Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Đánh giá hiệu quả chính sách lãi suất trong bối cảnh kinh tế của mỹ giai đoạn từ 2011 nay và những bất cập còn tồn tại, đề xuất giải pháp, rút bài học kinh nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.85 KB, 19 trang )

1

Mục lục

I.

Giới thiệu các chính sách lãi suất trên thế giới

Chính sách lãi suất là một công cụ của CSTT để đảm bảo ổn định tiền tệ, kiểm
soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô vì vậy, sự thay
đổi cơ chế điều hành lãi suất sẽ ảnh hưởng đến tính ổn định của thị trường, lạm
phát, tăng trưởng kinh tế
Ý nghĩa của chính sách lãi suất đối với nền kinh tế:
- Chính sách lãi suất nếu tạo ra mức lãi suất cho vay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận
bình quân sẽ có tác dụng thúc đẩy kích thích các doanh nghiệp tăng nhu cầu đầu
tư, mở rộng sản xuất từ đó kích thích tăng trưởng kinh tế, góp phần thực hiện
CSTT quốc gia.
- Lãi suất là công cụ thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các NHTM, thông qua chính sách
lãi suất, các NHTM ấn định lãi suất kinh doanh dựa trên lãi suất của NHTƯ.
- Chính sách lãi suất là công cụ của NHTƯ giúp NHTƯ kích thích hay hạn chế
việc đầu tư thông qua điều chỉnh lãi suất cao hay thấp.


2

1. Chính sách lãi suất cố định
Lãi suất cố định là lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước khống chế NHTM cả về
lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Khi đó sẽ không có sự cạnh tranh giữa các
ngân hàng, không thúc đẩy tăng trưởng. Chính phủ hoàn toàn có thể kiểm soát
được lãi suất, bảo vệ được nhiều doanh nghiệp nhà nước.
Ví dụ: Anh: 14/07/2016 sử dụng chính sách lãi suất cố định:


NHTƯ Anh (BoE) ngày 14/7 khép lại cuộc họp chính sách tháng 7 với quyết
định giữ nguyên lãi suất cơ bản ở mức thấp kỷ lục 0,5% đã được duy trì trong hơn
7 năm qua. Biên bản cuộc họp cho hay BoE cam kết sẽ hành động để hỗ trợ tăng
trưởng và đưa lạm phát về mức mục tiêu 2%, nếu tình hình kinh tế nước nhà
không cải thiện trong tháng tới.
Như một số chuyên gia kinh tế khuyến nghị trước đó, BoE đã chọn giải pháp
giữ nguyên lãi suất ở mức 0,5% cho tới thời điểm có thể đánh giá được đầy đủ hơn
những tác động của Brexit (nước Anh rời EU) đối với kinh tế Anh, ít nhất là khi
một loạt số liệu kinh tế chủ chốt được công bố vào tháng 9.
Ngay sau khi BoE công bố quyết định trên, đồng bảng tăng 2 xu lên 1,334
USD đổi 1 bảng. Trong khi đó, chỉ số chứng khoán FTSE của nước Anh để mất
một số điểm tăng hồi đầu phiên, nhưng nhìn chung vẫn tăng so với phiên giao dịch
ngày 13/7.
2. Chính sách lãi suất trần
Chính sách lãi suất trần là chính sách chỉ ấn định lãi suất cho vay tối đa.
Khuyến khích huy động vốn, khả năng kiểm soát của chính phủ tốt hơn. Chính
phủ ấn định một mức lãi suất và áp đặt cho toàn bộ các ngân hàng, chính sách lãi
suất này được ấn định cho toàn bộ nền kinh tế.
Ví dụ: Trung quốc :Năm 2015: chính sách hạ lãi suất và bỏ lãi suất trần.
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) quyết định cắt giảm lãi suất cho
vay đi 25 điểm cơ bản xuống 4,35%/năm, đồng thời giảm lãi suất tiền gửi từ
1,75% xuống 1,5%/năm.


3

Việc giảm lãi suất chính sách này áp dụng với các doanh nghiệp và với các mục
đích thương mại, không áp dụng với các khoản vay thế chấp bất động sản. Các
chuyên gia kinh tế cho rằng động thái này là nhằm thúc đẩy tăng trưởng và ngăn
chặn nguy cơ bong bóng nhà đất tiềm tàng hiện đang có diễn biến xấu đi tại nhiều

thành phố lớn ở Trung Quốc.
NHTƯ Trung Quốc cũng cho biết họ sẽ bỏ trần lãi suất tiền gửi. Đây được
đánh giá là một bước đi quan trọng đối với chính quyền trung ương trong cam kết
thực hiện tự do hóa thị trường tài chính của mình. Trong quá khứ, quyết định về lãi
suất của các ngân hàng Trung Quốc thường phải phụ thuộc vào PBOC và thông
báo trên thể hiện một sự thay đổi lớn. PBOC cũng cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đối với các ngân hàng đi 50 điểm cơ bản. PBOC cho biết việc cắt giảm lãi suất là
nhằm giúp nền kinh tế điều chỉnh theo sự chuyển dịch về cơ cấu từ phụ thuộc vào
xuất khẩu sang phụ thuộc vào tiêu dùng. Kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng 6,9%
trong quý III/2015, thấp hơn mục tiêu 7% của chính quyền Bắc Kinh.
Trong thông báo của mình, PBOC viết: “Tình hình trong và ngoài nước vẫn
phức tạp và tăng trưởng kinh tế vẫn chịu áp lực xấu. Cần có 1 chính sách tiền tệ
linh hoạt… để tạo ra một môi trường tiền tệ và tài chính thuận lợi cho tái cơ cấu
cũng như cho sức khỏe và sự ổn định của nền kinh tế.” Chuyên gia kinh tế trưởng
của PBOC, ông Ma Jun, cho biết nền kinh tế thực của Trung Quốc vẫn chịu áp lực
xấu đi đáng kể trong khi lạm phát giá bán buôn vẫn tăng, nên cần phải điều chỉnh
một cách hợp lý lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Một chuyên gia kinh tế của
HSBC đánh giá ngân hàng trung ương Trung Quốc không chỉ đang nới lỏng chính
sách tiền tệ, mà còn đang tự do hóa hệ thống tài chính, đồng thời dự báo Trung
Quốc có thể sẽ còn cắt giảm thêm lãi suất trong thời gian tới.
3. Chính sách lãi suất cơ bản
Lãi suất cơ bản là lãi suất chi phối tất cả các loại lãi suất khác hình thành trong
nền kinh tế thị trường, là loại lãi suất chiếm vị trí quan trọng. Lãi suất cơ bản do
NHTƯ xác định và công bố trên cơ sở tình hình thực tế của thị trường và mục tiêu
của chính sách tiền tệ quốc gia. Lãi suất cơ bản là công cụ để NHTƯ điều hành


4

chính sách tiền tệ quốc gia, qua lãi suất cơ bản, NHTƯ tác động vào thị trường

tiền tệ, đẩy mạnh, mở rộng hay thu hẹp tín dụng, giữ mức tương quan cần thiết
giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ. Mặt khác, lãi suất cơ bản là giá cả sử dụng vốn
trong hoạt động tín dụng, là cơ sở hình thành lãi suất trên thị trường.
Có nhiều cách xác định và điều hành lãi suất cơ bản. Có thể lấy lãi suất cơ bản
là lãi suất tiền gửi tối ta, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất liên ngân hàng.. tùy thuộc
vào từng mục tiêu, từng thời kì của NHTƯ các quốc gia.
Ví dụ:
NHTƯ Hàn Quốc (BOK) ngày 16/2/2016 đã quyết định giữ nguyên lãi suất
cơ bản ở mức thấp kỷ lục 1,5% tháng thứ 8 liên tiếp trong bối cảnh nền kinh tế
nước này vẫn tăng trưởng chậm.
4. Chính sách lãi suất âm
Ví dụ: Nhật Bản: 21/9/2016 nới lỏng chính sách tiền tệ bằng cách mở rộng
chính sách lãi suất âm.
NHTƯ Nhật Bản (BoJ) sẽ đạt trọng tâm của chính sách tiền tệ mới là kiểm soát
đường cong lãi suất trái phiếu, theo tỷ lệ bỏ phiếu 7:2. BoJ cho biết sẽ mua trái
phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm để đường cong lãi suất trái phiếu dao động ở mức
0%. Lãi suất tiền gửi được duy trì ở mức 0,1%. Điều này cho thấy BoJ vẫn tin
tưởng vào tác động tích cực từ chính sách lãi suất âm và gói mua tài sản.
Trước phiên họp, phần đông thị trường cho rằng BoJ sẽ nới lỏng chính sách
tiền tệ. Cụ thể, chính sách lãi suất âm sẽ được mở rộng nhằm thúc đẩy nhu cầu nội
địa. Tuy nhiên, mức giảm sẽ không mạnh vì lãi suất âm làm thu hẹp lợi nhuận của
các ngân hàng, công ty bảo hiểm và quỹ lương hưu. BoJ cũng có thể gia tăng
lượng nắm giữ trái phiếu ngắn hạn, duy trì chương trình mua trái phiếu chính phủ
hàng năm để giúp các thể chế tài chính thu kiếm lời. Tuy nhiên, giới phân tích
cảnh báo chương trình mua trái phiếu có thể làm gia tăng lãi suất trong dài hạn và
tạo sức ép lên các hoạt động kinh tế như đầu tư và tiêu dùng. Các dữ liệu ảm đạm


5


cho thấy giảm phát vẫn đang là nỗi lo chi phối doanh nghiệp và người dân Nhật
Bản.
Doanh số bán lẻ trong tháng 7 giảm 0,2% so với cùng kỳ năm trước, đánh dấu
tháng giảm thứ năm liên tiếp. Chi tiêu hộ gia đình giảm 0,5%, cũng giảm tháng
thứ năm. Giá tiêu dùng lõi ở thủ đô Tokyo giảm vượt dự đoán 0,4% so với cùng
kỳ, ghi nhận tháng giảm thứ
5. Chính sách tự do hoá lãi suất
Chính sách tự do hóa lãi suất là chính sách mà chính phủ sẽ can thiệp khi mức
lãi suất vượt quá mức lãi suất chung. Lãi suất tăng giảm hoàn toàn do những biến
đổi trong cung và cầu về vốn vay trên thị trường. Tuy nhiên, nó chỉ thực hiện được
trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo. Ở Việt Nam hiện nay, chúng ta đang sử
dụng chính sách lãi suất thoả thuận Các tổ chức tín dụng được thực hiện cơ chế lãi
suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại, thay thế cơ chế điều hành lãi
suất cơ bản bằng VND. Xét về dài hạn, việc xóa bỏ “trần” lãi suất cho vay khiến
các tổ chức tín dụng có thể mở rộng mạng lưới để huy động, cho vay với lãi suất
phù hợp cung – cầu của thị trường. Đặc biệt đối với những người sản xuất và tổ
chức kinh tế ở khu vực nông thôn. Nhất là trong bối cảnh mà tăng trưởng tín dụng
đang nhanh hơn nhiều so với tăng trưởng huy động vốn. Theo ngân hàng nhà
nước, cơ chế lãi suất mới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc cải cách hệ
thống ngân hàng theo định hướng thị trường. Nói đúng hơn, là xoá bỏ dần những
“dị biệt” của hệ thống ngân hàng Việt Nam, nhằm tiến tới hội nhập với thị trường
tài chính tiền tệ quốc tế.
6. Chính sách lãi suất ưu đãi
Chính sách lãi suất ưu đãi là chính sách dành cho một số đối tượng đặc biệt
như người nghèo, gia đình chính sách...với lãi suất thấp. Việc thực hiện chính sách
này làm người đi vay không hoặc ít chú ý đến hiệu quả dẫn đến việc dùng vốn đổ
vào những dự án không mấy hiệu quả. Điều đó không giúp tăng trưởng vốn và
phần lớn chính sách này lấy từ Ngân sách nhà nước. Các đối tượng được vay vốn
với lãi suất ưu đãi thường là những hộ nghèo,các khu vực ở vùng sâu vùng xa, hải



6

đảo, miền núi... Việc vay vốn với lãi suất ưu đãi tuy tạo điều kiện cho người vay,
nhưng lại hạn chế phát triển thị trường vốn vay.
II.
Chính sách lãi suất mà FED áp dụng từ 2011- nay:
1. Chính sách lãi suất mà FED áp dụng và ảnh hưởng thực tế.

Kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 nền kinh tế thế giới nói chung
cũng như nước Mỹ nói riêng rơi vào tình trạng suy thoái. Đặc biệt, tốc độ tăng
trưởng GDP toàn cầu đã chạm đáy -0.4% vào năm 2009 cùng với đó là tỷ lệ thất
nghiệp tăng cao lên tới 10%. Chính vì những hậu quả nặng nề mà cuộc khủng
hoảng kinh tế gây ra đã đưa FED đến quyết định thi hành chính sách tiền tệ nới
lỏng và chính sách cố định lãi suất thấp trong ròng rã 7 năm từ 2008-2015. Theo
chính sách lãi suất thấp và nới lỏng tiền tệ này Mỹ đã hạ lãi suất xuống gần 0% để
thúc đẩy kinh tế phát triển với kỳ vọng vượt qua thời kì khó khăn và tạo ra sự phục
hồi bền vững trong tương lai.

Trong kỉ nguyên lãi suất siêu thấp của FED đã không ít lần chính sách này
ngáng đường, cản trở sự tăng trưởng của kinh tế . Năm 2011, tranh luận về nâng
trần nợ công đã gây ra nhiều thiệt hại cho kinh tế Mỹ và tới cuối cùng nợ công đã
được phá trần nhưng kéo theo đó là việc mất tín nhiệm của Mỹ trên thị trường thế
giới. Thêm vào đó việc sử dụng chính sách lãi suất thấp đã khiến Mỹ bị động khi
huy động các nguồn đầu tư trong vào ngoài nước vào nền kinh tế, khơi thông dòng
vốn trong hoàn cảnh nợ công ,cắt giảm chi tiêu thậm chí và phải đóng cửa 1 số văn
phòng chính phủ vì không đủ ngân sách hoạt động. Những ảnh hưởng đến từ kinh
tế Mỹ đã khiến cả kinh tế toàn cầu chao đảo. Tuy nhiên đến năm 2013-2014, nền



7

kinh tế Mỹ đã đạt được nhiều khởi sắc nhưng sự phục hồi chưa tương xứng. Đến
cuối năm 2015, Mỹ đã tiến hành thay đổi chính sách cố định lãi suất thấp khi đã
tăng lãi suất thêm 0,25%, chủ tịch FED khẳng định nền kinh tế tuy hồi phục,
nhưng vẫn còn yếu và lãi suất thấp vẫn là điều cần thiết. Bên cạnh đó, bà cũng
khẳng định sẽ nghiên cứu chính sách lãi suất âm nếu cần thiết.
2. Các công cụ để Mỹ thực hiện chính sách mục tiêu.
a, Lãi suất chiết khấu:
Ở Mỹ, lãi suất chiết khấu là lãi suất mà FED cho các tổ chức nhận tiền gửi
thông qua hình thức vay tín dụng chính. Suốt từ năm 2011 đến 2015, lãi suất của
tín dụng chính luôn được giữ ổn định ở mức 0.75%.

Những hành động đặc biệt để xử lí hậu quả cuộc khủng hoảng kinh tế cũng
như giúp ổn định nền kinh tế Mỹ là việc FED giảm lãi suất ngắn hạn xuống mức
thấp nhất có thể : FFR( lãi suất quỹ dự trữ liên bang) gần bằng 0%, lãi suất chiết
khấu 0.75%. Để giảm lãi suất trong dài hạn, FED đã mua một lượng lớn trái phiếu
kho bạc dài hạn và các chứng khoán dài hạn khác. Khi các NHTM lâm vào tình
trạng khó khăn, đến mức mà không đủ diều kiện để vay theo hình thức tín dụng
chính thì họ có thẻ lựa chọn tín dụng mở rộng và sẽ phải chấp nhận một mức lãi
suất cao hơn tín dụng chính. Trong giai đoạn 2011-2013, lãi suất của tín dụng mở
rộng dao động từ ổn định 1 đến 1.25%. Các tổ chức nhận tiền gửi nhỏ hơn có thể
lựa chọn hình thức tín dụng mùa vụ để đáp ứng nhu cầu thanh khoản cho những
khoản phát sinh thường xuyên từ các khoản vay và tiền gửi của họ. Lãi suất này


8

vào năm 2011 là 0.3% nhưng sau đó giảm xuống 0.2% năm 2012 và 0.15% năm
2013.

b, Nghiệp vụ thị trường mở và các gói QE ( nới lỏng định lượng )
Trong 2011-2013, FED giữ các loại lãi suất ngắn hạn xuống gần đến mức 0%
(0.25%) và tiếp tục mở các gói QE với mục đích bơm thêm tiền cho nền kinh tế
và làm giảm các lãi suất trong dài hạn: QE2 (10/2010 – 06/2011), gói QE3
(9/2012-10/2013). Với gói QE3 : FED mua thêm 40 tỷ USD MBS từ ngân hàng dự
trữ liên bang. Tiếp tục chương trình Operation Twist được bắt đầu từ tháng 9/2011:
FED bán trái phiếu ngắn hạn và sử dụng tiền để mua trái phiếu dài hạn. FED công
bố sẽ mua 85 tỷ đô MBS và trái phiếu kho bạc mỗi tháng, đến khi tỷ lệ thất nghiệp
xuống dưới ngưỡng 6.5% FED sẽ giữ lãi suất ở mức gần 0%. Vào tháng 7/2014,
hơn 1000 tỉ đô tín phiếu kho bạc mà FED nắm giữ cuối năm 2010 đã tăng lên đến
hơn 2400 tỉ đô. Ngoài ra giá trị MBS(các chứng khoán thế chấp bất động sản)
cũng tăng lên một số lượng lớn:từ gần 1000 tỉ đô cuối năm 2010 lên đến hơn 1600
tỉ đô la vào tháng 7/2014.
c, Dự trữ bắt buộc
Từ ngày 29-12-2011 tỉ lệ DTBB của các tổ chức nhận tiền gửi được quy định
như sau:
+ Dưới 12.4 triệu đô la: tỉ lệ DTBB là 0%
+ Từ 12.4 – 79.5 triệu đô la : 3%
+ Trên 79.5 triệu đô la : 10%
Đến năm 2014 thay đổi như sau :
+ 0-13.3 triệu đô la: tỉ lệ DTBB là 0%
+ Từ 13.3 – 89 triệu đô la : 3%
+ Trên 89 triệu đô la : 10%
Lượng DTBB tăng qua các năm từ 75 tỉ đô năm 2011 lên đến hơn 142 tỉ đô
tháng 7/2014 cho thấy việc cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại ra nền kinh
tế đã hiệu quả, có thể nói rằng: khi các doanh nghiệp tiếp cận được vốn thì tài
khoản thanh toán không kì hạn của họ ở ngân hàng thương mại sẽ tăng dẫn đến dự
trữ bắt buộc ở các ngân hàng thương mại tăng đồng nghĩa với việc họ có thể tăng
cho vay vào nền kinh tế.
d, FFR ( lãi suất quỹ dự trữ liên bang )



9

Những năm hậu khủng hoảng giai đoạn 2011 đền này thì mức lãi suất FFR chưa
có dấu hiệu nhích lên khỏi mức 0%. Với kì vọng ban đầu là duy trì mức lãi suất
thấp này để khôi phục lòng tin với các nhà đầu tư, giảm bớt chi phí vay bao gồm
các khoản vay doanh nghiệp và vay tiêu dùng, từ đó giúp các doanh nghiệp khôi
phục và mở rộng kinh doanh kích thích tiêu dùng nội địa làm đòn bẩy thúc đẩy
kinh tế. Với sự duy trì chính sách lãi suất thấp khi mà tỉ lệ thất nghiệp vẫn ở mức
cao thì FED hi vọng các nhà đầu tư sẽ mặn mà hơn với thị trường Mỹ để kích
thích đầu tư giảm thất nghiệp, tăng GDP…Sau khủng hoảng, FED khó tăng mức
lãi suất này lên được khi mà nền kinh tế chưa thực sự phục hồi và gặp rất nhiều
khó khăn như nợ công hay sự phá giá của đồng nhân dân tệ .Trong ròng rã 7 năm
FED duy trì tỉ lệ lãi suất thấp kỉ lục, đồng thời kéo dãi các khoản đầu tư thời kì hậu
khủng hoảng và bơm tiền vào nền kinh tế. Cuối năm 2015, Mỹ bắt đầu 1 thời kì
mới với mức lãi suất tăng thêm 0,25%. Các nhà hoạch định chính sách Mỹ dự báo
mức lãi phù hợp cho cuối năm 2016 sẽ là 1,375%. Lãi suất dự báo cho các năm tới
cũng giảm nhẹ. Theo đó, đến năm 2017, con số này có thể là 2,4%, và năm 2018
sẽ là 3,3%.
III.

Cơ chế tác động của chính sách lãi suất trong việc thực
hiện các mục tiêu của FED

Khác với công cụ truyền thống là nghiệp vụ bán ra và mua vào trái phiếu, Fed
đang sử dụng hai loại lãi suất tác động đến lượng tiền dự trữ mà các ngân hàng gửi
tại Fed để điều chỉnh lãi suất liên bang. Như vậy Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã
chính thức chấm dứt thời kỳ lãi suất gần 0% sau suốt 7 năm duy trì. Lần cuối cùng
Fed có động thái tương tự (tức nâng lãi suất từ mức gần 0%) là năm 1947. Tuy

nhiên, điểm đặc biệt của lần này không chỉ nằm ở việc chấm dứt thời kỳ lãi suất
gần 0%, vì Fed cũng sẽ sử dụng những công cụ hoàn toàn mới để điều chỉnh chính
sách tiền tệ.
Loại lãi suất mà Fed cố gắng điều chỉnh lần này là lãi suất liên bang (federal
funds rate), lãi suất mà các ngân hàng trên toàn nước Mỹ sẽ áp dụng đối với những
khoản vay qua đêm dành cho các ngân hàng khác. Sở dĩ có các khoản vay này vì
Fed yêu cầu hàng đêm các ngân hàng phải gửi một lượng tiền tối thiểu nhất định


10

vào các tài khoản mở tại Fed. Do đó, những ngân hàng có lượng tiền dư thừa sẽ
cho bên thiếu hụt vay để đạt chỉ tiêu.
Trong quá khứ, Fed sẽ điều chỉnh lãi suất này bằng cách mua vào và bán ra trái
phiếu Chính phủ. Ví dụ, khi Fed bán trái phiếu Kho bạc, tiền trong hệ thống sẽ trở
nên khan hiếm hơn trong khi các ngân hàng vẫn phải đáp ứng yêu cầu về dự trữ và
kết quả là giá của các khoản vay qua đêm sẽ tăng, qua đó tác động đến lãi suất liên
bang và rộng hơn nữa là chi phí đi vay của toàn nền kinh tế. Quy tắc ở đây rất đơn
giản: Fed có thể dễ dàng kiểm soát giá khi đây chính là đơn vị nắm quyền kiểm
soát nguồn cung các khoản cho vay liên ngân hàng.
Tuy nhiên, hiện nay Fed không thể sử dụng cơ chế này được nữa
Nguyên nhân là vì kể từ năm 2008, theo chính sách nới lỏng định lượng (QE),
Fed đã mua vào khoảng 3.800 tỷ USD trái phiếu Kho bạc và những loại tài sản
khác để kích thích nền kinh tế. Điều này cũng tạo ra nguồn tiền mới, vì vậy ngày
nay các ngân hàng đã không còn thiếu hụt dự trữ.
Như vậy, để đẩy tăng lãi suất, Fed cần phải đảo ngược chương trình mua tài
sản, nhưng đây là điều mà Fed không muốn làm trước khi lãi suất tăng. Vậy Fed sẽ
tăng lãi suất bằng cách nào?
Hiện nay, Fed đang sử dụng hai công cụ để neo lãi suất liên bang ở mức 0 –
0,25%.

Thứ nhất là khoản lãi mà Fed trả cho các ngân hàng trên số tiền dôi ra so
với yêu cầu, được gọi là lãi suất trên dự trữ dôi ra (IOER). Sẽ không có ngân hàng
nào muốn cho vay với lãi suất thấp hơn IOER, vì gửi tiền tại Fed là an toàn hơn so
với cho ngân hàng khác vay.Nhưng một số tổ chức phi ngân hàng (ví dụ như các
quỹ thị trường tiền tệ) không có tài khoản tại Fed, do đó họ sẽ sàng cho vay với lãi
suất thấp hơn IOER. Bởi vậy IOER không phải là một mức sàn vững chắc cho lãi
suất. Hôm qua, Fed đã thông báo nâng lãi suất IOER từ 0,25% lên 0,5%. Nếu lãi
suất này tăng, chắc chắn các loại lãi suất khác sẽ tăng.
Công cụ thứ hai chính là các thỏa thuận mua lại đảo ngược (reserve repo).
Fed bán chứng khoán cho nhà đầu tư, và đồng ý sẽ mua lại chúng trong tương lai.
Fed vay tiền từ nhà đầu tư và lấy số chứng khoán đó làm tài sản đảm bảo. Loại lãi
suất này cũng đặt ra mức sàn cho các loại lãi suất, vì nhà đầu tư sẽ không thể cho


11

ngân hàng vay tiền với mức lãi suất thấp hơn lãi suất mà Fed (là cơ quan được
chính phủ hậu thuẫn) trả cho họ.Quan trọng hơn, những nhà đầu tư có thể tham gia
vào các hợp đồng mua lại dự trữ qua đêm cũng chính là những người có thể cắt
giảm IOER. Khi Fed nâng cả IOER và lãi suất mua lại dự trữ qua đêm, lãi suất
liên bang cũng sẽ tăng. Trong lần điều chỉnh này, Fed đã nâng lãi suất trả cho các
thỏa thuận mua lại đảo ngược được nâng từ 0,05% lên 0,25%.
Kể từ tháng 9/2013, Fed đã thử nghiệm những công cụ này và thu được những
kết quả khá khả quan
Khi lãi suất tăng, chứng khoán Mỹ tăng vọt sau khi Cục dự trữ liên bang Mỹ
(Fed) tuyên bố chấm dứt 7 năm lãi suất gần 0 và trấn an các nhà đầu tư rằng nền
kinh tế lớn nhất thế giới đủ mạnh để chịu đựng những đợt tăng lãi suất khác trong
tương lai.
Kết thúc phiên 16/12, chỉ số S&P 500 tăng 1,5%, đóng cửa đạt 2.073,07 điểm.
Đây là lần đầu tiên kể từ tháng 10 chỉ số này có 3 phiên tăng liên tiếp và đã lấy lại

được toàn bộ số điểm đã mất kể từ đầu năm đến nay. Chỉ số công nghiệp Dow
Jones tăng 1,3%, lên 17.749,09 điểm, trong khi Nasdaq cũng tăng 1,5%. Tổng
cộng có 8,6 tỷ cổ phiếu được giao dịch trong phiên, cao hơn 18% so với mức trung
bình 3 tháng. 9 trong số 10 nhóm chính của S&P 500 tăng hơn 1%, sau khi Chủ
tịch Fed Janet Yellen thể hiện niềm tin vào triển vọng kinh tế Mỹ trong bài phát
biểu ngay khi cuộc họp kết thúc. Nhóm điện nước tăng 2,6% - mạnh nhất trong 9
tháng. Ngoài ra nhóm các công ty sản xuất điện thoại và tiêu dùng thiết yếu cũng
tăng ít nhất 1,9%. Các cổ phiếu năng lượng là nhóm duy nhất giảm điểm. Các
quan chức của Ủy ban thị trường mở (FOMC) đã nhất trí nâng khoảng mục tiêu
cho lãi suất liên bang từ mức 0 – 0,25% trước đó lên 0,25 – 0,5%. FOMC cũng dự
báo đến cuối năm 2016, lãi suất sẽ ở mức khoảng 1,375%, tức trong năm tới sẽ có
thêm 4 lần tăng lãi suất, mỗi lần tăng 0,25%.
Động thái cuối năm 2015 của Fed chính thức đặt dấu chấm hết cho thời kỳ nới
lỏng chính sách tiền tệ có quy mô lớn chưa từng có. Tổng cộng trong 6,5 năm tăng
điểm miệt mài, thị trường chứng khoán Mỹ đã tăng trưởng hơn 200% với 15.000


12

tỷ USD vốn hóa được bổ sung. Giờ đây, thị trường không còn được Fed hỗ trợ và
chi phí đi vay cũng sẽ tăng lên.
Các số liệu lịch sử cho thấy có thắt chặt chính sách tiền tệ sẽ đem đến 2 tác
động trên thị trường chứng khoán: mức độ biến động mạnh hơn và mức giá trị
thấp hơn, cũng có nghĩa là lợi nhuận của doanh nghiệp và sức khỏe nền kinh tế sẽ
là những yếu tố chủ chốt điều chỉnh giá cổ phiếu.

Nhìn lại nửa đầu năm 2015, có thể thấy các nhà đầu tư đã phải đối mặt với đợt
trường
cómức
thể sống

thiếu
FED?
điều chỉnh đầu tiên trong 4Liệu
nămthị
gần
đây và
độ biến
động
tăng lên cao kỷ lục.
Từ giá dầu giảm đến đà lao dốc của các thị trường mới nổi và cơn bán tháo các trái
phiếu rác, kể từ khi Fed bắt đầu phát tín hiệu nâng lãi suất, các thị trường đã biến
động mạnh.
Tuy nhiên lạm phát hiện tại của Mỹ đang thấp dưới 2%, trong khi đó Fed
muốn đưa lạm phát lên đến 2%. Câu hỏi đặt ra là tại sao lại ở con số 2%. Đây là
mức lạm phát mục tiêu của Fed, bởi cơ quan này nghĩ rằng, lạm phát ở mức này sẽ
tạo ra sự quân bình về giá cả và cũng là mức bảo đảm cho sự phát triển của nền
kinh tế. Nếu dưới 2%, nền kinh tế Mỹ có nguy cơ giảm phát, một hiện tượng kinh
tế có tác hại rất lớn không kém gì tình trạng lạm phát cao.


13

Theo quy luật, muốn đạt đến lạm phát 2% thì phải nới lỏng tiền tệ, muốn nới
lỏng tiền tệ thì phải hạ lãi suất chứ không thế tăng lãi suất, bởi tăng lãi suất là thắt
chặt tiền tệ, giảm lạm phát. Nhưng trong năm nay, tỷ lệ lạm phát của Mỹ đã rất
thấp, nên Fed e rằng nếu tăng lãi suất, một động thái thắt chặt chính sách tiền tệ, sẽ
đẩy tỷ lệ lạm phát thực tế xuống thấp hơn và lạm phát mục tiêu 2% lại càng xa vời
hơn.
Đồng thời, Fed rất quan tâm tỷ giá của đồng USD với các đồng tiền khác. Nếu lãi
suất tăng thì giá trị của USD sẽ tăng, khuyến khích việc nhập khẩu hàng từ nước

ngoài vì hàng hóa nhập khẩu tính ra USD sẽ rẻ hơn. Điều này lại càng đúng đối
với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, khi đồng nhân dân tệ bị phá giá và tiếp tục
giảm giá. Hàng nhập khẩu ùa vào Mỹ với giá rẻ tính ra USD sẽ tác động lên tất cả
rổ hàng hóa của Mỹ, đẩy lạm phát xuống sâu hơn nữa,tác động ngược với chủ
trương đưa lạm phát lên mức 2%.
Lần tăng lãi suất cuối cùng là năm 2006 và sau khủng hoảng từ năm 2008 đến
nay Fed giữ lãi suất dao động quanh mức 0%-0,25%/năm để phục hồi nền kinh tế
của Mỹ. Thực tế, chủ trương đồng tiền rẻ này hỗ trợ cho tất cả mặt bằng lãi suất
trên thị trường Mỹ giảm xuống, đặc biệt tác động đến lãi suất cho vay trong tất cả
các lãnh vực của nền kinh tế trong đó có cho vay bất động sản, chứng khoán, sản
xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu, thương mại. Mọi thành phần kinh tế được vay
với vốn rất rẻ với lãi suất thấp chưa từng có. Quyết định của Fed đưa lãi suất về
gần bằng 0% cùng với những gói nới lỏng định lượng trong thời gian qua đã giúp
kinh tế Mỹ phục hồi mạnh mẽ và thực tế đã đẩy tỷ lệ thất nghiệp xuống chỉ còn
hơn 5%. Sau 8 năm, nay các doanh nghiệp hồi phục, tỷ lệ thất nghiệp tiệm cận
mức tỷ lệ “thất nghiệp tự nhiên” 5%, nói chung nền kinh tế phục hồi mạnh mẽ
trong khi lạm phát thấp. Đó là lý do từ năm ngoái Fed đã manh nha và đặc biệt ý
tưởng này được củng cố trong năm nay: nên kéo lãi suất đang quá rẻ trở về mức
bình thường.
Lãi suất hiện nay được xem là không bình thường và nếu tiếp tục giữ mức lãi
suất này, nền kinh tế của Mỹ không sớm thì muộn cũng sẽ rơi vào tình trạng bất ổn


14

với chính sách “đồng tiền quá rẻ” đưa đến rủi ro lạm phát bùng nổ, đặc biệt khi mà
tỷ lệ lao động có việc làm ngày càng cao, sức tiêu thụ ngày càng lớn.
Thực tế, Mỹ sử dụng 2 chỉ số CPI (Consumer Price Index) và PCE (Personal
Consumption Expenditures) và hiện tại nhắm vào PCE hơn là CPI để đo lường
mức độ có nên tăng lãi suất hay không. Hiện PCE tăng thấp hơn CPI, nghĩa là dư

địa còn khá thấp để đạt được mức lạm phát 2%. Bên cạnh đó là yếu tố bên ngoài,
đồng nhân dân tệ mất giá, thị trường tài chính chao đảo, đóng một vai trò trong
quyết định của Fed. Do vậy, dù lạc quan với sức phát triển của nền kinh tế Mỹ
đang trong đà phục hồi, nhưng ngay thời điểm này, Fed tăng lãi suất lên có một tác
động ngược lại là làm giảm lạm phát chứ chưa nói đến lạm phát mục tiêu 2%.
Ngay cả tỷ lệ thất nghiệp đã giảm sâu nhưng hình như vẫn chưa làm Fed mãn
nguyện và tin tưởng là tình trạng công ăn việc làm của dân Mỹ đã hoàn toản ổn
định. Chính vì vậy, Fed đã do dự trong việc tăng lãi suất.
IV.

Đánh giá hiệu quả chính sách lãi suất trong bối cảnh kinh
tế của Mỹ giai đoạn từ 2011- nay và những bất cập còn tồn
tại, đề xuất giải pháp, rút bài học kinh nghiệm.

1. Đánh giá hiệu quả.

Việc áp dụng chính sách lãi suất của Mỹ từ năm 2011 đến nay của FED cho
thấy một sự thay đổi tuy không nhanh chóng và tạo ra bước ngoặt lịch sử để đưa
kinh tế Mỹ từ vực sâu quay lại thời kỳ hưng thịnh một cách thần tốc nhưng phải
khẳng định đây là một sự can thiệp đúng đắn và kịp thời. Tuy nhiên nó thể hiện 2
mặt của vấn đề:
* Khi lãi suất 0%-0,25%:
- Mặt tích cực:
+ Chính sách dễ thực hiện, áp dụng nhanh, được đưa ra kịp thời , đúng liều lượng
+ Thực tế cho thấy rằng việc can thiệp vào chính sách lãi suất tạo cho các doanh
nghiệp một cơ hội lớn, bớt khó khăn về vốn, giảm gánh nặng về chi phí trong bối
cảnh khó khăn chồng chất
+ Chính sách có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô trong nền kinh tế nên tác
động nhanh và mạnh đến các yếu tố của nền kinh tế kỳ vọng nhanh phục hồi hơn.
* Tác động tới đồng Đôla Mỹ:



15

+ Việc đồng Đôla sụt giá mang lại những lợi ích cho châu Âu khi làm tăng sức hấp
dẫn cho đồng tiền này.
+Một số ngành sản xuất lệ thuộc vào nhập khẩu và người tiêu dùng sẽ được lợi,
mua các mặt hàng nhập khẩu với giá rẻ hơn.
+Đối với Mỹ, việc đồng USD yếu cũng tạo lợi thế cho xuất khẩu.
+Tỷ lệ thất nghiệp rơi xuống còn 5,1%, thấp nhất kể từ 7 năm trở lại đây.
+Hoa Kỳ không phải đối mặt với lạm phát nhờ giá năng lượng và nguyên, nhiên
liệu giảm mạnh.
+Tỷ lệ tăng trưởng được dự báo tăng trưởng vào khoảng 2,5%..

Phải đến 16/12/2015, khi FED quyết định tăng lãi suất lên 0,25-0.5% sau 7
năm duy trì ở mức gần bằng 0%. Quan chức Fed cho biết nền kinh tế đã sẵn sàng
cho một đợt nâng lãi. Tiêu dùng của người dân và đầu tư cố định của các doanh
nghiệp được đánh giá là "vững chắc", đủ bù đắp cho xuất khẩu yếu. Việc FED
nâng lãi suất cũng mang lại những hiệu quả tích cực và tiêu cực.
* Tích cực:
-Với những người tiêu dùng, người gửi tiết kiệm, họ sẽ nhận được nhiều tiền
lãi cho họ hơn khi lãi suất tăng, nhất là với những người nghỉ hưu khi họ có thể
kiếm được một khoản đáng kể từ số tiền gửi từ tài khoản tiết kiệm.
- FED hi vọng rằng việc giảm lãi suất giúp khôi phục lòng tin của các nhà đầu
tư, giảm chi phí lãi vay đối với các nhà doanh nghiệp. Từ đó giúp các doanh
nghiệp khôi phục và mở rộng kinh doanh, kích thích tiêu dụng nội địa làm đòn bẩy
kích thích kinh tế.


16


- Lãi suất tăng cũng giúp người dân Mỹ dễ dàng mua hàng hoá từ nước ngoài dễ
dàng hơn.
*Bất lợi:
- Đối với những người đi vay: lãi suất tăng làm các khoản vay trở nên đắt đỏ,
ảnh hưởng tới những doanh nghiệp phụ thuộc lớn vào vay nợ.
- Với các hãng sản xuất: nâng lãi suất đồng nghĩa USD sẽ tăng giá mạnh, dẫn
tới hàng hóa của Mỹ trở nên đắt đỏ với thị trường thế giới. Kết quả là, lĩnh vực
thương mại của Mỹ có thể sẽ bị thiệt hại lớn.
- Với thị trường mới nổi:các thị trường mới nổi sẽ chật vật khi dòng vốn ào ạt
quay về Mỹ, trong đó, lĩnh vực thương mại, tiền tệ và thị trường việc làm có thể sẽ
chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Việc vay vốn ồ ạt trong vài năm gần đây sẽ khiến
các thị trường mới nổi càng dễ bị tổn thương khi FED thắt chặt chính sách. USD
càng tăng giá mạnh, họ càng khó xoay sở để trả nợ, và dần tăng trưởng chậm lại.
- Với thị trường chứng khoán: nâng lãi suất chắc chắn sẽ làm tăng mức độ biến
động trên các thị trường chứng khoán và có thể kéo giảm sức hấp dẫn của chứng
khoán với giới đầu tư.
2. Những bất cập còn tồn tại trong chính sách lãi suất của FED.
+ Dễ tạo ra các bong bong đầu tư bất động sản: các chủ đầu tư có thể lợi dụng
mức lãi suất đó để vay nhiều với những mục đích khác ngoaì đầu tư để trục lợi.
+ Duy trì lâu dài một chính sách lãi suất thấp khi mà nền kinh tế đã đi vào ổn
định dễ gây tác động ngược lại với mục đích ban đầu đề ra.
+ Việc duy trì lãi suất ở số không một cách bất thường và quá lâu như vậy làm
lệch lạc cung cầu và lãi suất. Giới tiết kiệm và thành phần cao niên sống nhờ hưu
liễm bị thiệt vì phân lời quá thấp, giới trẻ thì quên hẳn khái niệm tiết kiệm vì thấy
chẳng có lợi.
+ Việc Mỹ duy trì lãi suất thấp qua nhiều năm làm ảnh hưởng tới kinh tế của
nhiều nền kinh tế, nhất là những nước đang phát triển và phụ thuộc nhiều vào tỷ
giá của đồng USD như Việt Nam.
3. Giải pháp.

Nhìn chung chúng ta không thể phủ định vai trò to lớn của FED trong việc
điều hành chính sách lãi sduất, qua đó vực dậy nền kinh tế Mỹ một cách thần kỳ
sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008. Chính sách lãi suất của FED nhìn
chung đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế


17

phát triển nhanh chóng, nhiều biến động thì việc duy trì một chính sách lãi suất vô
cùng thấp trong một thời gian dài sẽ có những tiêu cực nhất định đối với nền kinh
tế. Vậy FED phải có những giải pháp và hường đi cụ thể trong dài hạn:
+ FED kiên trì theo đuổi mức lãi suất thấp 0% để thu hút những nhà đầu tư với
mức lãi suất vay không như thế. Cần có những chính sách đi kèm để tận dụng các
khoản đầu tư đổ về cũng như là bù đắp phần thiệt hại cho nền kinh tế khi áp dụng
mức lãi suất thấp như vậy.
+ FED có thể tăng tính thanh khoản tiền tệ của Hoa Kỳ cũng như hệ thống tài
chính thế giới bằng việc hoán đổi tiền tệ của mình với ngoại tệ. Động thái này sẽ
góp phần hỗ trợ FED mở rộng hợp tác các hoạt động tín dụng cũng như các hoạt
động cho vay để phục hồi kinh tế, phục hồi niềm tin của thị trường, tăng tính bền
vững cho thị trường tài chính thế giới.
+
FED đã rất nhanh nhạy trong việc giữ nguyên mức lãi xuất ngắn hạn 0,25%
hậu khủng hoảng kinh tế để tạo niềm tin nơi nhà đầu tư, kích thích các chủ thể
trong nền kinh tế tiếp cận với nguồn tài chính chi phí rẻ. Tuy nhiên, có một điều
mà FED không can thiệp được, đó chính là khối lượng tiền cho vay ra nền kinh tế
của hệ thống ngân hàng thương mại.
4. Kiến nghị.
+ FED nên đưa ra những chính sách khuyến khích các ngân hàng thương mại
tích cực cho vay ra thị trường như nới lỏng các điều kiện cho vay.
+ FED nên nâng dần FFR và lãi suất chiết khấu theo một tiến độ nhất định trong

tương lai. Đối với nền kinh tế Mỹ giai đoạn khủng hoảng và hậu khủng hoảng,
việc duy trì FFR ở mức thấp giúp cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn
giá rẻ để duy trì sản xuất kinh doanh, kiềm chế tỉ lệ thất nghiệp gia tăng.

Bảng đánh giá kết quả nhóm và trích dẫn tư liệu tham
khảo
Phần bài Link trích dẫn tài liệu
làm
1.Chính lãi quoc-te/ngan-hang-trung-

Người làm Đánh giá Khác
bài
hoạt
động

Thị Hoàn
-Vũ
Thị
Thảo + Đỗ thành tốt Thảo( thuy


18

suất trên uong-nhat-ban-thay-doi-motthế giới loat-chinh-sach-tien-te1998328.html
/>news

Ngọc


Hải phần bài

được
giao, nộp
bài đúng
hạn.

ết trình nếu
được)
-Đỗ Ngọc
Hải

( làm slide)

/>2.Chính
sách lãi
suất của
Mỹ

/>
Nguyễn
Hồng Tiến
+ Nguyễn
Thị
Thu
Trang

Nguyễn
Hồng
Tiến
không
nộp bài

đúng hạn,
không
hoàn
thành
phần bài
được giao

Nguyễn
Thị
Thu
Trang( nhó
m trưởng,
chỉnh
sửa+tổng
hợp
bài
nhóm, làm
thay phần
bạn Tiến
không
hoàn thành.

Hoàn
thành tốt
phần bài
được
giao, nộp
bài đúng
hạn


Thị Hoàn
Dâng + Vũ thành tốt
Thị Khánh phần bài
Hòa
được

Ngô
Thị
Mai Hoa
(
Thuyết
trình nếu
được)

xpress.n
et/tin-tuc/quoc-te/my-tanglai-suat-0-25-3329065.html?
utm_source=detail&utm_me
dium=box_topic&utm_camp
aign=boxtracking
/>ai-chinh/thi-truong-quocte/nhin-lai-7-nam-lai-suat-0cua-fed-3295311/
3.Cơ chế />tác động …/c%C6%A1-ch%E1%BA
của
%BF-c%E1%BB%A…
chính
sách lãi
suất
4.Đánh
giá hiệu
quả
chính


Nguyễn
Thu Hà +
Ngô
Thị
Mai Hoa +
Phan Thị
Tươi


19

sách lãi
suất của
Mỹ, đề
xuất giải
pháp và
rút bài
học kinh
nghiệm

giao, nộp
bài đúng
hạn



×