Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

tiểu luận cao học công tác xã hội đối với người mắc bệnh tâm thần hiên nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.2 KB, 21 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: CÔNG TÁC XÃ HỘI VÀ AN SINH XÃ HỘI
Đề tài:
CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI MẮC BỆNH TÂM THẦN HIÊN
NAY


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sức khoẻ cho mọi người là mục tiêu lớn, mục tiêu chiến lược của tổ
chức y tế thế giới (WHO), của nhiều quốc gia phát triển và của cả ngành y tế
nước ta và cũng là thước đo chung của mọi xã hội văn minh, nhân bản.
Không thể chia cắt sức khoẻ thể chất với sức khoẻ tâm thần xã hội và
ngày càng phải khẳng định vai trò quan trọng của sức khoẻ tâm thần trong
một nỗ lực chung để nâng cao chất lượng sống cho mọi người trong một xã
hội phát triển
Chính vì vậy, đối tượng của tâm thần học ngày nay không chỉ đóng
khung trong khuôn khổ bốn bức tường của bệnh viện - chỉ tập trung vào
những người bệnh tâm thần nặng như người bệnh tâm thần phân liệt, rối loạn
cảm xúc lưỡng cực, sa sút trí tuệ,… thuộc phạm vi tâm thần học truyền thống.
Mà tâm thần học hiện đại đang phải bươn trải để phấn đấu vì sức khoẻ toàn
diện cả thể chất và tâm thần - vì sự thoải mái cho tất cả mọi người sống trong
cộng đồng
Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết của vấn đề kinh te
cuar viet nam trong quá trình hội nhập và phát triển và ảnh hưởng của nó tới
quản lý xã hội tác giả chọn vấn đề “Công tác xã hội đối với người mắc bệnh
tâm thần hiên nay” làm tiểu luận.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của tiểu luận
2.1 Mục đích
Phân tích cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng công tác xã hội đối với
người mắc bệnh tâm thần ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất luận chứng các


quan điểm phương hướng và giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả công
tác xã hội đối với người mắc bệnh tâm thần ở Việt Nam hiện nay

2


2.2 Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên khóa luận có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề chung về công tác xã hội đối với người mắc
bệnh tâm thần ở Việt Nam hiện nay
- Phân tích những yếu tố ảnh hưởng và thực trạng công tác xã hội đối
với người mắc bệnh tâm thần ở Việt Nam hiện nay
- Phân tích phương hướng và đề xuất những giải pháp nhằm tiếp tục
nâng cao hiệu quả công tác xã hội đối với người mắc bệnh tâm thần ở Việt
Nam hiện nay.
3. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của khóa luận gồm 3 chương
Chương 1: Những vấn đề chung về công tác xã hội đối với người mắc
bệnh tâm thần ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Những yếu tố ảnh hưởng và thực trạng công tác xã hội đối
với người mắc bệnh tâm thần ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Giải pháp nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả công tác xã hội
đối với người mắc bệnh tâm thần ở Việt Nam hiện nay.

3


NỘI DUNG
Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI
MẮC BỆNH TÂM THẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1 Khái niệm bệnh tâm thần
Bệnh tâm thần (còn gọi là tâm bệnh) chưa phát hiện được tổn thương
đặc hiệu về mặt hình thái của hệ thần kinh mà chỉ phát hiện được những biến
đổi tinh vi về mặt sinh hóa, miễn dịch, di truyền…… Ða số các dấu hiệu bệnh
là do rối loạn chức năng của não. Phần lớn bệnh nhân có thể ăn khỏe, chơi
khỏe, đi đứng bình thường nhưng có ý nghĩ, cảm xúc, hành vi không phù hợp,
kỳ dị, khó hiểu. Bệnh nhân tâm thần thường không nhận thấy mình bị bệnh, từ
chối điều trị tại chuyên khoa tâm thần
Bệnh nhân thần kinh có nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra làm tổn
thương thực thể tại các phần khác nhau của hệ thần kinh như não bộ, tủy
sống, dây thần kinh ngoại vi gây rối loạn chủ yếu chức năng tiếp thu và thực
hiện của con người. Người bệnh ít có các hành vi kỳ dị, ý nghĩ bất bình
thường nhưng có thể tê liệt nửa người, khó khăn đi đứng, ăn nói, điếc,
mù….). Đa số bệnh nhân còn ý thức được bệnh của mình
1.2 Các bệnh tâm thần thường gặp
1.2.1 Bệnh tâm thần phân liệt
Các rối loạn phân liệt có đặc điểm chung là rối loạn cơ bản và đặc
trưng về tư duy, tri giác và cảm xúc không thích hợp hay cùn mòn, ý thức còn
rõ ràng và năng lực trí tuệ thường được tư duy.
Bệnh nhân thường cảm thấy ý nghĩ của mình hình như bị người khác
biết hay lấy bớt, hay ý nghĩ của mình vang thành tiếng hay bị bị phát thanh.
Cảm thấy có sức mạnh tự nhiên hay siêu nhiên đang hoạt động làm ảnh hưởng

4


đến ý nghĩ, cảm xúc hay hành vi của mình. Tri giác thường bị rối loạn theo
những cách khác nhau, thường có những ảo thanh bình luận về bệnh nhân. Nét

đặc trưng của cảm xúc là nông cạn, thất thường hay không thích hợp. Trong
một số trường hợp tư duy trở nên gián đoạn hay thêm từ khi nói hoặc lời nói
không thích hợp. Tác phong có thể trở nên rối loạn trầm trọng, kích động hay
sững sờ giữ nguyên tư thế, tập tính cá nhân có thể biến đổi, trở nên mất thích
thú, thiếu mục đích, lười nhác và cách ly xã hội. Bệnh thường gặp ở lứa tuổi 18
đến 30, tỷ lệ mắc bệnh từ 0,5% đến 1% dân số. Điều trị chủ yếu bằng các thuốc
an thần kinh phối hợp với liệu pháp lao động thích ứng xã hội.
1.2.2 Bệnh động kinh
Bệnh động kinh được xếp vào bảng phân loại chuyên khoa thần kinh,
nhưng ở nước ta do ngành tâm thần quản lý và điều trị ngoại trú.
Đây là bệnh mãn tính, có nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc trưng là sự
lặp đi lặp lại các cơn co giật do sự phóng điện quá mức của các tế bào thần
kinh não bộ. Bệnh cảnh lâm sàng đa dạng và có 2 đặc điểm sau:
- Tính chất phát sinh đột ngột, cơn.
- Các triệu chứng bệnh lý man tính và nặng dần.

Có nhiều thể lâm sàng của bệnh động kinh. Đặc điểm lâm sàng chủ yếu
của động kinh thái dương (động kinh tâm thần) là rối loạn tâm thần xuất hiện
đột ngột, trong cơn thường có rối loạn ý thức, thường có những hành vi nguy
hiểm như giết người trong cơn chạy thẳng. Rố loạn tồn tại trong thời gian
ngắn và sau đó mất đi đột ngột, sau cơn quên tất cả sự việc xảy ra trong cơn.
Tỷ lệ mắc bệnh động kinh từ 0,4 - 0,5% dân số, thường bắt đầu ở
lứa tuổi lớn hơn 20tuổi. Phương pháp cận lâm sàng phát hiện động kinh là ghi
điện não có sóng động kinh. Điều trị chủ yếu bằng các thuốc kháng động
kinh. Đối với động kinh tâm thần cần phối hợp thuốc kháng động kinh với các
thuốc an thần kinh.

5



1.2.3 Bệnh hoang tưởng
Hoang tưởng là một triệu chứng của rối loạn tư duy, là triệu chứng chủ
yếu trong các bệnh loạn thần. Hoang tưởng là những ý tưởng, phán đoán sai
lầm, không phù hợp với thực tế, do bệnh nhân tâm thần gây ra, nhưng bệnh
nhân tâm thần cho là hoàn toàn chính xác, không thể giải thích và đả thông
được. Hoang tưởng chỉ mât đi khi bệnh nhân khỏi bệnh hay thuyên giảm.
Hoang tưởng được chia làm 2 loại chính: hoang tưởng suy đoán và
hoang tưởng cảm thụ.
- Hoang tưởng suy đoán được xây dựng thuần túy theo logic lệch lạc của bệnh

nhân, biểu hiện sự rối loạn trong việc phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật và
hiện tượng, đồng thời cũng biểu hiện khuynh hướng tưởng tượng, sự mơ ước
hay tư duy chưa trưởng thành của bệnh nhân. Thường là những hoang tưởng
dai dẳng, phát triển thành hệ thống và làm biến đổi nhân cash một cách sâu
sắc. Bao gồm các hoang tưởng bị hại, bị chi phối, ghen tuông, tự buộc tội,
nghi bệnh, tự cao, phát sinh….
Hoang tưởng cảm thụ thường xuất hiện sau các rối loạn của tri giác,
của cảm xúc hay ý thức. Bệnh nhân không có logic lệch lạc, mà chỉ có
những ý thức rời rạckhông kế tục, cảm xúc căng thẳng, bàng hoàng, ngơ
ngác, nhân cách của bệnh nhân không bị hoang tưởng làm biến đổi nhiều. Bao
gồm các hoang tưởng nhận nhầm, gán ý, đóng kịch, kỳ quái….Điều trị chủ
yếu bằng các thuốc an thần kinh.
1.2.4 Bệnh trầm cảm
Trầm cảm là một hội chứng rối loạn cảm xúc ngược lại với hưng cảm.
Hộ chứng trầm cảm điển hình gồm 3 thành phần chủ yếu, biểu hiện quá trình
ức chế toàn bộ tâm thần.
- Cảm xúc bị ức chế: khí sắc giảm, bệnh nhân buồn rầu, ủ rũ, mất thích thú cũ,

bi quan về tiền đồ. Nét mặt trở nên cau có, đôi khi nước mắt lưng tròng, thở


6


dài và tăng sự mệt mỏi.
- Tư duy bị ức chế: bệnh nhân suy nghĩ chậm chạp, liên tuworng khó khăn,

thiếu tự tin cho minhg là hèn kém. Trường hợp nặng có hoang tưởng tự buộc
tội đưa đến ý tưởng và hành vi tự sát.
- Vận động bị ức chế: bệnh nhân ít đi lại, ít nói, ăn uống kém, thường hay ngồi

lâu trong một tư thế, có thể có hiện tượng bất động sững sờ. Đôi lúc trở nên
lăn lộn, vật vã, khóc lóc……
Hội chứng trầm cảm có thể gặp trong nhiều bệnh tâm thần khác nhau.
Trầm cảm là một hội chứng cần theo dõi chặt chẽ và cấp cứu, đặc biệt đối với
trầm cảm có ý tưởng và hành vi tự sát Điều trị trầm cảm chủ yếu bằng các
thuốc chống trầm cảm, trong trường hợp trầm cảm nặng có thể sốc điện.
1.2.5 Các bệnh tâm thần trẻ em
Tâm thần học trẻ em là một phân môn trong tâm thần học, có liên quan
nhiều đến thần kinh, sinh lý, di truyền và giáo dục học. Ngành tâm thần học
trẻ em có nhiệm vụ nghiên cứu các bệnh tâm thần của trẻ em từ lúc sơ sinh
cho đến 15 tuổi để phòng và chữa bệnh này.
- Thông thường có 3 nguyên chính gây ra các bệnh tâm thần của trẻ em:

+ Do tổn thương não trước, trong và sau khi sanh.
+ Do tác nhân xã hội (giáo dục không đúng, môi trường xã hội không
lành mạnh..)
+ Yếu tố di truyền.
- Các bệnh tâm thần trẻ em bao gồm nhiều loại mà chủ yếu là:

+ Bệnh tâm căn trẻ em.

+ Động kinh và các cơn co giật của trẻ em.
+ Chậm phát triển tâm thần.

7


+ Các bệnh tâm thần nội sinh…..
1.2.6 Chậm phát triển tâm thần
Chậm phát triển tâm thần là một nhóm trạng thái bệnh lý có bệnh
nguyên và bệnh sinh khác nhau, nhưng được thống nhất lại là vì bệnh cảnh
lâm sàng cơ bản giống nhau: thiểu năng lực trí tuệ, thường có tính chất bẩm
sinh hoặc xuất hiện trong những năm đầu sau khi sanh, khi trí tuệ chưa trưởng
thành. Khả năng nhận thức rất yếu hay không có, thường kèm theo dị dạng cơ
thể, nội tạng, trí nhớ, hiểu biết kém, thường có những động tác vô nghĩa và dễ
bị lợi dụng. Chậm phát triển tâm thần không chữa khỏi được, bằng giáo dục
đặc biệt, huấn luyện, lao động có thể cải thiện được phần nào.

8


Chương 2
THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI MẮC
BỆNH TÂM THẦN Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

2.1 Thực trạng công tác xã hội đối với người mắc bệnh tâm thân ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Trên thế giới hiện nay, số người mắc các chứng bệnh về tâm thần tăng
lên liên tục, bởi những áp lực từ môi trường sống mang lại. Việt Nam cũng
không nằm ngoài tình trạng chung đó.
Kết quả điều tra quốc gia năm 1999-2000 cho thấy tỷ lệ mắc 10 bệnh

tâm thần phổ biến là 15%. Trong năm 2003 nghiên cứu “Những cuộc đời trẻ
thơ” cho thấy tỷ lệ rối loạn tâm thần ở học sinh tiểu học là 20% và tỷ lệ ở bà
mẹ đang cho con bú (6-18 tháng) cũng là 20%.
Theo thống kê năm 2009 của Viện Sức khỏe Tâm thần Trung ương, tỉ lệ
người Việt Nam có nguy cơ bị bệnh tâm thần một lần trong đời là 15%-20%
dân số và đa số đã chữa khỏi hay ổn định.
Theo số liệu điều tra từ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội năm
2010 cho biết tỷ lệ người mắc các chứng bệnh tâm thần so với dân số chung
của cả nước như sau:
Chứng bệnh tâm thần

%

Tâm thần phân liệt

0,47

Động kinh

0,33

Rối loạn trầm cảm

2,8

Chậm phát triển trí tuệ

0,63

Lo âu


2,7

Mất trí tuổi già

0,9

Rối loạn hành vi ở thanh thiếu niên

0,9

Chấn thương sọ não

0,51
9


Lạm dụng rượu

5,3

Nghiện ma túy

0,3

Những con số trên cho chúng ta thấy phần nào về thực trạng bệnh tâm
thần ở Việt Nam hiện nay. Trên thực tế, còn rất nhiều các chứng bệnh tâm
thần đa dạng khác mà con người mắc phải. Song do nhận thức của người dân
về bệnh tâm thần còn nhiều hạn chế, nên việc phát hiện và điều trị kịp thời
chưa được tốt. Hoặc người dân quá coi nhẹ những triệu chứng tâm thần, họ

cho đó là “bình thường”. Hoặc ngược lại, với những bệnh nhân tâm thần phân
liệt, cộng đồng lại có một cái nhìn kỳ thị, xa lánh và cho rằng những người
như vậy “không bình thường”, là mối nguy hiểm cho mọi người xung quanh.
Từ cách nhìn nhận về bệnh và người bệnh như vậy, sẽ dẫn đến hành vi
chưa đúng trong chữa bệnh cũng như trong ứng xử với người bệnh. Điều trị
bệnh tâm thần cần đến thời gian dài. Điều này liên quan đến vấn đề kinh tế
của gia đình. Không phải tất cả các gia đình bệnh nhân tâm thần đều có khả
năng chi trả cho quá trình điều trị của người bệnh. Vì vậy, nhiều gia đình để
bệnh nhân đi lang thang, hoặc nhốt lại trong nhà.
Áp lực cuộc sống và xã hội ngày càng tăng lên. Bệnh tâm thần không
loại trừ ai, từ những người dân lao động tay chân cho đến trí thức; những
người ở các độ tuổi, vùng miền khác nhau đều có nguy cơ mắc bệnh. Con số
bệnh nhân và các chứng bệnh cũng ngày càng đa dạng. Có thể thấy, nhu cầu
chăm sóc và phục hồi chức năng cho người bệnh tâm thần được đặt ra như
một thách thức đối với cộng đồng và nhà nước.
2.2 Những hạn chế và nguyên nhân
Hiện nay, công tác chăm sóc người bệnh tâm thần đang ngày càng trở
thành một thách thức lớn và là gánh nặng đối với gia đình, cộng đồng và toàn
xã hội. Do đó, việc phục hồi chức năng (PHCN) cho người bệnh tâm thần là
vấn đề cần thiết, rất cần sự chung tay của toàn xã hội.
10


Theo thống kê từ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho biết: hiện
nay cả nước có khoảng 17 trung tâm điều dưỡng, phục hồi chức năng cho
người bệnh tâm thần tại 15 tỉnh/thành và một số cơ sở bảo trợ xã hội tổng hợp
khác. Có khoảng hơn 6000 người bệnh tâm thần ở mức nặng đang được điều
trị và phục hồi trong những trung tâm này.
Mặc dù vậy, nguồn lực trên vẫn chưa thể đáp ứng được hết nhu cầu của
người bệnh. Trên thực tế vẫn còn nhiều người tâm thần chưa được điều trị

đúng cách. Số người tâm thần nặng có xu hướng nặng hơn, đời sống gia đình
khó khăn, họ không có khả năng đến điều trị lâu dài. Bên cạnh đó, các cơ sở
điều trị tập trung cũng đang có nguy cơ quá tải, hệ thống trang thiết bị và đội
ngũ nhân lực hiện tại cơ bản vẫn còn thiếu và chưa đủ mạnh. Chưa hề có đội
ngũ Nhân viên xã hội tham gia trong hoạt động điều trị và phục hồi chức năng
cho bệnh nhân. Cũng theo số liệu điều tra người tâm thần năm 2010 của Bộ,
có tới 60.000 người tâm thần đi lang thang; 94.000 người có hành vi nguy
hiểm đến cộng đồng. Nhiều trường hợp người tâm thần đánh trọng thương
người thân, người lân cận, thậm chí là những vụ án mạng nghiêm trọng.
Chúng ta biết rằng, với những người bệnh tâm thần nặng, họ không thể tự ý
thức và kiểm soát được hành vi của mình. Do vậy cần có những can thiệp
điều trị kịp thời. Số người không có hành vi nguy hiểm, đang sống tại gia đình
có khoảng 40.000 người.
Đối với những cơ sở bảo trợ xã hội đang nuôi dưỡng, chăm sóc và phục
hồi chức năng cho người bệnh tâm thần, do điều kiện nguồn nhân lực cũng
như tài chính, vật chất còn những hạn chế nhất định. Chẳng hạn: diện tích của
các cơ sở khá còn nhỏ, không có diện tích đất để người bệnh lao động phục
hồi; không có khu thể thao; rất ít cán bộ có kỹ năng trị liệu, phục hồi chức
năng cho người tâm thần; thiếu nguồn kinh phí, trang thiết bị. Đặc biệt các cơ
sở này chưa có bộ phận Công tác xã hội phụ trách trợ giúp hòa nhập cộng
đồng cho người bệnh.
11


Hiện nay, người bệnh tâm thần vẫn phải chịu sự phân biệt, đối xử trong
đời sống và điều trị. Sau khi thực hiện điều trị ở các cơ sở y tế, nhiều bệnh
nhân được trở về với gia đình. Sự nỗ lực của người thân và cộng đồng sẽ giúp
họ hòa nhập tốt hơn với xã hội.

12



Chương 3
GIẢI PHÁP NHẰM NĂNG CAO HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƯỜI TÂM THẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Thứ nhất: Tăng cường sự tham gia của Nhân viên xã hội trong phục hồi
chức năng cho bệnh nhân tâm thần dựa vào cộng đồng.
Một trong những lĩnh vực của Công tác xã hội sức khỏe là sức khỏe
tâm thần. Và Nhân viên xã hội là một thành viên quan trọng trong đội ngũ cán
bộ thực hiện nhiệm vụ điều trị và phục hồi chức năng cho bệnh nhân tâm thần
tại cộng đồng. Những vai trò chính Nhân viên xã hội đảm nhiệm trải các giai
đoạn: Nhân viên xã hội sàng lọc, đánh giá và phân loại đối tượng ở tuyến cơ
sở. Tiến hành can thiệp sớm cho đối tượng, Tham vấn, tư vấn cho gia đình
người bệnh trong cách chăm sóc người bệnh. Đồng thời cũng là người hỗ trợ
tâm lý cho những người chăm sóc bệnh nhân. Nhân viên xã hội phụ trách
quản lý trường hợp, kết hợp trị liệu, phục hồi chức năng tại nhà cho người
bệnh. Trợ giúp họ tiếp cận với các dịch vụ phúc lợi xã hội. Tư vấn, khuyến
nghị phát triển chính sách trợ giúp, xây dựng các dự án can thiệp cho các đối
tượng ở tại từng địa phương.
Để thực hiện được tốt những nhiệm vụ này, Nhân viên xã hội cần được
đào tạo một cách bài bản, khoa học. Nhân viên xã hội không chỉ nắm chắc
kiến thức chuyên môn, ngoài ra họ cần nắm được tình hình thực tế tại địa
phương về tình trạng sức khỏe tâm thần của người dân, hay tình trạng bệnh
nhân ở tại cơ sở mình phụ trách. Để có thể làm việc được trong lĩnh vực này,
bên cạnh tất cả các yếu tố trên, điều cơ bản Nhân viên xã hội cần có cái “tâm”
đối với nghề, lòng trắc ẩn với người bệnh. Đó cũng là yêu cầu đối với Nhân
viên xã hội nói chung.

13



Thứ hai: Xã hội hóa trong việc chăm sóc sức khỏe cho người bị bệnh
tâm thần.
Ngay từ đầu đưa ra chương trình xã hội hóa, mục tiêu xã hội hóa là
nhằm phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã
hội tham gia bảo vệ chăm sóc nâng cao sức khỏe nhân dân. Đồng thời Nhà
nước tiếp tục tăng nguồn lực đầu tư cho y tế.
Theo đó, tạo điều kiện để toàn xã hội được tiếp cận và sử dụng các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe ở mức độ ngày càng cao. Khuyến khích các cá nhân,
tập thể, tổ chức trong nước và nước ngoài hoạt động từ thiện, viện trợ, cung
cấp, hỗ trợ các thiết bị y tế, đầu tư trang thiết bị y tế kỹ thuật cao. Mục tiêu
đầu tư là phục vụ sự nghiệp bảo vệ chăm sóc nâng cao sức khỏe nhân dân,
một phần lợi nhuận mang lại cho người hoặc tập thể góp vốn đầu tư tạo điều
kiện cho họ tăng cường đầu tư và có điều kiện hoạt động từ thiện.
Khuyến khích phát triển và có chế độ ưu đãi đối với các cơ sở y tế
ngoài công lập hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận, đầu tư cơ sở y tế tại các
nơi đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, đầu tư vào lĩnh vực phòng bệnh. Khuyến
khích các cơ sở y tế ngoài công lập như bệnh viện, phòng khám đa khoa v.v…
tăng cường đầu tư trang thiết bị y tế nhằm nâng cao chất lượng khám chữa
bệnh, tham gia khám chữa bệnh cho người có thẻ bảo hiểm y tế. Cho đến nay,
thành tựu của công tác này đã mang lại hiệu quả cao, người bệnh được hưởng
lợi từ chương trình này. Tuy nhiên đối với lĩnh vực, chuyên khoa tâm thần còn
rất khó khăn.
Hiện nay, chỉ có một vài nơi đã xã hội hóa chuyên ngành chăm sóc và
điều trị sức khỏe tâm thần. Điển hình như bệnh viện tâm thần tỉnh Thái Bình
đã mạnh dạn xây dựng công tác xã hội hóa. Khu xã hội hóa gồm 50 giường
bệnh với đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ sinh hoạt, khám chữa bệnh. Nhân lực
gồm 13 cán bộ, trong đó có 3 bác sĩ, 7 điều dưỡng, 3 hộ lý, 2 cán bộ được


14


phân công trực tiếp đón tiếp, hướng dẫn người nhà bệnh nhân làm các thủ tục
khám và nhập viện.
Hơn một năm nay, bệnh viện tâm thần tỉnh Thái Bình bắt đầu tiếp nhận
bệnh nhân điều trị theo Ðề án. Bệnh nhân ở khu điều trị xã hội hóa đều do gia
đình người bệnh tự nguyện làm đơn đề nghị bởi lý do hoàn cảnh neo đơn, bận
mải công tác không có điều kiện bố trí thời gian phục vụ người bệnh dài ngày,
không biết chăm sóc người bệnh đúng cách, có bệnh nhân được đưa đến nhập
viện khi phát bệnh mà không còn người thân phục vụ...
Ngoài thực hiện đúng quy định về công tác khám chữa bệnh, bệnh nhân
được các bác sĩ, điều dưỡng viên thay người nhà chăm sóc toàn diện như giúp
vệ sinh cơ thể ít nhất một lần/ngày, cắt tóc, cạo râu bảo đảm gọn gàng, sạch
sẽ; phục vụ ăn uống phù hợp yêu cầu dinh dưỡng từng người bệnh với 3 bữa
ăn/ngày…
Thứ ba, để hoạt động chăm sóc sức khoẻ tâm thần có hiệu quả, việc đầu
tiên là cần nhận thức đúng nhu cầu rất lớn về phòng chống bệnh tâm thần.
Trên cơ sở đó xây dựng các kế hoạch, chương trình hành động, chính sách
khả thi chăm sóc SKTT cho người dân.
Trước thực trạng đó, để nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và
toàn xã hội về bệnh trầm cảm và các dấu hiệu nhận biết sớm để có các biện
pháp can thiệp, hỗ trợ, điều trị kịp thời, trong năm 2015, được sự chỉ đạo của
Cục Bảo trợ xã hội và hướng dẫn kỹ thuật của Tổ chức FHI 360 đã triển khai
thí điểm mô hình hoạt động khám, sàng lọc, can thiệp cho người bệnh trầm
cảm tại cộng đồng.
Mục đích là nhằm xây dựng thí điểm mô hình cung cấp dịch vụ chăm
sóc sức khỏe tâm thần cho người bệnh trầm cảm, lồng ghép y tế và công tác
xã hội từ cộng đồng như sàng lọc, phát hiện sớm, can thiệp tâm lý, hỗ trợ và
điều trí cho người bệnh trầm cảm. Thiết lập một hệ thống chuyển gửi, trao đổi

15


thông tin giữa các dịch vụ công tác xã hội thuộc ngành lao động thương binh
xã hội và các dịch vụ sức khỏe tâm thần thuộc ngành Y tế.
Mô hình được triển khai thí điểm tại 4 tỉnh với sự tham gia của các
chuyên gia, tiến sĩ, bác sĩ, cán bộ tâm lý của các cơ quan trung ương. Trong
năm 2014 -2015 mô hình sẽ khám, sàng lọc phát hiện trầm cảm cho 4000 đối
tượng có nguy cơ cao, qua đó sẽ tổ chức can thiệp, hỗ trợ cho 1000 người bị
bệnh trầm cảm.
Triển khai mô hình, Trung tâm đang tiến hành các hoạt động truyền
thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, lồng ghép trong các hội nghị
truyền thông về nghề công tác xã hội tại các xã, phường, thị trấn để giúp người
dân nắm được các hoạt động của mô hình và tham gia khám, sàng lọc phát hiện
bệnh sớm. Phối hợp với Bệnh viện Bảo vệ sức khỏe tâm thần tỉnh thực hiện các
hoạt động: Khám và kê đơn thuốc cho bệnh nhân trầm cảm nội và ngoại trú; tổ
chức can thiệp cho các bệnh nhân trầm cảm bằng tâm lý liệu pháp, phối hợp
với nhân viên công tác xã hội thực hiện hoạt động quản lý trường hợp đối với
các bệnh nhân trầm cảm; ra y lệnh thực hiện hoạt động chuyển bệnh nhân trầm
cảm vào điều trị nội trú hay chuyển gửi về Trung tâm Công tác xã hội Quảng
Ninh để tư vấn, trị liệu tâm lý hoặc về cộng đồng khi xuất viện
Thứ tư, cần nhận thức rằng, CTXH trong chăm sóc sóc SKTT đòi hỏi
kiến thức, kỹ năng đăc thù, xuất phát từ tính đặc thù của bênh tâm thần. Bởi lẽ,
căn nguyên của bênh tâm thần là đa yếu tố, trong đó, yếu tố môi trường xã hội
là quan trọng. Vì vậy, những người tham gia hoạch định chính sách từ vĩ mô
đến thực hiện ở cấp vi mô cần có những kiến thức cơ bản về chăm sóc SKTT.
Trung tâm còn tổ chức các khóa tập huấn cung cấp kiến thức cơ bản về
trầm cảm và mô hình chăm sóc phối hợp để cao kỹ năng cho đội ngũ cán bộ,
nhân viên tham gia mô hình; hướng dẫn sử dụng các công cụ sàng lọc trầm
cảm, các kỹ năng tư vấn chung nhằm tăng cường sự tham gia và tuân thủ điều

16


trị của người bệnh; các nội dung giáo dục tâm lý cho người trầm cảm, các can
thiệp dùng thuốc cơ bản và hướng dẫn điều trị đối với bác sĩ tâm thần; tập huấn
nâng cao kiến thức và kỹ năng can thiệp, trị liệu về tâm lý chuyên sâu cho
người bệnh trầm cảm tại cộng đồng; hướng dẫn thực hành triển khai dịch vụ
chăm sóc sức khỏe tâm thần cho người bệnh trầm cảm. Trên cơ sở đó, sẽ tiến
hành hoạt động khám, sàng lọc, can thiệp và hỗ trợ cho người bệnh trầm cảm.
Lập kế hoạch, can thiệp và hỗ trợ cho đối tượng đã mắc bệnh trầm cảm
thông qua các hoạt động như: khám, kê đơn thuốc điều trị ngoại trú, nội trú;
trị liệu bằng liệu pháp tâm lý chuyên sâu; giáo dục, tư vấn, tham vấn tâm lý;
kết nối, chuyển gửi về cộng đồng khi bệnh đã giảm. Cùng với đó, Trung tâm
cũng thường xuyên xuống gia đình đối tượng để tư vấn, tham vấn tâm lý khi
người bệnh đã trở về cộng đồng; đẩy mạnh truyền thông giáo dục nâng cao
nhận thức của người dân về bệnh trầm cảm, trong đó nhấn mạnh trầm cảm là
một chứng rối loạn có thể chữa khỏi.
Việc tuyên truyền nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn
xã hội hiểu biết về bệnh trầm cảm cũng như những hoạt động phát hiện sớm,
can thiệp và điều trị là thực sự cần thiết. Có như vậy, mới giúp người bệnh
sớm ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng.
Thứ năm , người làm CTXH thực hành công bằng xã hội cho người rối
nhiễu tâm trí cần lưu ý nhóm đối tượng này là nhóm yếu thế trong xã hội. Do
vậy, để có được đội ngũ người làm CTXH phục vụ tiến trình chăm sóc SKTT,
đề án CTXH cần đưa chăm sóc SKTT vào làm một mục tiêu chính của CTXH
trong lĩnh vực y tế.
Thư sáu, người làm CTXH cần được đào tạo ở tất cả các khâu của tiến
trình chăm sóc SKTT, từ dự phòng, điều trị, đến phục hồi chức năng. Họ tham
gia từ tầm vĩ mô, tổ chức mạng lưới, hoạch định chính sách… đến cụ thể các


17


hoạt động ở cộng đồng - tầm vi mô. Để làm tốt, họ cần được trang bị thêm
kiến thức cơ bản về phòng và điều trị SKTT cộng đồng
Trong những năm qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính
sách chăm lo đời sống cho các đối tượng bảo trợ xã hội, trong đó có người
mắc bệnh tâm thần. Đến nay, có khoảng 10 nghìn người tâm thần nặng đang
được chăm sóc và phục hồi chức năng tại 26 cơ sở bảo trợ xã hội ở 20 tỉnh,
thành phố; gần 200 nghìn người tâm thần nặng được hưởng trợ cấp hàng
tháng tại cộng đồng. Cùng với đó đã đã xây dựng được một số mô hình tốt về
lao động trị liệu và phục hồi chức năng luân phiên cho người tâm thần nặng
tại Trung tâm bảo xã hội các tỉnh: Sơn La, Phú Thọ, Thừa Thiên Huế, xây
dựng bước đầu mô hình tư vấn, trị liệu tâm lý và các dịch vụ công tác xã hội
với điều trị y tế dự phòng và trị liệu rối nhiễu tâm trí tại phòng khám Tu Na
(Hà Nội), Bệnh viện Đa khoa huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh./.
Lĩnh vực công tác xã hội nói chung và chăm sóc sức khỏe cho đối
tượng tâm thần nói riêng luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước
ta. Đề án 1215 được ban hành với mục tiêu huy động sự tham gia của xã hội,
nhất là gia đình, cộng đồng để trợ giúp về vật chất, tinh thần, phục hồi chức
năng cho người tâm thần, giúp họ ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng,
đồng thời giúp phòng ngừa người rối nhiễu tâm trí bị tâm thần góp phần bảo
đảm an sinh xã hội. Để thực hiện được mục tiêu này, công tác đào tạo, tập
huấn cho đội ngũ cán bộ, nhân viên và cộng tác viên trong lĩnh vực chăm sóc
sức khỏe tâm thần là hết sức quan trọng. Do vậy, để khóa học thành công,
trong quá trình học, các học viên cần tích cực trao đổi, thảo luận những vấn
đề vướng mắc, khó khăn thực tế ở địa phương, cơ sở. Đề án 1215, các học
viên sẽ trở thành trụ cột để triển khai đào tạo, phổ biến các kỹ năng, quy trình
chăm sóc phục hồi chức năng... cho người tâm thần ở địa phương, giúp cho
các đối tượng sớm hòa nhập cộng đồng.


18


Hàng năm, ngân sách trung ương sẽ bố trí cho các địa phương triến
khai công tác đào tạo dài hạn và tập huấn ngắn hạn theo các chuyên đề ưu tiên
trong Đề án, tiến tới sẽ tập huấn cho cả những gia đình đối tượng về kỹ năng,
phương pháp chăm sóc và phục hồi chức năng cho người tâm thần. Trên cơ sở
danh sách do các Sở Lao động- TBXH đề xuất và căn cứ vào tiêu chí lựa chọn
cán bộ quản lý, khả năng bố trí kinh phí, Cục Bảo trợ Xã hội đã lựa chọn
những học viên đủ điều kiện tham dự khóa học. Đây là khóa học đầu tiên
được tổ chức về chăm sóc sức khỏe cho người tâm thần năm 2013. Tiếp theo,
dự kiến trong tháng 9, Cục sẽ tiếp tục tổ chức khai giảng 2 lớp tại miền Trung
và miền Nam cho đội ngũ cán bộ quản lý về trợ giúp xã hội trong lĩnh vực
chăm sóc sức khỏe tâm thần.
Tại lớp học, các học viên sẽ được nghe giới thiệu các chuyên đề: Đại
cương chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lý học làm người, quá trình phục hồi
chức năng cho người tâm thần, quản lý ca, công tác xã hội trong chăm sóc sức
khỏe tâm thần... Thời gian khóa học sẽ kéo dài 33 ngày, chia làm 3 đợt.

19


KẾT LUẬN

Bệnh tâm thần phân liệt là một bệnh nặng nề vào bậc nhất trong các
bệnh tâm thần. Trên thế giới còn rất nhiều người mắc bệnh tâm thần nói
chung và bệnh tâm thần phân liệt nói riêng còn chưa đươc điều trị hoặc điều
trị chưa tòan diện, chưa hiệu quả, còn phải sống trong bóng tối của bệnh tật,
của kỳ thị. Để chung tay đưa lại cuộc sống lành mạnh cho người bệnh, cần có

sự chung tay của thầy thuốc, gia đình, cộng đồng và xã hội.
Người bệnh tâm thần sau khi được điều trị có thể hết các triệu chứng
rối loạn tâm thần tuy nhiên các di chứng của bệnh để lại vẫn còn ảnh hưởng
đến tư duy, cảm xúc và hành vi tác phong của họ dẫn đến họ không tái hoà
nhập được với cộng đồng cũng như lao động nghề nghiệp, nội tâm bất hạnh.
Bệnh Tâm thần đặc biệt là tâm thần phân liệt là một bệnh có khuynh hướng
tiến triển mãn tính, người bệnh ngày một tách rời, xa lánh xã hội, khó hoà
nhập với gia đình và cộng đồng. Xã hội cũng có khuynh hướng mặc cảm, kỳ
thị, phân biệt đối sử cho rằng người bệnh tâm thần không còn khả năng giúp
ích gì cho gia đình và xã hội.
Để người mắc bệnh tâm để họ có ích cho bản thân, gia đình và xã hội là
trách nhiệm, nghĩa vụ của ngành y tế và cộng đồng, đem lại hiệu quả thiết
thực và thể hiện sự ưu việt, tiến bộ của nhà nước ta thì những người làm công
tác xã hội cần phải có những kiến thức khách quan nhất về người bệnh này.
Thông qua tiểu luận tác giả hi vọng có thể khái quát nhất về một đối tượng
của công tác xã hội đó là người mắc bệnh tâm thần.

20


MỤC LỤC



×