Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA DỊCH COVID19 ĐẾN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG ĐỂ GIẢM THIỂU THIỆT HẠI TỪ DỊCH BỆNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.07 KB, 12 trang )

TÁC ĐỘNG CỦA DỊCH COVID-19 ĐẾN
KINH TẾ VIỆT NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP
TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG ĐỂ GIẢM
THIỂU THIỆT HẠI TỪ DỊCH BỆNH
I.

Bối cảnh kinh tế xã hội khi dịch Covid-19 bùng phát
1. Bối cảnh xã hội
Dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng virus corona mới có tên khoa học là
COVID-19 khởi phát tại thành phố Vũ Hán, thuộc tỉnh Hồ Bắc (Trung Quốc) gây ra đã
lây nhiễm với tốc độ khó lường không chỉ Trung Quốc mà còn tại nhiều nơi trên thế
giới. Ngày 30/01/2020, WHO phải ban bố tình trạng khẩn cấp y tế toàn cầu. Theo thống
kê của WHO, tính đến ngày 06/04/2020, số ca tử vong trên toàn thế giới do COVID-19
gây ra đã vượt mốc 70.000 người (trên tổng số 1.288.319 ca lây nhiễm). Tại thời điểm
hiện tại, chưa quốc gia nào trên thế giới phát triển thành công vaccine chống lại sự lây
lan của COVID-19.
Việt Nam có 245 trường hợp nhiễm COVID-19 phải cách ly để điều trị, đến thời
điểm ngày 06/04, có 95 người đã được chữa khỏi, tuy nhiên vẫn còn những người đang
phải cách ly, giám sát y tế để phòng tránh nguy cơ lây nhiễm. Một tín hiệu đáng mừng
là chưa có ca nào nhiễm COVID-19 tử vong ở Việt Nam dù trước đó đã có những ca rất
nặng. Chính phủ đánh giá công tác phòng chống và kiểm soát dịch bệnh COVID-19
được đặt ra là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu và được các cấp, các ngành, các địa phương
quan tâm lãnh đạo, cả hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân cùng vào cuộc quyết tâm
phòng chống dịch. Các hoạt động giám sát y tế, cách ly người đến từ vùng dịch (như
Trung Quốc, Hàn Quốc, Iran, Italy, Tây Ban Nha, Mỹ, ...) được thực hiện nghiêm túc.
Các vấn đề an sinh xã hội được quan tâm triển khai thực hiện; đặc biệt, Chính phủ đã
chi 517 tỷ đồng từ nguồn ngân sách trung ương cho chống dịch COVID-19 theo Quyết
định số 217/QĐ-TTg ngày 07/2/2020 và Bộ Tài chính đề xuất trích 2,7 nghìn tỷ đồng
dự phòng ngân sách trung ương năm 2020 bổ sung để triển khai các hoạt động phòng,
chống dịch COVID-19 (nguồn: Bộ Tài chính).



2. Bối cảnh kinh tế Việt Nam

Khi bắt tay thực hiện công cuộc đổi mới từ 1986, nền kinh tế Việt Nam đã tăng
tốc nhanh chóng và đạt đỉnh ở mức 9,54% trước khi lâm vào cuộc khủng hoảng tài
chính châu Á giai đoạn 1997-1998, tốc độ tăng trưởng GDP bị sụt giảm nghiêm trọng
(theo Biểu đồ 1) .Trải qua nhiều thăng trầm, năm 2000, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu
hồi phục thì năm 2003, hội chứng hô hấp cấp tính nặng ( gọi tắt là SARS) bùng phát và
ảnh hưởng đến sự hồi phục này.
Nguồn: World bank
Sau năm 2007, tăng trưởng có xu hướng đi xuống với nhiều biến động và chỉ đạt
khoảng 5 - 6%. Kinh tế Việt Nam trải qua một giai đoạn cực kì khó khăn khi đối mặt
với bong bóng bất động sản, chứng khoán, lạm phát, nợ xấu và bất bình đẳng về thu
nhập ngày càng gia tăng. Nếu bình quân tăng trưởng của giai đoạn 1991 - 1999 là
7,67% , thì của giai đoạn 2000-2008 giảm còn 6,83% và giai đoạn 2009 - 2019 chỉ còn
6,22% . Năm 2019, bối cảnh tình hình khu vực và quốc tế diễn biến phức tạp, có nhiều
yếu tố không thuận lợi. Kinh tế thế giới, thương mại toàn cầu tăng trưởng chậm lại;
cạnh tranh chiến lược và căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc gia tăng.
Trong nước, Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề từ thiên tai như hạn hán, xâm nhập mặn,
dịch tả lợn châu Phi, dịch cúm A/H5N1 và A/H5N6 trên gia súc và gia cầm. Là nước
láng giềng sát đường biên giới với Trung Quốc, tần suất giao lưu trao đổi thương mại
của hai nước rất lớn, ngay từ khi dịch COVID-19 bùng phát ở Trung Quốc, nền kinh tế
Việt Nam đã bị thiệt hại không nhỏ bởi dịch bệnh. Hơn nữa, Việt Nam là một trong
những quốc gia mở nhất về thương mại trên thế giới. Tỷ lệ xuất khẩu trên GDP đã tăng
đều đặn từ 34,7% lên hơn 100% trong năm 2017. Nhập khẩu đã tăng cùng với xuất
khẩu và độ mở của nền kinh tế, được đo bằng tỷ lệ thương mại so với GDP, đạt mức
187,52% năm 2018 (Nguồn: Worldbank data). Những quốc gia có độ mở lớn và quy
mô nền kinh tế nhỏ thường dễ bị tổn thương và nhạy cảm với các cú sốc bên ngoài. Khi
COVID-19 trở thành đại dịch toàn cầu, khó dự báo thời điểm đỉnh dịch và thời điểm kết
thúc, nền kinh tế Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề từ dịch bệnh này.

II.

Tác động của dịch bệnh Covid-19 đến các hoạt động sản xuất kinh doanh ở Việt
Nam và dự báo về tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2020 sau khi kết thúc
dịch bệnh Covid-19


1. Tác động chung đến nền kinh tế Việt Nam

1.1. Các kịch bản được dự báo
Trung Quốc hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, với tổng kim
ngạch thương mại giữa hai quốc gia năm 2019 đạt 116,866 tỷ USD. Trong đó, kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam là 41,414 tỷ USD và nhập khẩu là 75,452 tỷ USD. Thị
trường Trung Quốc chiếm tới 22,6% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước năm
2019. Riêng kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm gần 30% tổng khối lượng nhập
khẩu của cả nước. Khu vực FDI đóng góp rất lớn vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam
trong những năm qua. Cụ thể là FDI chiếm hơn 70% kim nghạch xuất khẩu, chiếm hơn
20% tổng thu ngân sách nhà nước, sản xuất ra gần 50% sản lượng công nghiệp của Việt
Nam (Theo số liệu tổng cục Thống kê,2019).
Theo báo cáo đánh giá sơ bộ về ảnh hưởng của dịch COVID-19 đối với kinh tế xã hội Việt Nam năm 2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư dựa trên những số liệu tính đến
ngày 5/2/2020, có những kịch bản sau:
- Kịch bản 1: dịch virus corona được khống chế kịp thời trong quý I
- Kịch bản 2: dịch virus corona được khống chế trong quý II
KB1
- Tăng trưởng kinh tế (GDP)
a) Quý I
b) Quý II
c) Quý III
d) Quý IV
Cả năm

- Chỉ số giá tiêu dùng bình quân (CPI)

+3,8
+6,55
+7,07
+6,81

KB2
+3,8
+5,81
+7,05
+6,81
+ 6,27 +6,09
+3,96

+4,86


Theo kịch bản 1, nếu dịch COVID-19 được khống chế kịp thời trong quý
I, ước tính GDP năm nay tăng 6,27%, thấp hơn 0,53% so với Nghị quyết
01. Với kịch bản 2, nếu dịch COVID-19 được khống chế trong quý II, ước tính
GDP tăng 6,09% so với năm trước (thấp hơn 0,71% so với Nghị quyết
01). Trong các kịch bản bi quan hơn, tốc độ tăng trưởng có thể còn thấp hơn
nữa, có thể lùi về mức 5%. Như vậy, đối với cả 2 kịch bản, để năm 2020 đạt
mức tăng trưởng GDP 6,8% như mục tiêu đề ra là thách thức rất lớn.
Về chỉ số giá tiêu dùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, do ảnh hưởng
của dịch bệnh có thể làm tăng giá thuốc y tế, giá điện sinh hoạt, đồng thời làm
gián đoạn chuỗi cung ứng vật liệu sản xuất. Tuy nhiên, giá dịch vụ ăn uống
ngoài gia đình; giá dịch vụ du lịch, khách sạn, dịch vụ vui chơi, giải trí giảm
trong ngắn hạn do nhu cầu giảm nhưng giá các hàng hóa thiết yếu như thịt,

lương thực… có xu hướng bị đẩy giá trong khi đây là nhóm hàng chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong giỏ hàng hóa tính CPI của Việt Nam. Ngoài ra, nhu cầu ăn uống
ngoài gia đình giảm, nhu cầu du lịch, lễ hội giảm. Mục tiêu duy trì lạm phát
dưới 4% của Chính phủ trong năm 2020 sẽ rất khó khăn .
Theo kịch bản 1, giá các mặt hàng thực phẩm có nguy cơ tăng cao hơn ở
quý II. Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự báo CPI bình quân năm 2020 so năm 2019
tăng 3,96%. Theo kịch bản 2, giá các mặt hàng thực phẩm tươi sống sẽ tăng cao
hơn do hoạt động sản xuất giảm sút và tăng vào các tháng cuối năm.

Đơn vị: % YoY
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
1.2. Tình hình kinh tế quý I năm 2020
Trong bối cảnh hoạt động sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn, tăng
trưởng GDP quý I năm 2020 đạt thấp (3,82%) so với cùng kỳ các năm trước
4
4


(theo Biểu đồ 3), tuy nhiên, đây là mức tăng trưởng khá trong bối cảnh dịch
Covid-19 và đà suy thoái kinh tế thế giới.

Biểu đồ 3: Tăng trưởng GDP quý 1

Đơn vị: % YoY
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Theo đánh giá mới nhất của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), mức
độ thiệt hại của nền kinh tế Việt Nam tùy thuộc vào tình hình dịch bệnh và mức
thiệt hại sẽ dao động từ 675 triệu - 3,7 tỷ USD (tương đương 0,3 - 1,4% GDP)
…Trong các tháng tiếp theo, kinh tế Việt Nam sẽ đối mặt với nhiều rủi ro và
thách thức trong bối cảnh dịch COVID-19 vẫn còn tiếp diễn.

2. Tác động cụ thể ước tính đến một số ngành của nền kinh tế

Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự báo những ngành ảnh hưởng trực tiếp do dịch
gồm xuất nhập khẩu, du lịch, vận tải; những ngành, lĩnh vực bị ảnh hưởng gián
tiếp gồm sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản; sản xuất công nghiệp như sản
xuất, chế biến thực phẩm, công nghiệp điện - điện tử, da giày, dệt may, thương
mại nội địa, đầu tư, thu chi ngân sách, phát triển doanh nghiệp...
2.1. Ngành du lịch
Vào thời điểm đầu công bố dịch, các địa phương trên cả nước đã triển
khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, đồng loạt tạm dừng đón khách du
lịch tham quan tại các điểm danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử; đặc biệt, dừng
việc tổ chức các hoạt động lễ hội đầu xuân Canh Tý nhằm tránh tập trung đông
người, dễ gây nguy cơ phát tán mầm bệnh. Chính bởi nguyên nhân này, ngành
dịch vụ du lịch đã phải chịu hậu quả đầu tiên, do những tác động của dịch bệnh
5
5


COVID-19. Nhu cầu du lịch nội địa và quốc tế đều giảm sút mạnh. Khách du
lịch đến từ thị trường châu Á, đặc biệt là từ Trung Quốc, Hàn Quốc giảm mạnh.
Đối với thị trường châu Âu, khách du lịch cũng giảm do các chính sách cắt giảm
chuyến bay. Các thị trường khác như châu Mỹ, châu Úc cũng theo xu hướng
giảm do dịch bệnh và khó khăn trong quá trình đi lại giữa các quốc gia.
Theo kịch bản 1, lượng khách quốc tế trong quý I cũng vẫn là 644.000
lượt, giảm so với không có dịch khoảng 800.000 lượt. Dự báo của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư cũng cho thấy, nếu dịch kéo dài hết quý I, thiệt hại về doanh thu từ
khách quốc tế năm 2020 ước tính khoảng 2,3 tỷ USD.
Theo kịch bản 2, lượng khách Trung Quốc đến Việt Nam trong 6 tháng
đầu năm sẽ giảm khoảng 2,3 triệu lượt so với không có dịch. Đối với khách
quốc tế đến từ các quốc gia khác, ước tính sẽ giảm khoảng 50 - 60% trong giai

đoạn có dịch, tổng thiệt hại khoảng 5 tỷ USD.
Tính đến quý I năm 2020, tổng lượng khách quốc tế đến nước ta chỉ đạt
3,69 triệu lượt người, giảm 18,1% so với cùng kỳ năm trước. Khách đến từ hầu
hết các thị trường đều giảm, trong đó các thị trường lớn như Trung Quốc (giảm
31,9% so với cùng kỳ năm 2019), Hàn Quốc (giảm 26,1%), Nhật Bản (giảm
14,1%), Mỹ (giảm 21,4%), Úc (giảm 15%), châu Âu (giảm 3,1%).
2.2. Ngành nông nghiệp
Dịch COVID-19 tác động tới nông nghiệp theo 2 hướng:
Một là, về cầu. Hiện tại, thị trường gần nhất và lớn nhất của Việt Nam là
Trung Quốc bị tác động trực tiếp từ COVID-19 do Trung Quốc là nước khởi
phát dịch bệnh này. Điều này khiến cầu của thị trường Trung Quốc sẽ trở về với
những sản phẩm cơ bản như lương thực, thực phẩm và bỏ qua những sản phẩm
khác như hoa quả... Như vậy, cầu của Trung Quốc về những sản phẩm hoa quả
của Việt Nam sẽ bị sụt giảm nghiêm trọng. Trong khi đó, giao thương bị gián
đoạn do dịch bệnh, việc cách ly với các vùng dịch của Trung Quốc khiến chi
6
6


phí giao dịch tăng cao trong điều kiện mặt hàng tươi sống của Việt Nam không
bảo quản được lâu.
Hai là, về kết cấu sản xuất tiêu dùng nội địa trong ngắn hạn không thể
thay đổi ngay được để đáp ứng nhu cầu từ thị trường này. Việc giải cứu nông
sản như thanh long, dưa hấu, tôm hùm….đã diễn ra trong thời gian vừa qua,
nhưng mới là một phần nhỏ so với sản lượng dự tính sẽ xuất khẩu nếu không có
dịch trong 2 tháng đầu năm nay.
Tính đến quý I/2020, khu vực nông nghiệp tăng trưởng âm (-1,17%) , chỉ
cao hơn mức tăng trưởng quý I/2016 (-2,69%) trong giai đoạn 2011 - 2020,
trong đó giá trị xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản giảm như rau quả, cà phê,
chè, sắn….( Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư).

2.3. Ngành xuất nhập khẩu
Theo Tổng cục Hải quan, năm 2019, Việt Nam nhập khẩu hơn 253 tỷ
USD, thì có tới hơn 75 tỷ USD là nhập từ Trung Quốc, trong đó nguyên vật liệu,
máy móc chiếm tỷ trọng lớn. Tốc độ tăng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa
giảm mạnh do dịch Covid-19 lây lan mạnh ở các nước đối tác thương mại hàng
đầu của Việt Nam như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU và Hoa Kỳ ảnh
hưởng đến kim ngạch xuất, nhập khẩu của nhiều mặt hàng.
Theo kịch bản 1, ước tính kim ngạch xuất khẩu đạt 46,5 tỷ USD, giảm
21% so với cùng kỳ năm trước.Trong đó, xuất khẩu các mặt hàng nông sản và
nông sản chế biến, hàng lâm sản giảm khoảng trên 29%, hàng thủy sản giảm
38%, hàng dệt may giảm 22%... Xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc quý I
đạt 5,6 tỷ USD, giảm 25% so với cùng kỳ năm trước, trong đó các mặt hàng
nông sản và nông sản chế biến, hàng lâm sản giảm khoảng 30%, hàng thủy sản
giảm 33%. Cũng theo kịch bản này, nhập khẩu quý I ước đạt 50 tỷ USD, giảm
13% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhập khẩu nhóm mặt hàng tư liệu sản
xuất đạt 45 tỷ USD, giảm 12%.
Theo kịch bản 2, nếu dịch COVID-19 kết thúc cuối quý II, ước tính xuất
khẩu quý II đạt 51 tỷ USD, giảm khoảng 20% so với cùng kỳ năm trước. Nhập
khẩu quý II cũng ước tính giảm khoảng 16%, đạt 53 tỷ USD.
7
7


III.

Một số giải pháp trong lĩnh vực ngân hàng giảm thiểu tác động từ dịch
1. Giải pháp trong ngắn hạn

Khi dịch COVID-19 bùng phát và diễn biến phức tạp ở nước ta, các ngân
hàng thương mại (NHTM) và tổ chức tín dụng (TCTD) cũng không nằm ngoài

sự tác động của dịch bệnh. Theo Tổng cục Thống kê, tính đến thời điểm
20/3/2020, tổng phương tiện thanh toán tăng 1,55% so với cuối năm 2019 (so
với cùng kỳ năm trước tăng 2,54%); huy động vốn của các TCTD tăng nhẹ chỉ
ở mức 0,51% (so với cùng kỳ năm 2019 tăng 1,72%); tín dụng của nền kinh tế
chỉ tăng 0,68% (so với cùng kỳ năm trước tăng 1,9%) cho thấy, các doanh
nghiệp đang gặp nhiều khó khăn, phải thu hẹp hoạt động sản xuất kinh
doanh. Trước ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch COVID-19 đối với nền kinh tế,
để phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính quốc tế và tháo gỡ
khó khăn cho sản xuất kinh doanh, ngày 16/3/2020, Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) đã quyết định điều chỉnh các mức lãi suất, trong đó lãi suất tái cấp vốn
giảm từ 6,0%/năm xuống 5,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 4,0%/năm
xuống 3,5%/năm. Từ định hướng điều hành giảm lãi suất này của NHNN, các
TCTD đã giảm lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Các NHTM chủ động giảm
lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp, hộ gia đình bị thiệt hại do dịch bệnh
gây ra với mức giảm khoảng 2% lãi suất cho vay so với thời điểm trước dịch.
Lãi suất huy động phổ biến ở mức 0,2 - 7% đối với ngắn hạn và 6,6 - 7,5% với
trung và dài hạn; lãi suất cho vay phổ biến ở mức 6% - 9%/năm đối với ngắn
hạn; 9,0% - 11%/năm đối với trung và dài hạn.
Trước dịch bệnh lần này, ngành Ngân hàng đã chủ động xây dựng
phương án phòng, chống dịch bệnh, đảm bảo hoạt động hệ thống an toàn, thông
suốt và hiệu quả. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc
NHNN đã ban hành Thông tư 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 triển khai
một số gói chính sách tín dụng hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác
xã, nông dân chịu ảnh hưởng của dịch: hỗ trợ thanh khoản, duy trì cho vay,
8
8


miễn giảm lãi suất cho vay, cho vay mới với lãi suất thấp hơn, khoanh nợ, giãn
nợ, nới lỏng các điều khoản trả nợ, đẩy nhanh quá trình và thời gian xem xét các

đơn xin vay và giải ngân các khoản vay, miễn lãi quá hạn các khoản vay… Các
NHTM cam kết giảm lãi suất cho vay với điều kiện các doanh nghiệp chứng
minh được lĩnh vực kinh doanh của mình chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19.
NHNN chỉ đạo các NHTM cơ cấu nợ, giữ nguyên nhóm nợ. Các NHTM cũng
giảm phí giao dịch, giảm phí chuyển tiền cho người dân và doanh nghiệp, vừa
giảm gánh nặng chi phí, vừa thúc đẩy giao dịch điện tử nhằm hạn chế nguy cơ
dịch bệnh. Bên cạnh đó, NHNN thực hiện việc khử khuẩn tiền cũ đã qua sử
dụng nhằm phòng chống sự lây lan của virut khi giao dịch tiền mặt. Việc đồng
hành cùng các doanh nghiệp trong giai đoạn khó khăn này của các NHTM vừa
giúp các doanh nghiệp phục hồi, giảm bớt gánh nặng chi phí vốn vừa giúp chính
các NHTM hạn chế rủi ro bị nợ quá hạn. Sau khi Thông tư được ban hành, các
NHTM đã đăng kí gói tín dụng, đạt 285.000 tỷ đồng. Các giải pháp này được
thực thi một cách khẩn trương, quyết liệt có tác dụng hỗ trợ dòng tiền và thanh
khoản kịp thời cho các doanh nghiệp.
Công ty Tài chính quốc tế (IFC), một thành viên của Nhóm Ngân hàng
Thế giới, đã tăng hạn mức tài trợ thương mại cho các ngân hàng đối tác tại Việt
Nam, một sáng kiến ứng phó nhanh để đón đầu những khó khăn về tài trợ
thương mại mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể gặp phải bởi dịch COVID19. Để giúp chủ động ứng phó với tình hình, IFC đã hỗ trợ doanh nghiệp Việt
Nam bằng việc gia tăng hạn mức tài trợ thương mại (nhằm mục đích hỗ trợ và
thanh toán phục vụ cho sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu) cho 04 ngân hàng
thương mại đang là khách hàng của IFC, bao gồm các ngân hàng TMCP: An
Bình (ABBank), Tiên Phong (TPBank), Quốc tế Việt Nam (VIB), Việt Nam
Thịnh Vượng (VPBank). Tổng hạn mức mới 294 triệu USD, tương ứng 6.760 tỷ
đồng (tăng 50 triệu USD, tương ứng tăng 1.150 tỷ đồng so với hạn mức cũ) sẽ
cho phép các ngân hàng nâng cao năng lực đảm bảo rủi ro thanh toán trong tài
trợ thương mại cho các công ty trong nước, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và
9
9



vừa. Bảo đảm của IFC sẽ giúp các ngân hàng trong nước tăng tài trợ thương mại
một cách đáng kể cho nhiều công ty xuất nhập khẩu, trong đó có những công ty
gặp khó khăn về tín dụng và phải dựa vào các khoản tài trợ của ngân hàng để
bảo đảm dòng tiền và mua nguyên liệu đầu vào. Hạn mức tài trợ thương mại
tăng lên sẽ giúp giảm thiểu rủi ro tài trợ thương mại, nhờ đó giảm nhẹ tác động
của dịch COVID-19 đối với nền kinh tế Việt Nam và khu vực tư nhân để duy trì
tăng trưởng kinh tế.
Dù diễn biến trên các thị trường quốc tế biến động mạnh, NHNN điều
hành tương đối tốt chính sách tỷ giá. Tỷ giá và thị trường ngoại tệ về cơ bản ổn
định, tâm lý thị trường không xáo trộn, nhất là cân đối cung, cầu ngoại tệ vẫn
khá thuận lợi, thanh khoản thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp
ứng đầy đủ, kịp thời. Đến ngày 26/3/2020, tỷ giá trung tâm ở mức 23.245
VND/USD, tăng 0.39% so với cuối năm 2019; tỷ giá bình quân liên ngân hàng
ở quanh mức 23.627 VND/USD, tăng 1,79% so với cuối năm 2019. Đồng Việt
Nam tương đối ổn định so với đồng tiền của nhiều đối tác thương mại trong khu
vực (đến ngày 26/3/2020 so với cuối năm 2019: CNY giảm giá 1,99 %; SGD
giảm 5,96%; MYR giảm 5,55%; THB giảm 9,02%) (Nguồn: NHNN)
2. Giải pháp trung dài hạn
Trong trung dài hạn, dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, ngành Ngân
hàng có nguy cơ đối mặt với khả năng hấp thụ gói tín dụng 285.000 tỷ đồng từ
năng lực sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước không được
như mong đợi và sức ép tỷ giá gia tăng.
Nếu ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 là lớn và tác động trong thời
gian dài ngoài các kịch bản ở trên, Chính phủ có thể tính đến các gói hỗ trợ kích
thích kinh tế. Khi sử dụng công cụ gói hỗ trợ kích thích kinh tế, nên tính toán
mức độ thiệt hại của từng ngành, lĩnh vực và phải xác định cách thức hỗ trợ phù
hợp và thời hạn của các gói hỗ trợ. Đối với mỗi ngành, mỗi lĩnh vực, đối tượng
10
10



bị thiệt hại và mức độ thiệt hại khác nhau, nên có chính sách hỗ trợ khác nhau,
có thứ tự ưu tiên phù hợp với nguồn lực. Nhà nước nên thận trọng trong việc sử
dụng các hỗ trợ kinh tế thông qua những công cụ vĩ mô, kết hợp hài hòa chính
sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Các biện pháp hỗ trợ cần đúng và trúng
ngành thiệt hại để tránh hiện tượng kém hiệu quả hoặc chảy sang các ngành
khác không cần hỗ trợ. Theo nhiều chuyên gia kinh tế, ngoài các công cụ vĩ mô,
cơ quan chức năng có thể sử dụng các biện pháp hỗ trợ vi mô trong nội bộ
ngành hay thị trường nhất định, khơi thông trong chính tổ chức ngành. Những
ngành, lĩnh vực bị ảnh hưởng do dịch COVID-19 cần được quan tâm hơn để có
thể giảm thiểu tác động do dịch và sớm phục hồi lại hoạt động sản xuất kinh
doanh. Những chính sách vi mô có thể giúp doanh nghiệp có thêm những giải
pháp mới, hướng đi mới mang tính đặc thù của từng ngành. Trong thời điểm
hiện tại, các giải pháp vi mô có thể có hiệu quả nhanh hơn các giải pháp vĩ mô.

IV.

Kết luận

Để đạt được mục tiêu mà Chính phủ đặt ra là không thay đổi mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội năm 2020, trong bối cảnh chịu thêm các ảnh hưởng từ
hạn hán, xâm nhập mặn, dịch khác trên gia súc và gia cầm, trên cơ sở đánh giá
của các doanh nghiệp tình hình nguồn cung nguyên liệu đầu vào và thị trường
xuất khẩu vẫn chưa được cải thiện thì việc kích thích tiêu dùng, khôi phục sản
xuất và thúc đẩy tăng trưởng sau khi dịch COVID-19 kết thúc sẽ là mục tiêu
quan trọng hàng đầu của Chính phủ.
So với cuộc khủng hoảng tài chính 2007 - 2008, năng lực điều hành của
NHNN cải thiện hơn và các ngân hàng sau thời gian khủng hoảng đã lành mạnh
hơn trước. Kinh tế thế giới đứng trước một cuộc suy thoái lớn khi dịch COVID19 trở thành đại dịch. Kinh tế Việt Nam cũng chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực từ
dịch bệnh lần này. Với năng lực hiện có, quyết tâm và sự đồng bộ thống nhất

cao từ Trung ương đến địa phương, từ NHNN đến các TCTD, NHNN tiếp tục
11
11


góp phần quan trọng trong việc giữ ổn định kinh tế vĩ mô và đời sống nhân dân,
phòng chống dịch bệnh COVID-19, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi sau dịch bệnh.
Tài liệu tham khảo:
1. Tổng hợp từ Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội - Tổng cục Thống kê.
2. Báo cáo đánh giá sơ bộ về ảnh hưởng của dịch COVID-19 đối với kinh tế

- xã hội Việt Nam năm 2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
3. Báo cáo số 2099/BC-BKHĐT ngày 31/3/2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư.
4. Trang thông tin chính thức của World bank, ngân hàng phát triển châu Á
(ADB) tại Việt Nam.
5. Trang thông tin điện tử Chính phủ, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước.
6. Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 2020.
7. Tổng hợp từ số liệu thống kê phân tích định kì, Tổng cục Hải quan.
8. TS.Cấn Văn Lực (2020), 3 kịch bản tác động của nCoV đến kinh tế Việt
Nam và các kiến nghị, giải pháp.

12
12



×