Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.77 KB, 73 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THÚY PHƢƠNG

PH¸P LUËT VÒ PHßNG, CHèNG X¢M H¹I
T×NH DôC TRÎ EM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THÚY PHƢƠNG

PH¸P LUËT VÒ PHßNG, CHèNG X¢M H¹I
T×NH DôC TRÎ EM
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 8.38010101

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Thúy Phƣơng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT PHÒNG,
CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM .............................................. 8
1.1.

Khái niệm trẻ em, xâm hại tình dục trẻ em ..................................... 8

1.1.1. Khái niệm trẻ em .................................................................................. 8
1.1.2. Khái niệm xâm hại tình dục trẻ em .................................................... 10
1.2.


Những yếu tố tác động đến xâm hại tình dục trẻ em .................... 11

1.2.1. Các yếu tố khách quan ....................................................................... 11
1.2.2. Các yếu tố chủ quan ........................................................................... 13
1.3.

Quy định của pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em ..... 15

1.3.1. Quy định của pháp luật về phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em ...... 16
1.3.2. Quy định của pháp luật về chống xâm hại tình dục trẻ em ................ 19
1.4.

Ý nghĩa của việc pháp luật quy định về phòng, chống xâm
hại tình dục trẻ em ........................................................................... 23

1.4.1. Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ em ............................. 23
1.4.2. Khẳng định về cơ chế pháp lý, công cụ bảo vệ trật tự xã hội ............ 25
1.4.3. Phù hợp bối cảnh trong nƣớc và quốc tế ............................................ 26
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 29
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG
XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM .................................................... 30
2.1.

Tình hình xâm hại tình dục trẻ em ở Việt Nam hiện nay............. 30

2.2.

Thực trạng pháp luật về phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ
em ở nƣớc ta hiện nay ...................................................................... 33



2.3.

Thực trạng pháp luật về chống – xử lý vi phạm pháp luật về
xâm hại tình dục trẻ em ................................................................... 39

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 43
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG
XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM .................................................... 44
3.1.

Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về phòng ngừa xâm hại
tình dục trẻ em .................................................................................. 44

3.2.

Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về xử lý hành vi xâm hại
tình dục trẻ em .................................................................................. 46

3.3.

Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lƣợng thực hiện
pháp luật phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em.......................... 54

3.3.1. Thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em cho chính trẻ em và các
chủ thể pháp luật khác ........................................................................ 54
3.3.2. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ chăm sóc

trẻ em .................................................................................................. 56
3.3.3. Tăng cƣờng kỹ năng sống, kiến thức và sự tham gia của trẻ em
vào thực hiện pháp luật phòng chống xâm hại tình dục .................... 58
3.3.4. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện và áp dụng
pháp luật phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em, xử lý nghiêm
minh mọi hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm trẻ em..................... 59
3.3.5. Phát triển hệ thống Qũy bảo trợ trẻ em và đầu tƣ cơ sở vật chất
thỏa đáng cho công tác thực hiện và áp dụng pháp luật về bảo
vệ chăm sóc trẻ em ............................................................................ 60
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 62
KẾT LUẬN .................................................................................................... 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 65


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLHS

: Bộ luật Hình sự

LHPN

: Liên hiệp phụ nữ

TNCS


: Thanh niên cộng sản

UBND

: Ủy ban nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tƣơng lai của đất nƣớc. Việc bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong điều kiện tốt nhất là nhiệm vụ của toàn
xã hội, và là một trong những chính sách ƣu tiên hàng đầu của Đảng, Nhà
nƣớc Việt Nam trong việc đảm bảo an sinh xã hội, vì mục tiêu phát triển ổn
định và lâu dài của đất nƣớc. Điều 37 Hiến pháp 2013 nêu rõ: “Trẻ em được
gia đình, nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”. Bởi vậy, việc
“Tạo dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh mà ở đó tất cả trẻ em đều
được bảo vệ. Chủ động phòng ngừa, giảm thiểu, loại bỏ các nguy cơ gây tổn
hại cho trẻ em, giảm thiểu tình trạng trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt và trẻ
em bị xâm hại, trẻ em bị bạo lực. Trợ giúp, phục hồi kịp thời cho trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt và trẻ em bị xâm hại, bị bạo lực, tạo cơ hội để các em
được tái hòa nhập cộng đồng và bình đẳng về cơ hội phát triển” [4] là một
trong những mục tiêu quan trọng, là mối quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà
nƣớc ta, của toàn xã hội và của mỗi gia đình. Trong thời gian qua, Đảng và
Nhà nƣớc ta đã thực hiện nhiều hoạt động thiết thực với nhiều biện pháp khác
nhau để bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Tuy nhiên, một thực trạng đáng
lo ngại vẫn đang tồn tại là vấn nạn xâm hại trẻ em, trong đó tình hình xâm

phạm tình dục trẻ em vẫn diễn biến phức tạp và có chiều hƣớng ngày càng gia
tăng cả về số lƣợng và tính chất. Đây là vấn đề gây hoang mang, lo sợ, bức
xúc và đáng bị lên án. Theo thống kê của Cục Cảnh sát Hình sự, Tổng cục
Cảnh sát, Bộ Công an, trung bình mỗi năm có hơn 1500 trẻ em bị xâm hại
tình dục [1]. Đây chỉ là con số của những vụ việc đƣợc báo cáo, còn rất nhiều
vụ nạn nhân bị chính kẻ xâm hại dọa dẫm hoặc vì lý do nào đó đã không đƣợc
thống kê. Mặt khác, nếu hiểu xâm hại tình dục theo đúng chuẩn khái niệm

1


quốc tế xâm hại tình dục là tất cả hành vi dụ dỗ, lôi kéo, xúi bẩy trẻ em thực
hiện hành vi mang tính chất tình dục không phù hợp với lứa tuổi các em thì số
vụ xâm hại tình dục trẻ em ở Việt Nam sẽ cao hơn rất nhiều.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến xâm hại tình dục trẻ em nhƣng một
trong những lý do mấu chốt là do sự lỏng lẻo và những “khoảng trống” trong
hệ thống pháp luật về bảo vệ trẻ em, gây bất cập trong việc ngăn ngừa và
giảm thiểu tình trạng này.
Vậy chúng ta phải làm gì để lấp đầy những khoảng trống trong hệ
thống pháp luật về bảo vệ trẻ em tránh bị xâm hại tình dục? Làm thế nào để số
lƣợng trẻ bị xâm hại xuống mức thấp nhất? Đó là những câu hỏi khó đặt ra
mà Đảng và Nhà nƣớc cần phải quan tâm và giải quyết triệt để để bảo vệ cho
thế hệ trẻ - tƣơng lai của đất nƣớc. Do đó, đặt ra một yêu cầu cần phải nghiên
cứu về quy phạm pháp luật về phòng chống xâm hại tình dục trẻ em để có
những đề xuất, kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này.
Từ những phân tích trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Pháp luật về
phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em”.
2. Tình hình nghiên cứu
Thời gian qua, tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em đang là hồi
chuông báo động cho sự suy đồi đạo đức xã hội, gây bức xúc trong dƣ luận.

Vì vậy đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu, bài viết về đề tài này nhƣ:
Lê Thị Nga, Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam thực trạng
và giải pháp, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002;
Hồ Thị Nhung, Các tội xâm hại tình dục trẻ em - Quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam và nghiên cứu so sánh với một số nước, Luận văn thạc
sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015;

2


Nguyễn Minh Hƣơng, Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật
hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014;
“So sánh dấu hiệu định tội của tội hiếp dâm trong Bộ luật hình sự Việt
Nam hiện hành với bộ luật hình sự của một số nước và kiến nghị”, PGS.TS.
Dƣơng Tuyết Miên và Bùi Thị Quyên, Tạp chí Tòa án nhân dân số 07/2013;
Những bất cập và phương hướng hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình
sự năm 1999 về các tội xâm phạm danh dự của con người”, TS. Đỗ Đức
Hồng Hà, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8(169), 2010;
Báo cáo nghiên cứu “Tổng quan nghiên cứu về tình trạng xâm hại tình
dục trẻ em ở Việt nam trong những năm gần đây”, Viện Gia đình và Giới;…
Vì vậy, nghiên cứu pháp luật về xâm hại tình dục trẻ em không phải là
một hiện tƣợng mới nhƣng lại là một đề tài đƣợc coi là cấp thiết, cần có sự
nghiên cứu nghiêm túc và kỹ lƣỡng để có thể thấy vấn đề một cách toàn diện.
Đối với luận văn này, trên cơ sở tham khảo một số tài liệu có liên quan,
tác giả đã tiếp cận vấn đề một cách nghiêm túc. Từ việc nghiên cứu một số
vấn đề lý luận, thực trạng xâm hại tình dục trẻ em và đƣa ra một số giải pháp,
kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện

hành về phòng chống xâm hại trẻ em và thực trạng phòng, chống xâm hại tình
dục trẻ em ở nƣớc ta trong những năm gần từ đó đƣa ra các giải pháp hoàn
thiện pháp luật về vấn đề này.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Trình bày một số vấn đề lý luận về phòng chống xâm hại tình dục trẻ

3


em nhƣ phân tích khái niệm trẻ em, xâm hại tình dục trẻ em, những yếu tố tác
động đến xâm hại tình dục trẻ em; phân tích pháp luật của một số quốc gia
trên thế giới về phòng chống xâm hại tình dục trẻ em;
- Đƣa ra đƣợc thực trạng pháp luật Việt Nam về phòng chống xâm hại
tình dục trẻ em: những quy định cụ thể về xâm hại tình dục trẻ em hiện hành,
thực trạng phòng chống xâm hại tình dục trẻ em;
- Từ những vấn đề lý luận và thực trạng nêu trên đề xuất những giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về phòng chống xâm hại tình dục trẻ em.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh quy định
pháp luật hiện hành về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, kết hợp với việc
phân tích các nguyên nhân, những tồn tại, hạn chế và kiến nghị những giải
pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về nhóm hành vi xâm
phạm tình dục trẻ em
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề lý luận và những quy
định của pháp luật hiện hành về xâm hại tình dục trẻ em ở Việt nam, kết hợp
với việc nghiên cứu đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật đối với các hành
vi xâm hại tình dục trẻ em trong thực tiễn, những mặt đạt đƣợc và hạn chế để
kiến nghị những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực

hiện trong thực tiễn
5. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về phòng chống xâm hại tình dục
trẻ em;

4


- Nghiên cứu về các quy định pháp luật hiện hành của nƣớc ta về phòng
chống xâm hại tình dục trẻ em;
- Thực trạng xâm hại tình dục trẻ em ở nƣớc ta trong những năm gần đây;
- Từ những nghiên cứu, phân tích trên đƣa ra những bất cập và những
giải pháp hoàn thiện pháp luật về phòng chống xâm hại tình dục trẻ em.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy
vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về nhà nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây
dựng Nhà nƣớc pháp quyền.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phƣơng pháp cụ thể nhƣ:
- Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp;
- Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu;
- Phƣơng pháp diễn dịch;
- Phƣơng pháp quy nạp;
- Phƣơng pháp thống kê, điều tra xã hội học.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý
luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu có hệ thống ở cấp độ một
luận văn thạc sĩ luật học về hoàn thiện pháp luật về phòng chống xâm hại tình

dục trẻ em, trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn
có liên quan. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:

5


- Xây dựng đƣợc cái nhìn tổng thể về tình hình xâm hại tình dục trẻ em
ở nƣớc ta trong thời gian 5 năm gần đây (từ 2014 – 2018);
- Phân tích và rút ra đƣợc những yếu tố tác động đến xâm hại tình dục
trẻ em hiện nay;
- Hệ thống hóa các quy định của pháp luật hiện hành về phòng chống
xâm phạm tình dục trẻ em;
- Phân tích những hạn chế của các quy định của pháp luật hiện hành có
liên quan;
- Tập trung nghiên cứu về phƣơng hƣớng phòng ngừa, ngăn chặn nạn
xâm hại tình dục trẻ em ở những góc độ khác nhau;
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng các vụ việc liên quan đến xâm hại
tình dục trẻ em thời gian 5 năm gần đây, từ đó đề ra một số giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật về phòng chống xâm hại tình dục trẻ em góp phần bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
không chỉ dành cho các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Lý luận, Hình sự, Tố tụng hình sự tại các cơ sở đào tạo
Luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những
kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác trong các cơ
quan tiến hành tố tụng, đồng thời là cơ sở cho các nhà lập pháp sửa đổi, bổ
sung các quy định pháp luật hiện hành để góp phần nâng cao hiệu quả đấu
tranh phòng chống tội phạm xâm hại tình dục trẻ em, từ đó tạo điều kiện cho
việc giải quyết vụ việc liên quan một cách khách quan, có căn cứ và đúng

pháp luật, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung
và trẻ em nói riêng.

6


7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật phòng, chống xâm hại
tình dục trẻ em.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và thực hiện
pháp luật phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em.

7


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT PHÒNG,
CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM
1.1. Khái niệm trẻ em, xâm hại tình dục trẻ em
1.1.1. Khái niệm trẻ em
Khái niệm trẻ em đƣợc hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, dƣới những
góc độ khác nhau. Nhƣ trong triết học, trẻ em đƣợc xem xét trong mối quan
hệ biện chứng với sự phát triển xã hội nên ở mọi thời đại, tƣơng lai của quốc
gia, dân tộc đều tùy thuộc vào việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Đối
với chuyên ngành xã hội học, trẻ em đƣợc xác định là ngƣời có vị thế, vai trò
khác với ngƣời lớn, vì vậy, cần đƣợc xã hội quan tâm, tạo điều kiện sinh
trƣởng, nuôi dƣỡng, bảo vệ, chăm sóc phát triển thành ngƣời lớn. Dƣới góc độ

pháp lý, trẻ em đƣợc xác định theo độ tuổi và độ tuổi của trẻ em tùy thuộc vào
sự quy định của mỗi quốc gia và từng lĩnh vực trẻ em tham gia.
Mặc dù còn nhiều cách hiểu khác nhau nhƣng chúng ta có thể thống
nhất khái niệm trẻ em nhƣ sau: “Trẻ em là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm
xã hội thuộc về một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển
con người”.
Theo Công ƣớc của Liên Hợp quốc về Quyền trẻ em năm 1989, trẻ
em do còn non nớt về trí tuệ và thể lực vì thế cần phải đƣợc bảo vệ và
chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trƣớc cũng
nhƣ sau khi ra đời.
Ngay tại Điều 1 Công ƣớc Quyền trẻ em đã xác định rõ: “Trong phạm
vi của công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp
pháp luật áp dụng với trẻ em quy định tuổi thành niên sớm hơn”.

8


Nhƣ vậy, theo Công ƣớc Quyền trẻ em, trẻ em đƣợc xác định là
ngƣời dƣới 18 tuổi, trừ khi pháp luật các quốc gia quy định độ tuổi sớm
hơn. Các văn bản pháp luật quốc tế khác nhƣ: Quy tắc Bắc Kinh, Hƣớng
dẫn Ri át và Quy tắc của Liên hiệp quốc về bảo vệ ngƣời chƣa thành niên
bị tƣớc quyền tự do thƣờng sử dụng thuật ngữ ngƣời chƣa thành niên là
những ngƣời chƣa đến 18 tuổi.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tại Điều 1 Luật Trẻ em 2016:
“Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Nghĩa là không giới hạn trẻ em là công
dân Việt Nam, mà đối tƣợng áp dụng của Luật còn bao gồm cả trẻ em là
ngƣời nƣớc ngoài cƣ trú tại Việt Nam. Quy định về tuổi trẻ em trong Luật
Trẻ em của Việt Nam đã có độ vênh tới 2 tuổi so với Công ƣớc Quốc tế về
Quyền trẻ em.
Tuy nhiên, cần phân biệt rõ khái niệm “trẻ em” theo Luật Trẻ em và

khái niệm “ người chưa thành niên” quy định tại các văn bản quy phạm pháp
luật khác. Điều 18 BLDS quy định: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là
người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên”.
Điều 68 BLHS quy định: “Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ
mười bốn tuổi đến dưới mười tám tuổi”, Bộ luật lao động quy định: “Người
lao động chưa thành niên là người lao động dưới mười tám tuổi”, còn khái
niệm trẻ em trong Luật Lao động đƣợc quy định là ngƣời chƣa đủ 15 tuổi;
Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi bị xử phạt hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16
tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây
ra”, Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “trẻ em từ đủ 15 tuổi trở lên có thể
tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý”.

9


Nhƣ vậy trong pháp luật chuyên ngành, Việt Nam thừa nhận độ tuổi
trẻ em đƣợc pháp luật bảo vệ và chăm sóc là những ngƣời dƣới 16 tuổi.
Khái niệm này phần nào có thể bao hàm đƣợc cả khái niệm trẻ em của
Công ƣớc và của các ngành luật thuộc hệ thống pháp luật quốc gia. Tùy
thuộc vào quan hệ pháp luật mà trẻ em tham gia, độ tuổi chịu trách nhiệm
của trẻ em có khác nhau, nhƣng pháp luật Việt Nam luôn bảo vệ quyền của
trẻ em từ mọi hành vi xâm phạm.
1.1.2. Khái niệm xâm hại tình dục trẻ em
Theo từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng “tình dục là nhu cầu tự
nhiên của con người về quan hệ tính giao” và “xâm hại là xâm phạm đến
khiến cho bị tổn hại”. Do vậy, xâm hại tình dục trẻ em là xâm phạm, động
chạm đến quyền tự do, nhu cầu phát triển tự nhiên của trẻ em về quan hệ tính
giao, xâm phạm đến thân thể, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của trẻ.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa xâm hại tình dục trẻ em nhƣ sau:

Xâm hại tình dục trẻ em là việc lôi kéo trẻ em tham gia vào các
hoạt động tình dục mà trẻ em đó không hiểu một cách đầy đủ,
không có khả năng quyết định ƣng thuận một cách có hiểu biết,
hoặc hành động đó là trái pháp luật hoặc trái quy tắc xã hội. Xâm
hại tình dục trẻ em là hành động diễn ra giữa một trẻ em với một
ngƣời trƣởng thành hoặc với một trẻ em khác mà do độ tuổi và
mức độ phát triển, ngƣời này có mối quan hệ trách nhiệm, tin
tƣởng hoặc quyền hành với trẻ, và hành động gây ra nhằm thỏa
mãn nhu cầu của ngƣời đó.
Theo Luật Trẻ em 2016:
Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực,
ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan

10


đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cƣỡng dâm, giao cấu, dâm ô với
trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dƣới
mọi hình thức.
Trẻ có thể bị xâm hại tình dục dƣới nhiều hình thức khác nhau trong đó
phổ biến là xâm hại bằng cách đụng chạm và không đụng chạm. Xâm hại tình
dục trẻ em bằng cách đụng chạm bộc lộ qua một số hành vi nhƣ hôn hít hoặc
ôm trẻ theo kiểu tình dục, sờ mó vào bộ phận sinh dục của trẻ, hoặc bắt trẻ sờ
mó vào bộ phận sinh dục của ngƣời lớn hoặc của một đứa trẻ lớn hơn, ép trẻ
thực hiện hành vi mại dâm… Xâm hại tình dục trẻ em bằng cách không đụng
chạm là những hành vi nhƣ dùng lời nói hoặc tranh ảnh khiêu dâm để làm cho
trẻ sốc, làm cho trẻ hƣng phấn tình dục hoặc làm cho trẻ quen với tình dục,
cho trẻ nghe hoặc nhìn những cảnh tình dục, bắt trẻ đứng ngồi theo tƣ thế gợi
dục để chụp ảnh (khiêu dâm), hoặc cho trẻ xem sách báo khiêu dâm…
Hầu hết những ngƣời xâm hại tình dục là nam giới. Và hầu hết các trẻ

bị xâm hại bởi ngƣời quen biết, nhƣ họ hàng, bạn của gia đình, hoặc hàng
xóm. Hành vi xâm hại hiếm khi đƣợc thực hiện bởi một ngƣời lạ. Đôi khi việc
xâm hại này diễn ra trong một thời gian dài, thậm chí kéo dài nhiều năm.
Không phải tất cả những ngƣời xâm hại tình dục trẻ em đều dùng bạo
lực. Đôi khi họ lợi dụng sự tin tƣởng hoặc sự ảnh hƣởng của mình để bắt trẻ
thực hiện hành vi tình dục. Họ cũng có thể thuyết phục hoặc dùng “lòng tốt”,
sự đe doạ và bắt nạt hoặc cho quà hoặc bao ăn uống. Cho dù ngƣời ta sử dụng
bạo lực, sự đe doạ hay “lòng tốt” để bắt trẻ thực hiện hành vi tình dục thì kết
quả của việc xâm hại này vẫn sẽ gây tổn thƣơng cho trẻ.
1.2. Những yếu tố tác động đến xâm hại tình dục trẻ em
1.2.1. Các yếu tố khách quan
Về môi trường gia đình, phần lớn các gia đình Việt Nam chƣa có thói

11


quen dạy trẻ về giới tính, coi đây là vấn đề cấm kỵ từ đó, dẫn tới các em thiếu
hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, về kiến thức, kỹ năng phòng tránh
xâm hại tình dục. Hơn nữa đó là nhận thức của các cha mẹ về xâm hại tình
dục trẻ em còn rất nhiều hạn chế. Nhiều cha mẹ chƣa hề có khái niệm nào về
ấu dâm. Họ chỉ nghĩ ấu dâm có nghĩa là phải có quan hệ tình dục, phải là hãm
hiếp trẻ em. Đa phần các bậc phụ huynh mới chỉ dừng lại ở việc cấm đoán trẻ,
thậm chí không cho con nhìn thấy những gì có thể xảy ra nó nhƣ thế nào;
nhiều bậc cha mẹ vẫn còn e ngại, thậm chí không dạy trẻ biết đƣợc những bộ
phận nào trên cơ thể mà ngƣời khác không đƣợc động vào, khiến trẻ thiếu các
kỹ năng nhƣ kỹ năng phòng tránh, kỹ năng tự vệ hay kỹ năng phản kháng để
chống lại các hành vi lạm dụng.
Về môi trường giáo dục, hiện tại các trƣờng học chƣa thực sự chú trọng
đến việc tƣ vấn tâm lý học đƣờng, giáo dục giới tính. Tất cả những gì các
trƣờng đang làm hiện nay mới chỉ là lý thuyết về phòng chống xâm hại tình

dục. Thậm chí nhiều trƣờng còn coi đó là một học trình bộ môn mà không
phải thi nên học cho xong, dạy cho xong. Nhiều trƣờng ý thức hơn, có mời
các chuyên gia về nói chuyện với học sinh của trƣờng nhƣng nó vẫn chỉ mang
tính ngắn hạn, vội vàng và chƣa thực sự sâu sát hơn. Bên cạnh đó, gia đình và
nhà trƣờng chƣa làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức
cho các em về những vấn đề liên quan đến giới tính, tâm sinh lý lứa tuổi cũng
nhƣ những kỹ năng để phòng tránh xâm hại tình dục, nên khi gặp phải những
tình huống phát sinh trên thực tế, bản thân các em không biết cách xử lý và
giải quyết phù hợp, từ đó dẫn đến những hệ quả không mong muốn.
Về môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội, kinh tế Việt Nam đang trên đà
phát triển, đời sống ngƣời dân đƣợc nâng lên. Tuy nhiên, cùng với sự phát
triển của nền kinh tế thì cũng bộc lộ một số vấn đề nhƣ tỉ lệ thất nghiệp còn
cao nên nhiều ngƣời có thời gian rảnh rỗi thƣờng xuyên truy cập phim đồi

12


trụy, ảnh khiêu dâm dẫn đến không kiềm chế đƣợc cảm xúc sẵn sàng xâm
phạm tình dục đối với ngƣời khác hoặc có trƣờng hợp ngƣời phạm tội xâm
phạm sở hữu nhƣng vì sự kích thích cơ thể từ phía nạn nhân nên ngƣời phạm
tội xâm phạm tình dục luôn nạn nhân. Mặt khác, văn hóa nƣớc ngoài ngày
càng du nhập vào Việt Nam bằng nhiều con đƣờng khác nhau, trong đó tranh
ảnh khiêu dâm, băng đĩa đồi trụy đầy rẫy trên mạng Internet, thậm chí đƣợc
bày bán tràn lan ngoài thị trƣờng dẫn đến tâm lý cởi mở trong vấn đề tình
dục nên xem thƣờng các giá trị văn hóa truyền thống dẫn đến không ít
trƣờng hợp xâm phạm tình dục loạn luân, bắt chƣớc hành vi lệch lạc về giới
tính trên Internet.
1.2.2. Các yếu tố chủ quan
Trẻ em – nhóm người yếu thế trong xã hội là ngƣời bị hạn chế hoặc
hoàn toàn không có khả năng, điều kiện tự vệ hoặc bảo vệ mình. Kẻ phạm tội

lợi dụng sự phát triển chƣa đầy đủ về mặt thể chất và sự hạn chế trong nhận
thức của trẻ về các hình thức xâm hại tình dục, sự tò mò khám phá về giới
tính, sự thiếu kỹ năng phòng ngừa và tố giác ngƣời xâm hại để thực hiện
những hành vi đồi bại. Đặc biệt là hành vi xâm hại tình dục để lại hậu quả rất
nặng nề cho trẻ em, nó không chỉ gây tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, tính
mạng, sức khỏe mà còn tác động tiêu cực đến tâm lý và sự phát triển bình
thƣờng của các em, nhất là các em tuổi còn quá nhỏ. Tất cả trẻ em đều có
nguy cơ bị xâm hại tình dục không phân biệt dân tộc, học vấn, điều kiện kinh
tế, lứa tuổi, giới tính, đặc điểm cá nhân. Tuy nhiên một số trẻ em thuộc các
nhóm sau đƣợc nhận diện là có nguy cơ cao hơn so với những trẻ khác: Trẻ
em từ các gia đình khó khăn; Trẻ em sống trong gia đình khuyết thiếu chỉ có
cha hoặc mẹ; Trẻ em chậm phát triển; Trẻ em từ vùng các dân tộc thiểu số,
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn;Trẻ em
sống trong hoàn cảnh có nhiều cám dỗ;… Song cần lƣu ý rằng không chỉ các

13


nhóm có nguy cơ cao này cần đƣợc chú trọng mà trẻ em ở những nhóm khác
cũng cần phải đƣợc chú trọng bảo vệ.
Sai lệch về lối sống của những kẻ thực hiện hành vi xâm hại tình dục
trẻ em. Nếu con ngƣời có những sở thích lành mạnh thì hình thành ở ngƣời đó
nhân cách đúng đắn. Ngƣợc lại, con ngƣời có sở thích không lành mạnh, tiêu
cực sẽ hình thành ở cá nhân đó nhân cách lệch lạc nhƣ sống ích kỷ, hƣởng
thụ, sống buông thả, coi thƣờng chuẩn mực đạo đức… Ngƣời phạm tội xâm
phạm tình dục sẵn sàng bất chấp những giá trị, quy tắc đạo đức, pháp luật để
thỏa mãn nhu cầu, sở thích hàng ngày của mình. Yếu tố ý thức của ngƣời
phạm tội xâm phạm tình dục có ý nghĩa quyết định thực hiện hành vi phạm tội
của họ, đa phần trong ý thức của họ sai lệch về nhu cầu, sở thích, cách thỏa
mãn nhu cầu tình dục thấp hèn của mình, dẫn đến hành động theo thói quen

cảm tính. Các yếu tố thuộc về chủ quan cá nhân ngƣời phạm các tội xâm
phạm tình dục gồm có những sai lệch về sở thích, nhu cầu, cách thức thỏa
mãn nhu cầu, lợi ích của bản thân bất chấp hành vi đó là vi phạm pháp luật.
Hạn chế về ý thức pháp luật cá nhân và khả năng kiểm soát hành vi,
ngƣời phạm tội xâm phạm tình dục thƣờng là ngƣời có trình độ học vấn thấp,
quan niệm sai về các giá trị cuộc sống, không hiểu biết hoặc hiểu biết rất ít
pháp luật nên thƣờng có thái độ thờ ơ, coi thƣờng pháp luật. Những sai lệch
trong ý thức pháp luật cũng là một trong những yếu tố tác động trong cơ chế
làm phát sinh tội phạm khi gặp những hoàn cảnh, tình huống cụ thể họ sẽ
không kiềm chế, kiểm soát đƣợc hành vi của mình, xử sự không đúng đắn và
có hành vi vi phạm pháp luật. Mặc khác, do nhận thức và trình độ học vấn
thấp nên khả năng kiểm soát và hạn chế hành vi đối với ngƣời phạm tội xâm
phạm tình dục ở mức độ thấp, nhiều trƣờng hợp ngƣời phạm tội xâm phạm
tình dục ngay chính cả ngƣời thân trong gia đình.

14


1.3. Quy định của pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em
Phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em là quá trình áp dụng tổng hợp
các biện pháp nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp thời những nguyên nhân, điều
kiện phát sinh của tội phạm xâm hại tình dục trẻ em, hạn chế đến mức thấp
nhất tình trạng tội phạm này xảy ra cũng nhƣ hậu quả, tác hại của nó gây ra
cho xã hội. Pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em là hệ thống các
quy định của pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến phòng,
chống xâm hại tình dục trẻ em.
Để thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em
cần có sự tham gia của tất cả các lực lƣợng trong xã hội bao gồm tất cả các cơ
quan Nhà nƣớc, tổ chức xã hội, đoàn thể và quần chúng nhân dân nhằm xóa
bỏ những hiện tƣợng tiêu cực đƣợc xác định là nguyên nhân, điều kiện của

loại hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em này. Cần có những biện pháp
phòng ngừa mang tính quần chúng rộng rãi, đƣợc tiến hành bằng các biện
pháp xây dựng môi trƣờng xã hội lành mạnh. Quá trình này tạo ra những tiền
đề về vật chất, tƣ tƣởng, tinh thần nhằm xoá bỏ những nguyên nhân, điều kiện
làm nảy sinh tội phạm. Mọi thành viên trong xã hội đều có quyền và nghĩa vụ
tham gia công tác phòng ngừa xã hội với tội phạm xâm hại tình dục trẻ em.
Trong thời gian qua, Nhà nƣớc ta luôn quan tâm, chỉ đạo sâu sát công
tác bảo vệ trẻ em để giảm thiểu tình trạng trẻ em bị xâm hại thông qua các văn
bản quy phạm pháp luật nhƣ: Quốc hội ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015
quy định về các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em và các chế tài xử phạt; Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thủ tục tiến hành tố tụng; Luật Trẻ
em năm 2016 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành; Chính phủ, Thủ tƣớng
Chính phủ ban hành nhiều văn bản nhằm tăng cƣờng các giải pháp phòng,

15


chống bạo lực, xâm hại trẻ em; phê duyệt Chƣơng trình bảo vệ trẻ em giai
đoạn 2016-2020, thành lập Ủy ban quốc gia về Trẻ em năm 2017…
Nhƣ vậy, hiện nay chƣa có một văn bản cụ thể về pháp luật phòng,
chống xâm hại trẻ em mà vấn đề này đƣợc quy định ở nhiều các văn bản quy
phạm pháp luật khác nhau.
1.3.1. Quy định của pháp luật về phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em
Trong thời gian gần đây, nhiều vụ xâm hại tình dục trẻ em với hậu quả
nguy hại và tính chất tinh vi, nguy hiểm đã đƣợc phát hiện cho thấy mức độ
đáng báo động của tội phạm này. Đảng và Nhà nƣớc ta luôn dành sự quan tâm
đặc biệt đến trẻ em, với quan điểm xem con ngƣời vừa là mục tiêu vừa là
động lực của sự nghiệp phát triển đất nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa,
xem trẻ em là nguồn hạnh phúc của gia đình, là tƣơng lai của dân tộc, là lớp
ngƣời kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều 37 Hiến pháp 2013

khẳng định: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại,
hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi
khác vi phạm quyền trẻ em”,
Để tăng cƣờng phòng ngừa và giảm thiểu tình trạng trẻ em bị xâm hại
tình dục, Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội đã phối hợp với Bộ Giáo dục
và Đào tạo, Bộ Công an, các cơ quan ở Trung ƣơng, địa phƣơng và các cơ
quan truyền thông để tiếp tục đẩy mạnh việc truyền thông, giáo dục, vận động
xã hội nhằm nâng cao nhận thức, tăng cƣờng trách nhiệm và năng lực của gia
đình, nhà trƣờng, cộng đồng và bản thân trẻ em trong việc chủ động phòng
ngừa các hành vi xâm hại trẻ em.
Theo trách nhiệm đƣợc phân công, các cơ quan Trung ƣơng đã ban
hành các kế hoạch, văn bản chỉ đạo các địa phƣơng triển khai quy trình, biện

16


pháp phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em, can thiệp và hỗ trợ trẻ em là nạn
nhân bị xâm hại tình dục. Các Trung tâm công tác xã hội cấp tỉnh và một số
địa phƣơng đã triển khai mô hình cung cấp dịch vụ hỗ trợ, bảo vệ trẻ em, đặc
biệt là nạn nhân bị xâm hại tình dục. Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội
và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã triển khai dự án Phòng ngừa xâm hại
tình dục trẻ em trong hoạt động du lịch tại một số địa phƣơng. Thủ tƣớng
Chính phủ đã giao Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội chủ trì, xây dựng
Đề án bảo vệ trẻ em trên môi trƣờng mạng. Các hoạt động này đang đƣợc tiếp
tục triển khai, nhân rộng trong việc triển khai Chƣơng trình bảo vệ trẻ em giai
đoạn 2016 – 2020 (Quyết định số 2361/QĐ-TTg ngày 22/12/2015 của Thủ
tƣớng Chính phủ)…
Trong Luật trẻ em mới đƣợc thông qua trong kỳ họp thứ 11, Quốc hội
khóa XIII cũng có quy định nghiêm cấm hành vi xâm hại tình dục trẻ em

(Điều 6), quyền của trẻ em đƣợc bảo vệ để không bị xâm hại tình dục (Điều
25) và các biện pháp can thiệp, hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trong đó
đã bao gồm cả trẻ em bị xâm hại tình dục.
Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều của Luật trẻ em, trong đó nêu rõ các trƣờng hợp trẻ em bị
xâm hại tình dục (trẻ em bị hiếp dâm; bị cƣỡng dâm; bị giao cấu; bị dâm ô; bị
sử dụng vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dƣới mọi hình thức) đƣợc tham
gia vào các vấn đề trẻ em và đƣợc bảo vệ (Điều 13).
Nghị định cũng quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong việc tiếp nhận, xử lý thông tin, thông báo, tố cáo hành vi xâm
hại trẻ em cũng nhƣ quy định cụ thể biện pháp, trách nhiệm bảo vệ trẻ em,
phòng ngừa giảm thiểu nguy cơ và hỗ trợ, can thiệp kịp thời các vụ việc trẻ
em bị xâm hại (Điều 24, Điều 25). Mặt khác, Nghị định cũng quy định cụ thể

17


về kế hoạch hỗ trợ, can thiệp đối với trẻ em bị xâm hại, trách nhiệm của ngƣời
làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã và tổng đài Quốc gia bảo vệ trẻ em 111 có
vị trí pháp lý rõ ràng và đã chính thức vận hành tại các Điều 27, Điều 29.
Thủ tƣớng chỉ thị Bộ Công an và đề nghị Tòa án Nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao rà soát hồ sơ, vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ
em để xử lý dứt điểm, không để tồn đọng, kéo dài; tiếp nhận, giải quyết kịp
thời, xử lý nghiêm các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em; kiên quyết xử lý
nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi bao che, chậm trễ, cố tình kéo dài
hoặc không xử lý vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em tại Chỉ thị số 18/CT-TTg,
ngày 16/5/2017.
Thủ tƣớng cũng đã chỉ thị Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố chịu
trách nhiệm trƣớc Thủ tƣớng về việc để xảy ra tình trạng không xử lý kịp thời
các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em xảy ra trên địa bàn, không hỗ trợ, can

thiệp kịp thời cho trẻ em bị bạo lực, xâm hại.
Ngày 15/6/2017 Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Quyết định số 856/QĐTTg về việc thành lập Ủy ban Quốc gia về trẻ em. Trong các ủy viên của Ủy
ban có lãnh đạo của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân
dân tối cao. Trong đó, Ủy ban có nhiệm vụ: giải quyết các vấn đề về trẻ em,
thực hiện quyền trẻ em; thực hiện các vấn đề liên quan đến trẻ em và thúc đẩy
thực hiện Công ƣớc của Liên hợp quốc về quyền trẻ em.
Ngày 21/9/2018 Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tƣ liên tịch
số 02 quy định chi tiết việc xét xử vụ án hình sự có ngƣời tham gia tố tụng là
ngƣời dƣới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và ngƣời chƣa thành
niên, tại khoản 2 Điều 4 quy định:“Vụ án hình sự có bị cáo từ đủ 14 đến dưới
16 tuổi phạm một trong các tội đặc biệt nghiêm trong quy định tại các Điều
142, Điều 144 BLHS. Các vụ án này được thực hiện theo thủ tục xử kín, thân
thiện với trẻ em”.

18


Năm 2017, Ủy ban Tƣ pháp đã chủ trì, phối hợp với Ủy ban Văn hóa,
Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng tổ chức cuộc họp với các cơ
quan, tổ chức hữu quan về “Việc chấp hành các quy định của pháp luật về
đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại tình dục trẻ em”. Ngay sau cuộc
họp này, Ủy ban Tƣ pháp đã có Kiến nghị số 561/KN-UBTP14 gửi tới các Bộ
trƣởng, Trƣởng ngành và ngƣời đứng đầu các tổ chức hữu quan để chỉ đạo
xem xét, giải quyết. Tiếp đó, vào ngày 19/4/2019, Ủy ban Tƣ pháp tiếp tục tổ
chức cuộc họp đánh giá việc thực hiện các kiến nghị của Ủy ban về nâng cao
hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
và giải pháp trong thời gian tới. Mặc dù vậy, hiện nay, thực trạng này vẫn
đang là vấn đề nhức nhối. Vì vậy, ngày 14/6/2019 Quốc hội đã ban hành Nghị
quyết Thành lập đoàn giám sát “việc thực hiện chính sách, pháp luật về
phòng, chống xâm hại trẻ em”. Nghị quyết quy định rõ trách nhiệm, nhiệm

vụ, quyền hạn của Đoàn giám sát và các cơ quan, cá nhân có liên quan. Nghị
quyết cũng quy định về kế hoạch giám sát gồm mục đích, yêu cầu, phạm vi,
đối tƣợng, nội dung, phƣơng thức giám sát và cách thức giám sát việc thực
hiện chính, sách pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em.
1.3.2. Quy định của pháp luật về chống xâm hại tình dục trẻ em
Bên cạnh những quy định của pháp luật về phòng xâm hại tình dục trẻ
em. Nhà nƣớc cũng có những chế tài xử phạt đối với những ngƣời thực hiện
hành vi xâm hại tình dục trẻ em. Chủ thể thực hiện hành vi xâm hại tình dục
trẻ em sẽ bị xem xét xử lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình
sự, ngoài ra, chủ thể còn phải chịu trách nhiệm dân sự về bồi thƣờng thiệt hại
do hành vi của mình gây ra.
Quy định pháp luật hiện vẫn chƣa có chế tài riêng để xử lý hành chính
đối với hành vi quấy rối, xâm hại tình dục mà những hành vi này đƣợc xử lý

19


×