Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

tiểu luận cao học môn chính trị học vai trò của hệ thống chính trị đối với công tác xóa đói giảm nghèo của việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.98 KB, 34 trang )

A – MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Nghèo đói là một trong những vấn đề nan giải mà mọi quốc gia trên thế
giới đặc biệt là những quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam đều phải
quan tâm và tìm cách giải quyết.Việc tấn công vào nghèo đói là một nhiệm vụ
không kém phần quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước
ta. Đại Hội VII của Đảng đã xác định xoá đói giảm nghèo là một trong `những
chương trình kinh tế xã hội vừa cấp bách trước mắt vừa cơ bản lâu dài. Đồng
thời việc xoá đói giảm nghèo đòi hỏi cũng phải có những chính sách thích hợp
thì mới đạt được hiệu quả. Những chính sách mà nhà nước đưa ra không những
góp phần xóa đói giảm nghèo mà còn góp phần phát triển các ngành kinh tế, cải
thiện đời sống người nghèo để giúp họ thoát khỏi cảnh nghèo đói. Khi Việt Nam
chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, công tác giảm nghèo là một
nhiệm vụ cấp thiết hơn bao giờ hết và những chính sách của nhà nước càng có ý
nghĩa nhiều hơn nữa đối với công tác giảm nghèo. Trong những năm qua, xóa
đói giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát
triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư. Thành tựu xóa
đói giảm nghèo trong những năm qua đã góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững
và thực hiện công bằng xã hội, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
1


Để bảo đảm công tác xóa đói giảm nghèo được thực hiện tốt, đòi hỏi
Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội – những bộ phận nòng cốt của hệ
thông chính trị nước ta phải đưa ra những chủ trương, đường lối, chính sách và
tổ chức quản lý, thực hiện tích cực, chủ động và hiệu quả.
Từ đó, tôi quyết định chọn vấn đề “Vai trò của hệ thống chính trị đối với
công tác xóa đói giảm nghèo của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài
tiểu luận của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu


- Mục tiêu chung: Tìm hiểu, phân tích, đánh giá vai trò của hệ thống chính
trị và tác động của các chủ trương, chính sách đối với công tác xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam hiện nay.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Phân tích vai trò của hệ thống chính trị đối với công tác xóa đói giảm
nghèo thông qua các chủ trương chính sách và cách thức tổ chức quản lý thực
hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo.
+ Đánh giá hiệu quả của công tác xóa đói giảm nghèo.
+ Đưa ra các giải pháp thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo tích cực,
hiệu quả và bền vững.
2


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối với đề tài này thì đối tượng cần nghiên cứu
là vai trò của hệ thống chính trị đối với công tác xóa đói giảm nghèo.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu công tác
xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

3


B- NỘI DUNG
1- Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.1- Cơ sở lý luận
1.1.1- Quan điểm chung về hệ thống chính trị ở Việt Nam
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã
hội, bao gồm các đảng phái chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
được liên kết với nhay trong một hệ thống tổ chức, nhằm tác động vào các quá
trình của đời sống xã hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp

với lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp nhà nước
nhằm thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền. Do đó, hệ thống
chính trị mang bản chất giai cấp. Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và
nhân dân lao động là chủ thể thực sự của quyền lực, tự mình tổ chức và quản lý
xã hội, quyết định nội dung hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh
4


Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp khác được thành lập, hoạt
động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam, thực hiện và bảo
đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
1.1.2- Những quan niệm chung về đói nghèo
Đói nghèo là một hiện tượng kinh tế xã hội mang tính chất toàn cầu. Nó
không chỉ tồn tại ở các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển, mà nó còn tồn tại
ngay tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào điều kiện
tự nhiên, thể chế chính trị xã hội và điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia mà tính
chất, mức độ nghèo đói của từng quốc gia có khác nhau. Nhìn chung mỗi quốc
gia đều sử dụng một khái niệm để xác định mức độ nghèo khổ và đưa ra các chỉ
số nghèo khổ để xác định giới hạn nghèo khổ. Giới hạn nghèo khổ của các quốc
gia được xác định bằng mức thu nhập tối thiểu để người dân có thể tồn tại được,
đó là mức thu nhập mà một hộ gia đình có thể mua sắm được những vật dụng cơ
bản phục vụ cho việc ăn, mặc, ở và các nhu cầu thiết yếu khác theo mức giá hiện
hành.
Tại hội nghị bàn về xoá đói giảm nghèo do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc

Thái Lan tháng 9.1993 đã đưa ra khái niệm về nghèo đói như sau: Đói nghèo là
tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ

5


bản của con người đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế
xã hội và phong tục tập quán của các địa phương. Theo định nghĩa này thì mức
độ nghèo đói ở các nước khác nhau là khác nhau. Theo số liêu của ngân hàng thế
giới thì hiện nay trên thế giới có khoảng 1,3 tỷ người sống dưới mức nghèo khổ,
trong đó phần lớn là phụ nữ và trẻ em.
Ở nước ta căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội và mức thu nhập của nhân
dân trong những năm qua thì khái niệm đói nghèo được xác định như sau:
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có những điều kiện thoả mãn
những nhu cầu tối thiểu và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức sống thấp hơn
mức sống của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Một cách hiểu khác: Nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống dưới
ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc
điểm cụ thể của từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn phát
triển kinh tế xã hội cụ thể của từng địa phương hay từng quốc gia.
Ở Việt Nam thì nghèo được chia thành các mức khác nhau: nghèo tuyệt
đối, nghèo tương đối, nghèo có nhu cầu tối thiểu.
- Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo
không có khả năng thoả mãn nhu cầu tối thiểu của cuộc sống: ăn, mặc, ở, đi lại...
- Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo có
mức sống dưới mức sống trung bình của cộng đồng và địa phương đang xét.
6


- Nghèo có nhu cầu tối thiểu: Đây là tình trạng một bộ phận dân cư có

những đảm bảo tối thiểu để duy trì cuộc sống như đủ ăn, đủ mặc, đủ ở và một số
sinh hoạt hàng ngày nhưng ở mức tối thiểu.
- Khái niệm về hộ đói: Hộ đói là một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức tối thiểu không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống hay nói
cách khác đó là một bộ phận dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa, thường xuyên
phải vay nợ và thiếu khả năng trả nợ.
- Khái niệm về hộ nghèo: Hộ nghèo là tình trạng của một số hộ gia đình
chỉ thoả mãn một phần nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và có mức sống thấp hơn
mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Ngoài ra còn có khái niệm xã nghèo và vùng nghèo.
* Xã nghèo là xã có những đặc trưng như sau:
- Tỷ lệ hộ nghèo cao hơn 40% số hộ của xã.
- Không có hoặc thiếu rất nhiều những công trình cơ sở hạ tầng như: Điện
sinh hoạt, đường giao thông, trường học, trạm ytế và nước sinh hoạt.
- Trình độ dân trí thấp, tỷ lệ người mù chữ cao.
* Khái niệm về vùng nghèo:
Vùng nghèo là chỉ địa bàn tương đối rộng có thể là một số xã liền kề nhau
hoặc một vùng dân cư nằm ở vị trí rất khó khăn hiểm trở, giao thông không
thuận tiện, cơ sở hạ tầng thiếu thốn, không có điều kiện phát triển sản xuất đảm
bảo cuộc sống và là vùng có số hộ nghèo và xã nghèo cao.
7


1.2- Thực trạng công tác xóa đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay
Xóa đói giảm nghèo luôn là một trong những mục tiêu trọng tâm trong
mối quan tâm chung của Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam. Trong thực tế,
hoạt động giảm nghèo đã đạt được những tiến bộ đáng kể nhưng còn không ít
khó khăn, thách thức cần vượt qua để thực hiện Mục tiêu thiên niên kỷ của Liên
hợp quốc mà Việt Nam đã cam kết.
Việt Nam là một trong những nước thành công về quá trình phát triển kinh

tế và giảm nghèo. Thành tích của Việt Nam về tăng trưởng kinh tế và giảm
nghèo trong hai thập niên qua là rất lớn. Việt Nam từ một trong những quốc gia
nghèo nhất thế giới với thu nhập bình quân đầu người dưới 100 đô la Mỹ đã trở
thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp, với thu nhập đầu người 1.200 đô la
Mỹ như hiện nay…
Được biết, trong “Báo cáo "Khởi đầu tốt nhưng chưa phải đã hoàn thành:
Thành tựu ấn tượng của Việt Nam về giảm nghèo và những thách thức mới" của
Ngân hàng thế giới ngày 24/1/2013, cũng ghi nhận: Trong vòng 20 năm (19902010), tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm từ gần 60% xuống còn 20,7% với khoảng
hơn 30 triệu người thoát nghèo. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đạt được thành tựu
ấn tượng về giáo dục và y tế. Tỷ lệ nhập học ở bậc tiểu học của người nghèo là
trên 90% và ở bậc trung học cơ sở là 70%. Trình độ học vấn tăng và sự đa dạng
hóa các hoạt động phi nông nghiệp, cơ hội làm việc ở công trường, nhà máy...
cũng đóng góp tích cực cho công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam .
8


Không chỉ Ngân hàng thế giới mà nhiều nước và tổ chức quốc tế khác
cũng đánh giá cao, coi Việt Nam là "một điểm sáng thành công" trong xóa đói
giảm nghèo. Mới đây, tại Italia, Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO) đã
tổ chức "Công nhận thành tích nổi bật trong đấu tranh xóa đói giảm nghèo" cho
38 quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đồng thời, Việt Nam cũng nằm
trong nhóm 18 quốc gia được trao bằng khen chứng nhận việc sớm đạt được
Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ 1 (MDG 1) - hướng tới mục tiêu giảm một nửa
số người bị đói vào năm 2015”
[ />Có thể khẳng định rằng, công tác xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam là nỗ
lực chung của cả hệ thống chính trị, đúng đắn, hợp lòng dân, phù hợp với xu
hướng chung của thế giới. Mặc dù kinh tế đất nước còn không ít khó khăn nhưng
Đảng, Nhà nước luôn coi công tác giảm nghèo là một trong những mục tiêu quan
trọng. An sinh xã hội và giảm nghèo luôn là một trong những lĩnh vực ưu tiên
hàng đầu trong hoạt động của Chính phủ những năm qua. Những thành tựu có

được trong xóa đói giảm nghèo là nhờ nỗ lực chung của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của các doanh nghiệp, các cơ
quan, đoàn thể, tổ chức xã hội và các cá nhân.
9


Tỷ lệ đói nghèo ở nước ta đã giảm một cách tích cực. “Tính đến năm
2012, đã có 500 nghìn lượt hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở, 542 triệu lượt người
được hỗ trợ bảo hiểm xã hội. Điều kiện sống của người nghèo được cải thiện. Tỷ
lệ hộ nghèo và các huyện nghèo giảm nhanh, hoàn thành vượt mục tiêu Quốc hội
đề ra từ 14,2% (năm 2010) xuống còn 9,6% (năm 2012). Thông qua thực hiện
Chương trình 135 giai đoạn II, tỷ lệ hộ nghèo ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó
khăn giảm từ 47% (năm 2006) xuống còn 28,8% (năm 2010), thu nhập bình
quân đầu người là 4,2 triệu đồng/người/năm. Tỷ lệ các xã có đường giao thông
cho xe cơ giới từ trung tâm xã đến thôn, bản lên tới 80,7%. 2,2 triệu hộ được hỗ
trợ giống cây trồng, vật nuôi; xây dựng được 6.834 mô hình phát triển nông, lâm,
ngư nghiệp... Sau gần 4 năm thực hiện, tỷ lệ hộ nghèo ở 62 huyện nghèo theo
Nghị quyết 30a đã giảm từ 58,33% (năm 2010) xuống còn 43,89% (năm 2012),
bình quân giảm trên 7%/năm. Các địa phương đã hỗ trợ 1.340 lao động ở các
huyện nghèo đi xuất khẩu lao động, nâng tổng số lao động xuất khẩu lao động
qua gần 4 năm lên gần 8.500 người. Các địa phương còn tổ chức đào tạo nghề
cho hơn 10.000 lao động nghèo để tạo việc làm tại chỗ, ngoài địa bàn hoặc tham
gia xuất khẩu lao động. 225 nghìn hộ được vay vốn với tổng số tiền 1.122 tỷ
đồng với lãi suất ưu đãi để chăn nuôi gia cầm, gia súc, phát triển ngành nghề...”
[ />10


Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước không ngừng bổ sung, hoàn thiện
hệ thống chính sách về xóa đói giảm nghèo. Nhiều nghị quyết, chỉ thị, chiến
lược, quyết định, chính sách quan trọng về công tác xóa đói giảm nghèo đã được

ban hành để phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước. Các chương trình,
chính sách giảm nghèo đã huy động sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống
chính trị, toàn xã hội (các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội)
và sự vươn lên của chính người nghèo..., tạo nguồn lực to lớn cùng với nguồn
lực của Nhà nước thực hiện hiệu quả công tác có ý nghĩa xã hội sâu sắc này. Kết
quả tích cực của công cuộc xóa đói giảm nghèo đã góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội, an sinh xã hội cho người dân vùng
đặc biệt khó khăn.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện Chương trình giảm
nghèo bền vững vẫn còn những hạn chế, cần tập trung khắc phục: Tỷ lệ giảm
nghèo nhanh nhưng chưa bền vững, khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng,
nhóm dân cư chưa được thu hẹp, nhất là khu vực miền núi phía Bắc và Tây
Nguyên. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là do nhiều cơ chế, chính sách
được ban hành còn chồng chéo dẫn đến việc thực hiện phân bổ, hiệu quả sử dụng
các nguồn lực chưa cao; nhiều địa phương còn trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước mà
chưa tự lực vươn lên thoát nghèo. Bên cạnh đó, một số cơ chế, chính sách hiện
còn bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn nhưng việc sửa đổi, bổ sung còn chậm;
11


công tác tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức về giảm nghèo chưa được tổ
chức thường xuyên.
“Mục tiêu đến cuối năm 2013, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm (từ
9,6% xuống còn 7,6%); riêng tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân
5%/năm (từ 43,89% năm 2012 xuống còn 38,89% năm 2013); đến cuối năm
2015, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm xuống còn dưới 5% theo chuẩn nghèo hiện
hành; tỷ lệ nghèo các huyện còn dưới 30%”
[ />2- Vai trò của hệ thống chính trị đôi với công tác xóa đói giảm nghèo ở
nước ta hiện nay.
2.1- Quan điểm về công tác xóa đói giảm nghèo

Theo Nghị quyết về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững
đối với 61 huyện nghèo Số 30a/2008/NQ-CP:
Xóa đói giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước và
là sự nghiệp của toàn dân. Phải huy động nguồn lực của Nhà nước, của xã hội và
của người dân để khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của từng địa phương,
nhất là sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp để xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh
tế - xã hội bền vững. Cùng với sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng xã

12


hội, sự nỗ lực phấn đấu vươn lên thoát nghèo của người nghèo, hộ nghèo là nhân
tố quyết định thành công của công cuộc xóa đói giảm nghèo.
Công cuộc giảm nghèo nhanh, bền vững đối với các huyện nghèo là nhiệm
vụ chính trị trọng tâm hàng đầu, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy Đảng,
sự chỉ đạo sâu sát, cụ thể và đồng bộ của các cấp chính quyền, sự phối hợp tích
cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đồng thời, phải phát huy vai
trò làm chủ của người dân từ khâu xây dựng kế hoạch, đến tổ chức thực hiện,
giám sát, đánh giá hiệu quả của Chương trình.
Cùng với việc tiếp tục thực hiện các chính sách giảm nghèo chung trong
cả nước, Trung ương tập trung huy động các nguồn lực để đầu tư, hỗ trợ giảm
nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo. Căn cứ vào tinh thần của
Nghị quyết này, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chọn thêm một số
huyện nghèo khác trên địa bàn, nhất là các huyện có đồng bào dân tộc thiểu số
sống tập trung để huy động nguồn lực của địa phương đầu tư hỗ trợ các huyện
này giảm nghèo nhanh và phát triển bền vững.
Mục tiêu nhằm tạo sự chuyển biến nhanh hơn về đời sống vật chất, tinh
thần của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, bảo
đảm đến năm 2020 ngang bằng các huyện khác trong khu vực. Hỗ trợ phát triển
sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững, theo hướng sản xuất hàng hóa, khai thác tốt


13


các thế mạnh của địa phương. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù với
đặc điểm của từng huyện; chuyển đổi cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản
xuất có hiệu quả theo quy hoạch; xây dựng xã hội nông thôn ổn định, giàu bản
sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ;
bảo đảm vững chắc an ninh, quốc phòng.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2010 giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 40% (theo
chuẩn nghèo quy định tại Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 8 tháng 7 năm
2005); cơ bản không còn hộ dân ở nhà tạm; cơ bản hoàn thành việc giao đất, giao
rừng; trợ cấp lương thực cho người dân ở những nơi không có điều kiện tổ chức
sản xuất, khu vực giáp biên giới để bảo đảm đời sống. Tạo sự chuyển biến bước
đầu trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời
sống nhân dân trên cơ sở đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, bảo vệ và phát triển
rừng, đẩy mạnh một bước xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn;
tăng cường nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ khoa học – kỹ thuật, tạo bước đột
phá trong đào tạo nhân lực; triển khai một bước chương trình xây dựng nông
thôn mới; tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo, tập huấn, huấn luyện đạt trên
25%.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2015 giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức ngang
bằng mức trung bình của tỉnh. Tăng cường năng lực cho người dân và cộng đồng

14


để phát huy hiệu quả các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu được đầu tư, từng
bước phát huy lợi thế về địa lý, khai thác hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; bước
đầu phát triển sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô nhỏ và vừa, người

dân tiếp cận được các dịch vụ sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm một cách
thuận lợi; lao động nông nghiệp còn dưới 60% lao động xã hội; tỷ lệ lao động
nông thôn qua đào tạo, tập huấn, huấn luyện đạt trên 40%.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2020 giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức ngang
bằng mức trung bình của khu vực. Giải quyết cơ bản vấn đề sản xuất, việc làm,
thu nhập để nâng cao đời sống của dân cư ở các huyện nghèo gấp 5 – 6 lần so
với hiện nay. Lao động nông nghiệp còn khoảng 50% lao động xã hội, tỷ lệ lao
động nông thôn qua đào tạo, tập huấn, huấn luyện đạt trên 50%; số xã đạt tiêu
chuẩn nông thôn mới khoảng 50%. Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn, trước hết là hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới tiêu chủ động cho
toàn bộ diện tích đất lúa có thể trồng 2 vụ, mở rộng diện tích tưới cho rau màu,
cây công nghiệp; bảo đảm giao thông thông suốt 4 mùa tới hầu hết các xã và cơ
bản có đường ô tô tới các thôn, bản đã được quy hoạch; cung cấp điện sinh hoạt
cho hầu hết dân cư; bảo đảm cơ bản điều kiện học tập; chữa bệnh, sinh hoạt văn
hóa, tinh thần, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
2.2 – Vai trò của hệ thống chính trị với công tác xóa đói giảm nghèo

15


2.2.1 – Đảng và Nhà nước
Trong lãnh đạo đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã kiên trì đề ra và chỉ đạo
thực hiện nhiều chủ trương, chính sách giúp người dân phát triển kinh tế, cải
thiện cuộc sống, vươn lên xóa đói, giảm nghèo. Từ Đại hội VII (năm 1991), xóa
đói, giảm nghèo đã trở thành Chương trình mục tiêu quốc gia, đặc biệt Nghị
quyết Trung ương 5 (khoá VII) đã đặt ra nhiệm vụ ưu tiên xóa đói, giảm nghèo
cho các hộ gia đình "vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng trước
đây là căn cứ cách mạng"
Giảm nghèo toàn diện và bền vững luôn được xác định là ưu tiên hàng đầu
trong đường lối, chính sách phát triển của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020 được Đại hội Đảng Cộng sản Việt

Nam lần thứ XI thông qua tháng 1/2011 với mục tiêu tổng quát: Phấn đấu đến
năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt, tạo tiền đề vững chắc để
phát triển cao hơn trong giai đoạn sau. Do đó, các chương trình và chính sách
giảm nghèo của Chính phủ đã được xây dựng tập trung trên ba chiến lược chính:
Thúc đẩy các hoạt động sản xuất và sinh kế để tăng thu nhập cho người
nghèo, tăng cường khả năng tiếp cận của người nghèo đến các dịch vụ xã hội,
tăng cường năng lực và nâng cao nhận thức của người dân.

16


Những chiến lược này được hiện thực hóa bằng các chương trình quốc gia
hỗ trợ giảm nghèo và phát triển xã hội, trong đó tập trung vào 5 nhóm chính
sách: Tín dụng, phát triển sản xuất nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, giáo dục và y tế.
Nhờ đó, người nghèo được tiếp cận với các nguồn lực (vốn, đất sản xuất, công
nghệ, thị trường) và các dịch vụ xã hội cơ bản.
Tính đến năm 2010, có hơn 77% người nghèo được hưởng lợi từ các
chương trình và chính sách hỗ trợ của Chính phủ, cho thấy mức độ phổ cập
chính sách rộng khắp trên cả nước.
2.2.2- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Với vai trò là trung tâm đoàn kết, tập hợp các lực lượng, Mặt trận Tổ quốc
các cấp đã giúp các địa phương thực hiện hoàn thành nhiều phong trào, mục tiêu
quan trọng, góp phần phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo.
Mặt trận Tổ quốc là tổ chức đoàn thể, cầu nối giữa Đảng với quần chúng
nhân dân đã phát huy có hiệu quả vai trò của mình, góp phần tích cực vào
chương trình “Xóa đói giảm nghèo” và đảm bảo an sinh xã hội. Ủy Ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì, phối hợp với các tổ chức thành viên chỉ
đạo các cấp hội cơ sở tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận động hội viên và
toàn dân hưởng ứng, tham gia các cuộc vận động hỗ trợ giúp đỡ các huyện

nghèo, giảm nghèo nhanh và bền vững như phong trào ngày vì người nghèo,

17


phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư …, xây dựng nông
thôn mới; động viên, khích lệ tính tự chủ của người dân vươn lên thoát nghèo.
2.3 – Tổ chức thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo
2.3.1 – Các Bộ, Cơ quan Trung ương
1. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan thường trực các
Chương trình giảm nghèo, chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan tổ chức thực
hiện, theo dõi, đánh giá hiệu quả của Chương trình; xây dựng đề án xuất khẩu
lao động; trình, ban hành chính sách hỗ trợ học nghề và xuất khẩu lao động ở các
huyện nghèo; chỉ đạo ưu tiên đầu tư các cơ sở dạy nghề, tổ chức đào tạo nghề
gắn với việc làm và xuất khẩu lao động.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: chủ trì, phối hợp với Ban Chỉ đạo thực hiện các
Chương trình giảm nghèo thành lập các tổ công tác liên ngành để thẩm tra các đề
án của 61 huyện nghèo trong quý I năm 2009; chủ trì, phối hợp với các Bộ liên
quan nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về đầu tư, đấu thầu
phù hợp với đặc thù và năng lực tổ chức thực hiện ở các huyện nghèo; chủ trì,
phối hợp với Bộ Tài chính cân đối vốn đầu tư phát triển hàng năm cho các huyện
nghèo.
3. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội và các Bộ liên quan phân bổ vốn sự nghiệp cho

18


các huyện nghèo; nghiên cứu, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan sửa đổi cơ
chế tài chính phù hợp với tình hình đặc thù và năng lực tổ chức thực hiện ở các

huyện nghèo.
4. Ủy ban Dân tộc chủ trì, chỉ đạo, triển khai tổ chức thực hiện và xây
dựng, sửa đổi, bổ sung các chính sách hiện hành theo hướng nâng cao định mức
các chương trình, chính sách dân tộc hiện có (Chương trình 135, trung tâm cụm
xã, Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg, Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg, Quyết
định số 33/2007/QĐ-TTg, chính sách trợ giá trợ cước và Đề án phát triển nguồn
nhân lực vùng đồng bào dân tộc thiểu số) đồng thời bổ sung thêm cơ chế, chính
sách đặc thù cho 61 huyện nghèo trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ
liên quan chỉ đạo, hướng dẫn việc quy hoạch sản xuất ở các huyện nghèo; quy
hoạch bố trí dân cư; chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất trên địa bàn các huyện
nghèo; hướng dẫn thực hiện các cơ chế, chính sách đã có, nhất là các chính sách
về sản xuất nông, lâm, ngư kết hợp.
6. Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Y tế và các địa
phương liên quan tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cho y, bác sĩ, cán bộ y tế cơ sở cho các xã thuộc huyện nghèo, xây
dựng trạm xá quân dân y kết hợp; phối hợp với Trung ương Đoàn Thanh niên

19


Cộng sản Hồ Chí Minh vận động thanh niên, trí thức trẻ tình nguyện đến công
tác tại các xã thuộc huyện nghèo, các khu kinh tế - quốc phòng, để tạo nguồn cán
bộ cho địa phương; chỉ đạo lực lượng Bộ đội Biên phòng, các đoàn kinh tế quốc
phòng, các lực lượng an ninh tham gia xây dựng các công trình hạ tầng; xây
dựng trường nghề để đào tạo nghề đối với bộ đội xuất ngũ và lao động của địa
phương; tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, giúp dân xây dựng nếp sống
mới, bảo đảm an ninh trật tự và an toàn xã hội trên địa bàn.
7. Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các Bộ nghiên cứu, sửa đổi pháp luật
về xây dựng phù hợp với đặc thù và năng lực tổ chức thực hiện ở các huyện

nghèo; cùng với Ủy ban Trung ương Mặt trật Tổ quốc Việt Nam chỉ đạo, hướng
dẫn, bố trí vốn giải quyết cơ bản nhu cầu nhà ở cho hộ nghèo, đồng bào dân tộc
thiểu số từ nay đến năm 2010 trên địa bàn các huyện nghèo.
8. Bộ Giao thông vận tải rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy định quy hoạch
phát triển giao thông trên địa bàn các huyện; ưu tiên bố trí nguồn vốn để đầu tư
các tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ và đường giao thông đến trung tâm xã phục vụ
phát triển kinh tế và đời sống trên địa bàn các huyện nghèo.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan trình,
ban hành chính sách ưu đãi đối với giáo viên, học sinh; chỉ đạo ưu tiên bố trí

20


nguồn vốn trái phiếu Chính phủ để đến năm 2010 cơ bản hoàn thành đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất các trường học đạt tiêu chuẩn.
10. Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan trình, ban hành chính
sách ưu đãi về y tế; chỉ đạo bố trí nguồn vốn trái phiếu Chính phủ để đến năm
2010 hoàn thành dự án đầu tư xây dựng bệnh viện huyện và bệnh viện đa khoa
khu vực, các trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia; tăng cường chỉ đạo công tác dân số
và kế hoạch hóa gia đình để nâng cao chất lượng dân số.
11. Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan trình, ban hành chính
sách luân chuyển, tăng cường cán bộ chủ chốt cho các xã thuộc huyện nghèo;
chính sách ưu đãi, khuyến khích thu hút trí thức trẻ, cán bộ chuyên môn kỹ thuật
về làm việc tại các xã của các huyện nghèo.
12. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và
các Bộ liên quan trình, ban hành chính sách tín dụng ưu đãi đối với các hộ
nghèo, hộ sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại đầu tư
phát triển sản xuất, kinh doanh trên các địa bàn huyện nghèo.
13. Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan trình, ban
hành chính sách khuyến công, chính sách thu hút đầu tư phát triển các ngành

công nghiệp và hướng dẫn xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu sản phẩm
của các huyện nghèo.

21


14. Bộ Khoa học và Công nghệ đề xuất các cơ chế, chính sách chuyển
giao công nghệ, nghiên cứu phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có hiệu quả,
phù hợp với điều kiện đặc thù của từng địa phương.
15. Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan trình, ban hành
chính sách hỗ trợ pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số nhằm nâng
cao nhận thức, hiểu biết pháp luật.
2.3.2- Các địa phương
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh có huyện nghèo, căn cứ Nghị quyết
về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo
Số 30a/2008/NQ-CP tổ chức phê duyệt Đề án của các huyện nghèo; chịu trách
nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của
Chương trình, bố trí đủ vốn đầu tư cho các huyện nghèo trong tổng mức vốn
được phê duyệt; chỉ đạo xây dựng và phê duyệt kế hoạch hàng năm của các
huyện nghèo; hàng năm tổ chức giám sát, đánh giá kết quả thực hiện, gửi Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội tổng hợp báo cáo Chính phủ.
2. Ủy ban nhân dân các huyện nghèo căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ, cơ
chế chính sách, định mức, tiêu chuẩn của Nhà nước để xây dựng Đề án hỗ trợ
giảm nghèo bền vững trên địa bàn trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; chỉ đạo
xây dựng kế hoạch hàng năm, tổng hợp nhu cầu từ dưới lên, sắp xếp theo thứ tự

22


ưu tiên, trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt; chỉ đạo và phê duyệt kế hoạch

hàng năm của cấp xã; thành lập Ban Chỉ đạo của huyện (gồm lãnh đạo cấp ủy,
chính quyền, đại diện các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp) để chỉ đạo tổ chức
thực hiện Đề án.
3. Ủy ban nhân dân các xã xây dựng kế hoạch hàng năm có sự tham gia
của người dân trình Ủy ban nhân dân huyện phê duyệt và tổ chức thực hiện.
[Nghị quyết Về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối
với 61 huyện nghèo
/>ItemID=12476]
2.3.3- Các hoạt động của chương trình xóa đói giảm nghèo
*Chính sách ưu đãi tín dụng cho người nghèo:
- Mục tiêu: cung cấp tín dụng ưu đãi cho các hộ nghèo(3,5-4 triệu hộ) có
nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh với lãi suát thấp, không phải thế chấp cho
ngân hàng.
- Nội dung: đưa tổng vốn vay của ngân hàng phục vụ người nghèo lên
10000 tỷ đồng vào năm 2005(chủ yếu là huy động cộng đồng và vay các tổ chức
tín dụng ngân hàng, Nhà nước cấp bù lãi suất chênh lệch huy động và cho vay
750 tỷ đồng trong 5 năm) và cho khoảng 5 triệu lượt hộ vay với mức bình quân

23


từ 2-3 triệu/hộ. Đảm bảo vốn vay đúng đối tượng, sử dụng đúng mục đích, hiệu
quả và tài chính lành mạnh.
* Chính sách hỗ trợ người nghèo về ytế.
- Mục tiêu: trợ giúp người nghèo trong khám chữa bệnh bàng các hình
thức nhu mua thẻ BHYT, cấp thẻ và giấy chứng nhận khám chữa bệnh miễn phí,
khám chữa bệnh từ thiện nhân đạo... Chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người
nghèo.
- Nội dung:
+ Cung cấp trang thiết bị, cung ứng thuốc cho tuyến ytế cơ sở ở các huyện

nghèo, khuyến khích và tăng cường cán bộ ytế cơ sở để nâng cao chất lượng
phục vụ.
+ Bảo đảm tài chính để hỗ trợ khám chữa bệnh cho người nghèo thông qua
điều chỉnh, phân bố ngân sách ytế giữa các tỉnh, điều tiết và điều chỉnh các mức
thu viện phí giữa người giàu, người có khả năng kinh tế ,người nghèo...
+ Huy động cộng đồng trong việc xây dựng quỹ khám chữa bệnh cho
người nghèo, quỹ bảo trợ người nghèo, bữa ăn nhân đạo, khám chữa bệnh nhân
đạo, khuyến khích các đội ytế lưu động phục vụ vùng cao, vùng sâu, biên giới
hải đảo, xác định trách nhiệm của người nghèo trong phòng bệnh, tự bảo vệ
chăm lo sức khoẻ và chia sẻ một phần kinh phí trong khám chữa bệnh.

24


* Chính sách hỗ trợ người nghèo về giáo dục
- Mục tiêu: Bảo đảm cho con em tất cả các hộ nghèo có các điều kiện cần
thiết trong học tập. Giảm sự chênh lệch về môi trường trong học tập và sinh hoạt
trong các nhà trường ở thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa
vùng khó khăn với vùng có điều kiện phát triển.
- Nội dung:
+ Miễn giảm học phí và các khoản đòng góp xây dựng trường, lớp, hỗ trợ
vở viết sách giáo khoa, cấp học bổng cho học sinh tiểu học loại quá nghèo,
khuyến khích học sinh nghèo học khá, học giỏi băng các giải thưởng, học bổng
và các chế độ ưu đãi khác.
+ Tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường
dân tộc nội trú để đào tạo các cán bộ cho các xã đặc biệt khó khăn.
+ Khuyến khích các tổ chức, cá nhân tình nguyện tham gia giúp người
nghèo nâng cao trình độ học vấn, tổ chức các hình thức giáo dục phù hợp để xoá
mù chữ và ngăn chặn tình trạng tái mù như các lớp bổ túc văn hoá, lớp học tình
thương, lớp học chuyên biệt.

* Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn.
- Mục tiêu: Hỗ trợ các gia đình đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn có số
dân nhỏ hơn 10000 người nhằm ổn định cuộc sống, hỗ trợ phát triển sản xuất,

25


×