Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

công cụ thuế quan trong chính sách ngoại thương của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.7 KB, 29 trang )

Mục lục

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một xu hướng chung của tất cả các quốc
gia trên thế giới. Hòa trong xu hướng đó, Việt Nam cũng tập trung phát triển kinh tế, hội nhập
ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho đất nước phát triển bền vững và lâu
dài. Và chính sách ngoại thương là một bộ phận quan trọng của chính sách kinh tế của một nước,
nó góp phần thúc đẩy thực hiện các mục tiêu kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ.
Thương mại quốc tế có vị trí quan trọng trong kinh tế thị trường ở nước ta. Xác định rõ vị trí của
thương mại quốc tế cho phép tác động đúng hướng và tạo được những điều kiện cho thương mại
phát triển. Chính sách thương mại quốc tế là chính sách của nhà nước bao gồm một hệ thống
nguyên tắc và biện pháp thích hợp được áp dụng để điều chỉnh hoạt động ngoại thương phù hợp
với lợi ích chung của Nhà nước trong từng giai đoạn. Chính sách thương mại quốc tế là một hệ
thống chính sách của Nhà nước nó phục vụ đắc lực cho đường lối phát triển kinh tế trong mỗi
thời kỳ. Nó ảnh hưởng tới quá trình tái sản xuất xã hội và sự tham gia của nền kinh tế quốc dân
vào quá trình phân công lao động quốc tế. Chính sách thương mại quốc tế có liên quan mật thiết
với chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Nó là công cụ có hiệu lực để thực hiện chính
sách đối ngoại, mở mang quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước trong khu vực và thế giới. Đồng
thời chính sách đối ngoại tạo điều kiện giúp các tổ chức kinh tế tiếp cận với thị trường, khách
hàng nước ngoài để mở rộng hoạt động thương mại quốc tế. Công cụ thuế quan là công cụ quan
trọng trong chính sách thương mại quốc tế.
Mặc dù thương mại quốc tế nói chung mang lại những lợi ích to lớn, nhưng với nhiều lý do khác
nhau, mỗi quốc gia có chủ quyền đều có những chính sách riêng. Do sự phát triển không đồng
đều giữa các quốc gia nên khả năng và điều kiện tham gia của các nước không giống nhau.
Mục đích của đề tài: nghiên cứu về chính sách ngoại thương, cụ thể là công cụ thuế quan.
Từ đó rút ra đánh giá và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu: công cụ thuế quan áp dụng ở Việt Nam
Ngoài phần mở đầu và tài liệu tham khảo thì kết cấu bài gồm 3 phần chính:
Chương I: Tổng quan về chính sách ngoại thương và công cụ thuế quan



Chương II: Công cụ thuế quan trong chính sách ngoại thương Việt Nam từ Đổi mới đến
nay
Chương III: Định hướng và một số giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện việc áp dụng thuế
quan trong chính sách ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện bài thảo luận nhóm em đã tìm kiếm các tài liệu
khác nhau cũng như từ nhiều nguồn khác nhau nên không tránh khỏi những sai xót. Nhóm em
mong muốn nhận được những ý kiến nhận xét cũng như góp ý từ thầy và các bạn để bọn em
chỉnh sửa và hoàn thiện bài thảo luận hơn !!!
Chương I: Tổng quan về chính sách ngoại thương và công cụ thuế quan
1.1. Chính sách ngoại thương
1.1.1. Khái niệm và vai trò
1.1.1.1. Khái niệm

Chính sách ngoại thương là một hệ thống các nguyên tắc, biện pháp kinh tế, hành chính và
pháp luật dùng để thực hiện các mục tiêu đã xác định trong lĩnh vực ngoại thương của một
nước trong thời kỳ nhất định.
Chính sách ngoại thương là một bộ phận quan trọng của chính sách kinh tế của một nước,
nó góp phần thúc đẩy thực hiện các mục tiêu kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ. Mục
tiêu phát triển kinh tế của một đất nước trong từng thời kỳ có khác nhau, cho nên đường lối
chính sách ngoại thương phải thay đổi để đạt được những mục tiêu cụ thể của chính sách kinh
tế.
1.1.1.2. Vai trò

Không có chính sách ngoại thương áp dụng cho mọi thời kỳ phát triển kinh tế. Tuy
nhiên, các chính sách ngoại thương đều có tác dụng bảo vệ sản xuất trong nước, chống lại sự
cạnh tranh từ bên ngoài, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển và bành trướng
ra bên ngoài. Bên cạnh đó nó cũng có các vai trò sau :
- Chính sách ngoại thương là cầu nối liên kết kinh tế trong nước với kinh tế thế giới,
tạo cơ hội cho một quốc gia hội nhập về kinh tế với các nước trong khu vực và trên
-


thế giơi theo những bước đi có hiệu quả .
Chính sach ngoại thương có nhiệm vụ cân bằng cán cân thanh toác thu chi. Các
hoạt động ngoại thương không chỉ đơn thuần tác động đến sự phát triern và cân đối
nền kinh tế trong nước mà còn có nhiệm vu đặc thù là cân bằng cán cân thanh toán
quốc tế.


1.1.2. Các kiểu chính sách ngoại thương điển hình

Mỗi nước đều có chính sách ngoại thương riêng phù hợp với điều kiện phát triển
kinh tế riêng của từng nước, ở từng thời kỳ phát triển. Tuy nhiên, chính sách phát triển
ngoại thương của các nước có thể phân loại theo hai tiêu thức cơ bản sau:
- Phân loại theo mức độ tham gia của Nhà nước trong điều tiết hoạt động
-

ngoại thương.
Phân loại theo mức độ tiếp cận của nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế
giới.

1.1.2.1. Phân loại trên mức độ tham gia của Nhà nước trong điều tiết hoạt
động ngoại thương


Chính sách mậu dịch tự do:
- Quá trình sản xuất, xuất khẩu và nhập khẩu được tiến hành một cách tự do, chính
phủ không sử dụng các công cụ thuế quan, hạn ngạch để hạn chế xuất khẩu và nhập khẩu.
- Quy luật cạnh tranh điều tiết sự hoạt động của sản xuất, tài chính và thương mại




-

trong nước.
Chính sách bảo hộ mậu dịch.
Chính phủ áp dụng những biện pháp thuế và phi thuế như thuế nội địa, giấy phép,
hạn ngạch, các biện pháp kỹ thuật để hạn chế hàng hóa nhập khẩu.
Chính phủ nâng đỡ các nhà xuất khẩu nội địa bằng cách cắt, giảm hoặc miễn thuế xuất
khẩu, doanh thu, lợi tức. Trợ cấp xuất khẩu đối với các mặt hàng khuyến khích để công ty
có lợi thế cạnh tranh.
Hiện nay, không nước nào thi hành chính sách này hay chính sách khác một cách tuyệt đối

mà tùy từng trường hợp, trong một số ngành hàng, sản phẩm nếu thấy rằng áp dụng chính
sách tự do sẽ phát triển tốt hơn, chính phủ sẽ để mậu dịch tự do. Còn một số ngành ảnh
hưởng đến sức khỏe, an toàn an ninh của cộng đồng thì các chính phủ quản lý bằng việc thi
hành chính sách bảo hộ mậu dịch.
1.1.2.2. Phân loại theo mức độ tiếp cận nền kinh tế quốc gia với thế giới.
Chính sách hướng nội.
Kinh tế phát triển tự lực cánh sinh dựa trên tài nguyên sẵn có của quốc gia, chính phủ
điều hành mọi hoạt động kinh tế nhằm sử dụng tối đa nguồn lực, tài nguyên, tạo ra sản phẩm
hàng hóa phục vụ cho người dân trong nước. Chính phủ cũng điều hành và can thiệp tuyệt
đối vào hoạt động xuất nhập khẩu, phân phối ngoại thương.


-

Cố gắng hình thành ngành công nghiệp riêng của nước mình, sản xuất

hàng hóa phục vụ cho nhu cầu nội địa, hướng về thực hiện chiến lược công nghiệp hóa
thay thế hàng nhập khẩu.

Không khuyến khích và ít có quan hệ với thị trường thế giới.
Chính sách hướng về xuất khẩu.

1.1.3.

-

Tham gia vào quá trình phân công khu vực và quốc tế, hướng về thị trường,

-

thực hiện chuyên môn hóa đễ cạnh tranh.
Nền kinh tế lấy xuất khẩu làm động lực phát triển, phát triển công nghiệp ưu

-

tiên cho xuất khẩu.
Theo từng quốc gia, có thể hướng về xuất khẩu dựa vào nguồn tài nguyên

thiên nhiên, gia công sản phẩm hay dựa vào lợi thế so sánh.
Các công cụ chủ yếu
1.1.3.1. Công cụ thuế quan : là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa

xuất khẩu hay nhập khẩu của mỗi quốc gia hoặc hàng quá cảnh.
1.1.3.2. Công cụ phi thuế quan :
Trong khuôn khổ WTO, khái niệm phi thuế quan được coi là :” Biện pháp
phi thuế quan là biện pháp ngoài thuế quan , liên quan hoặc ảnh hưởng đến sự luân chuyển
hàng hóa giữa các nước”, còn ” Hàng rào phi thuế quan là những biện pháp phi thuế quan
mang tinh cản trợ đối với thương mại mà không dựa trên cơ sở pháp lý, khoa học hoặc
bình đẳng ”.

1.2. Thuế quan

1.2.1. Khái niệm
Thuế quan hay thuế xuất nhập khẩu là tên gọi chung để gọi hai loại thuế trong lĩnh
vực thương mại quốc tế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu hay nhập khẩu của mỗi quốc
gia. Thuế quan có 2 loại là thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu. Thuế nhập khẩu là thuế đánh
vào hàng hóa nhập khẩu, còn thuế xuất khẩu là thuế đánh vào hàng hóa xuất khẩu. Thuế quan
được biết đến như một hình thức lâu dài nhất của chính sách mậu dịch và là một công cụ
truyền thống để làm tăng thu ngân sách nhà nước.
1.2.2. Phân loại
Thuế quan được chia làm nhiều loại khác nhau theo những phương thức khác nhau:
Theo phương thức tính thuế:
Thuế quan theo đơn giá hàng: là một tỷ lệ phần trăm nào đó của mặt hàng, chẳng
hạn 10% trên giá CÌ của hàng nhập khẩu hay 5% trên FOB của hàng xuất khẩu, được gọi là
thuế suất.


Thuế quan theo trọng lượng: được tính theo trọng lượng của mặt hàng, chẳng hạn
5$ trên 1 tấn. kiểu tính này gây khó khăn hơn trong việc quyết định số lượng tiền nộp thuế do
sự thay đổi thường xuyên của thị trường hay lạm phát,…
Thuế quan hỗn hợp: là loại thuế quy định bược người nhập khẩu phải trả hai loại
thuế quan theo đơn giá hàng và thuế quan theo trọng lượng ( ví dụ: 5% và 5$ trên 1 tấn).
Theo mục đích đánh thuế
- Thuế quan tăng thu ngân sách: là tập hợp các mức thuế suất được đưa ra mà mục
đích chính là làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, còn mục đích bảo hộ cho sản xuất
trong nước chỉ là thứ yếu. ví dụ một quốc gia không trồng lúa gạo cũng như chế biến lúa gạo
mà chỉ nhập khẩu thì khi đó thuế nhập khẩu đánh vào lúa gạo chỉ với mục đích tăng thu cho
ngân sách.
- Thuế quan bảo hộ: được đưa ra với mục đích làm tăng giá mật cách nhaanh tạo
đối với hàng hóa nhập khẩu nhằm bảo hộ cho sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh từ các

nước khác. Ví dụ các nước Nam Mỹ có thuế nhập khẩu cao cản trở việc nhập khẩu ô tô
nguyên chiếc.
Nói chung thuế quan bảo hộ được đưa ra khi người ta cho rằng ở mức thuế suất thấp
hơn thì sản xuất trong nước sẽ gặp phải sự cạnh tranh rất quyết liệt từ các mặt hàng nhập
khẩu, thị phần trong nước bị mất đi.
- Thuế quan cấm đoán: là thuế quan đưa ra với thuế xuất rất cao, gần như không
còn là nhà nhập khẩu nào dám nhập mặt hàng đó nữa.
1.2.3. Vai trò
Thuế quan có vai trò hết sức quan trong trong việc thu ngân sách nhà nước, tạo thêm
công ăn việc làm. Thuế quan còn đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo hộ các ngành
công nghiệp non trẻ trong nước, chưa đủ sức cạnh tranh trên trường quốc tế.
1.2.3.1. Thuế nhập khẩu
Giảm nhập khẩu bằng cách làm cho chúng trở nên đắt hơn so với các mặt hàng thay
thế có trong nước và điều này làm giảm thâm hụt trong cán cân thương mại. chống lại các
hàng vi phá giá bằng cách tăng giá hàng nhập khẩu của mặt hàng phá giá lên tới giá chung của
thị trường.
Trả đũa trước các hành vi dựng hàng rào thuế quan do quốc gia khác đánh thuế đối
với hàng hóa xuất khẩu của mình, nhất là các cuộc chiến tranh thương mại.
Bảo hộ cho các lĩnh vực sản xuất then chốt, chẳng hạn nông nghiệp có các chính sách
về thuế quan của Liên minh châu Âu đã thực hiện trong Chính sách nông nghiệp chung của
họ.


Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ cho đến khi chúng đủ vững mạnh để có thể
cạnh tranh công bằng trên thị trường quốc tế.
1.2.3.2. Thuế xuất khẩu:
Giảm xuất khẩu do nhà nước không khuyến kích xuất khẩu các mặt hàng sử dụng các
nguồn tài nguyên khan hiếm đang bị cạn kiệt hay các mặt hàng mà tính chất quan trọng của
nó đối với sự an toàn lương thực hay an ninh quốc gia được đặt lên hàng đầu.
Thuế xuất khẩu có thể được dùng để tăng thu ngân sách cho nhà nước.

Tùy từng nhu cầu mà một hay vài mujch đích nói trên được đề cao. Khi bị xác định
là có mục đích bảo hộ mậu dịch, thuế nhập khẩ có thể trở thành đối tượng bị nước ngoài đòi
cắt giảm.
Tuy nhiên, khi sử dụng chính sách thuế quan cũng mang lại nhưng tác động tiêu cực.
thuế sử dụng vào mục đích bảo vệ sẽ có những tác động tiêu cực tới sản xuất và tiêu dùng:
khuyến khích khong hiệu quả trong nước, tăng giá khiến người tiêu dùng phải cắt giảm chi
tiêu, mua sắm, gián tiếp tạo môi trường cho buôn lậu và những tệ nam tham nhũng ở các cơ
quan thuế.
Khuyến khích các mặt hàng có hiệu quả sản xuất kém trong nước. một khi nhà nước
bảo hộ cho các mặt hàng này tức là đã khuyến khích nó phát triển mà những mặt hàng thuế
cao thường là những mặt hàng không có lợi thế so sánh. Nhà nước phải chi thêm tiềm năng
cho những mặt hàng kém hiệu quả dẫn đến giảm tổng lợi nhuận thu được.
Giá tăng cao làm gia tăng lạm phát đồng thời người dẫn cắt giảm tiêu dùng cá nhân.
Chương II: Công cụ thuế quan trong chính sách ngoại thương Việt Nam từ Đổi mới
đến nay
2.1. Thực trạng áp dụng thuế quan trong từng giai đoạn
2.1.1. Giai đoạn 1986- 2000
Luật thuế xuất, nhập khẩu đầu tiên Việt Nam ra đời vào tháng 12 năm 1987 để quản lý hoạt
động xuất nhập khẩu và thay thế cho chế độ thu bù chênh lệch ngoại thương trước đó. Sau
một thời gian áp dụng, Luật thuế xuất nhập khẩu được sửa đổi lần thứ nhất vào năm 1991, lần
thứ hai vào năm 1993 và lần gần đây nhất là ngày 20/05/1998. Trong đó vấn đề mà thường
xuyên được các thương gia và nhà nước quan tâm nhiều nhất là biểu thuế suất đối với hàng
xuất khẩu và nhập khẩu.
Đối với thuế xuất khẩu :
Trong giai đoạn này thực hiện chiến lược hướng ra xuất khẩu nên nhà nước ta chủ
chương đánh thuế thấp đối với các mặt hàng xuất khẩu. Năm 1991 biểu thuế xuất khẩu có 11


mức đánh vào 60 mặt hàng. Đặc biệt đối với mặt hàng gạo là mặt hàng có thế mạnh ở Việt
Nam, trong năm này giảm thuế suất từ 10% xuống còn 1%.

BIỂU THUẾ THUẾ XUẤT KHẨU
(Ban hành kèm theo Quyết định số 67/1999/QĐ-BTC ngày 24 tháng 6 năm 1999 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính )
Mã số
Mô tả nhóm mặt hàng
Thuế
suất
Nhóm
Phân nhóm
(%)
1
2
3
4
5
0801

0801

31

00

Dừa, quả hạch Brazil, hạt đào lộn
hột (hạt điều), tươi hoặc khô, đã
hoặcchưa bóc vỏ hoặc lột vỏ
Riêng:
Hạt đào lộn hột (hạt điều) chưa bóc
vỏ
Cà phê


4

0901

00

0902
0904

00
00

Chè các loại
Hạt tiêu

0
0

1006

00

Gạo các loại

0

2701
2709


10
010

than
Dầu thô

0
4

20

Cao su

0

00

4001

0

Nhìn vào biểu thuế xuất khẩu trên ta có thể thấy Việt Nam chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm
thô, sơ chế. Tuy nhiên, điều này có tác động không tốt đối với nguồn tài nguyên quốc gia gây
cạn kiệt tài nguyên.
Đối với thuế nhập khẩu :
Nhìn chung trong giai đoạn này chính sách thuế nhập khẩu của nhà nước hầu hết nhằm
tăng cường bảo hộ cho sản xuất trong nước nên mức thuế suất tương đối cao.

BIỂU THUẾ THUẾ NHẬP KHẨU NĂM 1991
Mã số

Nhóm
1

Mô tả nhóm mặt hàng

Thuế suất
(%)
2

3


220400
220100
230300
240110
24012010
240200

Rượu vang làm từ nha tươi kể cả vang cao độ
Các loại nước khoáng tự nhiên, nước khoáng nhân tạo
và nước có ga
Bia sản xuất từ Malt
Thuốc lá chưa tước cọng
Thuốc lá lá chưa tước cọng
Xì gà, xì gà nhá

100
70
100

15
30
120

Nhìn vào bảng trên ta thấy các mặt hàng này đánh thuế cao vì đối với thuốc lá và rượu là
hai mặt hàng có hại cho sức khỏe nên hạn chế nhập khẩu.
- Ngày 29/4/1998 Bộ tài chính đã ra quyết định về việc ban hành giá mua tối thiểu để tính
thuế nhập khẩu làm căn cứ xác định giá tính thuế nhập khẩu. Bảng giá mua tối thiểu với một
số mặt hàng: Nhìn chung thì quy định trên là rất cần thiết và góp phần hạn chế tình trạng
người mua và người bán thông đồng với nhau ghi giá hàng thấp . Đồng thời cũng giúp cho
việc tính thuế được nhanh hơn và có thể hạn chế được việc bán phá giá; nhằm đẩy mạnh việc
nhập hàng hoá vào trong nước.
Thuế doanh thu: Giai đoạn 1996-1998 là giai đoạn cuối cùng thực hiện thuế doanh thu.
Trong giai đoạn này nhà nước thực hiện thuế doanh thu với hàng xuất khẩu nhưng hiệu quả
đạt được không cao.
Thuế VAT : Tháng 5/1997, Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật thuế giá trị gia tăng
thay cho thuế doanh thu. Thuế giá trị gia tăng bao quát hầu hết các hoạt động sản xuất kinh
doanh và dịch vụ, thu cả hàng hoá ở khâu nhập khẩu, tạo nguồn thu lớn, ổn định và kịp thời
cho ngân sách Nhà nước.Trong giai đoạn đầu do tác động của khủng hoảng nên điều chỉnh
thuế VAT xuống từ 20% xuống 10 % đối với các tư liệu sản xuất để kích thích sản xuất trong
nước.Cũng để khuyến khích xuất khẩu một số hàng hóa dịch vụ áp thuế 0% đối với một số
ngành như sửa chữa máy móc điện tử, xuất khẩu lao động để doanh nghiệp được khấu trừ
hoặc hoàn thuế đầu vào.
- Năm 1995 là năm Việt Nam gia nhập ASEAN. Cùng với quá trình hội nhập này Việt Nam
thực hiện cam kết của Hiệp định thương mại mậu dịch tự do AFTA về chương trình ưu đãi
thuế quan chung CEPT với ba vấn đề chủ yếu là:
+Cắt giảm thuế
+Loại bỏ các hàng rào phi thuế quan
+Hài hòa các thủ tục hải quan.



-Năm 1998, mức thuế suất cao nhất (trong CEPT) chỉ còn 60%. Trong năm này, Việt Nam
chính thức giới thiệu lộ trình CEPT không chính thức 2006. Quốc hội thực hiện sửa đổi Luật
thuế xuất nhập khẩu vào tháng 5 năm 1998 và theo đó kể từ ngày 1 tháng 1 năm1999, thuế
xuất nhập khẩu của Việt Nam bao gồm 3 mức là mức thông thường, mức tối huệ quốc và mức
ưu đãi đặc biệt.
Như vậy, trong giai đoạn này chính sách thuế của Việt Nam chủ yếu là bảo hộ sản xuất
trong nước đồng thời hướng ra xuất khẩu. Mức thuế suất các mặt hàng trong biểu thuế xuất
nhập khẩu thường xuyên thay đổi theo hướng ngày càng khai thác lợi thế so sánh của nước ta
.Các mức thuế suất chỉ mang tính tạm thời chứ không phải là vĩnh viễn.
2.1.2. Giai đoạn 2000-2007
Trước khi gia nhập WTO Trong giai đoạn này nhà nước ta thực hiện các chính sách vừa
nhằm bảo vệ sản xuất trong nước vừa tích cực chuẩn bị các điều kiện tham gia hội nhập kinh
tế quốc tế.
- Nhà nước chủ chương đánh thuế cao với một số mặt hàng như xe máy (80% năm 2004),
thuốc lá 70% năm 2004 cấm nhập khẩu một số mặt hàng như xe đạp, xe hai bánh, ba bánh
gắn máy cũ, các vật tư, phương tiện đã qua sử dụng. Hàng tiêu dùng như dệt may, giày dép,
quần áo, đồ điện tử, điện lạnh, điện gia dụng, hàng trang trí nội thất, thiết bị y tế, đồ gia dụng,
các sản phẩm công nghệ thông tin đã qua sử dụng cũng nằm trong danh mục hàng cấm nhập.
Nhà nước còn quy định hạn ngạch XNK đối với mặt hàng thuốc lá nguyên liệu, bông, sữa
nguyên liệu cô đặc, sữa 17 nguyên liệu chưa cô đặc, muối, ngô hạt và trứng gia cầm, Số lượng
hàng hóa nhập khẩu sẽ được điều chỉnh thuế suất dựa trên sự cân đối giữa nhu cầu và năng
lực sản xuất trong nước
- Ban hành chính sách ân hạn thuế .Cụ thể, thời hạn nộp thuế nhập khẩu đối với hàng xuất
khẩu là 15 ngày, với nguyên phụ liệu nhập khẩu để làm hàng xuất khẩu là 275 ngày kể từ
ngày ra thông báo nộp thuế.
- Về xác định trị giá tính thuế nhập khẩu. Năm 2006, Việt Nam thực hiện điều chỉnh thuế
suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với hàng linh kiện, phụ tùng điện tử, và ô tô; cho phép nhập
khẩu ô tô cũ kể từ ngày 1 tháng 5 và ban hành mức thuế tuyệt đối đối với việc nhập khẩu ô tô
cũ.

Mô tả mặt hàng

Thuộc nhóm mã số
trong Biểu thuế nhập
khẩu ưu đãi

Đơn vị tính

Mức thuế
(USD)


1. Xe từ 5 chỗ ngồi trở xuống, kể cả lái xe, có dung
tích xi lanh động cơ:
- Dưới 1.000 cc

8703

Chiếc

3.000,00

- Từ 1.000 cc đến dưới 1.500 cc

8703

Chiếc

7.000,00


- Từ 1.500 cc đến 2.000 cc

8703

Chiếc

10.000,00

- Trên 2.000 cc đến 3.000 cc

8703

Chiếc

15.000,00

- Trên 3.000 cc đến 4.000 cc

8703

Chiếc

18.000,00

- Trên 4.000 cc đến 5.000 cc

8703

Chiếc


22.000,00

- Trên 5.000 cc

8703

Chiếc

25.000,00

- Từ 2.000 cc trở xuống

8703

Chiếc

9.000,00

- Trên 2.000 cc đến 3.000 cc

8703

Chiếc

14.000,00

- Trên 3.000 cc đến 4.000 cc

8703


Chiếc

16.000,00

- Trên 4.000 cc

8703

Chiếc

20.000,00

- Từ 2.000 cc trở xuống

8702

Chiếc

8.000,00

- Trên 2.000 cc đến 3.000 cc

8702

Chiếc

12.000,00

- Trên 3.000 cc


8702

Chiếc

15.000,00

2. Xe từ 6 đến 9 chỗ ngồi, kể cả lái xe, có dung tích xi
lanh động cơ:

3. Xe từ 10 đến 15 chỗ ngồi, kể cả lái xe, có dung tích
xi lanh động cơ:

Chính sách này có tác dụng làm tăng lượng nhập khẩu ô tô trong nước và đặc biệt với
viêc áp dụng thuế tuyệt đối sẽ làm các nhà nhập khẩu nhập khẩu những loại xe có chất lượng
tốt tránh cho việt Nam trở thành bãi rác của thế giới.
- Cùng với đó trong giai đoạn này Việt Nam cũng tích cực thực hiện lộ trình cắt giảm thuế
theo hiệp định CEPT. Lộ trình cắt giảm thuế theo chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực
chung CEPT nhằm thực hiện giảm thuế quan với hàng nhập khẩu từ các nước trong nội khối
với điều kiện tỉ lệ nội địa hóa 40% sau đến năm 2004 giảm còn 20% và 10%.
Như bảng trên ta thấy số mặt hàng giảm thuế qua các năm ngày càng tăng cho thấy Việt
Nam đang thực hiện cam kết cắt giảm thuế theo đúng lộ trình. Trên đây là lộ trình cắt giảm
thuế quan chủ yếu áp dụng đối với hàng nhập khẩu Việt Nam
- Cũng trong giai đoạn này một sự kiện quan trọng đó là Việc kí kết hiệp định thương mại
Việt Nam- Hoa Kỳ vào tháng 7-2000. Đây có thể được xem là sự kiện quan trọng, là điều kiện
để Việt Nam có thể gia nhập WTO.Đối với thương mại hàng hoá, Việt Nam cam kết giảm


thuế nhập khẩu hàng nông nghiệp và công nghiệp từ Hoa Kỳ. Ngược lại, hàng hoá của Việt
Nam sẽ chỉ chịu mức thuế suất bình quân 4,9% thay vì mức 35% (thuế suất không ưu đãi
MFN). Hàng năm, Hoa Kỳ vẫn xem xét lại quy chế MFN đối với Việt Nam. Thuế nhập khẩu

hàng dệt may của Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ được áp theo mức thuế MFN. Tuy còn một
số bất cập trong chính sách nhưng Việt Nam đã có những sự chuẩn bị cần thiết cho quá trình
hội nhập WTO Năm 2007 đánh dấu một năm quan trọng trong quá trình phát triển của kinh tế
Việt Nam đặc biệt đối với hoạt động thương mại. Khi gia nhập tổ chức này Việt Nam phải
cam kết thực hiện lộ trình giảm thuế quan theo qui định của tổ chức.
Cam kết cắt giảm thuế trong WTO Việt nam cam kết giàng buộc với toàn bộ biểu thuế
nhập khẩu hiện hành với 10.600 dòng thuế. Thuế suất bình quân giảm 23% so với mức thuế
bình quân hiện hành, từ 17,4% xuống còn 13,4% thời gian ân hạn được thực hiện dần trong
vòng 5 - 7 năm.Một số mặt hàng đang có mức thuế cao từ trên 20% sẽ được cắt giảm thuế
ngay sau khi gia nhập. Những nhóm mặt hàng có cam kết cắt giảm thuế nhiều nhất gồm:
Hàng dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế toạ khác, máy móc thiết bị - điện tử Đối với thuế xuất khẩu WTO không có nội dung nào yêu cầu cam kết về thuế xuất khẩu. Tuy
nhiên, một số thành viên (chủ yếu là các nước phát triển)
- Đối với thuế nội địa Việt Nam cam kết thực hiện thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu, bia
trong vòng 3 năm kể từ khi gia nhập. Tất cả các loại rượu được chưng cất có nồng độ từ 20 độ
cồn trở lên sẽ chịu mức thuế tuyệt đối tính theo lít của rượu cồn nguyên chất hoặc một mức
thuế phần trăm. Đối với bia trong vòng 3 năm kể từ khi gia nhập sẽ áp dụng một mức thuế
phần trăm chung, không phân biệt hình thức đóng gói, bao bì.
-

Về thuế nhập khẩu Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành

23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong 5 – 7 năm. Cụ thể, có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế
sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy
cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô – xe máy…
vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất đinh. Về việc xác định trị giá tính thuế nhập khẩu, áp dụng
Hiệp định về xác định trị giá tính thuế của WTO (CVA) kể từ khi gia nhập: lấy giá trị để tính
thuế nhập khẩu theo giá trị giao dịch thực tế; bỏ bảng giá tối thiểu.
- Tăng cường trao đổi thương mại, tăng lượng FDI (đầu tư nước ngoài) chảy vào Việt
Nam. Nhờ việc cắt giảm thuế quan mà ta có cơ hội nhập khẩu nguyên liệu đầu vào, máy móc
vật tư kĩ thuật nhằm giúp sản xuất trong nước phát triển.



- Gia nhập WTO chúng ta có thể thâm nhập vào thị trường nông sản thế giới (có kim
ngạch tới 548 tỷ USD/ năm) do phải chịu mức thuế quan thấp.
- Những thay đổi trong thuế XNK còn đẩy mạnh xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản,…dẫn
đến chảy máu tài nguyên quốc gia.
Như vậy trong giai đoạn này Việt Nam tăng cường tham gia các hiệp định hợp tác
nhằm tăng cường hội nhập sâu rộng trong khu vực và trên thế giới, tiến tới hoàn thành thực
hiện các cam kết về thuế quan. Tất cả đều là sự chuẩn bị cho quá trình hội nhập vào tổ chức
thương mại lớn nhất thế giới WTO.
2.1.3. Giai đoạn từ 2008 đến nay
- Lộ trình cắt giảm thuế theo cam kết WTO
Việt Nam tiếp tục giữ các mức thuế suất trần theo cam kết WTO đối với một số nhóm
hàng có mức thuế cao và mang tính chất nhạy cảm như thuế thuốc lá 135%, xì gà 110%, ô tô
nguyên chiếc 82% và 77% với rượu, bia.Nhìn chung các cam kết về thuế được thực hiện tuân
thủ đầy đủ các cam kết trong WTO theo đúng lộ trình. Mức thuế bình quân giản đơn của Biểu
thuế nhập khẩu ưu đãi năm 2011 là 10,47% và trong một số trường hợp, mức thuế suất áp
dụng đã được quy định thấp hơn so với mức cam kết để phù hợp với mục tiêu điều hành kinh
tế vĩ mô và khuyến khích sản xuất kinh doanh trong nước, thúc đẩy xuất khẩu, trong đó chủ
yếu là nhóm hàng vật tư, nguyên nhiên vật liệu, linh kiện phục tùng và máy móc, thiết bị
trong nước không sản xuất được… Đặc biệt, năm 2012 là năm có sự thay đổi lớn, theo đó,
Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi năm 2012 gồm 9.558 dòng thuế, tăng 1.258 dòng thuế. Trong số
9.558 dòng thuế này thì phải cắt giảm 945 dòng thuế theo cam kết WTO cho năm 2012 với
mức cắt giảm chủ yếu từ 1-3%, gồm các mặt hàng thủy hải sản, hoa quả, thực phẩm chế biến,
bánh kẹo, rượu, thuốc lá . Các chính sách thuế khác trong giai đoạn này.
- Năm 2008 chứng kiến một tần suất hiếm thấy trong điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu đối
với nhiều mặt hàng. Một mặt, những điều chỉnh này được thực hiện theo các cam kết thuế
quan giữa các nước thành viên khối ASEAN và theo lộ trình gia nhập WTO;
Mặt khác, đây cũng là ứng xử của nhà điều hành chính sách trước những biến động
mạnh và bất thường trên thị trường thế giới nhằm hỗ trợ cho sản xuất, bình ổn thị trường

trong nước, cũng như hỗ trợ các ngành hàng xuất khẩu. Thuế một loạt các mặt hàng nông sản,
đồ gỗ, sắt thép, xăng dầu, gas, ôtô, giấy, nguyên vật liệu cho sản xuất… liên tục được điều
chỉnh; điển hình như thuế xuất khẩu thép(tăng lên 20% sau đó lại giảm về 10%), thuế nhập


khẩu xăng dầu giảm từ 5%-0% sau đó lại tăng 5% do dự đoán giá dầu thế giới tăng ảnh hưởng
đến giá xăng.
- Đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu : thực hiện điều chỉnh linh hoạt thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu trong khung thuế suất đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định, phù
hợp với diễn biến tình hình thị trường trong và ngoài nước và cam kết WTO; trong đó có
những mặt hàng điều chỉnh tăng để bảo hộ sản xuất trong nước, giảm nhập siêu như: điều
chỉnh tăng thuế hàng tiêu dùng không thiết yếu như ô tô.
Việc giảm thuế GTGT đầu ra đối với 19 nhóm hàng hoá, dịch vụ năm 2009 với số tiền
giảm 25.507 tỷ đồng nhằm mục tiêu kích thích tiêu dùng qua đó gián tiếp kích cầu đầu tư.
Tuy nhiên, việc giảm thuế GTGT đối với một số hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu chỉ giúp
doanh nghiệp nhập khẩu giảm được gánh nặng về tài chính qua đó giảm được giá bán cho
người tiêu dùng, nhưng lại gây sức ép rất lớn cho sản xuất trong nước vì tạo ra áp lực cạnh
tranh với hàng nhập khẩu
=> Trong năm 2009, nhà nước đã có những chính sách thuế phù hợp để hạn chế nhập siêu,
So với con số nhập siêu trên 18 tỷ USD của năm 2008, năm nay, chênh lệch thương mại quốc
tế đã được kiềm chế chỉ còn khoảng 2/3, đạt gần 12,25 tỷ USD.
- Biểu thuế năm 2012 có nhiều điểm thay đổi cả về danh mục hàng hóa và thuế suất. Cụ
thể có 87 nhóm mặt hàng xuất khẩu thay đổi biểu thuế gồm tài nguyên khoáng sản, như
quặng, đá, cát; mặt hàng kim loại, phế liệu kim loại, như vàng, sắt, đồng và một số mặt hàng
không khuyến khích xuất khẩu khác. Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng tiến hành giảm thuế nhập
khẩu của 87 dòng thuế là các nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được
hoặc để khắc phục bất hợp lý, bảo đảm phù hợp với mức thuế nhập khẩu thành phẩm. Trong
số 87 dòng thuế giảm, có 7 dòng thuế có mức giảm từ 1-2%, 80 dòng thuế có mức giảm
nhiều hơn.
- Về chính sách ân hạn thuế vẫn là 275 ngày nhưng kèm theo một số điều kiện bắt buộc

với doanh nghiệp: DN có cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu ở Việt Nam; có hoạt động xuất nhập
khẩu ít nhất 2 năm liên tục đến ngày đăng ký tờ khai hải quan mà không có hành vi gian lận
thương mại, trốn thuế, nợ thuế quá hạn; tuân thủ pháp luật kế toán, thống kê; thực hiện thanh
toán qua ngân hàng. Việc ràng buộc các điều kiện như vậy sẽ làm tăng tính cạnh tranh hơn
cho các DN thực hiện tốt và tuân thủ các quy định về kế toán, thuế và hải quan.
- Biểu thuế năm 2018 có nhiều điểm thay đổi về:


Bổ sung nguyên tắc kê khai tên hàng và mã hàng đối với các mặt hàng thuộc nhóm có
STT 211 “Vật tư, nguyên liệu, bán thành phẩm không quy định ở trên có giá trị tài nguyên,
khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên” tại Biểu
thuế xuất khẩu khi làm thủ tục hải quan và bổ sung 02 điều kiện xác định mặt hàng xuất khẩu
thuộc nhóm hàng có STT 211.
Sửa đổi, bổ sung quy định chi tiết về việc thực hiện thuế suất thuế nhập khẩu ngoài
hạn ngạch đối với các mặt hàng thuộc diện áp dụng hạn ngạch thuế quan chung và hạn ngạch
thuế quan riêng theo các Hiệp định FTAs.
Bổ sung quy định về Chương trình ưu đãi thuế nhập khẩu đối với linh kiện ô tô giai
đoạn 2018-2022: Nhằm góp phần phát triển ngành công nghiệp ô tô theo định hướng của
Chính phủ.
Sửa đổi thuế nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng: Tăng mức thuế nhập khẩu đối với xe đã
qua sử dụng phù hợp với mức cam kết WTO đối với xe ô tô chở người dưới 16 chỗ, giữ
nguyên thuế suất đối với xe ô tô chở người từ 16 chỗ trở lên và xe ô tô tải đã qua sử dụng. cụ
thể:
- Mức thuế tuyệt đối:
Đối với xe ô tô chở người từ 09 chỗ ngồi trở xuống (kể cả lái xe) có dung tích xi lanh không quá
1.000cc:
Thuộc nhóm mã số
Mô tả mặt hàng

trong Biểu thuế nhập


Mức thuế (USD)
Đơn vị tính

khẩu ưu đãi
- Loại dung tích xi lanh

8703

Chiếc

không quá 1.000 cc

10.000

- Mức thuế hỗn hợp đối với xe ô tô chở người từ 09 chỗ ngồi trở xuống (kể cả lái xe) có dung
tích xi lanh trên 1.000cc thuộc nhóm 87.03 và xe ô tô chở người từ 10 đến 15 chỗ ngồi (kể cả lái
xe) thuộc nhóm 87.02 trong Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi được xác định như sau:
Đối với xe ô tô chở người từ 09 chỗ ngồi trở xuống (kể cả lái xe) có dung tích xi lanh trên
1.000cc:


Thuộc nhóm mã hàng
Mô tả mặt hàng

trong Biểu thuế nhập

Đơn vị tính

Mức thuế (USD)


khẩu ưu đãi

- Ô tô (kể cả ô tô chở
người có khoang chở
hành lý chung, SUVs và

200% hoặc 150% +
8703

Chiếc

ô tô thể thao, nhưng

10.000USD, lấy theo mức
thấp nhất

không kể ô tô van)

- Xe khác:
+ Trên 1.000 cc nhưng
không quá 2.500cc:
+ Trên 2.500 cc:

8703

Chiếc

X + 10.000USD


8703

Chiếc

X + 15.000USD

Đối với xe ô tô từ 10 đến 15 chỗ ngồi (kể cả lái xe):
Thuộc nhóm mã số
Mô tả mặt hàng

trong Biểu thuế nhập

Đơn vị tính

Mức thuế (USD)

khẩu ưu đãi
- Dưới 2.500cc:

8702

Chiếc

X + 10.000

- Từ 2.500cc trở lên:

8702

Chiếc


X + 15.000

- X nêu tại điểm a, điểm b nêu trên được xác định như sau:
X = Giá tính thuế xe ô tô đã qua sử dụng nhân (x) với mức thuế suất của dòng thuế xe ô tô mới
cùng loại.


2.2. Đánh giá chung về việc áp dụng thuế quan trong chính sách ngoại thương
Việt Nam
Xét ở góc độ quốc gia đánh thuế thì thuế quan đã mang lại cho nước ta một nguồn thu
nhập. Nhưng đứng trên giác độ của toàn bộ nền kinh tế thì thuế quan lại làm giảm phúc lợi
chung do nó làm giảm hiệu quả khai thác nguồn lực của nền kinh tế. Nó làm thay đổi cán cân
thương mại, điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta. Bên cạnh những thành công đạt
được trong việc áp dụng thuế quan trong chính sách ngoại thương thì nó cũng mang lại những
hạn chế ảnh hưởng tiêu cực đến nước nước ta. Thuế quan cao ảnh hưởng đến khả năng cạnh
tranh của hàng hóa và làm giảm lượng hàng hóa tiêu thụ được. Thuế quan cao làm nạn buôn
lậu ngày càng tăng và phát triển. Thuế xuất khẩu làm tăng giá hàng hóa trên thị trường quốc tế
và giữ giá thấp hơn pử thị trường nội địa. Điều đó làm giảm lượng khách hàng ở nước ngoài
do họ cố gắng tìm kiếm các sản phẩm thay thế. Đồng thời nó không khích lệ các nhà sản sản
xuất trong nước áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ để tăng năng xuất, chất
lượng và giảm giá thành. Tuy nhiên, nếu khả năng thay thế thấp thì thuế xuất khẩu không làm
giảm nhiều khối lượng hàng hóa xuất khẩu và vẫn mang lại lợi ích đáng kể cho nước ta.
Ngoài ra, thuế quan nhập khẩu làm tăng giá hàng hóa do vậy khích lệ các nhà sản xuất trong
nước.
2.2.1. Thành công đạt được
Chính sách thuế xuất xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành đã có những tác động và đạt
được nhiều thành công tích cực cho Việt Nam. Cụ thể:
-Biểu thuế xuất khẩu và nhập khẩu hiện hành được xây dựng trên cơ sở danh mục điều hòa (HS)


1996 của Hội đồng hợp tác hải quan thế giới, đã từng bước đầu tạo điều kiện thuận lợi cho
việc phân loại hàng hóa dựa trên cấu tạo, đặc điểm của hàng hóa,… góp phần làm cho chính
sách thuế xuất nhập khẩu dần dần phù hợp với thông lệ quốc tế.
-Thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khấu cũng được thiết kế hợp lý hơn. Hiện nay đối với phần
lớn hàng xuất khẩu có thuế suất 0%, trừ một số mặt hàng như dầu thô, một số loại quặng và
sông mây. Thuế xuất khẩu được quy định ở 3 mực:
+ Thuế suất ưu đãi
+ Thuế suất thông thường
+ Thuế suất ưu đãi đặc biệt
Những loại thuế suất được áp dụng trong những trường hợp khác nhau tùy thuộc vào mức
độ quan hệ thương mại với các nước, tạo thuận lợi trong đàm phán về thuế, phù hợp với các
quy định quốc tế mà nước ta cam kết thực hiện. Theo tài liệu của Bộ thương mại, hiện nay


Việt Nam đã có thỏa thuận về đối xử ưu đã đặc biệt trong quan hệ thương mại với một số
nước trong khu vực: Brunie. Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore,
Thái Lan,… Nước ta đã có thỏa thuận đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với 172
nước trên thế giới (Kèm theo công văn số 8678/TCHQ-TXNK ngày 09/9/2016 của Tổng cục
Hải quan).
-Mức thuế nhập khẩu tối đa có xu hướng giảm. Ngoài việc giảm số lượng các mặt hàng chịu sự

quản lý giá tối thiểu của nhà nước nhà nước còn bỏ quy định áp dụng giá tối thiểu đối với tất
cả các mặt hàng nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
-Công tác quản lý thực thi chính sách thuế xuất nhập khẩu được hoàn thiện hơn. Từ ngày 2/7,

Quyết định 1780/QĐ-TCHQ ngày 17/6/2016 của Tổng cục Hải quan quy định Quy trình hoàn
thuế, không thu thuế, xét giảm thuế mới đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu bắt đầu có
hiệu lực, thay thế Quy trình hoàn thuế, không thu thuế, xét miễn thuế, xét giảm thuế xuất
khẩu, nhập khẩu ban hành kèm Quyết định 2424/QĐ-TCHQ ngày 27/11/2008. Quy trình này
áp dụng đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thuế tự vệ, thuế chống bán phá giá, thuế

chống trợ cấp; thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường và thuế giá trị gia tăng. Các thủ
tục hải quan được thực hiện nhanh chóng, công khai, đảm bảo thông thoáng, nhanh chóng và
thuận tiện tạo điều kiện tốt cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Do hệ thống chính sách, cơ chế quản lý trong lĩnh vực xuất nhập khẩu được cải tiến theo
hương ngày càng đơn giản, thông thoáng hơn đã có tác dụng tích cực thúc đẩy sản xuất tăng
nhanh và hướng nhập khẩu phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống.
Có thể nói rằng chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nước ta đã có tác động tích cực
trong việc quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu, mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao hiệu
quả hoạt động xuất nhập khẩu góp phần phát triển, bảo vệ sản xuất trong nước, hướng dẫn
tiêu dùng và tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.2.2.1. Hạn chế
Khó khăn lớn phải kể tới đầu tiên trong hệ thống thuế của Việt Nam là phải xây dựng lộ
trình cắt giảm thuế phù hợp với các nguyên tắc của WTO. Phải sử dụng thuế như một công cụ
kích thích và điều tiết sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp, gop phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hệ thống
chính sách thuế của Việt Nam mới được hình thành vào cuối những năm 80 cùng với việc


chuyển đổi cơ chế của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có nhiều
thành phần kinh tế.
Mặc dù đã từng bước được cải cách và hoàn thiện những hiện nay chính sách thuế vẫn còn
nhiều vướng mặc cần được sửa chữa sao cho phù hợp với các nguyên tắc của WTO.
-Về thuế suất thuế nhập khẩu: thuế nhập khẩu hiện nay với chức năng bảo vệ sản xuất trong nước

nên thuế suất thường xuyên được thay đổi cho phù hợp với những mặt hàng trong đã sản xuất
được do đó đã góp phần hỗ trợ tích cực cho sản xuất. Nhưng chính điều này đã tạo ra những
lệch lạc trong định hướng đầu tư trong nước, đặc biệt là trong quá trinh thu hút đầu tư nước
ngoài. Trong những năm qua, đầu tư nước ngoài đã thu hút được vào những ngành sản xuất
ra các sản phẩm có mức thuế bảo hộ cao, phục vụ cho nhu cầu của thị trường trong nước chứ

không nhằm chủ yếu vào xuất khẩu. Dó tính chất quản lý, điều hành xuất nhập khẩu còn
nhiều yếu kém nên có tình trạng khoảng 50% sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài không xuất khẩu mà cung ứng vào thị trường nội địa và đây là việc làm gây nên
khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước trong việc tiêu thụ sản phẩm. Điều này đã dẫn đến
vốn đầu tư này chưa thực sự góp phần tăng tiềm lực xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh của
nền kinh tế Việt Nam và đẩy nhanh được khả năng thâm nhập vào thị trường thế giới của Việt
Nam, gây lãng phí sử dụng nguồn vốn này.
-Trong quá trình thực thi pháp luật thuế xuất nhập khẩu, một số bất cập hạn chế đã được biểu hiện
cụ thể như sau:
+ Thứ nhất, các văn bản pháp luật quy định về thuế xuất nhập khẩu còn thiếu tính ổn định,
rõ ràng làm cho chính sách thuế không minh bạch và doanh nghiệp bị động khi có sự thay đổi
về thuế, chưa xác định một cơ chế phối hợp cụ thể giữa các cơ quan quản lý nhà nước với
doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong quá trình tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu.
+ Thứ hai, quy định mức thuế suất vừa theo phân loại hàng hoá, vừa theo xuất xứ làm cho
biểu thuế quá phức tạp và dẫn đến nhiều mức thuế cho cùng một mặt hàng. Thuế nhập khẩu
bao gồm nhiều thứ thuế, cả thuế doanh thu và thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng nên
thuế suất rất cao (như rượu, bia từ 100-150%, ô tô từ 50%-200%…). Tuy có thuận tiện là tập
trung nhưng không phù hợp với thông lệ quốc tế, dễ bị hiểu lầm là hạn chế hàng nước ngoài
nhập khẩu vào Việt Nam.
+ Thứ ba, việc ban hành biểu thuế với nhiều thứ thuế suất cao, thấp còn căn cứ vào mục
đích sử dụng chứ không theo tính chất hàng hóa nên nhiều mặt hàng có cùng tính chất nhưng
mục đích sử dụng khác nhau có thuế suất nhập khẩu chênh lệch khá lớn như: Xe đua(thuế suất


5%), xe đạp thường (70%), ôtô 4 chỗ (200%), xe cứu thương (0%)…Cho nên nhiều doanh
nghiệp đã lợi dụng điều này để thực hiện hành vi gian lận thương mại, trốn thuế. Thủ thuật
quan trọng nhất để trốn thuế là hạ thấp giá trị hàng nhập khẩu để hạ thấp giá trị tính thuế hay
hạ quy cách kê khai để hưởng mức thuế suất thấp hơn đã trở nên phổ biến với hàng hoá có
đơn giá lớn và thuế suất cao như: xe hơi, rượu mạnh…Điển hình là các doanh nghiệp nhập
khẩu xe tải nhẹ nhưng nguỵ trang dưới hình thức là nhập khẩu xe đông lạnh chuyên dụng để

trốn thuế từ 60% xuống còn 10% hay xe ôtô du lịch thì được lắp thêm đèn, còi thành xe cứu
thương để được hoàn thuế.
+ Thứ tư, khi gia nhập WTO thì việc duy trì hàng rào thuế xuất khẩu sẽ không đưa lại
nguồn thu cho Ngân sách nhà nước, không khuyến khích hoạt động xuất khẩu.Vì vậy, quy
định thuế suất xuất khẩu ngoài mức 0% là cần xem xét sửa đổi cho phù hợp với tình hình kinh
tế thương mại quốc tế.
+ Thứ năm, quy định trong việc nộp thuế nhập khẩu nguyên liệu, phụ liệu để sản xuất hàng
xuất khẩu và hoàn trả thuế xuất khẩu cũng còn hạn chế, bất hợp lý. Với biểu thuế từ 30%-40%
cho những lô hàng nguyên liệu, phụ liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, trong thời gian nộp thuế
30 ngày thì cơ sở sản xuất sẽ không đủ vốn để tạm ứng nộp thuế, vì khi nguyên liệu về, cơ sở
phải lo triển khai sản xuất trong thời gian vài tháng thậm chí có lô kéo dài tới nửa năm.
+ Thứ sáu, việc thực hiện thuế xuất nhập khẩu tiểu ngạch biên giới còn bất hợp lý. Điều
này được thể hiện ở chỗ: Thông thường thì các mặt hàng Việt Nam xuất sang Trung Quốc là
những mặt hàng khuyến khích xuất khẩu như than số 11, 12; chuối xanh, tiêu, điều, ớt, dừa…
Với số lượng ít, kém chất lượng, những mặt hàng khó xuất sang theo con đường chính ngạch.
Nhưng xuất khẩu theo con đường tiểu ngạch phải chịu mức thuế suất là 5%, cao hơn xuất
khẩu chính ngạch… Chính thuế nhập khẩu đánh vào hàng nguyên liệu đầu vào đã làm tăng
giá cả hàng sản xuất và xuất khẩu trong nước, làm giảm khả năng cạnh tranh hàng hoá của ta
trên trường quốc tế. Như vậy thuế xuất đó là một lực cản kìm hãm xuất khẩu của các doanh
nghiệp trong nước.
-Hệ thống chính sách thuế hiện này vẫn còn nhiều phức tạp thiếu tính ổn định, làm cho chi phí

quản lý thu thuế lớn, ảnh hưởng tới hiệu quả thu thuế, tạo điều kiện cho việc trốn thuế, bóp
méo hệ thống thuế. Đồng thời, nó làm mất định hướng nhà đầu tư, bóp méo sự lựa chọn của
người sản xuất và vi phạm một sô nguyên tắc của thông lệ quốc tế.
-Còn thiếu sự kết hợp hài hòa giữa các sắc thể trong hệ thống chính sách thuế, giữa mục tiêu số
thu cho ngân sách và múc tiêu kích thích sản xuất phát triển và điều tiết vĩ mô nền kinh tế
thông qua từng sắc thể.



-Sự quá tải của hệ thống quản lý thuế hiện nay không chỉ cho thấy sự gia tăng về quy mô và tính

phức tạp của hệ thống thuế mà còn là sự lạc hậu của mô hình quản lý thuế cũ không theo kịp
với sự phát triên nhanh chóng của nền kinh tế.
2.2.2.2. Nguyên nhân
-Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của Việt Nam mặc dù đã được sửa đổi nhiều lần những vẫn
chưa đồng bộ, nội dung chưa bao quat được hết các đối tượng và nguồn thu. Thuế nhập khẩu
ở nước ta vừa đánh theo tính chất hàng hóa, vừa đánh theo mục đích sử dụng dễ tạo sơ hở, bất
hợp lý để cho các đối tượng bất chính triệt để lợi dụng. So với các nước khác, biểu thuế của
Việt Nam vẫn còn nhiều phức tạp.
-Vấn đề nợ thuế kéo dài, cơ chế quản lý hàng tạm nhập tái xuất, hoàn thuế VAT cùng thủ tục
thanh lập, giải thể công ty lỏng lẻo,… là những sơ hở để các đối tượng xấu triệt để khai thác
trốn thuế. Đặc biệt chính sách ân hạn thời gian nộp thuế nhưng không có chế tài ràng buộc
làm cho chây ỳ, chiến đoạt tiền thuế xuất nhập khẩu.
-Trình độ nhận thức và thái độ chấp hành của người nộp thuế xuất nhập khẩu. Người nộp thuế
chính là đối tượng trực tiếp thực hiện chính sách, luật lệ về thuế xuất nhập khẩu. Vì vậy trình
độ nhận thức và hái độ chấp hành nghĩa vụ thuế của họ dóng vai trò quyết định trong việc thu
thuế và chống thất thu thuế.

Chương III: Định hướng và một số giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện việc áp dụng
thuế quan trong chính sách ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới
3.1. Định hướng và mục tiêu đối với việc áp dụng thuế quan trong chính sách ngoại
thương Việt Nam trong thời gian tới
3.1.1. Chiến lược xuất nhập khẩu và chính sách ngoại thương trong giai đoạn 2016 –
2020 và định hướng đến 2030 (Theo quyết định 2471-QD-TTg về phê duyệt chiến lược xuất
nhập khẩu hàng hóa)
3.1.1.1. Chiến lược xuất nhập khẩu
3.1.1.1.1. Quan điểm chiến lược xuất nhập khẩu
Phát triển sản xuất để tăng nhanh xuất khẩu, đồng thời đáp ứng nhu cầu trong nước; khai
thác tốt lợi thế so sánh của nền kinh tế, nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh xuất nhập

khẩu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giải quyết việc
làm và tiến tới cân bằng cán cân thương mại.


Xây dựng, củng cố các đối tác hợp tác chiến lược để phát triển thị trường bền vững; kết
hợp hài hòa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của quốc gia, lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị
- đối ngoại, chủ động và độc lập tự chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu. Tích cực và chủ động tham gia vào mạng lưới sản
xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; chú trọng xây dựng và phát triển hàng hóa có giá trị gia tăng
cao, có thương hiệu trên thị trường trong và ngoài nước.
3.1.1.1.2. Mục tiêu phát triển
3.1.1.1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đến năm 2020 tăng gấp trên 3 lần năm 2010, bình
quân đầu người đạt trên 2.000 USD, cán cân thương mại được cân bằng.
3.1.1.1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Giai đoạn 2016 – 2020 tăng trưởng bình quân 11%/năm. Duy trì tốc độ tăng trưởng
khoảng 10% thời kỳ 2021 – 2030.
- Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu thấp hơn tăng trưởng xuất khẩu; tốc độ tăng trưởng nhập
khẩu hàng hóa bình quân 10 – 11%/năm trong thời kỳ 2011 – 2020.
- Giảm dần thâm hụt thương mại, duy trì thặng dư thương mại thời kỳ 2016 – 2030.
3.1.1.1.3. Định hướng xuất khẩu
3.1.1.1.3.1. Định hướng chung
- Phát triển xuất khẩu theo mô hình tăng trưởng bền vững và hợp lý giữa chiều rộng và
chiều sâu, vừa mở rộng quy mô xuất khẩu, vừa chú trọng nâng cao giá trị gia tăng xuất khẩu.
- Chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu một cách hợp lý theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tập trung nâng nhanh tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao, sản
phẩm chế biến sâu, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, sản phẩm thân thiện với môi
trường trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu.
3.1.1.1.3.2. Định hướng phát triển ngành hàng
- Nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản (là nhóm hàng có lợi thế về tài nguyên nhưng bị giới

hạn nguồn cung): Có lộ trình giảm dần xuất khẩu khoáng sản thô; đầu tư công nghệ để tăng
xuất khẩu sản phẩm chế biến, tận dụng các cơ hội thuận lợi về thị trường và giá cả để tăng giá
trị xuất khẩu. Định hướng tỷ trọng nhóm hàng này trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu từ 11,2%
năm 2010 xuống còn 4,4% vào năm 2020.


- Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản (là nhóm hàng có lợi thế và năng lực cạnh tranh dài hạn
nhưng giá trị gia tăng còn thấp): Nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng; chuyển
dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu hướng mạnh vào chế biến sâu, phát triển sản phẩm xuất khẩu
có ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến. Định hướng tỷ trọng nhóm hàng này trong cơ cấu
hàng hóa xuất khẩu từ 21,2% năm 2010 xuống còn 13,5% vào năm 2020.
- Nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo (là nhóm hàng có tiềm năng phát triển và thị
trường thế giới có nhu cầu): Phát triển sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao;
phát triển công nghiệp hỗ trợ, nâng cao tỷ lệ giá trị trong nước, giảm phụ thuộc vào nguyên
phụ liệu nhập khẩu. Định hướng tỷ trọng nhóm hàng này trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu từ
40,1% năm 2010 tăng lên 62,9% vào năm 2020.
- Nhóm hàng mới (nằm trong nhóm hàng hóa khác): Rà soát các mặt hàng mới có kim
ngạch hiện nay còn thấp nhưng có tiềm năng tăng trưởng cao trong thời gian tới để có các
chính sách khuyến khích phát triển, tạo sự đột phá trong xuất khẩu. Định hướng tỷ trọng trong
cơ cấu hàng hóa xuất khẩu từ 12% năm 2010 tăng lên 19,2% vào năm 2020.
3.1.1.1.3.3. Định hướng phát triển thị trường
- Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; củng cố và mở rộng thị phần hàng hóa Việt Nam tại thị
trường truyền thống; tạo bước đột phá mở rộng các thị trường xuất khẩu mới có tiềm năng.
- Phát huy vai trò, vị thế của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế, khu vực và tăng cường
hoạt động ngoại giao kinh tế để mở rộng thị trường xuất khẩu; phát triển hệ thống cơ quan
xúc tiến thương mại tại các khu vực thị trường lớn và tiềm năng; tăng cường bảo vệ hàng hóa
và doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới.
- Tận dụng tốt các cơ hội mở cửa thị trường của nước ngoài và lộ trình cắt giảm thuế quan
để đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang các thị
trường đã ký FTA.

- Tổ chức xây dựng và từng bước phát triển hệ thống phân phối hàng Việt Nam tại thị
trường nước ngoài.
- Định hướng về cơ cấu thị trường đến năm 2020: châu Á chiếm tỷ trọng khoảng 46%,
châu Âu khoảng 20%, châu Mỹ khoảng 25%, châu Đại Dương khoảng 4% và châu Phi
khoảng 5%.
3.1.1.1.4. Định hướng nhập khẩu


- Chủ động điều chỉnh nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa, đồng thời phát triển sản
xuất nguyên, nhiên, phụ liệu phục vụ các ngành hàng xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu trong nước
và phát triển công nghiệp hỗ trợ, kiểm soát chặt việc nhập khẩu các mặt hàng không khuyến
khích nhập khẩu, góp phần giảm nhập siêu trong dài hạn.
- Đáp ứng yêu cầu nhập khẩu nhóm hàng máy móc thiết bị và công nghệ cao phù hợp với
nguồn lực, trình độ sản xuất trong nước và tiết kiệm năng lượng, vật tư; định hướng nhập
khẩu ổn định cho các ngành sản xuất sử dụng các nguyên, nhiên, vật liệu mà khai thác, sản
xuất trong nước kém hiệu quả hoặc có tác động xấu đến môi trường.
- Đa dạng hóa thị trường nhập khẩu, cải thiện thâm hụt thương mại với các thị trường Việt
Nam nhập siêu.
3.1.1.2 Chính sách ngoại thương
Bước vào năm 2018, là thời điểm một số chính sách mới có hiệu lực, liên quan và có tác
động trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu (XNK), sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp
(DN); trong đó, tiêu biểu là Luật Quản lý ngoại thương và Nghị định 125/2017/NĐ-CP
3.1.1.2.1. Nội dung cơ bản của luật quản lý ngoại thương:
3.1.1.2.1.1. Về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng:
Luật Quản lý ngoại thương điều chỉnh chủ yếu công tác quản lý nhà nước về ngoại thương
bao gồm: các biện pháp quản lý, điều hành hoạt động ngoại thương có liên quan đến mua bán
hàng hóa quốc tế; không điều chỉnh, can thiệp vào các hoạt động cụ thể của thương nhân, giữa
các thương nhân với nhau; chỉ điều chỉnh đối tượng là hàng hóa, không điều chỉnh đối tượng
dịch vụ.
3.1.1.2.1.2. Về nguyên tắc quản lý nhà nước về ngoại thương, quyền tự do kinh doanh

xuất khẩu, nhập khẩu và trách nhiệm quản lý nhà nước về ngoại thương
Nguyên tắc chủ yếu
- Nhà nước quản lý ngoại thương theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc
tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.


- Bảo đảm minh bạch, công khai, bình đẳng, đơn giản hóa thủ tục hành chính; bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, thương nhân thuộc các thành phần kinh tế; thúc đẩy
phát triển sản xuất trong nước và xuất khẩu, gắn với quản lý nhập khẩu
Trong bối cảnh, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, lần đầu tiên, Luật
đã khẳng định quyền tự do kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu của thương nhân chỉ bị hạn chế
nếu thuộc các trường hợp mà Luật quy định biện pháp cấm, tạm ngừng hoặc hạn chế xuất
khẩu, nhập khẩu
- Về trách nhiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngoại thương, Luật quy định các nội
dung quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngoại thương theo đó giao nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể
cho Bộ Công Thương, các bộ, chính quyền địa phương phù hợp với các biện pháp quản lý quy
định trong Luật này và theo nguyên tắc "một biện pháp do một cơ quan đầu mối phụ trách".
3.1.2. Định hướng và mục tiêu đối với việc áp dụng thuế quan trong thời gian tới


3.1.2.1. Định hướng đối với việc áp dụng thuế quan trong thời gian tới
Triển khai thực hiện Luật Thuế Xuất Nhập khẩu 2016
Ngày 06/4/2016, Quốc Hội đã thông qua dự án Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (sửa
đổi). Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/9/2016.
Một trong những nội dung được sửa đổi trong Luật Thuế xuất nhập khẩu sửa đổi là nhóm
vấn đề về khuyến khích phát triển và bảo hộ hợp lý sản xuất kinh doanh trong nước phù hợp
định hướng phát triển của Đảng, Nhà nước và các cam kết quốc tế đã ký kết, cụ thể gồm:
+ Bổ sung một số nội dung quy định về thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp, thuế tự vệ
để góp phần bảo vệ sản xuất trong nước trong điều kiện hội nhập quốc tế trên cơ sở kế thừa,
nâng cấp một số quy định của các Pháp lệnh liên quan

+ Sửa đổi nguyên tắc ban hành Biểu thuế, thuế suất
+ Sửa đổi thẩm quyền ban hành Biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và khung thuế suất
Luật thuế xuất nhập khẩu sửa đổi quy định: UBTVQH ban hành mức thuế suất tối thiểu
cho từng phân nhóm hàng thuộc danh mục nhóm hàng chịu thuế xuất khẩu; Thủ tướng Chính
phủ căn cứ vào các nguyên tắc được nêu tại dự thảo Luật và mức thuế suất tối thiểu do
UBTVHQ ban hành để quy định biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu đối với từng mặt


hàng; quyết định áp dụng mặt hàng và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu
ngoài hạn ngạch thuế quan, đối với từng mặt hàng trong trường hợp cần thiết.
Như vậy, kể từ 01/9/2016, hệ thống văn bản pháp luật quy định thuế xuất-nhập khẩu ưu đãi
của Việt Nam (MFN) sẽ dưới dạng Nghị định của Chính phủ.
Tương tự với Biểu thuế xuất-nhập khẩu ưu đãi của Việt Nam, trong thời gian tới, thuế nhập
khẩu và xuất khẩu ưu đãi đặc biệt thực hiện cam kết của Việt Nam trong các FTA như đã nêu
ở trên sẽ được quy định tại các Nghị định của Chính phủ. Bên cạnh đó là các Nghị định của
Chính phủ quy định lượng hạn ngạch đối với ô tô cũ theo cam kết của Việt Nam trong TPP
(Bộ Công Thương là đơn vị chủ trì xây dựng).

• Phát huy vai trò của các Ủy ban thực thi Hiệp định
• Tiếp tục đàm phán Hiệp định mới và nâng cấp các Hiệp định đã có
• Rà soát theo dõi phân tích diễn biến xuất nhập khẩu
• Sử dụng công cụ phòng vệ thương mại
• Tăng cường kiểm tra xuất xứ hàng hóa đối với hàng hóa XNK; phát huy vai trò Ban Chỉ đạo
quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả (Ban 389)

• Điều chỉnh chính sách thu trong nước, tăng cường vai trò của nguồn thu nội địa
3.1.2.2 Mục tiêu đối với việc áp dụng thuế quan trong thời gian tới
Các chỉ tiêu quan trọng về kinh tế đã được đặt ra gồm:
+ Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD
+ Bội chi NSNN khoảng 4% GDP

+ Phấn đấu tỷ lệ huy động vào NSNN trên GDP giai đoạn 2016-2020 bình quân khoảng
20-21% GDP. Trong đó từ thuế, phí khoảng 19-20% GDP.


×