Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Vai trò của CSTT trong việc kiểm soát lạm phát ở việt nam giai đoạn 2011 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.64 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU

2

DANH MỤC VIẾT TẮT

3

CHƯƠNG 1

4

1.1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ LẠM PHÁT

Chính sách tiền tệ

4

1.1.1

Khái niệm chính sách tiền tệ

4

1.1.2

Phân loại và các công cụ của chính sách tiền tệ


4

Lạm phát, nguyên nhân và tác động tới nền kinh tế

5

1.2
1.2.1

Khái niệm và phân loại lạm phát

5

1.2.2

Nguyên nhân của lạm phát

5

1.2.3

Tác động của lạm phát tới nền kinh tế

5

1.3

Vai trò của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát

5


1.3.1

Dự trữ bắt buộc

6

1.3.2

Chính sách chiết khấu

6

1.3.3

Nghiệp vụ thị trường mở

6

CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG KIỂM SOÁT LẠM PHÁT

7

2.1.1

Tổng quan.

11


2.1.2

Chi tiết từng năm.

11

KẾT LUẬN

14

TÀI LIỆU THAM KHẢO

15


LỜI NÓI ĐẦU

Thành công trong việc chặn đứng lạm phát phi mã năm 1989 nhờ áp dụng
công cụ lãi suất ngân hàng (đưa lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm lên cao vượt
tốc độ lạm phát), đã cho thấy tầm quan trọng của việc sử dụng các công cụ của
chính sách tiền tệ trong điều tiết kinh tế vĩ mô nhằm đạt các mục tiêu ngắn hạn ổn
định thị trường. Trong nền kinh tế tăng trưởng nhanh của nước ta luôn thường trực
nguy cơ tái lạm phát cao, do đó một công cụ điều tiết vĩ mô hiệu nghiệm như chính
sách tiền tệ được tận dụng trước tiên với hiệu suất cao cũng là điều tất yếu. Đứng
trước nguy cơ tiềm ẩn của lạm phát, việc nghiên cứu chính sách tiền tệ nhằm kiểm
soát lạm phát là vô cùng cần thiết. Do vậy, nhóm chúng em quyết định chọn đề tài
nghiên cứu: Vai trò của chính sách tiền tệ trong kiểm soát lạm phát của Việt Nam
giai đoạn 2011-2015. Việc nghiên cứu đề tài này giúp cho bản thân chúng nắm
vững những kiến thức cơ bản của ngành Kinh tế, nhằm phục vụ tốt cho việc học
tập. Do đó đề tài "Vai trò của CSTT trong việc kiểm soát lạm phát ở Việt Nam giai

đoạn 2011-2015" có ý nghĩa thiết thực đối với bản thân chúng em. Bài viết của
chúng em không tránh khỏi những thiếu sót. Mong cô có thể nhận xét và hướng
dẫn thêm. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn cô giáo đã giúp chúng em hoàn
thành đề tài này.




DANH MỤC VIẾT TẮT

1. CSTT: Chính sách tiền tệ
2. NHNN: Ngân hàng nhà nước
3. TCTD: Tổ chức tín dụng
4. NHTM: ngân hàng thương mại
5. KLGD: khối lượng giao dịch


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ LẠM PHÁT
1.1 Chính sách tiền tệ
1.1.1 Khái niệm chính sách tiền tệ
Theo (Mishkin, 2013) CSTT là quá trình quản lý cung tiền của NHTW nhằm đạt
được những mục tiêu nhất định như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỉ giá hối
đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế.
CSTT đang được các nhà nghiên cứu và nhà điều hành chính sách quan niệm thống
nhất là quá trình NHTW sử dụng các công cụ để điều tiết cung tiền, tín dụng và lãi
suất trong nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu về ổn định giá trị đồng tiền, tăng
trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm.
1.1.2 Phân loại và các công cụ của chính sách tiền tệ
1.1.2.1 Phân loại chính sách tiền tệ

Chính sách tiền tệ được chia làm 2 loại:
− Chính sách tiền tệ mở rộng (hay còn được gọi là CSTT nới lỏng)
được áp dụng trong điều kiện nền kinh tế bị suy thoái, nạn thất nghiệp gia tăng.
Trong trường hợp này, việc nới lỏng làm cho lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế
tăng, từ đó tạo được công ăn việc làm cho người lao động, thúc đẩy mở rộng đầu
tư, mở rộng sản xuất kinh doanh. CSTT mở rộng đồng nghĩa với CSTT chống suy
thoái.
− Chính sách tiền tệ thắt chặt (hay còn được gọi là CSTT thu hẹp)
được áp dụng trong điều kiện nền kinh tế đã có sự phát triển thái quá, đồng thời
lạm phát ngày càng gia tăng. CSTT thắt chặt đồng nghĩa với CSTT chống lạm
phát.
1.1.2.2 Các công cụ của chính sách tiền tệ
Theo Wikipedia, Chính sách tiền tệ có 6 công cụ chính: Công cụ tái cấp vốn, công
cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, công cụ nghiệp vụ thị trường mở, công cụ lãi suất tín
dụng, công cụ hạn mức tín dụng, công cụ tỷ giá hối đoái.


Về ổn định kinh tế vĩ mô, nguyên lý hoạt động chung của chính sách tiền tệ là cơ
quan hữu trách về tiền tệ (NHTW hay Cục tiền tệ) sẽ thay đổi lượng cung tiền tệ.
Các công cụ để đạt được mục tiêu này gồm: thay đổi lãi suất chiết khẩu, thay đổi tỷ
lệ dự trữ bắt buộc, và các nghiệp vụ thị trường mở.
1.2 Lạm phát, nguyên nhân và tác động tới nền kinh tế
1.2.1 Khái niệm và phân loại lạm phát
1.2.1.1 Khái niệm
Lạm phát là sự tăng mức giá chung một cách liên tục của hàng hóa, dịch vụ theo
thời gian và sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó.(N.Gregory
Mankiw, Macroeconomics, trang 155)
1.2.1.2 Phân loại các loại lạm phát
Theo mức độ, lạm phát chia thanh 3 nhóm:
• Lạm phát tự nhiên: 0- dưới 10%

• Lạm phát phi mã: 10% đến dưới 1000%
• Siêu lạm phát: trên 1000%
1.2.2 Nguyên nhân của lạm phát
Có 3 nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát:
+ Lạm phát do tăng cung tiền
+ Lạm phát do cầu kéo
+ Lạm phát do chi phí đẩy
1.2.3 Tác động của lạm phát tới nền kinh tế
1.2.3.1 Tác động tiêu cực
Lạm phát tác động lên lãi suất và thu nhập thực tế làm thất nghiệp gia tăgia tăng tỷ
lệ thất nghiệp, suy thoái nền kinh tế, đời sống nhân dân trở nên khó khăn hơn.


1.2.3.2 Tác động tích cực
Lạm phát không phải lúc nào cũng xấu như chúng ta nghĩ. Nếu duy trì lạm phát ở
mức 2-5% sẽ là rất tốt cho nền kinh tế các nước phát triển và 10% với các nước
đang phát triển bởi nó đem lại một số lợi ích như: Kích thích tiêu dùng trong nước,
đầu tư giảm bớt thất nghiệp trong xã hội.
1.3 Vai trò của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát
Để thấy rõ tác động của chính sách tiền tệ tới tỷ lệ lạm phát ta sẽ đi tìm hiểu từng
công cụ một của chính sách tiền tệ.
1.3.1 Dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm phản ánh mức dự trữ mà các ngân hàng
thương mại bắt buộc phải thực hiện tính trên tổng số dư tiền gửi các loại. Các
NHTM có thể dự trữ dưới dạng tiền mặt hoặc tiền gửi tại NHTW. Khi NHTW tăng
(giảm) tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ tác động làm giảm (tăng) tiềm năng tín dụng của các
NHTM (Lê Thị Tuyết Hoa và ctg, 2016). Ngoài ra, việc tăng (giảm) tỷ lệ dự trữ bắt
buộc còn tác động làm giảm(tăng) lãi suất chiết khấu của NHTW (Mishkin, 2013).
1.3.2 Chính sách chiết khấu
Chính sách chiết khấu là biện pháp mà NHTW thực hiện các khoản cho vay

đối với các ngân hàng thương mại bằng cách chiết khấu, tái chiết khấu các loại
giấy tờ có giá nhằm cung ứng tiền vào lưu thông và thực hiện vai trò người cho
vay cuối cùng.
Theo Madura (2014) chính sách chiết khấu có thể tác động đến lượng vốn vay
trên thị trường theo hai cách: tác động đến lãi suất cho vay và tác động đến quy mô
vốn vay. Nghĩa là khi NHTW có thể mở rộng tiền tệ bằng cách sử dụng chính sách
chiết khấu: tăng hạn mức chiết khấu và giảm lãi suất chiết khấu, qua đó tác động
làm tăng cung quỹ cho vay, làm lãi suất trên thị trường liên ngân hàng giảm, lãi


suất trên thị trường tín dụng giảm, kích thích đầu tư, chi tiêu tiêu dùng, từ đó làm
tăng tổng cầu trong nền kinh tế và ngược lại.
Sự thay đổi của lãi suất chiết khấu có thể coi như tín hiệu định hướng chính
sách tiền tệ của NHTW. Khi NHTW công bố tăng lãi suất chiết khấu đó là tín hiệu
của chính sách thắt chặt tiền tệ và ngược lại. Từ đó có tác dụng hướng dẫn hành vi
của các chủ thể trên thị trường
1.3.3 Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ để NHTW thực hiện việc cung ứng và
điều hòa khối lượng tiền tệ thông qua hành vi mua hoặc bán các loại công trái, trái
phiếu kho bạc, chứng thư tài sản khác… gọi chung là chứng khoán. Đây là công cụ
CSTT quan trọng nhất vì mỗi hành vi mua (bán) trên thị trường mở sẽ tác động làm
tăng (giảm) cơ số tiền tệ (Lê Thị Tuyết Hoa và ctg, 2016).
Nghiệp vụ thị trường mở là một trong các công cụ điều hành chính sách tiền
tệ đạt hiệu quả cao và hiện đang được nhiều nước trên thế giới sử dụng. Về mặt
hình thức, thị trường mở là thị trường giao dịch các chứng khoán nợ cả ngắn hạn
và dài hạn. Tuy nhiên, thị trường mở ở các nước khác nhau lại khác nhau về phạm
vi, loại hình công cụ và thời hạn của các công cụ giao dịch trên thị trường. Đối với
một số nước, hàng hoá giao dịch trên thị trường mở chỉ gồm các giấy tờ có giá
ngắn hạn và đối tác tham gia chỉ là các tổ chức tín dụng. Khi đó, thị trường mở là
một bộ phận của thị trường tiền tệ. Theo Mishkin (2013), nghiệp vụ thị trường mở

là công cụ có ưu điểm hơn hẳn các công cụ khác ở độ linh hoạt, chính xác và hiệu
quả tức thì vì vậy công cụ này được các NHTW trên thế giới sử dụng chủ yếu khi
muốn điều tiết lượng tiền cung ứng.



CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG KIỂM
SOÁT LẠM PHÁT

2.1 Thực trạng lạm phát Việt Nam giai đoạn 2011-2015
2.1.1 Tổng quát về tình hình lạm phát Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015
Trong giai đoạn 2011-2015 cả nước đã thực hiện đồng bộ các giải pháp để
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đánh dấu thời kì giữ lạm phát ổn định ở
mức thấp nhất trong hơn 10 năm qua.

Hình 2.1: Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015


(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Cụ thể:
- Năm 2011, diễn biến lạm phát năm 2011 khá phức tạp, thể hiện ở việc tăng
cao những tháng đầu năm và có dấu hiệu giảm tốc, chỉ tăng dưới 1% mỗi tháng
trong 4 tháng cuối năm. CPI đạt đỉnh vào tháng 4 ở mức 3,32%, CPI tháng 7 cũng
rẽ ngoặt “nấc” lên mức tăng mới 1,17%.
- Năm 2012, chỉ số giá tiêu dùng diễn biến ngoài dự kiến và không tuân theo
quy luật của những năm trước đó: Ngoại trừ 2 tháng đầu năm, lạm phát tăng cao do
yếu tố mùa vụ với mức tăng lần lượt là 1% và 1,37% so với tháng trước, chỉ số CPI
từ tháng 3 tới tháng 8 chỉ tăng rất chậm. Tính bình quân cả năm, CPI năm 2012
tăng 9,21% so với năm trước, mức tăng này được cho là thấp hơn nhiều so với năm

2010 (11,75%) và năm 2011 (18,13%).
- Năm 2013, CPI tăng 6,04% so với bình quân năm 2012 (6,81%). Mức CPI
cao nhất là vào tháng 2 (1,32%) và thấp nhất là tháng 3 (-0,19%).Theo đó, bình
quân CPI quý I/2013 cũng thấp hơn bình quân quý I từ năm 2004 đến năm 2012.
Đây là mức tăng thấp nhất trong 4 năm qua. Mức tăng CPI tiếp tục duy trì và tăng
cao vào cuối quý III/2013.


- Năm 2014, tỷ lệ lạm phát của các tháng so với cùng kỳ năm trước cũng chỉ
đạt cao nhất vào tháng 1 là 5,45%. Kể từ tháng 6, tỷ lệ tăng của CPI ngày càng
giảm. CPI tháng 12 chỉ tăng 1,84% so với cùng kỳ năm 2013, kéo tỷ lệ lạm phát
bình quân tháng chỉ còn 4,09%/năm, thấp hơn mức trung bình của năm 2013 là
2,5%.
- Năm 2015, theo tin từ Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng
12 tăng 0,02% so với tháng trước và tăng 0,6% so với cùng kỳ. Tính bình quân,
CPI cả nước năm 2015 tăng 0,63% so với năm ngoái, thấp hơn nhiều so với mục
tiêu 5% của Quốc hội đặt ra. Đây cũng là mức tăng thấp nhất trong vòng 10 năm
trở lại đây.
Tổng kết lại, tỷ lệ lạm phát từ mức 18,13% năm 2011 giảm xuống còn
6,81% năm 2012; đạt mức 6,04% năm 2013. Tỷ lệ này giảm mạnh ở mức 1,84%
vào năm 2014 và năm 2015 được kiểm soát ở mức 0,63% . Trong đó, năm 2011 là
năm có chỉ số giá tiêu dùng tăng cao nhất trong 10 năm gần đây còn năm 2015 có
chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp nhất.
2.1.2 Nguyên nhân dẫn tới lạm phát giai đoạn 2011-2015
Qua diễn biến chỉ số giá tiêu dùng gia đoạn 2011-2015 có thể thấy lạm phát
trong nền kinh tế đã được kiềm chế rất tốt trong giai đoạn này. Để có được những
thành tựu như vậy có thể thấy ở hai nguyên nhân chính sau đây:
- Nguyên nhân bên ngoài: trong giai đoạn 2012-2015 giá cả thế giới cũng có
xu hướng giảm mạnh, điển hình như giá dầu thế giới năm 2011 vào khoảng hơn
100USD/thùng thì đến năm 2014 chỉ còn khoảng 70USD/thùng, và đến năm 2015

còn chưa đến 50USD/thùng; giá xăng dầu tại Việt nam chịu tác động lớn từ giá dầu
thế giới, điều này giải thích tại sao chỉ số giá nhóm giao thông trong nước đã giảm
mạnh hai năm gần đây. Ngoài ra việc giá một số hàng hoá thế giới (như giá nông
sản) giảm mạnh thời gian gần đây cũng có tác động nhiều đến nhóm giá lương thực
thực phẩm trong nước.


- Nguyên nhân bên trong: Để giải quyết vấn đề lạm phát tăng cao năm 2011,
chính phủ đã ra Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2011 về những
giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an
sinh xã hội. Việc các Bộ, ngành quyết liệt thực hiện tốt chương trình bình ổn giá thị
trường từ năm 2012 tới nay đã đảm bảo nguồn cung hàng hoá thiết yếu, góp phần
làm tăng cung trong những dịp tiêu dùng cao điểm, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng
của người dân với giá bán hợp lý. Mặt khác, trước tình hình tổng cầu và sức mua
của nền kinh tế còn yếu, hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, lạm
phát tuy đã được kiểm soát nhưng tiềm ẩn nguy cơ gia tăng trở lại, qua các năm
Chính phủ vẫn duy trì mục tiêu, nhiệm vụ “điều hành chính sách tiền tệ chủ động,
linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm kiểm soát lạm phát theo
mục tiêu đề ra, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, bảo
đảm thanh khoản của các tổ chức tín dụng và nền kinh tế”. Như vậy, lạm phát và
ổn định kinh tế vĩ mô vẫn là những mục tiêu được quan tâm hàng đầu bên cạnh
việc hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý.
2.2. Thực trạng chính sách tiền tệ giai đoạn 2011-2015
2.2.1. Tỷ lệ lạm phát được kiềm chế, giảm đều và hiện đang ở mức thấp
Tỷ lệ lạm phát sau khi tăng cao trong nửa đầu năm 2011 đã giảm xuống và
diễn biến ổn định cho tới nay. Cụ thể, từ mức đỉnh 18,13% năm 2011 xuống còn
6,81% năm 2012, 6,04% năm 2013 và dưới 2% giai đoạn 2014-2015. Ngoài ra,
tăng trưởng cung tiền và tín dụng kể từ năm 2012 đến nay không tạo áp lực tăng
lạm phát như những thời kỳ trước đó do đã được tập trung hướng vào các lĩnh vực
sản xuất trọng tâm của nền kinh tế.

2.2.2. Lãi suất nhanh chóng hạ nhiệt, hỗ trợ hợp lý cho khu vực sản xuất
Tính cho đến thời điểm hiện tại, mặt bằng lãi suất cho vay trung và dài hạn
bằng khoảng 47% so với cuối năm 2011 và tương đương mức lãi suất của giai đoạn


2005-2006 (giai đoạn kinh tế phát triển ổn định), góp phần hỗ trợ giảm chi phí vốn
vay của doanh nghiệp và hộ dân. Với những nỗ lực trong công tác điều hành lãi
suất, chỉ trong thời gian ngắn, lãi suất cho vay đã giảm hơn một nửa, từ 20%/năm
(thậm chí 24%/năm) xuống chỉ còn 9%-11% và còn khoảng 6,5%/năm đối với các
lĩnh vực ưu tiên. Bên cạnh các khoản vay mới với lãi suất thấp, NHNN cũng yêu
cầu các TCTD đưa lãi suất của các khoản vay cũ về mức 15%/năm và sau đó là
13%/năm, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và tạo điều kiện giải
phóng kênh tín dụng.
Bên cạnh đó, lãi suất cho vay USD cũng được điều hành giảm ổn định theo
hướng không để tồn tại khoảng cách chênh lệch đáng kể với lãi suất cho vay VND,
hiện lãi suất cho vay USD ngắn hạn ở mức 3%-5,5% và dài hạn từ 5,5%-6,7%.
2.2.3. Tăng trưởng tín dụng hợp lý, đạt được mục tiêu điều hành, phù hợp với tốc
độ tăng trưởng kinh tế hàng năm.
Nếu như trong năm 2011, NHNN phải nhanh chóng áp dụng các chính sách
chặt chẽ để kiềm chế tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức cao trên 30% xuống còn
trên 14% để hỗ trợ công tác kiểm soát lạm phát, thì ngay trong năm 2012 khi tăng
trưởng tín dụng có dấu hiệu "ngưng trệ" ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế, NHNN
đã nhanh chóng thay đổi mục tiêu điều hành theo hướng tăng trưởng tín dụng
nhưng thận trọng. Điều này nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, song phải
theo nguyên tắc đảm bảo chất lượng tín dụng, hạn chế phân bổ vốn vào khu vực
không khuyến khích có nguy cơ gây ra lạm phát cao và tăng trưởng thiếu bền vững
trong tương lai. Nhờ đó, tăng trưởng tín dụng đã có sự phục hồi qua các năm, cụ
thể: năm 2012 là 8,85%; năm 2013 là 12,51%; năm 2014 là 14,16%; 6 tháng đầu
năm 2015 tăng 7,83%. Trong giai đoạn này, tín dụng tăng bình quân khoảng
13%/năm. Tốc độ tăng trưởng tín dụng trong các lĩnh vực ưu tiên trong giai đoạn

2012–2015 nhìn chung cao hơn so với tốc độ tăng trưởng chung của toàn ngành,
như: nông nghiệp nông thôn có tốc độ tăng trưởng bình quân tín dụng giai đoạn


2011–2014 đạt 15%/năm; Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tăng trên
20%/năm; Công nghiệp ưu tiên phát triển tốc độ, tăng xấp xỉ 12%.
Tỷ giá và thị trường ngoại hối ổn định góp phần cải thiện cán cân thanh toán
tổng thể, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước, nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam, hỗ
trợ tích cực cho lộ trình chống đô la hóa. Từ cuối năm 2011 đến nay, điều hành tỷ
giá luôn nằm trong định hướng chỉ đạo của NHNN. Chênh lệch tỷ giá của thị chính
thức và thị trường tự do thu hẹp đáng kể. Tình trạng đô la hóa đã giảm mạnh, tỷ lệ
giữa tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán đến nay còn khoảng 12%; Cán
cân thanh toán tổng thể, đặc biệt là các cân thương mại đã thặng dư trở lại sau
nhiều năm nhập siêu; NHNN đã mua được một lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ
ngoại hối Nhà nước. Bên cạnh đó, diễn biến lạm phát có xu hướng giảm tốc đã
giúp ổn định tâm lý thị trường, kỳ vọng về sự giảm giá VND được hạn chế, khắc
phục phần nào hiện tượng găm giữ đầu cơ ngoại tệ trong giai đoạn trước.
2.3 Hiệu quả của chính sách tiền tệ trong kiểm soát lạm phát giai đoạn
2011-2015
2.1.1 Tổng quan.
- Từ năm 2011 đến 2015, NHNN đã điều hành quyết liệt, chủ động và đồng
bộ các công cụ CSTT để điều tiết lượng tiền cung ứng phù hợp với mục tiêu kiểm
soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Theo
đó, kỷ luật, kỷ cương thị trường được củng cố vững chắc, thanh khoản của toàn hệ
thống từng bước được ổn định và đảm bảo an toàn; lạm phát từ mức 18,13% năm
2011 xuống 6,81% năm 2012, 6,04% năm 2013; 1,84% năm 2014 và năm 2015
được kiểm soát ở mức 0,63%.
2.1.2 Chi tiết từng năm.
- Khởi đầu năm 2011, kinh tế vĩ mô trong nước phải đương đầu với những bất
ổn lạm phát, tỷ giá… vốn đã khởi phát từ giai đoạn trước đó. Chỉ số giá tiêu dùng

(CPI) cả nước trong hai tháng 1 và 2 đều duy trì mức tăng kỷ lục lần lượt là 1.74%
và 2.09%, khá cao so với kỳ vọng. Tuy nhiên, nhớ chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị
quyết số 11/NQ-CP, lượng cung tiền đã được kiểm soát chặt chẽ góp phần tập trung
kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.


- Ước cả năm, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 10%, tín dụng tăng
khoảng 12%. Các mức lãi suất cũng được điều chỉnh hợp lý hơn so với 4 tháng đầu
năm, đến ngày 14/12/2011, lãi suất kỳ hạn qua đêm ở mức 14,0-14,5%/năm; 1
tuần: 15-16%/năm; 2 tuần 16-17%; 1 tháng 18-19%/năm.
- Tất cả những yếu tố trên đã góp phần kiềm chế lạm phát tăng chậm lại (từ
tháng 8 đến cuối năm, lạm phát tăng dưới 1%/tháng.)
Hình 2.2: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) theo tháng trong năm 2011

- Trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng chậm và lạm phát thấp, ngay từ đầu
năm 2012 NHNN đã định hướng giảm lãi suất huy động và cho vay. Kết quả điều
hành trong năm 2012 mức lãi suất huy động và cho vay giảm nhanh hơn dự kỉến
của NHNN; lãi suất huy động giảm từ 3 - 6%/năm, lãi suất cho vay giảm 5 9%/năm so với cuối năm 2011.
- Tới năm 2013, mức lạm phát tiếp tục giảm xuống còn 6,08%, mức lạm phát
thấp nhất trong 10 năm trở lại. Ngoài ra, lãi suất huy động giảm liên tục khoảng từ
2 - 4%, lãi suất cho vay giảm từ 3 - 5% so với mức lãi suất cuối năm 2012. Điều
này không những phản ánh tính thanh khoản của các TCTD ngày càng ổn định, mà
còn biểu hiện tính dẫn dắt thị trường của NHNN ngày càng tăng.


- Năm 2014 lạm phát tiếp tục giảm so với năm 2013 và trở thành mức thấp
nhất trong hơn một thập kỷ. Tốc độ tăng giá tiêu dùng (tính theo năm) đã trượt về
ngưỡng 2%, tính đến cuối năm 2014 CPI tăng khoảng 1,84%.
- Năm 2015 tiếp tục là một năm thành công trong việc điều hành chính sách
tiền tệ (CSTT) và hoạt động ngân hàng, được Đảng, Nhà nước, doanh nghiệp,

người dân cũng như các tổ chức và các nhà đầu tư quốc tế ghi nhận. Cụ thể, lạm
phát cả năm ở mức thấp (lạm phát tháng 12/2015 tăng 0,6% so với cuối năm 2014,
lạm phát tính bình quân tăng 0,63% và là mức tăng thấp nhất kể từ năm 2001 đến
nay).


Hình 2.3: Diễn biến CPI năm 2015 qua các tháng

Diễn biến CPI năm 2015 qua các tháng – Nguồn: Tổng cục thống kê


KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu khi áp dụng chính sách tiền tệ trong công cuộc kiểm soát
lạm phát ở nước ta năm 2011-2015, chúng ta thấy rõ được vai trò và ý nghĩa của nó
trong nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như việc kiểm soát làm phát nói riêng.
Bởi chính sách tiền tệ là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô của nhà nước nên vị trí
của chính sách tiền tệ hết sức là quan trọng
Hoạch định một chính sách tiền tệ đòi hỏi cả một quá trình, sự linh hoạt và sự
thống nhất trong sự áp dụng trên thực tiễn trước bối cảnh kinh tế quốc tế hiện nay.
Nhìn vào những hiệu quả mà chính sách tiền tệ mang lại trong việc kiểm soát lạm
phát ở nước ta trong giai đoạn 2011-2015 và bằng sự nỗ lực hiện tại cũng như
trong tương lai, sự kế thừa và phát huy những thành tựu của chính sách tiền tệ,
chắc chắn chính sách tiền tệ Việt Nam sẽ là 1 đòn bẩy đồng thời đóng góp vai trò
quan trọng trong việc xây dựng một đất nước giàu mạnh, ổn định và phát triển sánh
vai với các nền kinh tế tiến bộ trong khu vực nói riêng và trên thế giới nói chung.


• TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Thị Tuyết Hoa, Đặng Văn Dân và tập thể tác giả, 2016, Lý thuyết tài
chính tiền

tệ, NXB Kinh tế, TP Hồ Chí Minh.
PGS.TS Hà Minh Sơn và NCS. Phạm Thị Liên Ngọc, 2016, “Lạm phát 2011
đến nay”, Tạp chí Tài chính số ngày 08/07.
Trần Thọ Đạt (chủ biên) (2015). Thực tiễn công tác quản lý và điều hành
của NHNN Việt Nam giai đoạn 2011-2015, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.
Tài liệu hội thảo “Nhìn lại điều hành chính sách của NHNN 2011 2013: Những kết quả và thách thức, ngày 30/10/2013”.
Ban Phân tích dự báo, 12/01/2016, “Diễn biến tình hình của giá cả và tiêu
dùng giai đoạn 2011-2015”, trang “Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế xã hội Quốc gia”.


“Nhiệm kỳ 2011-2015: Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô dần ổn
định”, trang infornet.vn số ngày 30/12/2015
Ngân hàng Nhà nước, 2011, 2012, 2013 và 2014, Báo cáo thường niên của
Ngân hàng Nhà nước các năm
Thái Hà (2015). Vì sao lạm phát năm 2014 thấp nhất 14 năm. Truy cập tại
< [truy cập 23/11/2019].
(2015). Báo Người đồng hành. Chính sách tiền tệ năm 2014
và những vấn đề đặt ra trong năm 2015. Truy cập tại < />Nguyễn Thị Kim Thanh (2014). Chính sách tiền tệ năm 2013 và định hướng
2014. Truy cập tại < />


×