Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

tiểu luận đạo đức nghề nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.29 KB, 15 trang )


LỜI NÓI ĐẦU
Mỗi con người đã lựa chọn cho mình một nghề nào đó thì dù trong hoàn
cảnh nào cũng nên hết lòng vì nghề và sống bằng nghề. Nghề không chỉ
là phương tiện để sống mà còn là điều kiện, là địa bàn mà qua đó, mỗi
người có thể cống hiến sức lực và trí tuệ cho xã hội. Khi mới 17 tuổi,
trong luận văn tốt nghiệp trung học, C.Mác đã thể hiện bản lĩnh của
mình khi viết rằng, “nếu ta chọn một nghề trong đó ta có thể làm việc
được nhiều hơn cho nhân loại, thì ta không còng lưng dưới gánh nặng
của nó, bởi vì đó là sự hy sinh vì mọi người. Những việc làm của ta sẽ
sống một cuộc sống âm thầm nhưng mãi mãi có hiệu quả, và trên thi hài
của chúng ta sẽ nhỏ xuống những giọt nước mắt nóng bỏng của những
con người cao quý

Để có được thành công trong sự nghiệp cá nhân, hoạt động nghề nghiệp
của mỗi người trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng đều đòi hỏi phải có những
chuẩn mực đạo đức mà ta gọi là đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề
nghiệp là những quan điểm, quy tắc và chuẩn mực hành vi đạo đức xã
hội đòi hỏi phải tuân theo trong hoạt động nghề nghiệp, có tính đặc
trưng của nghề nghiệp. Trong xã hội có bao nhiêu nghề thì có bấy nhiêu
thứ đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp là đạo đức xã hội được
thể hiện một cách đặc thù, cụ thể trong các hoạt động nghề nghiệp. Với
tính cách là một dạng của đạo đức xã hội, nó có quan hệ chặt chẽ với
đạo đức cá nhân và thể hiện thông qua đạo đức cá nhân. Đồng thời, do
liên quan với hoạt động nghề và gắn liền với một kiểu quan hệ sản xuất
trong một giai đoạn lịch sử nhất định nên đạo đức nghề nghiệp cũng
mang tính giai cấp, tính dân tộc. Chẳng hạn, đạo đức nghề y (y đức) từ
thời cổ đại đến nay đều có những chuẩn mực chung, lấy việc cứu người
làm điều thiện, nhưng người thày thuốc dưới chế độ xã hội chủ nghĩa
nâng những giá trị đạo đức đó lên phù hợp với đạo đức của con người xã



hội chủ nghĩa. Đạo đức nghề nghiệp mang tính giai cấp nên quan điểm
về nghề nghiệp, thái độ đối với nghề nghiệp trong mỗi chế độ xã hội
cũng khác nhau.


I.

ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
1. Đạo đức
a. Khái niệm

Đạo đức Là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dự luận và xã hội thừa
nhận, quy định hành vi quan hệ của mọi người và xã hội.
b. Một số phạm trù cơ bản của đạo đức
Nghĩa vụ
Nghĩa vụ là trách nhiệm của cá nhân đối với nhu cầu, lợi ích chung của
cộng đồng, xã hội. Có hai loại nghĩa vụ cơ bản là nghĩa vụ đạo đức và
nghĩa vụ pháp lý. Khi nhu cầu, lợi ích cá nhân nảy sinh mâu thuẫn với
nhu cầu lợi ích xã hội, cá nhân phải biết hi sinh cái riêng vì cái chung;
Xã hội có trách nhiệm bảo đảm cho sự thoả mãn nhu cầu, lợi ích của cá
nhân.
Lương tâm
Lương tâm có thể được hiểu như tiếng nói bên trong đầy quyền uy chỉ
dẫn, thôi thúc con người ta làm những điều tốt, ngăn cản, chỉ trích làm
những điều xấu.
Theo quan điểm biện chứng của đạo đức học thì lương tâm là ý thức
trách nhiệm và tình cảm đạo đức của cá nhân về sự tự đánh giá những
hành vi, cách cư xử của mình trong đời sống xã hội. Sự hình thành lương
tâm là quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao trong quá trình lao

động sản xuất và giao tiếp xã hội. Có thể nêu ra các mức độ phát triển
của lương tâm như sau:


Ý thức về cái cần phải làm do sự sợ hãi bị trừng phạt bởi thiết chế
xã hội hoặc ý niệm tâm linh.



Ý thức về cái cần phải làm, cần phải tránh vì xấu hổ trước người
khác và trước dư luận xã hội.



Ý thức về cái cần phải làm vì xấu hổ với bản thân. Khi cá nhân xấu
hổ với bản thân, với những hành vi của mình là bước đầu của cảm


giác lương tâm. Từ cảm giác đó đến sự phán xét các suy nghĩ, hành vi
của mình thì đó chính là lương tâm. Vì thế lương tâm có quan hệ chặt
chẽ với ý thức nghĩa vụ của con người.
Khi con người làm những điều xấu, độc ác thì lương tâm cắn rứt. Trái lại
khi cá nhân làm những điều tốt, cao thượng thì lương tâm thanh thản. Do
vậy, trong cấu trúc của lương tâm tồn tại khái niệm xấu hổ, hối hận. Giữ
cho lương tâm trong sạch là một tiêu chí hạnh phúc và tiêu chí sống của
con người
Thiện và Ác
Thiện và Ác là cặp phạm trù đối lập nhau trong mọi thời đại, là thước đo
đời sống đạo đức của mọi cá nhân. Thiện và Ác cũng là phạm trù cơ bản
làm thước đo đời sống đạo đức của con người.

Cái Thiện là cái tốt đẹp biểu hiện lòng nhân ái của con người trong cuộc
sống hàng ngày. Đó chính là hành vi thể hiện lợi ích của cá nhân phù
hợp với yêu cầu và sự tiến bộ xã hội. Cái thiện phải được thể hiện qua
việc góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, đem lại lợi ích cho mọi người
trong xã hội. Hồ Chí Minh đã nói: "Việc thiện thì dù nhỏ đến mấy cũng
làm, việc ác thì dù nhỏ đến mấy cũng tránh" (Hồ Chí Minh, Về vấn đề
giáo dục, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1990, tr. 55). Là cái thiện là
phấn đấu cho cuộc sống của con người ngày càng trở nên cao thượng
hơn, tốt đẹp hơn và giàu tính nhân văn hơn.
Cái Ác là cái đáng ghét, ghê tởm, cái cần phải gạt bỏ trong đời sống cá
nhân và xã hội. Cái ác làm mất đi cái văn minh, cao thượng của cuộc
sống con người. Quan điểm về thiện và ác mang tính lịch sử và có thể
hoán đổi cho nhau. Cái thiện và ác được chúng ta đánh giá tuỳ vào nó có
thúc đẩy hay cản trở sự phát triển của xã hội, hạnh phúc của con người.
[8]

2. Đạo đức nghề nghiệp là gì?
Đạo đức nghề nghiệp là một nhánh trong hệ thống đạo đức xã hội, là
một loại đạo đức đã được thực tiễn hoá. Lương tâm nghề nghiệp là sự tự


phán xét, tự ý thức về trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp. Nghĩa vụ đạo
đức nghề nghiệp và lương tâm nghề nghiệp có quan hệ mật thiết với
nhau. Đánh mất ý thức về nghĩa vụ đạo đức là đánh mất ý thức về bản
thân mình, làm mất ý nghĩa làm người cũng như giá trị động lực của lao
động. Do vậy, giáo dục đạo đức nghề nghiệp chính là để hình thành nhân
cách nghề nghiệp của mỗi chủ thể; hướng con người vươn tới những giá
trị chân, thiện, mỹ trong hoạt động nghề nghiệp.
3. Giá trị qua các thời kỳ
Dưới chế độ phong kiến, trong “bách nghệ” thì “vạn ban giai hạ phẩm,

duy hữu độc thư cao”, nghĩa là, vinh quang thuộc về tầng lớp lao động
trí óc, còn quần chúng nhân dân – người lao động chân chính, sáng tạo
ra các giá trị vật chất, tinh thần cho xã hội – thì bị coi là “dân ngu”.
Nhân dân lao động do bị ảnh hưởng của đạo đức phong kiến nên cũng có
những quan niệm sai lầm về lao động, về nghề nghiệp. Đối với họ, học
nghề, khổ luyện nghề không phải do yêu cầu của việc phát triển nghề,
đáp ứng yêu cầu của xã hội, phục vụ xã hội mà là để “vinh thân”, “phì
gia”, nghĩa là, luyện nghề cho giỏi để phục vụ cho lợi ích cá nhân. Vì
thế, nhiều người hành nghề chỉ để thoả mãn lợi ích cá nhân của mình mà
xem nhẹ, thậm chí bất chấp cả lợi ích của người khác, của xã hội.
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, như C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận xét
trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản rằng, giai cấp tư sản không để lại
một mối quan hệ nào khác ngoài cái lối trả tiền ngay không tình, không
nghĩa; rằng, nó đã dìm những xúc động thiêng liêng của lòng sùng đạo,
của nhiệt tình hiệp sĩ, của cảm tình tiểu tư sản xuống dòng nước giá lạnh
của sự tính toán ích kỷ, biến những phẩm giá của con người thành một
giá trị trao đổi đơn thuần. Với tư tưởng thực dụng, giai cấp tư sản coi lao
động chỉ là phương tiện làm ra lợi nhuận và sức lao động của giai cấp vô
sản chỉ là một thứ hàng hoá mà chúng có thể mua bán, đổi chác. Trong
xã hội đó, nghề nghiệp làm cho giai cấp vô sản giống như một bộ phận
của máy móc, năng lực phát triển một cách què quặt và không có hứng
thú với nghề. Trong hoạt động bản năng của loài vật, họ cảm thấy mình


là người, còn khi làm việc của con người thì thấy mình là con vật
(C.Mác).
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, đạo đức nghề nghiệp có vai trò xã hội to
lớn. Nó không chỉ là một nhánh đặc sắc của hệ thống đạo đức xã hội, mà
còn là một cấp độ phát triển đạo đức tiêu biểu, một loại đạo đức đã được
thực tiễn hoá. Chẳng hạn, trong quá trình xây dựng đạo đức mới xã hội

chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, mỗi thành viên cần xác định rằng sự yêu
nghề, chân thành giữ chữ tín, làm việc hợp đạo lý, có hiệu quả, năng suất
cao nhằm phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc ngày càng tốt hơn, nhiều
hơn… là những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Trong đó, linh hồn của
đạo đức nghề nghiệp là tinh thần tận tuỵ phục vụ nhân dân, sự trung
thành với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được quán triệt, cụ thể hoá và biểu
hiện bằng thực tiễn ở tất cả các mặt của đạo đức nghề nghiệp.
Trong cuộc đời của một con người, khoảng 1/2 thời gian là hoạt động
nghề nghiệp (có người gần như suốt cuộc đời). Những thành công (và cả
những thất bại) của đời người chủ yếu được bắt nguồn từ hoạt động
nghề nghiệp. Vinh quang và cay đắng, danh dự và tủi nhục trong cuộc
đời ít nhiều đều liên quan đến vấn đề đạo đức nghề nghiệp của mỗi con
người. Những con người gương mẫu, say mê trong lao động nghề
nghiệp, mô phạm về mặt đạo đức luôn được xã hội, cộng đồng tôn trọng
và kính yêu. Tựu trung lại, lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ, sự yêu –
ghét, sự tốt – xấu, tính thiện - ác của mỗi người đều được thể hiện tập
trung qua hoạt động nghề nghiệp.
4. Đạo đức nghề nghiệp và lương tâm nghề nghiệp
Nói đến đạo đức nghề nghiệp là phải nói tới lương tâm nghề nghiệp.
Lương tâm nghề nghiệp là biểu hiện tập trung nhất của ý thức đạo đức
cá nhân trong thực tiễn; nó vừa là dấu hiệu vừa là thước đo sự trưởng
thành của đời sống đạo đức cá nhân. Mỗi con người với tư cách một chủ
thể đạo đức đã trưởng thành bao giờ cũng biểu hiện là người sống có
lương tâm, mà rõ nét nhất là trong hoạt động nghề nghiệp của họ. Lương
tâm nghề nghiệp là ý thức trách nhiệm của chủ thể đối với hành vi của
mình trong hoạt động nghề nghiệp, là thái độ và cách ứng xử của người
làm nghề trước lợi ích của người khác, của xã hội; là sự tự phán xử về


các hoạt động, các hành vi nghề nghiệp của mình. Theo Đêmôcrít – nhà

triết học Hy Lạp cổ đại – lương tâm chính là sự tự hổ thẹn, nghĩa là hổ
thẹn với bản thân mình. Sự hổ thẹn giúp cho con người tránh được ý
nghĩ, việc làm sai trái. Do vậy, ông cho rằng, cần phải dạy cho con người
biết hổ thẹn, nhất làm hổ thẹn trước bản thân mình. Nếu làm được như
vậy thì sẽ giữ vững và nâng cao được đời sống đạo đức cá nhân và cộng
đồng. Trong hoạt động nghề nghiệp nếu không biết tự hổ thẹn, sẽ không
nâng cao được tay nghề và kết quả của hoạt động nghề nghiệp không
những không có tác dụng, mà ngược lại, còn ảnh hưởng xấu đối với xã
hội. Lương tâm nghề nghiệp không phải là cảm xúc nhất thời, hời hợt
mà là kết quả của một quá trình nhận thức sâu sắc thông qua hoạt động
nghề nghiệp của một con người (hoặc của những người có cùng nghề
nghiệp) đối với nhu cầu, đòi hỏi của xã hội và sự tồn tại, phát triển của
nghề nghiệp.
Như chúng ta đã biết, tình cảm là yếu tố quan trọng trong quá trình
chuyển hoá từ tri thức đạo đức thành hành vi đạo đức đúng đắn. Nếu
không có tình cảm đạo đức trong sáng, lành mạnh sẽ dễ dẫn đến hành vi
phản đạo đức dù rằng có thể “rất hiểu biết về đạo đức”. Trong cấu trúc
đạo đức, lương tâm là ý thức, là tình cảm, là sự thôi thúc bên trong đối
với các chủ thể trước nghĩa vụ của mình. Lương tâm giữ chức năng tình
cảm của nghĩa vụ đạo đức.
Nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp và lương tâm nghề nghiệp luôn luôn có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp là trách
nhiệm của người làm nghề trước xã hội và trước người khác, còn lương
tâm là sự tự phán xét, tự ý thức về trách nhiệm đó. Vì thế, có thể nói
rằng, ý thức về nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp là nền tảng, là cơ sở để
hình thành lương tâm nghề nghiệp của mỗi người.
Trong đạo đức nghề nghiệp cũng như đạo đức nói chung, trạng thái
khẳng định của lương tâm có vai trò nâng cao tính tích cực của con
người, giúp cho con người tin tưởng vào mình trong quá trình hoạt động
nghề nghiệp. Niềm tin tưởng đó là động lực bên trong thôi thúc con

người vươn tới cái thiện, cái tốt đẹp, cái cao cả; loại trừ cái xấu, cái nhỏ
nhen, ty tiện nhằm làm cho xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Thật bất hạnh


đối với những kẻ làm điều ác cho người khác mà không bị lương tâm
cắn dứt, dằn vặt. Chẳng hạn, buôn bán gian lận, bán hàng giả hoặc cậy
chức, cậy quyền đẩy người khác vào đường cùng… mà “lương tâm” của
những kẻ đó vẫn không hề gợn lên một chút day dứt trước tình đồng
loại.
Muốn giữ được đạo đức nghề nghiệp, trước hết phải giữ được lương tâm
nghề nghiệp, bởi vì, làm điều ác lần thứ nhất thì lương tâm còn dằn vặt,
cắn dứt nhưng điều ác được lặp lại thì lương tâm biến mất. Lúc đó cũng
là thời điểm báo trước sự đổ vỡ của lòng tự tin, lòng tự trọng nghề
nghiệp.
Trong thực tiễn đạo đức, người có lương tâm trong sạch là người có khả
năng tự ý thức và đánh giá được bản chất lương thiện của chính mình.
Ngược lại, mọi giá trị đạo đức sẽ tiêu tan khi chủ thể không còn cảm
giác về lương tâm trước những việc làm sai trái của bản thân.
Để giữ gìn uy tín nghề nghiệp trong xã hội, những người có hành vi trái
với lương tâm nghề nghiệp sẽ bị người hoạt động cùng nghề phê phán;
đồng thời, dư luận xã hội sẽ lên án và thậm chí, pháp luật sẽ trừng trị.
Chỉ có sự phê phán mạnh mẽ của dư luận xã hội, sự trừng phạt thích
đáng của pháp luật mới có thể thức tỉnh và phục hồi được lương tâm của
những người đã đánh mất nó. Khi lương tâm được thức tỉnh trong hoạt
động nghề nghiệp cũng có nghĩa là nghĩa vụ đạo đức trước nghề nghiệp
của chủ thể bắt đầu được khôi phục.
Nghĩa vụ đạo đức không chỉ là sự đòi hỏi, yêu cầu của xã hội đối với cá
nhân mà còn là nhu cầu tiến bộ và hoàn thiện của chính bản thân mỗi
người. Vì thế, nghĩa vụ đạo đức không phải là sự ép buộc từ bên ngoài
mà nó là sự gắn bó chặt chẽ với ý thức về lẽ sống, hạnh phúc và triết lý

sống của mỗi con người. Trong lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp cũng
vậy, nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi mỗi cá nhân phải giải quyết
một cách hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Mỗi bước tiến bộ
nghề nghiệp của cá nhân đều gắn liền với sự tiến bộ của xã hội và sự
trưởng thành về mặt nhân cách của mỗi người. Trong quá trình hoạt
động nghề nghiệp, mỗi người lựa chọn cho mình một triết lý nghề


nghiệp riêng, không những không mâu thuẫn với lợi ích của người khác
và của xã hội mà còn đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội. Trong
xã hội ta hiện nay, quan niệm cho rằng, “tiền không phải là tất cả, cái
quý hơn tiền đó là niềm tin nơi con người và lòng tự trọng” đã trở thành
lẽ sống trong hoạt động nghề nghiệp của không ít người. Đó thực sự là
một giá trị đáng trân trọng trong đời sống đạo đức của xã hội nói chung
và đạo đức nghề nghiệp nói riêng.

II. SỰ GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮ ĐẠO ĐỨC VÀ
PHÁP LUẬT
1. Giống nhau
đều là những quy tắc xử sự trong xã hội. cả đạo đức và pháp luật
đều mang tính xã hội, đều quy định những điều xã hội cho là
đúng đắn. đều là 1 phương thức điều chỉnh hành vi của con
nguời,rèn luyện con người biết về những chuẩn mực đạo đức
của xã hội
2. Khác nhau
Khác với nghĩa vụ pháp lý là sự bắt buộc phải tuân thủ và phục tùng,
nghĩa vụ đạo đức chủ yếu và trước hết là sự tự nguyện, được khởi nguồn
từ cái “tâm” của chủ thể đạo đức, nghĩa là nó xuất phát, thôi thúc bởi
tình cảm, trách nhiệm cá nhân trước người khác và trước xã hội. Thực
hiện nghĩa vụ đạo đức là sự tự giác, không bị giàng buộc bởi động cơ cá

nhân vụ lợi. Giáo dục ý thức về nghĩa vụ đạo đức có tác dụng quan trọng
đối với quá trình hình thành nhân cách nghề nghiệp. Đó là sự thống nhất
của quá trình nhận thức và hành động thực tiễn đạo đức của mỗi cá
nhân. Nó trải qua quá trình rèn luyện, phấn đấu vượt qua những cám dỗ
vật chất nhỏ nhen, ích kỷ và những lợi ích tầm thường của cuộc sống hết
sức đa dạng, phức tạp.
Nói đến đạo đức mà không đề cập đến phạm trù cái thiện cũng chưa đủ.
Đối với đạo đức nghề nghiệp, cái thiện càng có vị trí quan trọng. Bởi vì,
thiện là lợi ích của con người phù hợp với sự tiến bộ xã hội, là những


hoạt động phấn đấu hy sinh vì con người, làm cho con người ngày càng
sung sướng hơn, tự do hơn, hạnh phúc hơn. Trong xã hội, cái thiện vừa
là những giá trị hiện thực cụ thể, vừa hàm chứa những lý tưởng đạo đức
cao quý nhất của con người. Do đó, cái thiện là biểu tượng tập trung
nhất, cụ thể nhất và cao cả nhất của đời sống đạo đức xã hội. Mỗi chế độ
xã hội, mỗi thời đại quan niệm về cái thiện ít nhiều cũng có sự khác
nhau, thậm chí đối lập nhau. Trong một xã hội cụ thể, tuỳ theo những
điều kiện khách quan, chủ quan nhất định mà mỗi cá nhân đều phải tham
gia sáng tạo cái thiện, thắp sáng cái thiện. Điều đó làm cho cái thiện luôn
tồn tại và thể hiện như những giá trị tinh thần cao đẹp của con người.
Cái thiện bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với chân lý và cái đẹp. Vì thế,
chân, thiện, mỹ là nội dung căn bản của ý thức và hiện thực đạo đức tiến
bộ. Trong đạo đức nghề nghiệp, sự gắn bó của những giá trị chân, thiện,
mỹ càng cần thiết, bởi vì “Lao động là nghĩa vụ và quyền lợi, là nguồn
sống, nguồn hạnh phúc”, là nền tảng của sự tồn tại và phát triển của xã
hội, con người. Chúng tạo nên một chỉnh thể hợp thành lẽ sống, nghĩa
vụ, hạnh phúc và lương tâm của con người. Đó cũng là mục đích của
một nền đạo đức xã hội mới mà chúng ta hướng tới và xây dựng. Nghĩ
việc thiện, làm việc thiện là đặc tính của ý thức và hành vi đạo đức tốt

đẹp trong mỗi con người. Hướng tới cái thiện, mỗi con người có điều
kiện để phát huy mọi năng lực, trí tuệ để cống hiến cho mọi người, cho
xã hội; mọi phẩm giá, mọi giá trị của con người được trân trọng, sự công
bằng, lòng nhân ái được thực hiện. Cái thiện hiện thực là thiêng liêng
cao cả và vì con người nhất. Vì lẽ đó, con người phải vì cái thiện, lấy cái
thiện để chống lại cái ác. Cái ác gây nên nỗi bất hạnh và sự thống khổ
cho con người, phải kiên quyết đấu tranh gạt bỏ cái ác ra khỏi đời sống
xã hội nói chung và khỏi hoạt động nghề nghiệp nói riêng.
Đạo đức là phẩm chất quan trọng của nhân cách, là nền tảng để xây
dựng thế giới tâm hồn của mỗi con người. Vì thế, ở thời đại nào và ở bất
cứ quốc gia nào cũng vậy, việc giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục
đạo đức nghề nghiệp nói riêng là trung tâm chú ý của các cơ sở giáo dục,
các tổ chức xã hội – nghề nghiệp và của toàn xã hội. Nghiên cứu về đạo


đức nghề nghiệp, phát huy ý thức đạo đức nghề nghiệp là góp phần làm
rõ được vai trò của ý thức xã hội đối với sự phát triển của tồn tại xã hội.


III. QUY ĐỊNH CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC NGHỀ
NGHIỆP
1. Với Tổ quốc: trung thành, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
- Tuyệt đối tin tưởng vào lý tưởng cách mạng, đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam, trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa; kiên quyết chống lại những hành vi xâm phạm an ninh quốc gia,
phá hoại hòa bình, độc lập của Tổ quốc; tích cực và sẵn sàng tham gia
bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
- Tận tâm, tận lực đóng góp công sức, trí tuệ cho công tác quản lý
nhà nước về tài nguyên và môi trường, xây dựng ngành tài nguyên và

môi trường chính quy, hiện đại, hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực cho
công cuộc phát triển bền vững đất nước.
2.Với nhân dân: gần dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân
dân, hiểu dân, phục vụ nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nhân dân.
-Nắm vững quan điểm vì dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân; kiên quyết đấu tranh với mọi hành vi xâm phạm quyền và
lợi ích hợp pháp nhân dân.
- Gần gũi với nhân dân, khi giao tiếp với công dân phải có thái độ
lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn, tôn trọng, lắng nghe, ngôn ngữ giao tiếp
phải chuẩn mực, rõ ràng; không được hách dịch, cửa quyền, gây khó
khăn, phiền hà cho nhân dân khi thực hiện nhiệm vụ; công tâm, khách
quan, tận tình hướng dẫn nhân dân thực hiện quy trình, thủ tục theo quy
định khi giải quyết công việc.
- Tuyên truyền, giải thích, vận động nhân dân sống và làm việc
theo đúng các quy định của pháp luật về tài nguyên và môi trường.
3. Với công việc: hiểu biết, trách nhiệm yêu ngành, yêu nghề, vượt
khó để hoàn thành tốt nhiệm vụ quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
phục vụ bền vững của đất nước.
- Nhận thức rõ vị trí, vai trò, ý nghĩa công việc được giao, nắm
vững chuyên môn, thường xuyên cập nhật quy định của pháp luật; không
ngừng học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ và nghiên cứu, đề
xuất cải tiến, nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc.


- Thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, đảm bảo năng suất, chất
lượng, hiệu quả, thời gian theo quy định; báo các kịp thời với cấp có
thẩm quyền về những khó khăn, vướng mắc; chịu trách nhiệm về kết quả
công việc của mình; khi mắc khuyết điểm, sai lầm phải dũng cảm tự phê
bình, dám nhận khuyết điểm và nghiêm túc sửa chữa.

- Yêu ngành, yêu nghề, tự hào với công việc mình đang làm; tận
tuỵ với công việc, chủ động, sáng tạo, không ngừng cống hiến trí tuệ, tài
năng; vượt qua khó khăn hoàn thành tốt công việc được giao.
4. Với đồng nghiệp: đoàn kết, chân tình, thẳng thắn hợp tác giúp
nhau cùng tiến bộ.
- Quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ, chân thành, hỗ trợ, phối hợp với
nhau trong công việc và trong cuộc sống; tôn trọng tập thể, mình vì mọi
người; chống chia rẽ, bè phái, đố kỵ, chủ nghĩa cá nhân và cục bộ địa
phương.
- Thẳng thắn tự phê bình và phê bình, góp ý với thái độ tích cực,
cầu tiến để cùng nhau rút kinh nghiệm, sửa chữa, thực hiện công việc
với chất lượng tốt hơn.
- Phục tùng, chấp hành quyết định của cấp trên và của tổ chức.
- Công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý không được lạm dụng
chức vụ để trục lợi; nắm bắt kịp thời tâm lý, phát huy khả năng, kinh
nghiệm, tính sáng tạo, chủ động của công chức, viên chức; thực hành
dân chủ, tạo điều kiện học tập, tôn trọng và xây dựng niềm tin cho công
chức, viên chức; bảo vệ danh dự của công chức, viên chức khi bị phản
ánh, khiếu nại, tố cáo không đúng sự thật.
5. Với bản thân: nêu gương cần,kiệm, liêm, chính, sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật, có ý thức sử dụng bền vững tài nguyên
và bảo vệ môi trường.
- Thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nói đi đôi với
làm; thường xuyên tự rèn luyện để có lối sống lành mạnh, trong sáng,
giản dị, khiêm tốn, biết yêu thương những người xung quanh, thường
xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình.
- Gương mẫu chấp hành nội quy, quy định, kỷ cương, kỷ luật của
cơ quan, đoàn thể nơi cư trú; thực hiện nghiêm các quy đinh về những
điều công chức, viên chức không được làm theo quy định tại Luật Cán



bộ, công chức, Luật Viên chức, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và các quy định khác của pháp luật.
- Gương mẫu trong sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, sống
thân thiện với môi trường; giữ gìn, bảo vệ cảnh quan môi trường.
- Hướng dẫn, tuyên truyền, vận động người thân trong gia đình
chấp hành đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.



×