Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

CƠ CẤU LẠI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.33 KB, 96 trang )

Cơ cấu lại DNNN, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai
đoạn 2016 – 2020.
- Thủ tướng Chính phủ vừa việc phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà
nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2016 - 2020”.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Theo đó, Mục tiêu của Đề án nhằm thực hiện sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn nhà
nước để DNNN có cơ cấu hợp lý hơn, tập trung vào ngành, lĩnh vực then chốt;
cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội; quốc phòng, an ninh;
lĩnh vực độc quyền tự nhiên; ứng dụng công nghệ cao, đầu tư lớn, tạo động lực
phát triển kinh tế - xã hội mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
không đầu tư; thực hiện công khai, minh bạch theo cơ chế thị trường và quy định
của pháp luật trong cổ phần hóa và thoái vốn, không để xảy ra tiêu cực, lợi ích
nhóm, thất thoát vốn, tài sản Nhà nước...
Theo Quyết định, đầu tư của doanh nghiệp nhà nước tập trung vào các lĩnh vực
khoa học, công nghệ; ngành, lĩnh vực mang tầm chiến lược, có tính dẫn dắt, định
hướng xây dựng nền kinh tế tri thức, có hàm lượng công nghệ cao, góp phần nâng
cao năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế; nâng cao hiệu quả hoạt động, sản
xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh, tăng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
của doanh nghiệp nhà nước; kiện toàn nâng cao năng lực quản lý và năng lực quản
trị theo chuẩn mực quốc tế; hoạt động của doanh nghiệp nhà nước được quản lý,
giám sát chặt chẽ, công khai, minh bạch, bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác.
Đề án tập trung xử lý dứt điểm các hạn chế, yếu kém của DNNN và doanh nghiệp
có vốn nhà nước phù hợp với quy định của pháp luật, bảo đảm công khai, minh
bạch, theo cơ chế thị trường. Đồng thời, hoàn thiện mô hình quản lý, giám sát
DNNN và vốn, tài sản nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp; sớm tách chức năng đại


diện chủ sở hữu vốn của Nhà nước tại DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà nước
với chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành, địa phương.
Nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn 2016 – 2020 là hoàn thành cổ phần hóa 137 doanh


nghiệp; phấn đấu đến hết năm 2020, Nhà nước chỉ giữ 100% vốn tại 103 doanh
nghiệp (chưa bao gồm các công ty nông, lâm nghiệp, doanh nghiệp quốc phòng, an
ninh, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước, Công ty mua bán nợ Việt
Nam và Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam, công ty thủy
nông thực hiện sắp xếp theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ) theo
Danh mục doanh nghiệp nhà nước thực hiện sắp xếp giai đoạn 2016 - 2020 tại
Quyết định số 58/2016/QĐ-TTg ngày 28/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ.
Xây dựng lộ trình và tổ chức bán phần vốn nhà nước tại công ty cổ phần và công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên để phù hợp với tiêu chí tại Quyết định
số 58/2016/QĐ-TTg ngày 28/12/2016; Thực hiện đúng kế hoạch, tiến độ sắp xếp,
cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, đảm bảo
đáp ứng tối thiểu 250.000 tỷ đồng theo yêu cầu nguồn vốn cho kế hoạch đầu tư
công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 theo Nghị quyết số 26/2016/QH14 ngày
10/11/2016 của Quốc hội.
Đề án tiếp tục cơ cấu lại toàn diện doanh nghiệp nhà nước. Cụ thể, sắp xếp lại
doanh nghiệp; nâng cao năng lực tài chính; đổi mới công tác quản trị, công nghệ;
đổi mới tổ chức, quản lý nguồn nhân lực; cơ cấu sản phẩm, ngành nghề sản xuất
kinh doanh, chiến lược phát triển để nâng cao hiệu quả hoạt động; Rà soát, xử lý
dứt điểm tồn tại, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà
nước; kiên quyết xử lý các doanh nghiệp thua lỗ, các dự án đầu tư không hiệu quả,
hiệu quả thấp theo cơ chế thị trường và xác định rõ trách nhiệm của từng đơn vị, cá
nhân liên quan. Tập trung xử lý dứt điểm các tồn tại, yếu kém của 12 dự án, doanh
nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả thuộc ngành công thương và tiếp tục rà soát đối
với các dự án, doanh nghiệp khác.


Với mục tiêu trên, đề án đề ra 9 giải pháp cơ bản để thực hiện. Đầu tiên là tiếp tục
quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp sắp xếp, đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN theo các Nghị quyết của Trung ương Đảng
tạo sự nhất trí cao trong toàn hệ thống chính trị để nâng cao hơn nữa nhận thức và

có hành động quyết liệt, cụ thể trong thực hiện.
Hai là, hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách phục vụ cho quá trình tái cơ cấu
DNNN.
Ba là, rà soát, xử lý dứt điểm các DNNN thua lỗ, các dự án đầu tư không hiệu quả
theo nguyên tắc và cơ chế thị trường; xem xét, thực hiện phá sản DNNN theo quy
định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp.
Bốn là, tập trung triển khai thực hiện tái cơ cấu DNNN giai đoạn 2016 - 2020, coi
đây là nhiệm vụ trọng tâm trong các năm 2016 - 2020.
Chương trình tổng thể của Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
(kiemtoannn.gov.vn) - Ngày 31/3/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định
398/QĐ-TTg về việc ban hành Chương trình tổng thể của Chính phủ về thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí (THTK,CLP) năm 2017. Theo đó, việc THTK, CLP được
thực hiện trên tất cả các lĩnh vực theo quy định của Luật THTK, CLP.
Mục tiêu của Chương trình là đẩy mạnh THTK, CLP trong mọi lĩnh vực của đời
sống kinh tế - xã hội, tạo chuyển biến rõ rệt trong công tác THTK, CLP với những
kết quả cụ thể; tập trung xây dựng các giải pháp quyết liệt để nâng cao hiệu quả
THTK, CLP nhằm phát huy cao nhất mọi nguồn lực để thực hiện các mục tiêu tăng
trưởng, phát triển kinh tế, ổn định đời sống xã hội của nhân dân, bảo đảm an ninh
xã hội.
Thủ tướng yêu cầu việc xây dựng và thực hiện chương trình THTK, CLP năm 2017
phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm của các cấp, các ngành, các địa phương; là yếu


tố quan trọng góp phần thực hiện thành công kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm
2017 và tạo cơ sở để hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu của chương trình THTK,
CLP giai đoạn 2016 - 2020.
Chương trình nêu rõ, THTK, CLP được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực theo quy
định của Luật THTK, CLP, trong đó tập trung vào 8 lĩnh vực cụ thể: Trong quản lý,
sử dụng kinh phí chi thường xuyên của ngân sách nhà nước; trong quản lý, sử dụng
vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách nhà nước; trong quản lý chương

trình mục tiêu quốc gia và các chương trình mục tiêu; trong quản lý, sử dụng đất
đai, trụ sở làm việc, nhà công vụ, tài sản công; trong quản lý, khai thác, sử dụng tài
nguyên; trong thành lập các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách; trong quản lý,
sử dụng vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp; trong quản lý, sử dụng lao động
và thời gian lao động.
Đặc biệt, ở nội dung về quản lý, sử dụng đất đai, trụ sở làm việc, nhà công vụ, tài
sản công, Thủ tướng yêu cầu hạn chế mua sắm xe ô tô (trừ xe ô tô chuyên dùng) và
trang thiết bị đắt tiền. Việc mua sắm mới xe ô tô bao gồm xe ô tô phục vụ chức
danh, xe ô tô phục vụ công tác chung và xe ô tô chuyên dùng của cơ quan, tổ chức,
đơn vị chỉ được thực hiện khi đảm bảo đủ các điều kiện theo quy định.
Đồng thời, nghiên cứu sửa đổi Quyết định 32/2015/QĐ-TTg ngày 4/8/2015 của
Thủ tướng Chính phủ quy định tiêu chuẩn, định mức và chế độ quản lý, sử dụng xe
ô tô trong cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, công ty TNHH một thành
viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ theo hướng sửa đổi đơn giá khoán
kinh phí sử dụng xe ô tô phù hợp cho từng nhóm chức danh có tiêu chuẩn sử dụng
và định mức xe ô tô phục vụ công tác chung; xác định lộ trình thực hiện chế độ
khoán kinh phí sử dụng xe ô tô áp dụng đối với chức danh Thứ trưởng và tương
đương, xe ô tô phục vụ công tác chung.


Cũng theo quyết định, Chương trình THTK, CLP của Chính phủ năm 2017, trong
quản lý, sử dụng vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, Thủ tướng chỉ đạo các
doanh nghiệp phải thực hiện triệt để tiết kiệm năng lượng, vật tư, chi phí đầu vào,
tập trung phát triển các ngành, lĩnh vực kinh doanh chính, đẩy mạnh thoái vốn đầu
tư ngoài ngành theo quy định của Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào
sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; đổi mới mô hình và nâng cao hiệu quả giám
sát tài chính doanh nghiệp, nâng cao trách nhiệm trong phê duyệt, quản lý và vận
hành dự án của doanh nghiệp nhà nước.
Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh quá trình sắp xếp cổ phần hóa, thực hiện tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước theo đề án tái cơ cấu tổng thể được Chính phủ phê duyệt

cho giai đoạn 2016 – 2020, trong tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Đánh
giá thực chất và đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư của Nhà nước một cách
công khai, minh bạch theo cơ chế thị trường; tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám
sát, kiểm toán, không để xảy ra thất thoát vốn, tài sản công.
Về quản lý, sử dụng lao động và thời gian lao động, Thủ tướng yêu cầu, Năm 2017,
tiếp tục thực hiện nghiêm quy định của Chính phủ về tinh giản biên chế, đảm bảo
đạt chỉ tiêu giảm 1,5 đến 2% biên chế công chức, biên chế sự nghiệp được giao
năm 2015. Các bộ, ngành, địa phương chưa giảm được biên chế sự nghiệp năm
2016 so với biên chế được giao năm 2015 thì năm 2017 phải giảm tối thiểu 3% của
biên chế được giao năm 2015.
Thực hiện cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức gắn với cải cách tổ chức
bộ máy hành chính nhà nước, đổi mới cơ chế hoạt động của đơn vị sự nghiệp công
lập và cải cách tiền lương. Đối với đơn vị sự nghiệp công lập có nguồn thu sự
nghiệp, khuyến khích đẩy mạnh chuyển đổi thêm 10% số lượng viên chức sang cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm và xã hội hóa, thay thế nguồn trả lương từ ngân
sách nhà nước bằng việc trả lương từ nguồn thu sự nghiệp. Các cơ quan, tổ chức,
đơn vị chỉ tuyển dụng số cán bộ, công chức, viên chức mới không quá 50% số biên


chế cán bộ, công chức, viên chức đã thực hiện tinh giản biên chế và không quá 50%
số biên chế cán bộ, công chức, viên chức đã giải quyết chế độ nghỉ hưu hoặc thôi
việc theo quy định.
Nâng cao năng lực, kỷ luật, đạo đức và thái độ thực thi pháp luật, trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan, tổ chức và trách nhiệm thi hành công vụ của cán bộ, công
chức, viên chức; tăng cường thanh tra, kiểm tra công vụ; xử lý nghiêm các hành vi
nhũng nhiễu, tiêu cực và kiên quyết xử lý những cán bộ, công chức, viên chức trục
lợi, cản trở, gây khó khăn cho doanh nghiệp, người dân.
Thực hiện rà soát và đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến các thủ tục
tuyển dụng công chức, viên chức, thủ tục thi nâng ngạch công chức, thi thăng hạng
chức danh nghề nghiệp đối với viên chức theo kế hoạch đơn giản hóa thủ tục hành

chính hàng năm của Chính phủ và hướng dẫn, quy định của các bộ, ngành…
Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các giải pháp tạo chuyển biến rõ nét về cải thiện
môi trường đầu tư, kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục hành chính, đặc biệt là trong
các hệ thống cơ quan thuế, hải quan, kho bạc nhà nước; tạo thuận lợi tối đa, giảm
thời gian, chi phí giao dịch hành chính của người dân và doanh nghiệp. Phấn đấu
đạt tối thiểu bằng trung bình của các nước ASEAN 4 trên các chỉ tiêu về môi
trường kinh doanh, hướng tới giảm thời gian nộp thuế và bảo hiểm xã hội không
quá 168 giờ/năm; cấp phép xây dựng và các thủ tục liên quan tối đa không quá 120
ngày...
Về giải pháp thực hiện, thống nhất chỉ đạo THTK, CLP từ Chính phủ đến các bộ,
cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp; đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, đặc biệt là đề cao trách
nhiệm của người đứng đầu trong THTK, CLP; tăng cường công tác chỉ đạo, điều
hành, tổ chức thực hiện trên các linh vực THTK, CLP trong đó tập trung vào một số
lĩnh vực chủ chốt; tăng cường thực hiện công khai, nâng cao hiệu quả giám sát


THTK, CLP; thường xuyên kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm các vi phạm quy định
về THTK, CLP; đẩy mạnh cải cách hành chính, hiện đại hóa quản lý; thực hiện
kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí; tăng cường phối hợp giữa các cơ quan trong THTK, CLP.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước
(kiemtoannn.gov.vn) - Nhằm chấn chỉnh những bất cập trong quy định về kiểm tra,
giám sát của cơ quan quản lý đối với các DNNN, Thanh tra Chính phủ đã chủ trì
soạn thảo Nghị định về giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với DNNN trong việc chấp
hành pháp luật và tuân thủ các quyết định của chủ sở hữu. Hiện, dự thảo Nghị định
này đang được lấy ý kiến góp ý để hoàn thiện trước khi trình Chính phủ xem xét
ban hành.
Hạn chế trong công tác kiểm tra, giám sát cũng là nguyên nhân dẫn đến các sai
phạm trong quản lý vốn của Nhà nước tại các DNNN

Nhiều “lỗ hổng” trong kiểm tra, giám sát
Hàng loạt sai phạm của các DNNN trong thời gian qua được cơ quan thanh tra,
KTNN và các cơ quan kiểm tra phát hiện được tập trung ở một số dạng: Sai quy
trình thủ tục theo các quy định của Nhà nước; sai thẩm quyền; sai đối tượng cho
phép; hạch toán không đúng nguồn dẫn đến phản ánh kết quả sản xuất, kinh doanh
không đúng bản chất thực tế; trình độ quản lý DN yếu kém dẫn đến vi phạm quản
lý kinh tế và vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, cùng với những yếu kém nội tại của
DNNN, sự hạn chế trong công tác kiểm tra, giám sát cũng là nguyên nhân khiến
các sai phạm trong quản lý vốn của Nhà nước tại các DN này trở nên phổ biến.
Thực tế, việc tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của DNNN đã được quy
định trong khá nhiều văn bản pháp luật: Quyết định số 271/2003/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành “Quy chế giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt


động của DNNN” và sau đó được thay thế bằng Quyết định số 169/2007/QĐ-TTg
ngày 8/11/2007 về việc ban hành “Quy chế giám sát đối với DNNN kinh doanh
thua lỗ, hoạt động không có hiệu quả”. Đặc biệt, Nghị định 61/2013/NĐ-CP của
Chính phủ về việc ban hành “Quy chế giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt
động và công khai thông tin tài chính đối với DN do Nhà nước làm chủ sở hữu và
DN có vốn Nhà nước” đã góp phần hoàn thiện thêm khung pháp lý về giám sát
DNNN. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng, nhiều văn bản pháp luật đã bộc lộ
bất cập như: chưa có quy định cụ thể và phân biệt rõ trách nhiệm của các cơ quan
trong việc thực hiện giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của DN; các chế tài xử
lý cũng chưa đủ mạnh, thiếu quy định trách nhiệm cụ thể của cá nhân để xảy ra sai
phạm; bản thân cơ quan có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra và DNNN vẫn chưa
nghiêm túc trong việc giám sát, chấp hành giám sát và đưa ra biện pháp khắc phục
kịp thời, để đến khi sai phạm xảy ra đã gây thất thoát nguồn tài sản không nhỏ của
Nhà nước.
Tăng cường thanh tra đột xuất với doanh nghiệp
Nghị định được xây dựng nhằm quy định việc giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với

DNNN trong việc chấp hành pháp luật và tuân thủ các quyết định của chủ sở hữu.
Đối tượng của Nghị định được xác định là: DN mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ được Thủ tướng Chính phủ, hoặc các Bộ quản lý ngành, UBND các tỉnh,
thành phố trực thuộc T.Ư quyết định thành lập và các DN mà Nhà nước nắm giữ
trên trên 50% vốn điều lệ.
Mục đích của giám sát là giúp các cơ quan quản lý Nhà nước, chủ sở hữu kịp thời
phát hiện những yếu kém trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của DNNN, xác
định nguyên nhân, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan; và
xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quyền xem xét, xử lý…


Theo đó, bên cạnh việc thường xuyên kiểm tra, giám sát, hoạt động thanh tra DN sẽ
được tăng cường hơn. Ngoài thanh tra đột xuất khi phát hiện sai phạm, các DNNN
sẽ bị thanh tra tối thiểu 2 năm một lần về việc chấp hành pháp luật và thực hiện các
quyết định của chủ sở hữu. Dự thảo Nghị định cũng quy định rõ chế tài đối với
người quản lý DN, Bộ trưởng, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố khi để xảy ra sai
phạm. Hình thức xử lý cao nhất là cách chức với Bộ trưởng, Chủ tịch UBND tỉnh,
thành phố nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ trách nhiệm giám sát,
kiểm tra, thanh tra đối với DNNN thuộc quyền quản lý dẫn đến thất thoát vốn, tài
sản của Nhà nước.
Liên quan đến vấn đề xử lý chồng chéo trong hoạt động kiểm tra, thanh tra, Dự
thảo Nghị định cũng quy định rõ, người đứng đầu ngành Thanh tra các cấp chủ trì,
phối hợp xử lý chồng chéo giữa các cấp thanh tra...
Tại cuộc họp tư vấn thẩm định Dự thảo Nghị định, Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự
- Kinh tế (Bộ Tư pháp) Dương Đăng Huệ cho biết, việc công khai, minh bạch thông
tin có vai trò rất quan trọng để tăng cường sự giám sát của xã hội với DN. Tuy
nhiên, do đặc thù nên mỗi DNNN có mức độ công khai khác nhau nên Dự thảo
Nghị định cũng cần quy định rõ mức độ công khai phù hợp, đảm bảo cả quyền lợi
của DNNN.
Phát biểu tại phiên họp, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đinh Trung Tụng đã nhất trí với

sự cần thiết ban hành Nghị định. Liên quan đến một số nội dung trong Dự thảo
Nghị định còn chưa thống nhất như: Đối tượng áp dụng, tần suất thanh tra tối thiểu
đối với DNNN, thẩm quyền thanh tra, Thứ trưởng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo
Nghị định tiếp thu ý kiến của các thành viên hội đồng thẩm định để bảo đảm tính
khả thi của Nghị định trên thực tế./.
Giải pháp thứ năm đề án tập trung giải pháp cụ thể đối với Tập đoàn kinh tế, tổng
công ty nhà nước, DNNN, từ việc rà soát, xác định nhiệm vụ, ngành nghề kinh


doanh chính đến xây dựng chiến lược phát triển đến năm 2025, tầm nhìn đến 2030,
xây dựng kế hoạch kinh doanh...
Sáu là, cơ quan đại diện phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp đã cổ phần hóa
thông qua người đại diện đôn đốc các doanh nghiệp đã cổ phần hóa thực hiện
nghiêm quy định về đăng ký lưu ký, đăng ký giao dịch, đăng ký niêm yết trên thị
trường chứng khoán theo quy định.
Bảy là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát DNNN. Nghiêm túc thực hiện
quy định về minh bạch, công khai hóa thông tin về hoạt động của DNNN.
Tám là, tăng cường trách nhiệm của lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương, tập đoàn
kinh tế, tổng công ty nhà nước trong việc thực hiện phương án sắp xếp, cổ phần
hóa, tái cơ cấu doanh nghiệp đã được phê duyệt.
Cuối cùng là tiếp tục phát huy vai trò của tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể trong
quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước từ việc định hướng, chỉ đạo quán triệt
đầy đủ các chủ trương, Nghị quyết của Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà nước
đến việc tổ chức thực hiện, giám sát quá trình tái cơ cấu theo phương án được cấp
có thẩm quyền phê duyệt.
Thủ tướng giao cho Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo
Chủ tịch Hội đồng thành viên tập đoàn kinh tế, tổng công ty, doanh nghiệp nhà
nước: Xây dựng trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để triển khai thực hiện phương
án cơ cấu lại doanh nghiệp; hoàn thành kế hoạch cổ phần hóa và thoái vốn; xử lý

dứt điểm tồn tại và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp có vốn nhà nước. Đồng thời, chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ trong việc hoàn thành kế hoạch sắp xếp, cơ cấu lại, cổ phần hóa,
thoái vốn và xử lý dứt điểm tồn tại để nâng cao hiệu quả hoạt động và coi đây là
nhiệm vụ chính trị quan trọng cần tập trung chỉ đạo hoàn thành./.


Cần sớm hoàn thiện khung pháp lý cho các Tập đoàn kinh tế Nhà nước
- Tại Hội thảo “Đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động của Tập đoàn kinh tế
Nhà nước - Những vấn đề pháp lý cần hoàn thiện” do Bộ Tư pháp tổ chức ngày
23/10, nhiều vấn đề liên quan đến các Tập đoàn kinh tế Nhà nước (TĐKTNN) đã
được đề cập, trong đó, yêu cầu hoàn thiện khung pháp lý cho các nhóm công ty này
được các đại biểu hết sức quan tâm.
Do thiếu hành lang pháp lý nên rất khó giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của
các Tập đoàn kinh tế Nhà nước
Còn thiếu hành lang pháp lý
Hoạt động của TĐKTNN được quy định trong Nghị định số 153/2004/NĐ-CP
ngày 09/8/2004 của Chính phủ về Tổ chức, quản lý Tổng công ty Nhà nước và
chuyển đổi Tổng công ty Nhà nước, Công ty Nhà nước độc lập theo mô hình công
ty mẹ - công ty con; Luật Doanh nghiệp năm 2005; Nghị định số 139/2007/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 05/9/2007 về hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật
Doanh nghiệp… Tuy nhiên, theo quy định của Luật Doanh nghiệp và các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật này, các quy định về công ty mẹ - công ty con không áp
dụng đối với nhóm công ty theo mô hình tập đoàn. Vì vậy, theo GS.TS Lê Hồng
Hạnh - Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp), khó xác định địa vị pháp
lý của TĐKTNN dựa trên các quy định của luật hiện hành. Thực chất, có nhiều tập
đoàn kinh tế chỉ là doanh nghiệp có mối quan hệ sở hữu chồng chéo với nhau dựa
trên những liên kết không rõ ràng về pháp luật.
Dẫn ra kẽ hở từ các văn bản so với thực tế hoạt động của TĐKTNN, theo GS.TS
Lê Hồng Hạnh, tập đoàn không có tư cách pháp nhân nên không có vốn điều lệ,

nhưng thực tế nhiều quyết định thành lập tập đoàn cũng như điều lệ TĐKTNN lại
ghi rõ vốn điều lệ.


Theo PGS.TS Nguyễn Văn Nam – nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế thương mại
(Bộ Công thương), xét về mặt pháp lý, việc thí điểm không được thực hiện rõ ràng,
cả về mục đích, nhiệm vụ và thời gian thực hiện thí điểm. Các tập đoàn hoạt động
thiếu hành lang pháp lý, thiếu phân định trách nhiệm nên rất khó để giám sát, đánh
giá.
Cùng với đó, việc thiếu môi trường cạnh tranh và một bối cảnh kinh doanh thực sự
đã đưa đến thực trạng, có tập đoàn làm ăn èo uột, song vẫn tồn tại nhờ sự “cưu
mang” của chính các tập đoàn khác.
Việc xây dựng tập đoàn thiếu khung pháp lý chính là nguyên nhân làm nảy sinh
nhiều vấn nạn tại một số tập đoàn trong thời gian qua, điển hình như việc kinh
doanh thua lỗ tại Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, vụ án tham nhũng tại Tập đoàn
Công nghiệp tàu thủy Việt Nam…
Phân định rõ chức năng của TĐKTNN
Theo chủ trương thành lập, ngoài kinh doanh, các tập đoàn còn thực hiện nhiệm vụ
chính trị, công ích nhưng đến nay vẫn chưa có phương thức tính toán lượng hóa chi
phí để bù đắp hoặc đánh giá kết quả, tác động của các tập đoàn khi thực hiện những
nhiệm vụ này, do vậy đã tạo cớ để biện minh cho sự kém hiệu quả. Liên quan đến
vấn đề này, PGS.TS Nguyễn Đình Tài (Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội
và quản lý doanh nghiệp) đề xuất, trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, rất cần thiết
phải có một văn bản quy định về những điểm đặc thù nhất của TĐKTNN, trong đó
có sự xác lập rõ ràng về tên gọi, cách thức thành lập và đăng ký hoạt động…
Theo GS.TS Lê Hồng Hạnh, báo cáo của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
như KTNN, Thanh tra Chính phủ về hoạt động của các TĐKTNN đã đề cập nhiều
về những con số thất thoát, lãng phí tài sản của Nhà nước. Để biện minh cho hiệu
quả kém, các tập đoàn luôn cho rằng phải thực hiện nhiều nhiệm vụ chính trị, xã
hội khác nhau là không thể chấp nhận. Việc tập trung nguồn lực quá lớn vào các tập



đoàn trong lúc chưa có cơ chế kiểm soát hiệu quả sẽ tạo cơ hội cho tham nhũng,
lãng phí. “Đổi mới cơ chế hoạt động của các tập đoàn, cần thực hiện theo hướng cải
cách cơ bản, chứ không chỉ đơn thuần là tăng cường minh bạch hóa” - GS.TS Lê
Hồng Hạnh kiến nghị.
Trên thực tế, với những quy định pháp luật hiện hành, Quốc hội không đủ thẩm
quyền để kiểm soát các TĐKTNN, trong khi theo kinh nghiệm thế giới, việc bổ
nhiệm lãnh đạo của TĐKTNN lớn, có ảnh hưởng đến nền kinh tế phải được tham
vấn Quốc hội trước khi bổ nhiệm. Ngân sách và chi tiêu của TĐKTNN lớn cũng
được kiểm soát chặt chẽ bởi Quốc hội.
Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế (Bộ Tư pháp) Dương Đăng Huệ cũng
nhấn mạnh, phải sớm xác định một cơ chế phân cấp, phân quyền và chịu trách
nhiệm của các TĐKTNN, cũng như một khung pháp lý hoàn chỉnh để vận hành
nhóm công ty này theo đúng nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế. Cần
phân định rõ ràng nhiệm vụ kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, xã hội của các tập
đoàn, nếu không sẽ rất khó để các tập đoàn thực hiện minh bạch và tập trung sản
xuất.
Tại Hội thảo, các chuyên gia đề xuất, cần thực hiện tái cấu trúc TĐKTNN theo
hướng tinh giảm, tập trung vào nhóm ngành chủ đạo đã được thí điểm thành lập, có
vậy thì mới hạn chế được những sự việc đáng tiếc như thời gian qua./.
Không có vùng cấm, vùng trống trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí
(kiemtoannn.gov.vn) - Ngày 23/02/2017, tại Hà Nội, Ban Nội chính Trung ương đã
tổ chức Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác ngành Nội chính Đảng năm 2016 và
quán triệt, triển khai Kết luận số 10-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện
Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công
tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đồng chí Đinh Thế Huynh phát biểu chỉ
đạo tại Hội nghị



Dự Hội nghị có các đồng chí: Đinh Thế Huynh, Uỷ viên Bộ chính trị, Thường trực
Ban Bí thư; Trần Quốc Vượng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng,
Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra TƯ; Hoàng Trung Hải, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư
Thành uỷ Hà Nội; Nguyễn Hoà Bình, Chánh án TAND tối cao cùng đại diện các
Bộ, ban, ngành, tỉnh, thành phố trong cả nước. Đồng chí Hoàng Hồng Lạc, Phó
Tổng Kiểm toán nhà nước, đồng chí Hoàng Văn Chương, Chánh Thanh tra Kiểm
toán nhà nước dự Hội nghị.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, đồng chí Phan Đình Trạc, Trưởng Ban Nội chính
Trung ương nhấn mạnh, đây là lần đầu tiên sau 4 năm tái lập, Ban Nội chính Trung
ương tổ chức hội nghị tổng kết công tác ngành gắn với việc triển khai Kết luận số
10-KL/TW của Bộ Chính trị.
Sau 4 năm hoạt động, Ban Nội chính Trung ương đã cơ bản ổn định về tổ chức bộ
máy, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, quá trình hoạt động,
Ban còn gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Vì vậy, hội nghị lần này sẽ là dịp để
ngành Nội chính Đảng trao đổi, thảo luận về những kết quả đạt được, những khó
khăn, vướng mắc và nguyên nhân, từ đó đề xuất giải pháp tháo gỡ, nâng cao hiệu
quả hoạt động.
Báo cáo kết quả hoạt động của ngành Nội chính Đảng năm 2016, đồng chí Võ Văn
Dũng, Phó trưởng Ban Thường trực Ban Nội chính Trung ương cho biết, năm 2016
là năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết đại hội
đảng bộ tỉnh, thành phố nhiệm kỳ 2016-2020 nên khối lượng công việc nhiều, yêu
cầu cao; các quy định về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền chưa được bổ sung, sửa
đổi cho phù hợp... Tuy nhiên, toàn ngành Nội chính Đảng đã ra sức khắc phục khó
khăn, nêu cao quyết tâm chính trị, mạnh dạn đề ra nhiều chương trình, kế hoạch
công tác với yêu cầu cao hơn; tích cực, chủ động, sáng tạo, phấn đấu hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Nhờ đó, hầu hết các nội dung công việc theo chương trình, kế
hoạch công tác năm 2016 đã được hoàn thành đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng.


Nhiều kết quả hoạt động của Ngành được ghi nhận, như: Thực hiện tốt việc nghiên

cứu, tham mưu, đề xuất với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo và cấp uỷ địa
phương một số chủ trương, giải pháp lớn về nội chính và phòng chống tham nhũng
(PCTN); hoàn thành việc tổng kết một số nghị quyết lớn của Đảng về nội chính và
PCTN; chất lượng nghiên cứu, thẩm định các dự án, đề án, văn bản quan trọng về
lĩnh vực nội chính và PCTN được nâng lên; việc hướng dẫn, kiểm tra, giám sát,
đôn đốc các cấp uỷ, tổ chức đảng được thực hiện đúng với quy định của Đảng và
Nhà nước về nội chính và PCTN, khâu kiểm tra, giám sát việc phát hiện, xử lý các
vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế có nhiều tiến bộ.
Đặc biệt, Ngành đạt nhiều kết quả trong công tác tham mưu, đề xuất chỉ đạo xử lý
dứt điểm, nghiêm minh các vụ việc, vụ án nghiêm trọng, phức tạp, được dư luận xã
hội quan tâm và xử lý kịp thời một số vấn đề nổi lên về an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội...
Qua kiểm tra, giám sát đã kiến nghị 42 vấn đề về cơ chế, chính sách, pháp luật;
kiến nghị đôn đốc, theo dõi, chỉ đạo xử lý 87 vụ việc, vụ án; yêu cầu chỉ đạo kiểm
điểm làm rõ trách nhiệm và xử lý 72 cơ quan, đơn vị có liên quan. Đã có trên 7.400
kết luận thanh tra, kiểm toán được rà soát; qua rà soát chấn chỉnh, kiến nghị nhiều
vụ việc có dấu hiệu tội phạm tham nhũng.
Ban Nội chính cũng đã tham mưu Ban Chỉ đạo đưa 06 vụ án lớn ra xét xử sơ thẩm,
07 vụ án lớn ra xét xử phúc thẩm, được nhân dân đồng tình. Đối với các vụ án, vụ
việc thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng giao cho
Tỉnh ủy, Thành ủy chỉ đạo xử lý, đến nay đã tham mưu chỉ đạo xử lý xong 151 vụ
án, vụ việc; đang tiếp tục chỉ đạo xử lý 33 vụ án, vụ việc. Riêng năm 2016, đã chỉ
đạo xử lý xong 97 vụ án, vụ việc.
Đồng chí Võ Văn Dũng nêu 9 nhóm nhiệm vụ trọng tâm mà ngành Nội chính
Đảng tập trung thực hiện trong năm 2017. Trong đó, nhiệm vụ hàng đầu là tham


mưu, đề xuất có chất lượng với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp uỷ địa phương ban
hành kịp thời các chủ trương, chính sách để chỉ đạo có hiệu quả công tác bảo đảm
an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và PCTN; tham mưu, đề xuất những quan

điểm, định hướng lớn cho công tác xây dựng pháp luật về lĩnh vực nội chính và
PCTN, nhất là sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Bộ luật hình sự, Luật PCTN, Luật giám
định tư pháp và các luật có liên quan...
Các đại biểu tham dự Hội nghị
Tại Hội nghị, các đại biểu tập trung thảo luận, đánh giá những ưu điểm, kết quả đạt
được, đồng thời chia sẻ kinh nghiệm tại đơn vị trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo
trong công tác nội chính Đảng. Đa số các đại biểu cho rằng, để thuận lợi cho công
tác lãnh đạo chỉ đạo trong công tác nội chính, cần sớm kiện toàn bộ máy, quy chế
phối hợp để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc ở cơ sở, nhất là cán bộ tư pháp.
Quán triệt Kết luận số 10-KL/TW ngày 26-12-2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp
tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, đồng chí Phan Đình
Trạc, Trưởng Ban Nội chính Trung ương nhấn mạnh ba quan điểm: Phòng ngừa
tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ chính, cơ bản, lâu dài; phát hiện, xử lý là việc
quan trọng, cấp bách. Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa, chủ động phát
hiện và kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời những người có hành vi tham
nhũng, lãng phí, can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng, lãng phí; không có vùng
cấm, vùng trống, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể người đó là ai.
Phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi vững chắc, tích cực,
chủ động và có trọng tâm, trọng điểm. Gắn phòng, chống tham nhũng, lãng phí với
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị
và toàn dân.


Kiên quyết, kiên trì, khẩn trương xây dựng cơ chế phòng ngừa để không thể tham
nhũng; có cơ chế răn đe, trừng trị để không ai dám tham nhũng; cơ chế bảo đảm để
không cần tham nhũng.
Phát biểu tại hội nghị, đồng chí Đinh Thế Huynh ghi nhận và biểu dương những
kết quả ngành nội chính đạt được trong thời gian qua. Đồng tình với các nhóm giải
pháp đã nêu của Ban Nội chính Trung ương, đồng chí Đinh Thế Huynh lưu ý trong

năm 2017, ngành nội chính Đảng cần tích cực nghiên cứu, tham mưu đề xuất Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy địa phương những chủ trương, chính sách về an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội và phòng, chống tham nhũng.
Để thực hiện tốt yêu cầu đó, Ban Nội chính Trung ương, ban nội chính cấp tỉnh có
trách nhiệm phối hợp, đề nghị, yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, các cơ quan liên
quan làm việc, phối hợp, trao đổi, báo cáo, cung cấp tài liệu, thông tin theo quy
định; các cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan liên quan cần phối hợp, tạo điều kiện, thực
hiện các đề nghị, yêu cầu của Ban Nội chính Trung ương, ban nội chính cấp tỉnh
theo quy định.
Ban Nội chính Trung ương, ban nội chính cấp tỉnh, thành cần tập trung nghiên cứu,
tham mưu, đề xuất Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo và cấp uỷ địa phương
những chủ trương, giải pháp tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với
công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng; bảo đảm nguyên tắc không buông
lỏng sự lãnh đạo của Đảng nhưng cũng không làm thay đổi hoạt động chuyên môn
của các cơ quan chức năng trong lĩnh vực công tác nội chính và PCTN.
Đồng chí Đinh Thế Huynh đề nghị Ban Nội chính Trung ương tiếp tục tham mưu
xây dựng giám sát thanh tra các vụ việc, rà soát các cuộc thanh tra kinh tế xã hội và
thực hiện kiến nghị của Kiểm toán nhà nước có dấu hiệu vi phạm để chuyển cho cơ
quan điều tra xử lý. Chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng nắm chắc tình
hình, đồng thời tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy địa phương các chủ


trương chính sách để giữ vững an ninh quốc gia, nhất là đối với các địa bàn trọng
điểm.
Về tổ chức quán triệt và triển khai Kết luận số 10-KL/TW của Bộ Chính trị, đồng
chí Đinh thế Huynh đề nghị thường vụ cấp uỷ các tỉnh, thành tổ chức quán triệt và
triển khai thực hiện thật tốt, đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quyết tâm thực hiện cho được mục tiêu đã đề
ra./.
Bội chi và giải pháp cân đối ngân sách cấp tỉnh NGUYỄN THỊ NGUYỆT ANH

Trong bất cứ nền kinh tế nào, việc giải quyết cân đối giữa thu – chi cũng được xem
là nhiệm vụ hàng đầu để quản lý nền kinh tế của Nhà nước. Song, việc tăng trưởng
kinh tế luôn luôn không đáp ứng kịp với yêu cầu chi tiêu của Chính phủ cho đời
sống xã hội, nên thường xảy ra tình trạng bội chi ngân sách ở nhiều nước trên thế
giới. Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ.
Đối với Việt Nam, nhờ chủ trương đổi mới các chính sách kinh tế của Chính phủ đã
thúc đẩy được các thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất, kinh doanh, đời sống
người dân từng bước được nâng lên khá hơn so với những năm trước. Mức thu
nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2011 vào khoảng 1.300
USD/người/năm, con số này đã đưa Việt Nam thoát khỏi danh sách các nước nghèo
cần được quan tâm của thế giới. Đây là một điều đáng tự hào đối với định hướng
phát triển của nước nhà, tuy nhiên cũng gây khó khăn trong việc vay nợ nước ngoài
vì lãi suất ưu đãi không còn được áp dụng để hỗ trợ cho các khoản vay bù đắp bội
chi trong nước. Bên cạnh đó, để thực hiện chủ trương phát triển đất nước trong tình
hình kinh tế mới, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và ưu tiên an sinh xã
hội, thì bội chi NSNN vẫn là vấn đề cần quan tâm. Tình trạng này không những gây
khó khăn đối với việc cân đối NSNN cấp TW, nó cũng diễn ra khá gay gắt đối với
ngân sách cấp Tỉnh, do nguồn thu eo hẹp, yêu cầu chi lại ngày càng tăng nhanh cả


trong chi tiêu dùng, chi phát triển và chi đảm bảo định hướng phát triển chung của
đất nước. Một số Tỉnh, tuy có bội thu ngân sách, nhưng nhìn chung kết quả này
chưa ổn định vững chắc, chủ yếu do “thắt lưng buộc bụng”, cắt giảm chi tiêu cần
thiết, nhất là đối với chi cho y tế, giáo dục, phúc lợi công cộng còn chiếm tỷ trọng
thấp trong GDP.
Để cân đối được ngân sách cấp Tỉnh, đồng thời thực hiện được mục tiêu về ngân
sách cả nước là đảm bảo tăng trưởng GDP bình quân 6% và phấn đấu 6,5% trong
năm 2012, chi đầu tư phát triển dự kiến chiếm 19,9% tổng chi NSNN 2012, chi
phát triển sự nghiệp KT-XH, QP, AN, QLHC dự kiến chiếm 60% tổng chi NSNN
2012, …, tăng huy động GDP vào ngân sách Nhà nước nhiều hơn nữa trong thời kỳ

2011 – 2015, yêu cầu đặt ra phải:
• Xem xét lại các khoản thu từ thuế, khắc phục tình trạng bỏ sót, tồn đọng, trốn lậu
thuế dưới mọi hình thức.
• Thực hiện tăng thu theo hướng phát triển sản xuất, mở rộng nguồn thu.
• Tiết kiệm chi tiêu, cắt giảm những khoản chi chưa cần thiết.
• Đẩy mạnh xuất khẩu.
• ….
Những vấn đề trên đây đã được nhiều nhà kinh tế đề ra, nhưng hiện nay, khả năng
hiện thực đang là dấu hỏi, cần được chấn chỉnh và hoàn thiện một cách đồng bộ
hơn. Do đó, để khắc phục tình trạng mất cân đối, đồng thời đảm bảo phát triển hài
hòa về kinh tế và xã hội của Tỉnh, thì ngân sách Nhà nước cấp Tỉnh phải đảm bảo
làm tốt các vấn đề sau đây:
Một là, đảm bảo nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản ngoài thuế (như thu
tiền sử dụng đất, thu bán nhà ở, tiền cho thuê mướn tài sản cố định thuộc sở hữu
của Nhà nước, thu từ các khoản khác) được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.


Việc chấn chỉnh, sửa đổi các sắc thuế thuộc thẩm quyền cấp vĩ mô. Song, ở cấp
Tỉnh phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình về các khoản thu như sau:
- Thu từ thuế, phí, lệ phí, thu ngoài thuế, thu từ viện trợ , vay nợ và tặng biếu của
các tổ chức, cá nhân trong, ngoài nước cho Tỉnh và kiều bào nước ngoài ủng hộ cho
địa phương v.v… sự phân loại chi này để nhằm nắm chắc được từng nguồn thu,
khai thác phát triển nguồn thu hợp lý, phục vụ chi tiêu đúng mục đích, đúng yêu
cầu. Những khoản không do thu từ nền kinh tế của Tỉnh cần được tách riêng (vay
nợ, viện trợ, biếu tặng …) để thực hiện sự cân đối đúng cho từng khoản chi. Trong
đó, chi thường xuyên phải dùng nguồn thu từ nền kinh tế của Tỉnh để cân đối; phần
còn lại (bội thu) dành cho chi đầu tư phát triển, chi đầu tư cho con người, thực hiện
cách chính sách an sinh xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh, đảm bảo cân đối bền
vững và an toàn hệ thống tài chính cấp Tỉnh.
- Các nguồn vốn vay, viện trợ, thu từ thuế bảo vệ môi trường, thuế sử dụng đất phi

nông nghiệp (thuế mới đề xuất có hiệu lực từ ngày 01/1/2012) … khoản thuế bảo
vệ môi trường (trong đó chủ yếu là thu từ phí xăng dầu trước đây) là khoản thu
phân chia giữa NSTW và NSĐP, khoản thuế sử dụng đất phi nông nghiệp là khoản
thu NSĐP hưởng 100%. Tất cả các khoản thu cho NSĐP này phải được đưa 100%
vào để chi cho con người, chi thực hiện các chính sách an sinh xã hội, đảm bảo an
ninh quốc phòng và an ninh tài chính quốc gia trong tình hình mới, chi đầu tư phát
triển và chi hỗ trợ đối với các tỉnh nghèo. Nhất thiết không dùng các khoản thu này
để chi thường xuyên của Tỉnh.
Hai là, thu theo luật định và tập trung chống thất thu
Song song với phát triển nguồn thu mới để tăng thu cho ngân sách, cần phải tập
trung chống thất thu thuế, thực hiện thu đúng, thu đủ sắc thuế theo luật định vào
ngân sách. Hạn chế tối đa việc miễn giảm thuế, cũng như tự ý đặt các khoản thu
ngoài quy định của Nhà nước, khắc phục nợ tồn đọng kéo dài; tăng cường thanh


tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm như trốn lậu thuế,
gian lận thương mại …
Chống thất thu vừa tạo được nguồn thu, không cần tăng thuế, vừa tạo công bằng
trong xã hội và ổn định thị trường, luật pháp được tôn trọng, kỷ cương được giữ
vững. Nếu thu đủ số thất thu vào ngân sách thì nguồn tiền tệ tập trung này sẽ góp
phần ổn định cho việc cân đối ngân sách địa phương. Đây cũng là một nhiệm vụ
quan trọng nằm trong 6 nhóm giải pháp cần tập trung tổ chức triển khai để thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ tài chính – NSNN năm 2012 mà Chính phủ đã đề ra.
Đối với năm 2012, cần chú ý tính các khoản thu phát sinh năm 2011 nhưng đựơc
phép giãn thời hạn nộp, các khoản thu từ các dự án đầu tư đã hết thời gian ưu đãi
thuế.
Ba là, hoàn thiện việc cân đối các khoản chi, đi đôi với tiết kiệm trong chi tiêu và
thực hiện chống tham ô, lãng phí tài sản của Nhà nước.
- Chấn chỉnh lại việc chi tiêu bằng cách hoàn thiện việc cân đối các khoản chi, thực
hiện chi tiêu theo dự toán, không chi khi chưa dự toán và những phát sinh mới

ngoài kế hoạch.
- Tiết kiệm chi tiêu là vấn đề đặc biệt quan trọng đối với nước đang phát triển như
Việt Nam. Kinh nghiệm từ các nước Đông Nam Á, việc tích lũy tư bản để đầu tư
phát triển đất nước, bằng con đường tiết kiệm trong sản xuất và trong tiêu dùng đã
đem lại kết quả tốt. Trong giai đoạn hiện nay, việc đề ra một đạo luật về tiết kiệm
và chống lãng phí là cần thiết. Ở Việt Nam mức tiết kiệm toàn xã hội còn rất thấp,
đặc biệt là cấp Tỉnh. Do đó, cần bổ sung chính sách và áp dụng nhiều hình thức huy
động mọi khả năng tiết kiệm và tự đầu tư phát triển của nhân dân, của các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, để mở rộng quy mô đầu tư toàn xã hội và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Tỷ lệ này tiếp tục tăng lên theo thời gian và
tỷ lệ thuận với tốc độ phát triển của nền kinh tế.


- Một yếu tố quan trọng khác để làm tăng nguồn thu là chấn chỉnh quản lý tài
chính, chống thất thoát, lãng phí NSNN. Trên thực tế, việc lãng phí xảy ra trong chi
tiêu cho hội họp, liên hoan, tiếp khách, chi cho bộ máy hành chánh, mua sắm xe ô
tô đời mới, chi xây dựng cơ bản trụ sở làm việc, hội trường, các công trình phi sản
xuất và không phục vụ cho phúc lợi công cộng còn nhiều. Đặc biệt, những năm gần
đây, Nhà nước đã chi một khoản tiền lớn cho việc đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm
trang thiết bị và xây dựng trụ sở để thực hiện Đề án 30 về hiện đại hóa quản lý
hành chính, một cửa và một cửa liên thông tại nhiều địa phương; tuy nhiên, nguồn
vốn đầu tư này chưa được các địa phương sử dụng triệt để, dẫn đến thất thoát và
lãng phí nguồn NSNN. Do đó, trong những năm tới, cần quản lý chặt chẽ các khoản
chi tiêu này.
Theo mô hình số nhân của Keynes thì đầu tư có hiệu quả cấp số nhân đối với thu
nhập. Do đó, tiết kiệm để đầu tư tất yếu sẽ dẫn đến tăng thu nhập, và tăng nguồn
thu cho ngân sách Nhà nước.
Bốn là, cân đối ngân sách cấp Tỉnh cần theo nguyên tắc lấy thu thường xuyên từ
trong nội bộ nền kinh tế của địa phương để chi thường xuyên và đảm bảo chi
thường xuyên phải nhỏ hơn khoản thu thường xuyên.

Để đảm bảo được nguyên tắc này, NSNN cấp Tỉnh phải được phân cấp một số
khoản thu và chi phù hợp với yêu cầu phát triển chung của cả nước, đồng thời phù
hợp với nhu cầu mỗi Tỉnh. Việc phân cấp ngân sách cho chính quyền cấp tỉnh là
cần thiết để thực hiện điều chỉnh nền kinh tế tại địa phương. Việc phân cấp đó phải
thực hiện theo hướng ngân sách Nhà nước là thống nhất, sự phân chia nguồn thu,
nhiệm vụ chi phải ổn định lâu dài, phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa
phương, nhưng đồng thời tránh tình trạng phân chia quyền lực giữa TW và địa
phương, tránh việc địa phương tự ý đề ra các chế độ, chính sách để chi cho riêng
mình.


Năm là, vận dụng sức mạnh tổng hợp
Trong nền kinh tế thị trường, việc cân đối ngân sách của một địa phương (Tỉnh,
Thành phố) cần huy động sức mạnh tổng hợp từ các thành phần kinh tế, từ trong và
ngoài nước qua các nguồn thu vào ngân sách theo thứ tự sau đây:
- Thu từ thuế, phí, lệ phí mang tính chất thuế;
- Thu ngoài thuế;
- Thu viện trợ không hoàn lại và các khoản biếu tặng;
- Thu kết dư;
- Thu từ ngân sách Trung ương (trợ cấp và vay nợ ngân sách).
Trong các khoản thu trên, thuế không chỉ đơn thuần là một nguồn thu chủ yếu của
ngân sách nhà nước mà thuế còn gắn liền với các vấn đề về sự tăng trưởng kinh tế,
về sự công bằng trong phân phối và sự ổn định xã hội. Ngoài ra, các khoản viện trợ
quốc tế được xem là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn đang thiếu hụt
trong nước, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển; vấn đề quan trọng là địa phương
nhận đựơc nguồn viện trợ này cần có phương án sử dụng có hiệu quả, tránh việc sử
dụng sai mục đích dẫn đến lãng phí nguồn thu này.
Sáu là, lập quỹ dự trữ tài chính và dự phòng ngân sách
Dự phòng ngân sách phải bố trí đủ để đáp ứng các yêu cầu chi cho việc thực hiện
chính sách mới, chi đột xuất và dành một phần dự trữ gối đầu năm sau.

- Đối với ngân sách cấp Tỉnh, thực tế qua việc lập kế hoạch ngân sách Nhà nước
hàng năm cho thấy không thể dự kiến hết các nhu cầu chi trong một năm. Vì vậy,
cần thiết phải bố trí một khoản dự phòng trong dự toán ngân sách để xử lý các nhu
cầu phát sinh đột xuất.


- Nguồn hình thành quỹ dự trữ tài chính ở cấp Tỉnh chỉ được lấy :
+ Từ bố trí trong dự toán ngân sách hàng năm (được Luật NSNN quy định);
+ Từ kết dư;
+ Từ tăng thu vượt kế hoạch hàng năm.
Mục đích sử dụng quỹ dự trữ tài chính còn dùng cho ngân sách tạm mượn chi trước
nguồn thu chưa tập trung kịp để đảm bảo sự chủ động trong điều hành ngân sách.
Sau đó, phải được hoàn trả ngay trong tháng hoặc quý tiếp theo. Nhất thiết không
được kéo dài quá 6 tháng trong năm ngân sách và không được làm mất mát, mà trái
lại phải tăng lên qua từng năm, đến một giới hạn được Luật NSNN cho phép (hoặc
Chính phủ quy định) thì sẽ không được trích thêm nữa.
Cuối cùng, sau khi cân đối các nguồn, nếu còn thiếu hụt, Trung ương sẽ trợ cấp một
phần lấy trong các khoản thu thuế phân cấp cho TW hưởng (nhưng được thu ở địa
phương). Số tiền do TW hỗ trợ cho ngân sách địa phương tối đa cũng chỉ đảm bảo
đến 95% tổng chi của địa phương trong năm tài chính đó. Số còn thiếu hụt, địa
phương tự giải quyết bằng cách vay vốn trong nước (dưới hình thức trái phiếu) và
vay ngoài nước, hoặc bán, cho thuê bớt tài sản của Nhà nước địa phương để đảm
bảo cho được khoảng 3% mức thiếu hụt, còn lại 2% cấp Tỉnh được quyền vay nợ từ
vốn NSTW qua kho bạc Nhà nước TW (trả lãi theo quy định) để đưa vào bù đắp sự
thiếu hụt, đảm bảo cho ngân sách địa phương được cân đối.
Việc quy định cho cấp Tỉnh được tự vay, tự trả trong phạm vi 5% số chi tiêu đã bị
thiếu hụt là nhằm kích thích cấp Tỉnh tích cực tạo nguồn thu để chi, tạo sự chủ
động và tăng cường trách nhiệm cho mỗi địa phương trong việc xây dựng và cân
đối ngân sách cho mình.
Ngoài những biện pháp nêu trên, việc cân đối ngân sách cấp Tỉnh còn phụ thuộc

vào nhiều yếu tố như: đổi mới cơ cấu hệ thống ngân sách, trong đó làm rõ vai trò


của ngân sách cấp Tỉnh và sự phân cấp cho Tỉnh những nguồn thu, khoản chi hợp
lý; chấn chỉnh lại mối quan hệ giữa ngân sách cấp Tỉnh với TW và với ngân sách
cấp địa phương khác (huyện, xã); Hoàn thiện chu trình lập kế hoạch, chấp hành,
quyết toán và tổ chức quản lý ngân sách của cấp Tỉnh trong nền kinh tế nhiều thành
phần, hoạt động theo quan hệ thị trường có sự quản lý của Nhà nước.


×