1. Khái niệm kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự

8

1.1.2. Đặc điểm của kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự

13

1.1.3. Ý nghĩa của kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự

16

1.2.

Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện kỹ năng khởi kiện

19

vụ án dân sự
1.2.1. Các quy định của pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự

19


1.2.2. Năng lực tham gia tố tụng của người khởi kiện vụ án dân sự

20

1.2.3. Sự hỗ trợ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

21

đương sự đối với người khởi kiện vụ án dân sự
1.2.4. Năng lực đội ngũ cán bộ công chức của Tòa án, Viện kiểm sát
Chƣơng 2:

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC

22
26

HIỆN KỸ NĂNG KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ

2.1.

Thực trạng pháp luật bảo đảm thực hiện kỹ năng khởi kiện

26

2.1.1. Chủ thể khởi kiện

26

2.1.2. Đối tượng và phạm vi khởi kiện


38

2.1.3. Các điều kiện khởi kiện vụ án dân sự

42

2.1.4. Hình thức và thủ tục khởi kiện

54

2.2.

Kết quả đạt được từ thực trạng thực hiện kỹ năng khởi kiện
vụ án dân sự qua số liệu thống kê của ngành Tòa án

56


2.3.

Hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong thực hiện kỹ năng

58

khởi kiện vụ án dân sự
2.3.1. Hạn chế trong thực tiễn thực hiện kỹ năng khởi kiện vụ án

58


dân sự
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn thực

67

hiện kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự
Chƣơng 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KỸ NĂNG KHỞI

72

KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ

3.1.

Yêu cầu nâng cao kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự

3.1.1. Bảo đảm quyền tiếp cận công lý của công dân và trách nhiệm

72
72

của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mỗi người
3.1.2. Khắc phục những điểm bất cập của pháp luật hiện hành về khởi

73

kiện vụ án dân sự để nâng cao kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự
3.1.3. Khắc phục những hạn chế phát sinh trong quá trình áp dụng


76

các quy định của pháp luật về khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự
3.2.

Giải pháp nâng cao kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự

78

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự

78

3.2.2. Các biện pháp nâng cao năng lực tham gia tố tụng của người

81

khởi kiện vụ án dân sự
3.2.3. Đảm bảo sự hỗ trợ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

82

pháp của đương sự đối với người khởi kiện vụ án dân sự
3.2.4. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức của Tòa án,

84

Viện kiểm sát
3.2.5. Nâng cao chất lượng đào tạo, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ


87

KẾT LUẬN

89

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN

90

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

91


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân


TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TTDS

: Tố tụng dân sự

VADS

: Vụ án dân sự

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với xu thế hội nhập quốc tế như hiện nay, bên cạnh những thành tựu
đạt được, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề phát sinh cần giải quyết.
Một trong những vấn đề đó là các quan hệ dân sự, kinh doanh thương mại, lao
động, hôn nhân và gia đình, cùng các tranh chấp liên quan các lĩnh vực này
ngày càng gia tăng về số lượng và mức độ phức tạp. Để giải quyết các mâu
thuẫn, tranh chấp liên quan đến lĩnh vực trên, các chủ thể của quan hệ pháp
luật dân sự đã phải lựa chọn giải pháp khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền
yêu cầu giải quyết các tranh chấp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Khởi kiện vụ án dân sự (VADS) được pháp luật ghi nhận là hoạt động
tố tụng đầu tiên bảo vệ quyền dân sự của chủ thể có quyền hay lợi ích hợp
pháp bị xâm phạm và các chủ thể được pháp luật trao quyền. Đồng thời, đây
là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự (TTDS).
Ở Việt Nam, vấn đề khởi kiện VADS được quy định trong các văn

bản pháp luật từ khá sớm và ngày càng được hoàn thiện. Ngày 25/11/2015,
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 đã được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam thông qua và có hiệu lực thi hành kể
từ ngày 01/07/2016. Với BLTTDS năm 2015, nội dung khởi kiện VADS đã
được quy định rõ ràng và đầy đủ hơn, khắc phục được một số hạn chế của các
văn bản pháp luật trước đó. Tuy nhiên, BLTTDS năm 2015 mới chỉ giải quyết
được phần nào vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về
khởi kiện VADS, vẫn còn có những quy định chưa minh bạch dẫn đến có
nhiều cách hiểu và áp dụng không thống nhất.
Việc tuân thủ các điều kiện khởi kiện để các tranh chấp dân sự có thể
được thụ lý phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng của chủ thể khởi kiện. Chỉ có
xuất phát từ việc thực hiện tốt, đầy đủ các quy định của pháp luật về khởi kiện
thì tranh chấp đó mới được thụ lý và giải quyết theo đúng quy định pháp luật.

1


Ngược lại, khi khởi kiện không thực hiện đúng các quy định thì bước cần thiết
tiếp theo chính là thụ lý đơn khởi kiện khó có thể được chấp nhận. Do vậy, kỹ
năng khởi kiện luôn đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết
tranh chấp dân sự.
Quyền khởi kiện là vấn đề luôn được các nhà các nhà nghiên cứu về tố
tụng, cơ quan lập pháp của nhiều nước trên thế giới và Việt Nam quan tâm.
Hiện nay các quy định trong pháp luật TTDS của Việt Nam về cơ bản đã phần
nào thể hiện được vấn đề này. Tuy nhiên, trên phương diện lý luận thì chưa có
công trình nghiên cứu nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học đề cập đến kỹ
năng khởi kiện. Thực tiễn thực hiện một số quy định của pháp luật TTDS hiện
hành chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của việc bảo đảm kỹ năng khởi kiện
VADS có hiệu quả. Bên cạnh đó, thực tiễn tố tụng tại Tòa án cũng phản ánh
trong nhiều trường hợp, quyền khởi kiện của đương sự đã không được tôn

trọng một cách đúng mức. Một số quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm
quyền khởi kiện được quy định trong BLTTDS còn chung chung, thiếu tính
cụ thể, dẫn tới các Tòa án còn lúng túng, các chủ thể khởi kiện chưa thực hiện
được tốt kỹ năng khởi kiện của mình. Đây chính là một trong những nguyên
nhân làm cho kỹ năng khởi kiện VADS không được bảo đảm thực hiện triệt
để trên thực tế. Do vậy, cần nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc về kỹ
năng khởi kiện VADS trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, từ đó đề xuất
những giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả bảo đảm
thực thi kỹ năng khởi kiện VADS trong thực tiễn.
Từ những thực trạng đó, việc nghiên cứu đề tài: "Kỹ năng khởi kiện
vụ án dân sự" có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến nội dung khởi kiện VADS đã có một số luận văn, đề tài
khoa học, tiểu luận, bài viết trên tạp chí đã đề cập một cách trực tiếp hoặc
lồng ghép vào những nội dung liên quan.

2


Trước khi BLTTDS năm 2015 và Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015
có hiệu lực thi hành, có thể kể đến một số các công trình nghiên cứu khoa học
tiêu biểu liên quan đến đề tài sau:
- Nhóm các luận văn đã bảo vệ có liên quan đến đề tài: Luận văn thạc
sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012, của Nguyễn
Thị Hương với nội dung "Khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004"; Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, năm 2012, của Trần Đức Thành về "Quyền khởi kiện và đảm bảo quyền
khởi kiện trong tố tụng dân sự Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012, của Nguyễn Thu Hiền với nội dung
"Hoàn thiện chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong pháp luật tố tụng

dân sự Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
năm 2014, của Trần Thị Lượt với nội dung "Khởi kiện vụ án dân sự". Kết quả
nghiên cứu của các đề tài này đã đề cập đến chế định khởi kiện và thụ lý VADS,
cũng như quyền khởi kiện của đương sự trong TTDS Việt Nam trên cả phương
diện lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, nội dung các công trình nghiên cứu chủ
yếu tiếp cận theo các quy định của BLTTDS năm 2004, sửa đổi bổ sung năm
2011. Mặt khác, toàn bộ nội dung về kỹ năng khởi kiện đều không được đề
cập đến ở các công trình nghiên cứu này. Mặc dù vậy, tổng quan của các công
trình nghiên cứu trên là tài liệu tham khảo hữu hiệu cho tác giả trong việc vận
dụng cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng pháp luật khi so sánh chế định khởi
kiện và thụ lý vụ án của BLTTDS năm 2015 so với pháp luật TTDS trước đây.
- Nhóm các bài báo có liên quan đến đề tài: bài "Những quy định mới
về khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ luật Tố tụng dân sự", của Nguyễn Thị Hương, Tạp chí Tòa án, số 19/2011;
bài "Những vấn đề cơ bản lưu ý khi thụ lý đơn khởi kiện, khởi tố, đơn yêu cầu
trong giải quyết vụ án dân sự", của Duy Kiên, Tạp chí Kiểm sát, số 7/2012;
bài "Các điều kiện cần và đủ khi khởi kiện vụ án dân sự", của Tưởng Duy

3


Lượng, Tạp chí Kiểm sát, số Tân Xuân/2012; bài "Đảm bảo quyền khởi kiện
vụ án dân sự theo quy định của Luật sửa đổi bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự",
của Đặng Thanh Hoa, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2012; bài "Một số ý
kiến về thời hiệu khởi kiện theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2004", của Lê Mạnh Hùng, Tạp chí Kiểm sát, số 10/2012;
bài "Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự và thực tiễn áp dụng", của Đặng Hoàng
Quân, Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), số 23/2013; bài "Giải quyết việc
nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện trong vụ án dân sự nhiều nguyên đơn có
đúng yêu cầu", của Bùi Thị Tố Nga, Tạp chí TAND, số 01/2014... Các bài tạp

chí này, tuy chưa đề cập sâu đến nội dung kỹ năng khởi kiện VADS nhưng đã
giúp tác giả hiểu rõ hơn các nội dung liên quan đến khởi kiện VADS, là tài
liệu tham khảo giúp cho nội dung luận văn thêm phong phú, sinh động.
Sau khi BLTTDS năm 2015 và BLDS năm 2015 có hiệu lực thi hành,
có thể kể đến một số các công trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu liên quan
đến đề tài sau:
- Nhóm các luận văn đã bảo vệ có liên quan đến đề tài: Luận văn thạc
sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, của Phan Thanh Dương: "Khởi
kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015"; Luận văn
thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, của Lê Thị Thu Thủy: "Quyền
khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện vụ án dân sự theo Bộ luật Tố tụng dân
sự 2015"; Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, của Nguyễn
Thị Hương, bảo vệ luận án năm 2019: "Khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự Những vấn đề lý luận và thực tiễn"...
- Nhóm các bài báo có liên quan đến đề tài: bài "Khởi kiện vụ án dân
sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015", của Bùi Thị Huyền, Tạp
chí Kiểm sát, số 12/2017; bài "Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự",
của Nguyễn Minh Hằng, Tạp chí Kiểm sát số 13/2017... và nhiều công trình
khoa học, bài báo đăng tải tạp chí khác.

4


Trên cơ sở các tài liệu tham khảo, tác giả tổng hợp và kế thừa để
nghiên cứu một cách có hệ thống, từ đó phân tích và đưa ra những nhận định,
đánh giá của mình về các quy định pháp luật về khởi kiện VADS ở nước ta
hiện nay, để từ đó là một trong những phương thức thực hiện tốt kỹ năng khởi
kiện VADS của chủ thể khởi kiện.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài với mục đích đưa ra các luận cứ khoa học và

thực tiễn nhằm nhận diện tốt được kỹ năng khởi kiện VADS của người khởi
kiện, đảm bảo thực hiện có hiệu quả trên thực tế việc khởi kiện VADS, đồng
thời đưa ra các phân tích, kiến nghị, nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật dân sự hiện hành về khởi kiện các VADS và đề xuất giải pháp nhằm nâng
cao kỹ năng khởi kiện VADS của chủ thể.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu của đề tài, luận văn phải hoàn
thành một số nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu và phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về
kỹ năng khởi kiện các VADS;
- Tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống các quy định của pháp luật về
khởi kiện VADS tiếp cận dưới góc độ của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành;
- Trình bày rõ thực trạng pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về khởi
kiện VADS và thực tiễn thực hiện nhằm đánh giá đúng đắn, khách quan, toàn
diện, chỉ ra những điểm bất cập, chưa hợp lý trong các quy định của pháp luật;
từ đó đưa ra giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện các quy định của BLTTDS
năm 2015 về khởi kiện các VADS.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được xác định như sau:
- Về nội dung, kỹ năng khởi kiện VADS là một vấn đề nghiên cứu tương
đối rộng, được hiểu dưới nhiều phương diện, góc độ khác nhau cả về lý luận và
thực tiễn. Đó là các kỹ năng về pháp lý, lý luận, về thực tiễn, về xã hội, về tâm

5


sinh lý... Trong phạm vi của luận văn thạc sĩ luật học, tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu về kỹ năng pháp lý trong khởi kiện VADS. Thực trạng pháp luật TTDS Việt
Nam hiện hành về khởi kiện VADS và thực tiễn thực hiện, định hướng hoàn
thiện pháp luật và kiến nghị nâng cao kỹ năng khởi kiện VADS theo nghĩa hẹp.

Về chủ thể, chủ thể của kỹ năng khởi kiện VADS bao gồm rất nhiều
chủ thể khác nhau: người khởi kiện (cá nhân, cơ quan, tổ chức...), người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, chủ thể khởi kiện vì lợi ích
chung, nội dung luận văn tác giả chỉ tập trung phân tích về kỹ năng khởi kiện
của chủ thể khởi kiện là các đương sự. Việc đề cập đến chủ thể khởi kiện là
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự với vai trò là người hỗ
trợ giúp đương sự thực hiện kỹ năng khởi kiện.
- Về thời gian, không gian, đề tài đánh giá, phân tích thực tiễn thực
hiện kỹ năng khởi kiện của đương sự thông qua các bản án, quyết định trong
thời gian từ năm 2017 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu luận văn đã dựa trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân. Đề tài được hoàn thành với việc sử dụng tổng hợp các phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luật học, phân tích,
tổng hợp, logic, lịch sử, so sánh, đối chiếu. Đồng thời, tác giả còn sử dụng
phương pháp khai thác, sử dụng các tư liệu thực tiễn để hoàn chỉnh luận văn.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được tác giả sử
dụng để phân tích và tổng hợp các cơ sở lý luận, việc áp dụng các quy định
pháp luật về khởi kiện VADS trên thực tiễn. Phương pháp này sẽ được sử
dụng ở Chương 1 và Chương 2 của đề tài.
Phương pháp lịch sử: Để tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển các
quy định của pháp luật về khởi kiện VADS. Phương pháp này được sử dụng
tại Chương 1 của đề tài.

6


Phương pháp so sánh: Dùng để so sánh quy định của BLDS năm 2015

về khởi kiện VADS với quy định của các văn bản ban hành trước đó, các
văn bản pháp luật khác của Việt Nam. Phương pháp này được tác giả sử
dụng trong suốt quá trình nghiên cứu.
Phương pháp kế thừa: tác giả tiếp thu một cách có chọn lọc những kết
quả nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến khởi kiện VADS của các tác
giả trước, sử dụng ở Chương 1 và Chương 2 của đề tài.
Phương pháp nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn: dựa trên các
quy định của pháp luật, đối chiếu với thực tiễn áp dụng pháp luật về khởi kiện
VADS tìm ra những điểm bất cập, hạn chế, thiếu sót. Phương pháp này được
tác giả sử dụng chủ yếu ở Chương 2 của đề tài.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp khác như phương pháp
giải thích, bình luận để hoàn thành đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả đạt được của luận văn góp phần bổ sung và hoàn thiện những
vấn đề lý luận về kỹ năng khởi kiện các VADS tại Việt Nam. Bên cạnh đó,
luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích không chỉ với đội ngũ luật sư, các
nhà khoa học, giảng viên, sinh viên nghiên cứu về luật học mà còn có ý nghĩa
đối với việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, áp dụng pháp luật liên quan đến
kỹ năng khởi kiện các VADS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự.
Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện kỹ năng khởi
kiện vụ án dân sự.
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp nâng cao kỹ năng khởi kiện vụ án
dân sự.

7



Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ KỸ NĂNG KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của kỹ năng khởi kiện vụ án
dân sự
1.1.1. Khái niệm kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự
Theo L.Đ.Lêvitôv, nhà tâm lý học Liên Xô cho rằng: "Kỹ năng là sự
thực hiện có kết quả một động tác nào đó hay một hoạt động phức tạp hơn
bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách thức đúng đắn, có tính đến những
điều kiện nhất định" [21, tr. 45 . Theo ông, người có kỹ năng hành động là
người phải nắm được và vận dụng đúng đắn các cách thức hành động nhằm
thực hiện hành động có kết quả. Ông còn nói thêm, con người có kỹ năng
không chỉ nắm lý thuyết về hành động mà phải vận dụng vào thực tế.
Theo tác giả Vũ Dũng thì: "Kỹ năng là năng lực vận dụng có kết quả
tri thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện
những nhiệm vụ tương ứng" [7, tr. 36]. Mỗi kỹ năng bao gồm một hệ thống
thao tác trí tuệ và thực hành, thực hiện trọn vẹn hệ thống thao tác này sẽ đảm
bảo đạt được mục đích đặt ra cho hoạt động. Điều đáng chú ý là sự thực hiện
một kỹ năng luôn luôn được kiểm tra bằng ý thức, nghĩa là khi thực hiện bất
kỳ một kỹ năng nào đều nhằm vào một mục đích nhất định.
Từ sự phân tích trên ta có thể hiểu "kỹ năng" một cách khái quát nhất:
Kỹ năng là năng lực thực hiện một hành động hay một hoạt động nào đó bằng
cách lựa chọn và vận dụng những tri thức, cách thức hành động đúng đắn để
đạt được mục đích đề ra.
Nói đến kỹ năng là nói đến việc thực hiện thuần thục, thành thạo một
hoạt động, hành động nào đó. Như vậy, chủ thể khởi kiện VADS cần có kiến
thức, kinh nghiệm, năng lực để mục đích của mình đạt được hiệu quả cao nhất.

8



Để nhận diện được đặc thù của kỹ năng khởi kiện trong VADS, cần
làm sáng tỏ các nội hàm khái niệm có liên quan như: quyền khởi kiện, VADS.
Trong xã hội ngày nay, khởi kiện là một trong những quyền của con người
được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Điều 8 Tuyên ngôn thế giới về nhân
quyền năm 1948 của Liên hợp quốc ghi nhận về quyền khởi kiện một cách
gián tiếp như sau: "Mọi người đều có quyền được các Tòa án quốc gia có
thẩm quyền bảo vệ bằng các biện pháp hữu hiệu để chống lại hành vi vi phạm
các quyền cơ bản của họ mà đã được Hiến pháp hay luật pháp quy định". Với
quy định này, có thể thấy rằng quyền khởi kiện được thừa nhận là một trong
những quyền cơ bản của con người và được pháp luật của mỗi quốc gia thừa
nhận và bảo vệ. Tuyên ngôn nhân quyền này được coi là cơ sở pháp lý để các
quốc gia thành viên cam kết, tuân thủ trong quá trình bảo đảm quyền tự do cơ
bản của con người, và được mỗi quốc gia thành viên nội luật hóa trong hệ
thống pháp luật của mình. Tuyên bố Viên và Chương trình hành động về
quyền con người năm 1993 đã khẳng định:
Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ cập, không thể
chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau và liên quan đến nhau. Trong khi phải
luôn ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh
khác nhau về lịch sử, văn hóa và tôn giáo, (thì) các quốc gia, không
phân biệt hệ thống chính trị, kinh tế, văn hóa, có nghĩa vụ đề cao và
bảo vệ tất cả các quyền con người và các quyền tự do cơ bản [45].
Qua tuyên bố này, có thể khẳng định rằng quyền khởi kiện cũng như
các cơ chế pháp lý bảo đảm quyền khởi kiện được bảo vệ và thực thi hữu hiệu
trên thực tế, chính là một đòi hỏi đối với mỗi quốc gia thành viên.
Ở Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Con người là trung tâm của chiến
lược phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với
quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân" [12],

khẳng định này đã xác định cụ thể nhân dân là chủ thể của quyền và bảo đảm

9


quyền con người là mục tiêu của nước XHCN. Cương lĩnh bổ sung, phát triển
năm 2011 xác định:
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền
công dân, chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền
và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của
công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Nhân dân thực hiện quyền
làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính
trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện [14, tr. 85].
Chính vì vậy, quyền khởi kiện luôn được Nhà nước bảo đảm và được
quy định cụ thể trong các văn bản pháp lý.
Hiến pháp năm 2013 quy định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp
và pháp Luật" [24]. Theo đó, mọi công dân đều được quyền hành xử hoặc yêu
cầu người khác hành xử đối với mình theo đúng quy định pháp luật. Trong
quan hệ pháp luật dân sự, mối quan hệ giữa các chủ thể là mối quan hệ ngang
hàng, bình đẳng tuyệt đối về mặt ý chí giữa các bên. Tuy nhiên, để đảm bảo
cho các quyền và lợi ích của các chủ thể này có thể được thực hiện một cách
có hiệu quả trên thực tế, thì Nhà nước cần phải trao cho họ phương tiện pháp
lý hữu hiệu để khi có tranh chấp phát sinh, họ có thể sử dụng phương tiện đó
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quyền khởi kiện chính là
quyền được pháp luật thừa nhận và bảo vệ để công dân, cơ quan, tổ chức có
thể bảo vệ quyền lợi của mình một cách tối đa.
Trước khi BLTTDS năm 2004 ra đời thì quyền khởi kiện được hiểu
theo nghĩa rộng. Theo đó, quyền khởi kiện được hiểu là khả năng Nhà nước

cho phép công dân được yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình khi cho rằng quyền lợi hợp pháp đó bị xâm phạm hoặc
yêu cầu Tòa án công nhận một sự kiện pháp lý, các quyền dân sự, hôn nhân

10


và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Sắc lệnh số 51/SL ngày
17/4/1946 về xác định thẩm quyền xét xử về dân sự của Tòa án sơ cấp, Sắc
lệnh số 85 ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và tố tụng... Thuật ngữ
vụ kiện dân sự được sử dụng để chỉ những tranh chấp dân sự có yêu cầu Tòa
án giải quyết. Đến Hiến pháp năm 1959, thuật ngữ vụ kiện được thay thế bằng
thuật ngữ vụ án. Tiếp đó, theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
VADS năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động thì khi các đương sự có nhu cầu
đưa các vụ việc dân sự, kinh tế, lao động để giải quyết theo thủ tục tố tụng thì
không có sự phân biệt giữa thủ tục giải quyết các quan hệ pháp luật có tranh
chấp và các quan hệ pháp luật không tranh chấp và chúng đều được gọi bằng
cách gọi chung là vụ án. Năm 2004, BLTTDS ra đời, khái niệm VADS đã có
sự thay đổi. Theo BLTTDS năm 2004 và sau này là sự kế thừa của BLTTDS
năm 2015, nếu các cá nhân, cơ quan, tổ chức có tranh chấp về quyền và nghĩa
vụ thì gọi là án dân sự; nếu cơ quan, tổ chức không có tranh chấp về quyền và
nghĩa vụ nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự thì là
việc dân sự. VADS bao gồm các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh thương mại và lao động. Như vậy, khởi kiện lúc này được hiểu
theo nghĩa hẹp hơn. Theo đó, khởi kiện là thực hiện quyền yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh chấp trong VADS.
Giáo trình Luật tố tụng dân sự năm 2018 của Trường Đại học Luật Hà
Nội khẳng định: "Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng quan trọng
của các chủ thể. Nó cho phép cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các chủ thể khác

bảo vệ quyền là lợi ích hợp pháp của mình trước tòa án" [46, tr. 241]. Đồng
tình với điều này, TS. Phan Chí Hiếu cho rằng:
Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của cá nhân,
pháp nhân, các tổ chức xã hội hoặc các chủ thể khác theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền, lợi

11


ích hợp pháp của mình, của Nhà nước, tập thể hay của người khác
đang bị tranh chấp hoặc bị vi phạm [17, tr. 246-247].
Theo đó, khởi kiện VADS là hành vi đầu tiên của cá nhân, pháp nhân
và các chủ thể khác tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS, là cơ sở làm phát
sinh quan hệ pháp luật TTDS.
Quyền khởi kiện được xem xét theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, cụ thể:
Theo nghĩa hẹp, quyền khởi kiện VADS được hiểu là quyền của các
chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh
thương mại, lao động hoặc các chủ thể được pháp luật trao quyền trong việc
yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Quyền khởi kiện của các chủ thể trên được hiểu đơn giản là việc một
chủ thể yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của chủ
thể khác thông qua hành vi đầu tiên là nộp đơn khởi kiện tại Tòa án để khởi
động cho quá trình tố tụng tại Tòa án. Việc nộp đơn khởi kiện chính là hành
vi thực tế thực thi quyền khởi kiện của người khởi kiện làm trực tiếp phát sinh
quan hệ TTDS tại Tòa án. Quyền khởi kiện có ý nghĩa quan trọng trong việc
xác định tư cách của các đương sự trong VADS đã được người khởi kiện thực
hiện việc khởi kiện tại Tòa án.
Theo nghĩa rộng, quyền khởi kiện VADS được hiểu không những là
quyền của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình,
lao động hoặc các chủ thể được pháp luật trao quyền trong việc yêu cầu Tòa

án bảo vệ quyền lợi khi có tranh chấp hoặc xâm phạm, mà còn bao gồm cả
quyền đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn và quyền đưa ra yêu cầu độc lập của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xuất phát từ quyền bình đẳng giữa
các đương sự tham gia TTDS, từ địa vị pháp lý của các chủ thể trong pháp
luật nội dung, pháp luật TTDS đã xây dựng nguyên tắc bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ trong TTDS. Theo đó, chủ thể đều bình đẳng thực hiện quyền tố
tụng trước tòa nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

12


Trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ đề cập nội dung khởi kiện theo
nghĩa hẹp, tức là khởi kiện của nguyên đơn. Theo đó, khởi kiện VADS là việc
cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các chủ thể khác theo quy định pháp luật
TTDS yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
hay của người khác, bảo vệ lợi ích công cộng và lợi ích Nhà nước trong trường
hợp lợi ích đó đang bị xâm phạm hay có tranh chấp với các chủ thể khác. Từ
việc thực hiện khởi kiện này, kỹ năng khởi kiện VADS được xác định là:
Kỹ năng khởi kiện VADS là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các
chủ thể khác có thẩm quyền vận dụng quy định của pháp luật về khởi kiện
VADS và những tri thức, cách thức hành động đúng đắn để yêu cầu Tòa án có
thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác, bảo
vệ lợi ích công cộng và lợi ích Nhà nước trong trường hợp lợi ích đó đang bị
xâm phạm hay có tranh chấp với các chủ thể khác.
1.1.2. Đặc điểm của kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự
Khởi kiện VADS được xem là công cụ hữu hiệu nhất trong toàn bộ
các phương thức khác nhau mà xã hội và Nhà nước dùng để giải quyết các
tranh chấp và mâu thuẫn lợi ích. Việc hiểu và thực hiện được các kỹ năng
khởi kiện VADS sẽ là phương thức để việc khởi kiện có thể đạt được kết quả
tốt như mong muốn. Kỹ năng khởi kiện VADS có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, về chủ thể thực hiện kỹ năng khởi kiện: chủ thể thực hiện kỹ
năng khởi kiện VADS bao gồm rất nhiều chủ thể khác nhau: người khởi kiện
(cá nhân, cơ quan, tổ chức...), người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự, chủ thể khởi kiện vì lợi ích chung. Đối tượng này có trình độ nhận thức pháp
luật khác nhau, tâm sinh lý, tư tưởng, tình cảm, khả năng tài chính khác nhau...
nhưng họ đều có một đặc điểm chung là muốn được bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp chính đáng của mình. Do vậy, họ sẵn sàng vận dụng mọi năng lực của
mình về kiến thức, vốn sống, trình độ chuyên môn, khả năng tài chính để thực
hiện kỹ năng khởi kiện VADS nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.

13


Chủ thể thực hiện kỹ năng khởi kiện VADS là những chủ thể có
quyền lợi bị xâm phạm hoặc được pháp luật trao quyền thực hiện. Xuất phát
từ nguyên tắc thỏa thuận, bình đẳng của các chủ thể khi tham gia quan hệ
pháp luật dân sự nên khi một trong các bên của quan hệ xâm phạm đến quyền
lợi ích của các chủ thể khác thì pháp luật trao cho họ các quyền năng để tự
bảo vệ quyền lợi của mình. Theo đó, chủ thể khởi kiện cần phải có năng lực
pháp luật TTDS và năng lực hành vi TTDS. Đối với người khởi kiện là cá nhân
thì năng lực hành vi TTDS của họ được xác định trên cơ sở khả năng nhận thức
và khả năng điều khiển hành vi của mình trong việc tham gia vào quan hệ pháp
luật TTDS. Tuy nhiên, đối với những đương sự có đủ năng lực hành vi TTDS
để thực hiện quyền khởi kiện vì những lý do khác nhau mà họ không thể thực
hiện được quyền khởi kiện thì pháp luật cũng có thể bảo đảm điều kiện thuận
lợi cho họ thực hiện quyền này thông qua cơ chế ủy quyền cho người khác đại
diện thay mặt mình khởi kiện trước Tòa án. Việc cho phép đương sự thực
hiện quyền khởi kiện thông qua đại diện theo ủy quyền là phương tiện pháp lý
cần thiết tạo điều kiện cho đương sự bằng nhiều hình thức khác nhau có thể
thực hiện quyền khởi kiện một cách thuận lợi nhất để bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của mình. Bên cạnh việc pháp luật quy định những chủ thể có
quyền khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích trực tiếp của mình thì còn có những
chủ thể được Nhà nước trao quyền để bảo vệ quyền và lợi ích dân sự của các
chủ thể khác, lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng. Như vậy, chủ thể thực hiện
khởi kiện VADS có thể là một trong các bên tham gia quan hệ pháp luật dân
sự hoặc các chủ thể khác có quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, đối tượng kỹ năng khởi kiện hướng tới: kỹ năng khởi kiện
VADS là một chuỗi các nhận thức, hành vi để tiến hành khởi kiện VADS. Kỹ
năng khởi kiện VADS giúp thực hiện hành vi khởi kiện của cá nhân, cơ quan,
tổ chức khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS yêu cầu Tòa án bảo vệ các
quyền và lợi ích dân sự của mình hoặc của người khác khi xảy ra xâm phạm

14


hoặc tranh chấp. Khởi kiện chính là một cơ chế đảm bảo được Nhà nước xây
dựng dựa trên mối quan hệ giữa luật nội dung và luật tố tụng. Tất cả các quan
hệ về tài sản hoặc nhân thân là đối tượng được pháp luật dân sự bảo vệ, khi bị
xâm phạm, thì các chủ thể trong quan hệ tranh chấp đều có quyền khởi kiện
đến Tòa án để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ ba, về nội dung và phạm vi khởi kiện: kỹ năng khởi kiện VADS
thể hiện ý chí tự nguyện của chủ thể, ý chí này được thể hiện trong nhận thức
và hành động, không bị ai ép buộc, các đương sự có quyền tự do định đoạt
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong suốt quá trình tố
tụng giải quyết VADS, quyền tự định đoạt của đương sự luôn được bảo đảm
thực hiện và được đặt trong mối quan hệ tương quan với pháp luật nội dung.
Pháp luật TTDS được xây dựng dựa trên những bản chất cốt lõi nhất của pháp
luật dân sự. Theo đó, khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì
một trong các bên tranh chấp được quyền định đoạt, lựa chọn những phương
thức khác nhau để giải quyết tranh chấp và khởi kiện là một trong những

phương thức giải quyết tranh chấp đó. Việc các bên tranh chấp lựa chọn khởi
kiện đến Tòa án hoàn toàn xuất phát từ ý chí chủ quan của họ mà không ai có
quyền quyết định hay hạn chế một cách tùy tiện kể cả nhà nước. Trong giao
lưu dân sự, khi có quyền và lợi ích bị coi là xâm phạm hoặc có tranh chấp, các
chủ thể có quyền khởi kiện mà không bị bất kỳ một cá nhân, tổ chức hay cơ
quan nhà nước nào được phép cản trở, chi phối hoặc hạn chế một cách tùy
tiện. Việc khởi động, thay đổi, chấm dứt quá trình TTDS tại Tòa án hoàn toàn
phụ thuộc vào ý chí của các bên trong quan hệ tranh chấp. Đây cũng là một
đặc điểm giúp phân biệt TTDS với tố tụng hình sự.
Thứ tư, kỹ năng khởi kiện phải đáp ứng các điều kiện khởi kiện: Khi
tham gia quan hệ pháp luật dân sự, quyền và lợi ích của các chủ thể khác
trong quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại,
lao động và các chủ thể được tự do thực hiện khởi kiện VADS khi quyền và

15


lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc xảy ra tranh chấp nhưng khởi
kiện cần phải tuân thủ các điều kiện khởi kiện theo luật định, xem xét đến các
chuẩn mực xử sự đạo đức và lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, giảm
thiểu sự lãng phí về công sức, tiền bạc, nhân lực của Tòa án cũng như của
những người có liên quan đến việc khởi kiện vụ án. Khởi kiện VADS tại Tòa
án chỉ thực sự có giá trị pháp lý khi các đương sự thực hiện đúng các yêu cầu
về điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật hiện hành.
Thứ năm, về hình thức khởi kiện: việc cơ quan, tổ chức, cá nhân thực
hiện khởi kiện VADS phải làm đơn khởi kiện và nộp đơn khởi kiện kèm theo
hồ sơ khởi kiện. Người khởi kiện có thể nộp đơn khởi kiện trực tiếp tại Tòa
án, theo đường dịch vụ bưu chính hoặc gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử
qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Hình thức đơn khởi kiện phải
rõ ràng, đầy đủ, nội dung trình bày được những vấn đề theo đúng quy định

của pháp luật. Trong trường hợp người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc
điểm chỉ; người khởi kiện là cơ quan, tổ chức thì đại diện hợp pháp của cơ
quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn; trường hợp khởi
kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự thì đơn khởi kiện do người đại diện theo pháp
luật của những người này ký tên hoặc điểm chỉ.
1.1.3. Ý nghĩa của kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự
Thứ nhất, kỹ năng khởi kiện là cách thức để việc khởi kiện được thực
hiện trên thực tế có hiệu quả, bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự. Trên cơ sở quyền tự định đoạt của các chủ thể, đáp ứng yêu cầu
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Có thể nói nhà nước pháp quyền là một yếu tố tất yếu để xây dựng một
xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Theo A.I.Koovalenco, Nhà nước
pháp quyền cần phải bảo đảm các dấu hiệu sau: dựa trên tính tối cao của pháp
luật; phải có sự chấp hành và sự tuân thủ thường xuyên của pháp luật của tất

16


cả các công dân, những người có chức vụ, các cơ quan và tổ chức; quy định
trách nhiệm tương hỗ của công dân và Nhà nước trong phạm vi pháp luật hiện
hành; bảo đảm các quyền và tự do của công dân [6, tr. 33 . Muốn xây dựng
được nhà nước pháp quyền thì các hoạt động của đời sống xã hội cần có quy
định của pháp luật điều chỉnh. Thực hiện các kỹ năng khởi kiện VADS là một
biểu hiện của việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Kỹ năng khởi kiện VADS
chính là việc thực hiện quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
mình khi bị xâm phạm, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, tôn trọng quyền
và lợi ích của các bên khi xác lập giao dịch dân sự. Từ đó, có thể kịp thời bảo
vệ được các quyền lợi của con người cũng như góp phần duy trì sự ổn định,
cân bằng của xã hội.

Thứ hai, kỹ năng khởi kiện VADS là sự hiện thực hóa việc thực hiện
quyền con người, quyền công dân trong TTDS góp phần bảo đảm công bằng
xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án trong
nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân. Bảo vệ quyền con người bằng Tòa án là một trong những cơ
chế hữu hiệu. Thông qua việc thực hành kỹ năng khởi kiện VADS, Tòa án sẽ
kịp thời bảo vệ, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại, đáp ứng
được nguyện vọng, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của
Tòa án, vào chế độ, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, kỹ năng khởi kiện VADS là việc thực hiện dân chủ trong TTDS.
Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, phát huy dân chủ XHCN
luôn là mục tiêu, động lực mà Đảng và Nhà nước hướng đến. Bởi vậy, việc
thực hiện dân chủ được diễn ra trên mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Trong
TTDS, khởi kiện VADS là một cơ chế pháp lý Nhà nước đưa ra để tạo điều
kiện cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự tự do định đoạt, thực
hiện quyền tố tụng của mình. Theo đó, đương sự có toàn quyền khởi động

17


VADS thông qua hành vi khởi kiện, đồng thời khi tham gia vào quá trình giải
quyết VADS, đương sự có toàn quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu khởi kiện
của mình hoặc thỏa thuận với các đương sự khác về việc giải quyết VADS
một cách tự nguyện mà không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo
đức xã hội.
Thứ tư, kỹ năng khởi kiện VADS góp phần nâng cao ý thức tôn trọng
pháp luật, tôn trọng các quyền lợi ích dân sự hợp pháp của nhân dân, tạo
điều kiện cho việc củng cố an ninh trật tự xã hội và pháp chế XHCN. Để kỹ
năng khởi kiện VADS được thực hiện tốt, đòi hỏi chủ thể khởi kiện phải hiểu

biết pháp luật, nhận thức rõ hơn về việc tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình cũng như tôn trọng quyền của người khác. Kỹ năng khởi kiện
VADS còn góp phần bảo đảm sự công bằng, bình đẳng đối với các đương sự
khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự, bởi dù họ là ai, dù có địa vị xã hội như
thế nào thì họ đều phải tôn trọng quyền lợi của người khác và phải thực hiện
đúng nghĩa vụ của mình theo thỏa thuận và quy định pháp luật. Ngoài ra,
thông qua thực hiện kỹ năng khởi kiện VADS, pháp luật còn thể hiện được
tính giáo dục, phòng ngừa và ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân.
Thứ năm, kỹ năng khởi kiện VADS góp phần bảo vệ các lợi ích hợp
pháp trong quan hệ pháp luật dân sự và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong quá trình con người trao đổi lợi ích với nhau, việc xảy ra tranh chấp,
mâu thuẫn là một yếu tố khách quan mang tính quy luật. Tuy nhiên, khi tranh
chấp xảy ra, các bên đương sự sẽ có nhiều phương thức "xử sự" khác nhau để
giải quyết vấn đề. Việc Nhà nước quy định các vấn đề về khởi kiện VADS
một mặt trao quyền định đoạt cho đương sự, mặt khác hướng các chủ thể đó
về một chuẩn mực xử sự chuẩn mực hơn. Qua đó, xây dựng được thói quen
sử dụng pháp luật để giải quyết các mâu thuẫn xã hội, chống lại các hành vi
tiêu cực trong xã hội, bảo đảm được pháp chế XHCN.

18


1.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc thực hiện kỹ năng khởi kiện
vụ án dân sự
1.2.1. Các quy định của pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự
Pháp luật TTDS là phương tiện pháp lý để các chủ thể bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Theo đó, pháp luật về khởi kiện VADS là cơ sở
pháp lý cho Tòa án tiến hành các hoạt động thụ lý, giải quyết VADS để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, bảo vệ lợi ích

Nhà nước và lợi ích công cộng. Vì vậy, pháp luật về khởi kiện VADS có vai
trò vô cùng quan trọng đối với tính hiệu quả của khởi kiện VADS:
- Pháp luật TTDS về khởi kiện VADS đầy đủ, công khai, minh bạch là
cơ sở để các chủ thể có đầy đủ các phương tiện pháp lý bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể và đảm bảo quyền khởi kiện của các chủ thể này
được thực hiện.
- Pháp luật TTDS về khởi kiện VADS đáp ứng tính khả thi, phù hợp
sẽ làm cho các quy định này không chỉ có ý nghĩa trên văn bản mà sẽ phát
huy hiệu lực, hiệu quả trên thực tế đảm bảo quyền khởi kiện của các chủ thể
được thực hiện.
- Pháp luật TTDS về khởi kiện VADS đáp ứng tính thống nhất, đồng
bộ cũng như quy định cụ thể, rõ ràng, có cơ sở khoa học và không mẫu thuẫn
nhau thì Tòa án sẽ dễ dàng trong việc xem xét thụ lý để giải quyết VADS
cũng như các chủ thể có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, thuận lợi
trong việc tiếp cận công lý.
Một trong những yêu cầu trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN, chính là sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Để thực hiện tốt
kỹ năng khởi kiện trước hết phải có những bảo đảm về mặt pháp lý. Vì vậy,
nếu hệ thống pháp luật là hành lang pháp lý trong giải quyết tranh chấp dân sự
nói chung và bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự nói riêng không hoàn
thiện, thì chất lượng thực hành kỹ năng khởi kiện sẽ không cao, thậm chí

19


×