Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

skkn một số BIỆN PHÁP GIÚP học SINH lớp 3 GIẢI bài TOÁN BẰNG HAI PHÉP TÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.49 KB, 33 trang )

MÃ SKKN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH
LỚP 3 GIẢI BÀI TOÁN BẰNG HAI PHÉP TÍNH

Lĩnh vực/ môn

: Toán

Cấp học

: Tiểu học


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
MÃ SKKN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH
LỚP 3 GIẢI BÀI TOÁN BẰNG HAI PHÉP TÍNH

Năm học: 2016 – 2017


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.....................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................3
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.........................................3


1. Cơ sở lí luận.....................................................................................................3
2. Cơ sở thực tiễn.................................................................................................4
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ.....................................................................5
III. CÁC BIỆN PHÁP CỤ THỂ.........................................................................5
1. Hướng dẫn học sinh nắm chắc cách giải các bài toán đơn..........................5
1.1. Các bài toán đơn giải bằng phép tính cộng..................................................6
1.2. Các bài toán đơn giải bằng phép tính trừ.....................................................6
1.3. Các bài toán đơn giải bằng phép tính nhân.................................................6
1.4. Các bài toán đơn giải bằng phép tính chia..................................................6
2. Hướng dẫn học sinh giải những bài toán có hai lần đáp số.........................8
3. Hướng dẫn học sinh hiểu thế nào là bài toán giải bằng hai phép tính.......9
4. Hướng dẫn học sinh nắm chắc một số dạng toán giải bằng hai phép tính
qua luyện tập......................................................................................................14
4.1. Những bài toán không điển hình...............................................................15
4.2. Những bài toán điển hình...........................................................................16
5. Tổ chức cho học sinh luyện tập giải toán trong các tiết dạy ở buổi hai....17
5.1. Đưa ra một số yêu cầu khác nhau về giải bài toán bằng hai phép tính. . .17
5.2. Sưu tầm, thiết kế và tổ chức một số trò chơi toán học có thể vận dụng để
giúp học sinh luyện tập giải toán bằng hai phép tính......................................19
6. Củng cố giải toán bằng hai phép tính trong các hoạt động ngoài giờ.......23
6.1. Sưu tầm, sáng tác thơ có nội dung giải toán bằng hai phép tính.............24
6.2. Câu lạc bộ giải những bài toán bằng hai phép tính..................................24


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
6.3. Tổ chức các trò chơi Toán học....................................................................24
VI. KẾT QUẢ SAU KHI ĐÃ VẬN DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TRÊN VÀO
GIẢNG DẠY......................................................................................................25



1. Đề bài..............................................................................................................25
2. Kết quả...........................................................................................................25
PHẦN KẾT LUẬN............................................................................................27
I. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM..........................................27
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM.........................................................................27
III. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG, TRIỂN KHAI CỦA SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM............................................................................................................28
IV. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT....................................................................................29
1. Đối với sách giáo khoa...................................................................................29
2. Đối với sách tham khảo.................................................................................29
3. Đối với các cấp quản lý.................................................................................29


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong tình hình hiện nay, giáo dục là một vấn đề được cả xã hội quan tâm.
Đảng và nhà nước ta coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Bậc học tiểu học được
coi là nền tảng của các bậc học. Quá trình học ở tiểu học là nền móng cho học
sinh có vốn kiến thức để học tiếp lên các lớp trên. Trong các môn học mà học sinh
học ở bậc tiểu học, môn Toán là bộ môn rất quan trọng. Đây là môn học chiếm
tương đối nhiều thời gian học của học sinh trong suốt quá trình học phổ thông.
Đây cũng là môn học có rất nhiều ứng dụng trong thực tiễn cuộc sống. Cùng với
các môn học khác, môn Toán góp phần hình thành nhân cách cho học sinh.
Ở bậc tiểu học, môn Toán cung cấp cho học sinh những hiểu biết ban đầu
một cách tương đối có hệ thống về số tự nhiên, phân số, số thập phân, các đại
lượng thông dụng, một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản; hình thành các
kỹ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực
trong đời sống; bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí và
diễn đạt đúng cách phát hiện và cách giải quyết vấn đề đơn giản, gần gũi trong

cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng, chăm học và hứng thú học tập toán, hình
thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch khoa học, chủ
động, linh hoạt, sáng tạo.
Quá trình cung cấp kiến thức toán học cho học sinh trong dạy học ở tiểu
học được chia thành hai giai đoạn thì nội dung toán học lớp 3 được coi là cầu
nối để học sinh học tiếp ở giai đoạn hai. Ở lớp 3, các em tiếp tục hoàn thiện
những kiến thức kĩ năng của giai đoạn một và chuẩn bị cho sự phát triển cao hơn
về kiến thức kĩ năng của giai đoạn hai ở lớp 4 và lớp 5. Trong chương trình toán
học ở lớp 3, mạch kiến thức về giải toán chiếm khoảng 9% tổng thời lượng của
môn học nhưng lại vô cùng quan trọng đối với học sinh bởi: bước đầu giúp học
sinh làm quen giải toán hợp, nội dung này còn được học kết hợp với nội dung
dạy số học, hình học và bước đầu yêu cầu học sinh biết tư duy, tìm tòi, sáng tạo
khi biết vận dụng các bài toán đơn đã học để giải toán. . . Đặc biệt hơn, với học
sinh lớp 3, việc giải thành thạo các bài toán bằng hai phép tính là vô cùng cần
thiết bởi những kiến thức này chính là cơ sở để học sinh vận dụng học ở giai
đoạn hai khi giải những bài toán nhiều hơn hai phép tính, những dạng toán điển
hình. . . . Khả năng tư duy để tìm ra các bước giải bài toán bằng hai phép tính ở
lớp 3 tốt sẽ giúp các em dễ dàng hơn khi giải các bài toán về tìm số trung bình


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
cộng của các số, tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số, tìm hai số khi biết
tổng số và tỉ số của hai số, tìm hai số khi biết hiệu số và tỉ số của hai số, tính
diện tích hình bình hành, diện tích hình thoi ở lớp 4, giải toán về đại lượng tỉ lệ
thuận, tỉ lệ nghịch, một số bài toán có nội dung hình học ở lớp 5.
Tuy nhiên, trong quá trình dạy học, không phải bất kì một vấn đề nào trong
sách giáo khoa hay nội dung kiến thức cần cung cấp cho học sinh mà giáo viên
đưa ra học sinh đều hiểu và vận dụng được ngay. Trong quá trình dạy học, bằng
tâm huyết nghề nghiệp và những kinh nghiệm đã đúc rút được cho từng môn học
ở mỗi khối lớp, cho từng mạch kiến thức hay từng bài dạy, người giáo viên có

thể có những biện pháp, những cách thức truyền đạt khác nhau sao cho học sinh
hiểu bài, hiểu sâu, nhớ lâu và biết vận dụng bài học vào thực tế cuộc sống. Đó
mới chính là cái đích cuối cùng của dạy học: học để biết, học để làm, học để tự
khẳng định mình.
Chính vì những lí do trên mà tôi đã chọn cho mình đề tài nghiên cứu về
"Một vài biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính" trong
chương trình Toán 3. Việc chọn đề tài này giúp tôi hiểu sâu hơn về nội dung dạy
học giải toán ở lớp 3, các phương pháp và hình thức tổ chức giờ dạy về giải toán
ở lớp 3, các hướng phát triển cho một bài toán về giải toán ở lớp 3. Từ đó, tôi sẽ
vận dụng tốt hơn vào thực tiễn giảng dạy của mình.


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lí luận
Các bài tập về giải toán bằng hai phép tính thực chất là các bài tập yêu cầu
học sinh phải nắm được các bài toán đơn đã học và biết vận dụng các bài toán
đơn ấy để giải quyết các bài toán giải bằng hai phép tính từ việc suy luận, thấy
được mối liên hệ giữa hai phép tính đó để làm thành các bước giải cho bài toán
giải bằng hai phép tính. Tuy nhiên, để làm được các bài tập này, các em phải
nắm được mấu chốt của vấn đề là để giải quyết được yêu cầu của bài cần xem
xét điều chưa biết có liên quan thế nào với các dữ kiện đã cho trong bài toán. Từ
việc hiểu mấu chốt về các mối liên quan giữa cái đã biết và cái cần tìm của bài
toán đó, học sinh phải biết vận dụng các dạng toán đã học với các kĩ năng tính
toán mà các em có được khi học toán để thành lập các bước giải cho bài toán
nghĩa là các em đã giải quyết được yêu cầu của đề bài.
Việc xây dựng các bài tập về giải các bài toán giải bằng hai phép tính dựa
vào các kiến thức về giải toán có lời văn mà học sinh đã có khi học toán 1 , 2 và
các dạng toán đơn mà các em được học trong chương trình môn Toán ở lớp 3.

Với lứa tuổi của học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh học lớp 3, các em
thường bắt chước hoặc ghi nhớ một cách máy móc. Việc học tập giúp các em
hình thành và phát triển ghi nhớ có ý nghĩa, biết lập luận để tìm ra sự liên quan
giữa dữ kiện bài toán cho biết và yêu cầu của bài. Những kiến thức các em có
được qua học tập môn Toán và được gắn liền với thực tiễn đời sống sẽ được các
em nhớ lâu, kích thích ở các em sự liên tưởng, tìm tòi, khám phá và sáng tạo.
Nhờ đó ghi nhớ của trẻ có ý nghĩa và chất lượng hơn. Những khác biệt về nhận
thức về khả năng tư duy của trẻ thường được biểu hiện rõ nét trong việc suy luận
và vận dụng kiến thức đã học vào thực tế. Ngày nay, nhà trường hiện đại lấy học
trò là nhân vật trung tâm của quá trình dạy học, học trò mới là chủ thể của quá
trình học. Trẻ em ngày nay rất thông minh, nhanh nhẹn trong việc nắm bắt cái
mới, biết vận dụng kiến thức học trong nhà trường vào thực tiễn đời sống rất
nhanh. Bởi thế giáo dục cần trang bị cho trẻ những kiến thức kĩ năng phù hợp
với nhận thức của các em.


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
Nói tóm lại: Quan điểm về xây dựng chương trình môn Toán phù hợp với
đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 3 là cơ sở khoa học cho việc soạn thảo
chương trình môn Toán 3 với các mạch nội dung về Số học, Đại lượng và đo đại
lượng, Yếu tố hình học, Giải toán. Trong đó, mạch kiến thức về giải toán có nội
dung giải bài toán bằng hai phép tính.
2. Cơ sở thực tiễn
Trong thực tế, học sinh được tiếp xúc với giải toán có lời văn từ khi bắt đầu
hình thành phép cộng, phép trừ trong môn Toán ở lớp 1 qua những bài tập có
yêu cầu viết phép tính thích hợp dựa vào những hình ảnh cụ thể như: bên trái có
1 quả bóng bay, bên phải có hai quả bóng bay hoặc trên cành có 3 con chim đậu
có 1 con chim nữa đang bay đến, … với yêu cầu ngày một tăng dần như cho biết
hình ảnh và viết sẵn các chữ số, yêu cầu học sinh điền thêm dấu phép tính thích
hợp; hoặc cho biết hình ảnh, yêu cầu học sinh tự viết thành phép tính thích hợp.

Khi học sinh lớp 1 đã thành thạo cộng, trừ các số trong phạm vi 10, các em được
học về "Bài toán có lời văn" với các dạng toán về "gộp", "thêm", "bớt" và một
số bài toán giải bằng phép tính trừ mà thực chất đó chính là dạng toán "Tìm số
hạng trong một tổng". Ở lớp 2, cùng với việc củng cố các bài toán có lời văn đã
học ở lớp 1, các em đã được làm quen và được luyện tập rất nhiều về giải các
bài toán đơn thuộc các dạng toán điển hình: Bài toán về nhiều hơn; Bài toán về
ít hơn; So sánh hai số hơn (kém) nhau bao nhiêu đơn vị; Các bài toán về “gộp
các nhóm bằng nhau”; Các bài toán về chia đều; Các bài toán về tìm thành phần
trong phép tính khi được học về tìm số hạng trong một tổng, tìm số bị trừ, tìm số
trừ,… Lên đến lớp 3, bên cạnh việc ôn tập, củng cố các dạng toán đã được học ở
lớp 2, học sinh được học thêm một số dạng toán đơn về gấp một số lên nhiều lần
giảm đi một số lần, tìm một trong các phần bằng nhau của một số, các bài toán
liên quan đến hình học như tính chu vi, diện tích hình chữ nhật, hình vuông. Đặc
biệt, các em được học "Bài toán giải bằng hai phép tính" mà mỗi phép tính giải
trong những bài toán này chính là phép tính để giải một trong những bài toán
đơn đã học. Việc học các bài toán giải bằng hai phép tính ở lớp 3 có vai trò rất
quan trọng đối với việc học tập môn Toán bởi những bài toán giải bằng hai phép
tính là cơ sở để học sinh vận dụng, suy luận khi các em học tập ở giai đoạn hai
để giải được những bài toán nhiều hơn hai phép tính và vận dụng nó trong đời
sống thực tế hàng ngày.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
Trong thực tế giảng dạy có những nội dung kiến thức mà giáo viên đưa ra
nhiều học sinh không hiểu được bản chất của nội dung đó mà chỉ áp dụng một
cách máy móc. Chính vì vậy nên khi có một nội dung nào đó có yêu cầu cao
hơn, đòi hỏi các em phải suy luận các em sẽ lúng túng, không biết suy luận để
tìm ra cách giải. Nội dung dạy giải bài toán bằng hai phép tính cũng vậy, đây là
nội dung mới mẻ và rất khó đối với học sinh. Đối với học sinh lớp 3, khả năng

suy luận của các em còn hạn chế, lần đầu tiên các em phải giải nhũng bài toán
đòi hỏi phải tư duy, suy luận nhiều. Khi giải các bài toán đơn, việc tìm câu lời
giải cho phép tính, đa số các em đều dựa vào câu hỏi của bài toán nên khi giải
những bài toán bằng hai phép tính, việc tìm câu lời giải cho phép tính thứ nhất
nhiều em còn hạn chế. Nhiều em còn sai khi ghi danh số của các phép tính, đặc
biệt là những bài toán mà danh số của hai phép tính không giống nhau. Ở lớp 3,
các bài toán giải bằng hai phép tính rất nhiều dạng mà hầu như chẳng thể xếp
những bài toán ấy thành dạng điển hình nào nên việc giải các bài toán đó lại
càng khó khăn với các em.
Còn đối với giáo viên, dạy học sinh giải bài toán bằng hai phép tính đôi khi
cũng còn những hạn chế như chưa khắc sâu cho học sinh mỗi phép tính giải
trong bài chính là dạng toán đơn nào các em đã học, chưa hướng dẫn học sinh
mối quan hệ giữa các phép tính trong bài toán, câu hỏi để gợi ý học sinh tìm
bước giải còn chưa sát, chưa khái quát được những dạng toán giải bằng hai phép
tính, … Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể chỉ hướng dẫn học sinh giải
những bài toán bằng hai phép tính trong sách giáo khoa mà chưa chú trọng đến
việc khắc sâu dạng toán, chưa đưa ra được những hình thức dạy học toán nhằm
phát triển tư duy năng lực của học sinh, chưa đòi hỏi ở các em sự tập trung suy
nghĩ, tìm tòi, khám phá,.. nên nội dung dạy học còn đơn điệu, tẻ nhạt. Chính vì
vậy mà hiệu quả của việc giải toán còn có những hạn chế nhất định.
III. CÁC BIỆN PHÁP CỤ THỂ
1. Hướng dẫn học sinh nắm chắc cách giải các bài toán đơn
Các bài toán đơn học sinh được học bao gồm các bài toán giải bằng một
trong các phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Đây là các bài toán các em được học
trong chương trình môn Toán của các lớp 1, 3 và nửa đầu học kì 1 ở lớp 3.
Ngoài ra, các em còn được học khi giải các bài toán liên quan đến tính chu vi,
diện tích của hình chữ nhật, hình vuông. Các bài toán đơn mà học sinh đã học
đều là các bài toán thuộc các dạng toán điển hình. Có thể chia các bài toán đơn
thành các dạng như sau:



Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
1.1. Các bài toán đơn giải bằng phép tính cộng
Đây là các bài toán thuộc các dạng toán:
- Bài toán về gộp hai số;
- Bài toán về thêm một số đơn vị;
- Bài toán về nhiều hơn;
Bài toán về tìm số bị trừ.
1.2. Các bài toán đơn giải bằng phép tính trừ
Đây là các bài toán thuộc các dạng toán:
- Bài toán về bớt;
- Bài toán về ít hơn;
- Bài toán về so sánh hai số hơn kém nhau một số đơn vị;
- Bài toán về tìm số hạng trong một tổng;
- Bài toán về tìm số trừ.
1.3. Các bài toán đơn giải bằng phép tính nhân
Đây là các bài toán thuộc các dạng toán:
- Bài toán về gộp các nhóm bằng nhau;
- Bài toán về gấp một số lên nhiều lần;
- Bài toán về tìm số bị chia;
- Bài toán về tính chu vi, diện tích của hình chữ nhật, hình vuông khi đã
biết đầy đủ chiều dài, chiều rộng của hình chữ nhật hoặc biết độ dài cạnh của
hình vuông.
1.4. Các bài toán đơn giải bằng phép tính chia
Đây là các bài toán thuộc các dạng toán:
- Bài toán về chia đều;
- Bài toán về chia thành các nhóm bằng nhau;
- Bài toán về giảm đi một số lần;
- Bài toán về tìm một trong các phần bằng nhau của một số;
- Bài toán về so sánh hai số gấp, kém nhau một số lần;

- Bài toán về tìm thừa số trong phép nhân;
- Bài toán về tìm số chia.
Khi dạy học Toán có nội dung chứa bài toán có lời văn mà học sinh đã
được học ở các lớp 1, lớp 2, tôi luôn hướng dẫn các em tìm ra mối quan hệ giữa
các dữ kiện đã cho và yêu cầu cần tìm để các em nhớ lại xem bài toán đó thuộc
dạng toán nào đã học, để giải được bài toán đó thì cần sử dụng phép tính nào, có


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
những cách đặt câu lời giải cho phép tính đó như thế nào,… Ở lớp 3, học sinh
được ôn lại một số dạng toán đơn đã học như bài toán về nhiều hơn, bài toán về
ít hơn, bài toán về tìm số hạng trong một tổng, bài toán về gộp hai số; bài toán
về so sánh hai số hơn kém nhau bao nhiêu đơn vị. Đặc biệt, ở lớp 3, khi các em
được học bảng nhân 6, bảng nhân 7, bảng nhân 8, bảng nhân 9, các bảng chia 6,
bảng chia 7, bảng chia 8, bảng chia 9 thì các em đều được giải các bài toán đơn
về gộp các nhóm bằng nhau, chia đều, chia thành các nhóm bằng nhau. Các
dạng toán này còn được củng cố khi học về nhân số có 2; 3; 4; 5 chữ số với số
có 1 chữ số và chia số có 2; 3; 4; 5 chữ số cho số có 1 chữ số. Vì vậy, khi gặp
các bài toán này, tôi đã vận dụng những hiểu biết đã có của học sinh để các em
tự tìm ra dạng toán và cách giải bài toán. Chính từ việc gợi ý của giáo viên để
củng cố, khắc sâu dạng toán mà các em luôn có tâm thế phải suy nghĩ phải tìm
tòi, phải đưa ra được cách giải cho bài toán, từ đó các em sẽ nhớ lâu dạng toán
đã học. Việc dạy học bằng phương pháp gợi mở như trên, tôi đã giúp học sinh
được rèn luyện, củng cố kiến thức đồng thời cũng đã giúp các em lấy việc giải
các bài toán có lời văn làm phương tiện để phát triển tư duy.
Còn khi dạy các dạng toán đơn mới ở lớp 3 như dạng toán về gấp một số
lên nhiều lần, tìm một trong các phần bằng nhau của một số, so sánh hai số gấp
hoặc kém nhau bao nhiêu lần, giảm đi một số lần, tôi đều hình thành kiến thức
mới cho các em từ những kiến thức đã học.
Chẳng hạn như khi dạy bài "Gấp một số lên nhiều lần", tôi đã hình thành

quy tắc từ kiến thức đã được học. Học sinh tự vẽ đoạn thẳng AB dài 2cm, tìm
cách vẽ đoạn thẳng CD dài gấp 3 lần đoạn thẳng AB, tìm cách tính độ dài của
đoạn thẳng CD. Từ những việc làm trên của học sinh, chính các em đã tự tìm ra
cách gấp 2cm lên 3 lần, tự lấy được ví dụ về gấp một số nào đó lên một số lần
rồi tìm ra quy tắc gấp một số lên nhiều lần.
Sau mỗi dạng toán mà học sinh mới được học, tôi đều cho học sinh luyện
tập củng cố kiến thức qua các bài luyện tập trong sách giáo khoa và trong các
tiết dạy ở buổi hai. Ngoài ra, tôi còn cho học sinh củng cố mỗi dạng toán bằng
những bài toán ngược để các em tránh bị nhầm lẫn.
Ví dụ: Để củng cố dạng toán "Gấp một số lên nhiều lần" ngoài các bài toán
để củng cố kiến thức đơn thuần, tôi cho học sinh làm thêm những bài toán như:


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
Mảnh vải hoa dài 15m và dài bằng mảnh vải xanh. Hỏi mảnh vải xanh dài bao
nhiêu mét?
Bằng phương pháp dạy học gợi mở, phương pháp kiến tạo và luyện tập với
nhiều hình thức tổ chức khác nhau như trên, tôi đã giúp học sinh hình thành,
khắc sâu các dạng toán đơn đã học, các em biết lấy giải toán làm điểm xuất phát
để tạo động cơ hình thành kiến thức mới, làm phương tiện để củng cố kiến thức
và phát triển năng lực tư duy. Đây cũng chính là những vấn đề rất cần thiết trong
việc dạy- học "Bài toán giải bằng hai phép tính" sau này.
2. Hướng dẫn học sinh giải những bài toán có hai lần đáp số
Các bài toán có hai lần đáp số thực chất là những bài toán mà có hai câu
hỏi, trong đó bao giờ câu hỏi thứ hai cũng có liên quan đến câu hỏi thứ nhất, đó
là muốn giải được bài toán theo câu hỏi thứ hai thì phải làm được bài toán theo
câu hỏi thứ nhất.
Ví dụ: Dạy về cộng, trừ các số có ba chữ số (không nhớ) có bài toán:
Khối lớp Một có 245 học sinh, khối lớp Hai có ít hơn khối lớp Một 32 học
sinh Hỏi khối lớp Hai có bao nhiêu học sinh? (Bài tập 3- Trang 4- SGK Toán 3).

Với yêu cầu trên của đề bài mới chỉ củng cố được cách trừ hai số có ba chữ
số trường hợp không nhớ nhưng muốn củng cố được cả cách cộng hai số có ba
chữ số, tôi yêu cầu học sinh đặt thêm cho bài toán một câu hỏi nữa, có thể gợi ý
rõ hơn là để giải bài toán theo câu hỏi của em thì em phải làm đúng bài toán theo
yêu cầu của câu hỏi đã có. Vì vậy, học sinh đã chuyển bài toán trên thành bài
toán như sau:
Khối lớp Một có 245 học sinh, khối lớp Hai có ít hơn khối lớp Một 32 học
sinh Hỏi:
a) Khối lớp Hai có bao nhiêu học sinh?
b) Cả hai khối lớp có bao nhiêu học sinh?
Hoặc khi củng cố dạng toán về "Tìm một trong các phần bằng nhau của
một số", học sinh luyện tập bài toán:
Một cửa hàng có 40m vải xanh và đã bán được số vải đó. Hỏi cửa hàng đã
bán được mấy mét vải xanh? ( Bài tập 2 - Trang 26 - SGK Toán 3)
Cũng với cách làm như trên, tôi đã hướng dẫn học sinh đặt thêm cho bài
toán câu hỏi:
Một cửa hàng có 40m vải xanh và đã bán được số vải đó. Hỏi:
a) Cửa hàng đã bán được mấy mét vải xanh?


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
b) Cửa hàng còn lại bao nhiêu mét vải xanh?
Hoặc khi củng cố dạng toán "Gấp một số lên nhiều lần" có bài tập:
Con hái được 7 quả cam, mẹ hái được gấp 5 lần số cam của con. Hỏi mẹ
hái được bao nhiêu quả cam? ( Bài tập 2 - Trang 33 - SGK Toán 3)
Học sinh của tôi đã tự đặt thêm cho bài toán một câu hỏi nữa để bài toán có
hai câu hỏi như sau:
Con hái được 7 quả cam, mẹ hái được gấp 5 lần số cam của con. Hỏi:
a) Mẹ hái được bao nhiêu quả cam?
b) Cả hai mẹ con hái được bao nhiêu quả cam?

Bằng cách hướng dẫn học sinh đặt thêm câu hỏi cho bài toán, ngoài việc
củng cố kiến thức mới học, tôi đã hướng dẫn các em củng cố thêm được những
kiến thức khác, đồng thời đã giúp học sinh phát huy tính sáng tạo, phát triển
năng lực tư duy. Biện pháp này tôi thường tiến hành song song, đồng thời với
biện pháp thứ nhất, tôi thấy hiệu quả rất rõ rệt, học sinh nắm chắc hơn các dạng
toán đơn.
Việc cho học sinh làm quen với những bài toán có hai câu hỏi như trên thực
tế là tôi đã cho học sinh làm quen với những bài toán giải bằng hai phép tính.
Đây chính là những bài toán làm bước chuẩn bị cho học sinh học giải toán bằng
hai phép tính sau này.
Nói tóm lại: Cả hai biện pháp tôi đã thực hiện như trên đều là những bước
chuẩn bị cần thiết để hình thành và hướng dẫn học sinh tìm hướng giải cho
những bài toán giải bằng hai phép tính.
3. Hướng dẫn học sinh hiểu thế nào là bài toán giải bằng hai phép tính
Tôi đã tiến hành giúp học sinh hiểu về bài toán giải bằng hai phép tính qua
các tiết dạy bài mới về "Bài toán giải bằng hai phép tính" (tiết 50 và tiết 51)
3.1.Bài "Bài toán giải bằng hai phép tính" (Tiết 50 - Trang 50-SGK Toán 3)
Để học sinh hiểu thế nào là một bài toán giải bằng hai phép tính, tôi đã
hướng dẫn học sinh tự hình thành bài toán và các bước giải trên cơ sở từ hai bài
toán đơn đã học. Tiết dạy được mô tả như sau:
* Xác định kiến thức kĩ năng của bài:
Học sinh làm quen với bài toán giải bằng hai phép tính; bước đầu biết tìm
cách giải và trình bày bài giải cho bài toán; biết tìm lời giải cho mỗi phép tính
một cách hợp lí, có thể nêu được câu lời giải cho mỗi phép tính bằng những cách
khác nhau.


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
*Tổ chức các hoạt động dạy học:
a. Kiểm tra bài cũ

Giải bài toán sau:
Hàng trên có 3 cái kèn, hàng dưới có nhiều hơn hàng trên 2 cái kèn. Hỏi
hàng dưới có mấy cái kèn?
- 1 HS lên bảng tóm tắt và trình bày bài giải, HS dưới lớp làm bài vào vở nháp
- GV hướng dẫn HS nhận xét bài của HS.
b. Hướng dẫn học sinh hình thành và tìm hướng giải bài toán bằng hai phép tính
- Từ bài toán trong phần kiểm tra bài cũ trên, tôi yêu cầu HS đặt thêm một
câu hỏi nữa cho bài toán và trình bày cách giải của câu hỏi đó. Chắc chắn HS sẽ
đặt câu hỏi như sau: Hỏi cả hai hàng có bao nhiêu cái kèn? (bởi việc làm này tôi
đã tiến hành thường xuyên như tôi đã trình bày ở biện pháp thứ hai). Lúc đó bài
toán như sau:
Hàng trên có 3 cái kèn, hàng dưới có nhiều hơn hàng trên 2 cái kèn. Hỏi:
a) Hàng dưới có mấy cái kèn?
b) Cả hai hàng có bao nhiêu cái kèn?
- Từ bài toán có hai câu hỏi này mà HS đã trình bày được cách giải, tôi nêu
vấn đề: Bỏ câu hỏi thứ nhất đi, bài toán chỉ còn một câu hỏi 2.
HS đọc bài toán như sau:
Hàng trên có 3 cái kèn, hàng dưới có nhiều hơn hàng trên 2 cái kèn. Hỏi cả
hai hàng có bao nhiêu cái kèn?
Tôi hướng dẫn HS dựa vào bài toán có hai câu hỏi ở trên (chính là bài toán
có 2 lần đáp số), nêu cách giải bài toán mới này. Cụ thể, tôi hướng dẫn HS bằng
một số câu hỏi:
Câu hỏi 1 : Muốn tìm số kèn ở cả hai hàng, các em cần biết thêm số kèn có
ở hàng nào?
- GV kết hợp ghi:
Tìm số cái kèn ở hàng dưới : ? cái
Tìm số cái kèn ở cả hai hàng: ? cái
Câu hỏi 2: Tìm số kèn ở hàng dưới, em đã làm như thế nào?
Câu hỏi 3: Tìm số kèn có ở cả hai hàng em đã làm như thế nào?
- GV kết hợp ghi:

Tìm số cái kèn ở hàng dưới : ? cái 3 + 2 = 5 (cái kèn)
Tìm số cái ken ở cả hai hàng: ? cái 3 + 5 : g (cái kèn)


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
Như vậy, cùng với việc đặt các câu hỏi của GV, HS nêu ý kiến trả lời, tôi đã
thiết lập cho HS việc đi tìm các bước giải của bài toán bằng sơ đồ phân tích đi
lên. Từ sơ đồ phân tích đi lên ở trên, HS dựa vào đó có thể nhận ra các bước giải
và phép tính giải bài toán.
- Từ các bước giải của bài toán đã được thiết lập như trên, tôi giới thiệu cho
HS biết đây là bài toán giải bằng hai phép tính và đặc điểm của bài toán giải
bằng hai phép tính: chỉ có 1 đáp số là kết quả của phép tính thứ hai.
Từ sơ đồ phân tích đi lên này, tôi gợi ý để HS nhận ra muốn giải được bài
toán, cần đặt cho mình câu hỏi phụ:
+ Để tìm được đáp số của bài toán cần tìm thêm gì? (hoặc biết thêm gì?).
+ Để trả lời được câu hỏi mà mình vừa đặt ra cần vận dụng kiến thức nào
đã học (dạng toán đơn nào đã học). Trả lời được câu hỏi này là bước giải thứ
nhất của bài .
+ Để trả lời được câu hỏi của bài toán cần vận dụng kiến thức nào đã học
(dạng toán đơn nào đã học). Đây là bước giải thứ hai của bài toán.
Với mỗi phép tính trên, tôi đều yêu cầu HS diễn đạt câu lời giải mỗi phép
tính bằng một vài cách khác nhau.
c. Hướng dẫn HS vận dụng để giải bài toán tương tự
- Tôi cho HS vận dụng các bước giải bài toán mới được lập từ các dữ kiện
của bài toán 1 trong SGK để từ phân tích, thiết lập để tìm các nước giải của bài
toán 2 trong SGK.
d. Hướng dẫn HS luyện tập
Nội dung luyện tập của tiết học này gồm 3 bài tập. Với bài tập 1 và bài tập
2, tôi đều cho HS phân tích đề bài, tự đặt câu hỏi phụ để tìm bước giải thứ nhất,
tìm câu trả lời cho câu hỏi phụ mà mình tự đặt và câu hỏi của bài toán cần vận

dụng những dạng toán nào đã học. Riêng bài tập số 3, với những HS chậm, tôi
đưa thêm một số bài toán cho HS chọn bài toán thích hợp với tóm tắt đã cho.
Bài 1: Bao gạo nặng 27 kg, bao ngô nặng hơn bao gạo 5 kg. Hỏi cả hai bao
nặng bao nhiêu ki-lô-gam?
Bài 2: Bao gạo nặng 27 kg, bao ngô nặng hơn bao gạo 5 kg. Hỏi bao ngô
nặng bao nhiêu ki-lô-gam?
Bài 3.: Bao gạo nặng 27 kg, bao ngô nhẹ hơn bao gạo 5 kg. Hỏi cả hai bao
nặng bao nhiêu ki-lô-gam?


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
Khi học sinh đưa ra cách chọn bài toán phù hợp với tóm tắt, tôi đều phân
tích cho học sinh hiểu cách chọn nào đúng, cách chọn nào sai và tại sao lại đúng,
hoặc tại sao lại là sai? Khi đã chọn được đúng bài toán, học sinh sẽ giải được bài
toán theo hướng phân tích đi lên để tìm cách giải như tôi đã hướng dẫn ở trên.
e. Củng cố
Khi học sinh đã nắm được thế nào là bài toán giải bằng hai phép tính, cách
đặt câu hỏi phụ để tìm bước giải thứ nhất, xác định dạng toán cho từng bước
giải, cuối tiết học tôi cho học sinh nhận xét các phép tính dùng để giải những bài
toán bằng hai phép tính vừa học ở trên. Khi đó, tôi khắc sâu cho học sinh hiểu
đây là những bài toán giải bằng hai phép tính cộng, hoặc phép tính trừ và phép
tính cộng. Mục đích của việc làm này là hình thành các dạng toán giải bằng hai
phép tính mà các em sẽ được học tiếp trong chương trình môn toán lớp 3.
3.2. Bài "Bài toán giải bằng hai phép tính" (Tiết 51-Trang 51-SGK Toán 3)
Với tiết dạy này, tôi tiến hành như sau:
* Xác định kiến thức kĩ năng của bài:
HS biết giải và trình bày bài giải của các bài toán giải bằng hai phép tính;
rèn kĩ năng giải bài toán bằng hai phép tính.
* Tổ chức các hoạt động dạy học:
a. Kiểm tra bài cũ

Nội dung kiểm tra bài cũ là yêu cầu giải 1 hoặc 2 bài toán giải bằng hai phép
tính thuộc dạng toán giải bằng hai phép tính mà học sinh đã được học ở tiết 50.
b. Hướng dẫn bài toán mẫu
Tôi không đưa ngay bài toán mẫu như SGK mà đưa một số dữ kiện như sau:
Một cửa hàng ngày thứ nhất bán được 7 xe đạp, ngày thứ hai bán được số
xe đạp gấp đôi ngày thứ nhất.
Tôi yêu cầu học sinh tự đặt câu hỏi để các dữ kiện đã cho trên trở thành
một bài toán giải bằng hai phép tính. Khi học sinh đã đặt đúng câu hỏi, tôi lại
tiến hành hướng dẫn học sinh tìm hướng giải cho bài toán bằng đặt câu hỏi phụ
kết hợp với thiết lập sơ đồ phân tích đi lên, đưa bài toán thành hai bài toán đơn
đã học để giải bài toán.
Số xe đạp bán ngày thứ hai: ? xe 7 x 2 = 14 (xe đạp)
Số xe đạp bán trong hai ngày: ? xe 7 + 14 = 21 (xe đạp)
Cuối cùng, tôi yêu cầu học sinh xác định xem bài toán trên được giải bằng
những phép tính nào, mỗi phép tính để giải bài toán liên quan đến những dạng
toán đơn nào.


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
c. Luyện tập
Nội dung luyện tập trong tiết này cũng gồm 3 bài tập. Với các bài tập 1 và
bài tập 2, tôi tổ chức cho học sinh tự tìm các bước giải và giải bài toán rồi xác
định từng bước giải của mỗi bài toán thuộc dạng toán nào đã học. Còn bài tập số
3 chỉ là bài toán về số học nhằm giúp củng cố học sinh kiến thức về gấp một số
lên nhiều lần, thêm một số đơn vị, bớt một số đơn vị, … nhưng để giúp học sinh
củng cố kiến thức về giải bài toán bằng hai phép tính, tôi đã đưa ra một số bài
toán yêu cầu học sinh chọn bài toán phù hợp với sơ đồ có trong bài, nêu cách
giải mỗi bài toán đó.
Bài toán 1: Lan gấp được 6 cái thuyền, số thuyền của Nga gấp được gấp
đôi số thuyền của Lan, Bình gấp được ít hơn Nga 2 cái thuyền. Hỏi Bình gấp

được bao nhiêu cái thuyền?
Bài toán 2: An có 56 viên bi. Sau khi chia cho các bạn, số bi của An bị
giảm đi 7 lần. Tùng lại cho An thêm 7 viên bi nữa. Hỏi lúc này An có bao nhiêu
viên bi?
d. Củng cố
Cuối tiết học, tôi yêu cầu HS nhắc lại các bài toán giải bằng hai phép tính
đã học được giải bằng những phép tính nào, liên quan đến những dạng toán đơn
nào đã học để khắc sâu kiến thức cho các em.
Như vậy bằng phương pháp dạy học kiến tạo, bằng hệ thống câu hỏi gợi
mở, tôi đã hướng dẫn HS vận dụng kiến thức đã học để hình thành bài toán giải
bằng hai phép tính từ việc gộp bài toán có 2 lần đáp số, biết cách phân tích để
tiện hướng giải của bài toán giải bằng hai phép tính là tìm ra mối quan hệ giữa
các dữ kiện đã cho và dữ kiện cần tìm, đưa chúng về hai bài toán đơn đã học và
vận dụng kiến thức đã học để giải quyết từng bài toán đơn đó.
Nói tóm lại: Nếu học sinh lớp 3 không thấy được mối quan hệ giữa các dữ
kiện trong bài toán thì việc tìm câu trả lời cho câu hỏi phụ sẽ rất khó khăn. Nếu
học sinh lớp 3 không nắm chắc các dạng toán giải bằng một phép tính thì việc
tiến hành các bước giải cho bài toán cũng khó mà thành công. Còn nếu kĩ năng
tính toán của học sinh lớp 3 còn hạn chế thì việc giải các bài toán bằng hai phép
tính sẽ rất chậm chạp và có thể đáp số của bài toán sẽ không chính xác.
Điều này càng chứng tỏ rằng giải toán bằng hai phép tính là bài toán kiểm
tra tổng hợp nhiều kiến thức toán học của học sinh.
4. Hướng dẫn học sinh nắm chắc một số dạng toán giải bằng hai phép tính
qua luyện tập


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
Từ sau bài "Bài toán giải bằng hai phép tính", học sinh được luyện tập một
số bài toán giải bằng hai phép tính. Nội dung giải toán này được luyện tập rất
nhiều trong suốt quá trình học Toán 3 của học sinh. Những bài toán giải bằng hai

phép tính này không được sắp xếp thành những dạng cụ thể nào mà chúng chứa
một hoặc cả hai phép tính được dùng để củng cố khắc sâu kiến thức của một bài
mới nào đó như nhân, chia số có 3, 4, 5 chữ số với số có một chữ số; củng cố
các đơn vị đo đại lượng; … Nhiều bài không thuộc một dạng toán điển hình nào
mà để khái quát chúng thành dạng nào đó, trong quá trình luyện tập, học sinh
phải tìm ra các bước giải mỗi bài toán ấy bằng cách đưa chúng về hai bài toán
đơn như tôi đã hướng dẫn học sinh ở trên.
Chẳng hạn:
Bài tập 1 (trang 52): Tóm tắt
Có : 45 ô tô
Rời bến: 18 ô tô và 17 ô tô
Còn lại : … ô tô?
- Khi hướng dẫn HS đặt câu hỏi phụ để tìm cách giải bài toán, các em sẽ
đưa ra hai cách trả lời khác nhau. Với mỗi cách trả lời trên, tôi hướng dẫn HS
tìm ra một cách giải. Từ mỗi cách giải đó, tôi đều hướng dẫn HS nhận xét để rút
ra bài toán được giải bằng những phép tính nào, mỗi phép tính đó là dạng toán
đơn nào đã học.
Vậy chúng ta có thể hệ thống các bài toán giải bằng hai phép tính ở lớp 3
như sau:
4.1. Những bài toán không điển hình
4.1.1. Bài toán giải bằng hai phép tính cộng
Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học sau:
- Bài toán về nhiều hơn, gộp hai số;
- Bài toán về thêm 2 lần liên tiếp;
- Bài toán về gộp 3 số hạng.
4.1.2. Bài toán giải bằng hai phép tính trừ
Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học sau:
- Bài toán về bớt 2 lần liên tiếp;
- Bài toán về ít hơn
- Bài toán về hơn, kém một số đơn vị.

4.1.3. Bài toán giải bằng phép tính nhân và phép tính trừ
Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học sau:


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
- Bài toán về gộp một số nhóm bằng nhau, bớt đi một số đơn vị;
4.1.4. Bài toán giải bằng phép tính trừ và phép tính chia
Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Bài
toán về bớt một số đơn vị, chia đều.
4.1.5. Bài toán giải bằng phép tính cộng và phép tính chia
Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học:
- Bài toán về gộp hai số, chia đều
- Bài toán về nhiều hơn, so sánh số lớn gấp số bé bao nhiêu lần.
4.1.6. Bài toán giải bằng phép tính nhân và phép tính cộng
Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học:
- Bài toán về gộp một số nhóm bằng nhau, gộp hai số (một số là kết quả
của gộp các nhóm đó)
4.1.7. Bài toán giải bằng hai phép tính chia
Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Bài
toán về chia đều, chia thành các phần bằng nhau.
4.1.8. Bài toán giải bằng phép tính nhân và phép tính chia
Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Bài
toán về gộp các nhóm bằng nhau, chia đều
4.1.9.Bài toán giải bằng phép tính chia và phép tính cộng
Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Tìm
một trong các phần bằng nhau của một số; gộp hai số.
4.2. Những bài toán điển hình
Ngoài các dạng toán giải bằng hai phép tính ở lớp 3 được thống kê ở trên
thì học sinh còn được học một số dạng toán sau:
4.2.1. Bài toán có phép chia có dư

4.2.2. Các bài toán trên quan đến hình học
4.2.3. Bài toán liên quan đến rút về đơn vị
- Khi dạy học sinh giải những bài toán bằng hai phép tính có phép chia có
dư, tôi khắc sâu cho học sinh: Trong câu hỏi thường có từ “ít nhất” và khi trình
bày bài giải thì phép tính thứ hai là phép cộng mà số hạng thứ nhất là thương
của phép chia còn số hạng thứ hai là 1 .
- Khi dạy các bài toán giải bằng hai phép tính có liên quan đến hình học thì
tôi lưu ý học sinh: Phép tính thứ nhất thường đi tìm một trong các yếu tố chiều
dài, chiều rộng của hình chữ nhật hoặc cạnh của hình vuông sẽ liên quan đến


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
một trong những dạng toán đơn đã học, phép tính thứ hai thường là áp dụng
cách tính chu vi, diện tích của một hình. Tuy nhiên, có một số bài phép tính thứ
nhất đi tìm một trong các yếu tố chiều dài, chiều rộng của hình chữ nhật hoặc
cạnh của hình vuông lại dựa vào chu vi hoặc diện tích cho trước của hình đó.
- Khi dạy các bài toán liên quan đến rút về đơn vị, tôi lưu ý học sinh: Các
bài toán này chỉ giải bằng phép tính nhân, chia hoặc bằng cả hai phép chia. Khi
hướng dẫn học sinh hình thành các bước giải tôi cũng hướng dẫn đưa những bài
toán thuộc dạng toán này thành hai bài toán đơn đã học và hướng dẫn các em
phân biệt hai kiểu bài trong dạng toán “Bài toán liên quan đến rút về đơn vị” để
các em không bị nhầm lẫn khi giải dạng toán này.
Như vậy, bài toán giải bằng hai phép tính ở lớp 3 quả là rất phong phú. Đó
là những nội dung hay nhưng đồng thời cũng khó đối với cả giáo viên và học
sinh trong quá trình dạy - học. Song với việc tiến hành luyện tập giải toán như
trên, tôi đã khắc sâu cách giải từng bài toán bằng cách thiết lập các bước giải,
hướng dẫn học sinh tìm mối quan hệ giữa các dữ kiện của bài toán, củng cố các
dạng toán đơn đã học, đôi khi còn dùng cả những cách củng cố có thể cho là
máy móc như dạng bài liên quan đến phép chia có dư, hình học, bài toán liên
quan đến rút về đơn vị. Nhưng những việc tôi đã tiến hành như trên tôi thực sự

thấy hiệu quả, học sinh của tôi giải toán bằng hai phép tính tốt hơn, biết tìm các
bước giải, xác định được các phép tính để giải bài toán. Như vậy, việc học và
luyện tập giải các bài toán bằng hai phép tính đã đạt được những mục đích như
rèn kĩ năng vận dụng tri thức, củng cố tri thức, phát triển năng lực tư duy.
5. Tổ chức cho học sinh luyện tập giải toán trong các tiết dạy ở buổi hai
5.1. Đưa ra một số yêu cầu khác nhau về giải bài toán bằng hai phép tính
Các bài toán trong sách giáo khoa thường chỉ là những bài toán cho trước
đề bài, yêu cầu học sinh giải bài toán, chỉ có vài bài đưa yêu cầu khác là nêu bài
toán theo tóm tắt rồi giải. Các yêu cầu trên có lẽ chỉ phù hợp với đối tượng học
sinh đại trà mà chưa phát huy được hết khả năng sáng tạo của học sinh. Chính vì
vậy, tôi đã mạnh dạn đưa vào bài giảng của mình, nhất là các tiết dạy Toán ở
buổi hai thêm một số yêu cầu về giải toán bằng hai phép tính như sau:
5.1.1. Lập đề toán theo mẫu


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
Khi hướng dẫn học sinh giải một bài toán bằng hai phép tính xong, tôi yêu
cầu các em lập bài toán tương tự nhằm mục đích kiểm tra mức độ hiểu bài của
học sinh.
5.1.2. Tìm câu hỏi cho bài toán
Để đặt ra được yêu cầu này đối với học sinh, tôi đã đưa ra một số dữ kiện đã
cho của bài toán, yêu cầu học sinh tự đặt câu hỏi cho bài toán rồi giải bài toán.
Chẳng hạn: Hãy đặt thêm câu hỏi để được bài toán giải bằng hai phép tính:
Nam có 5 viên bi, Hùng có nhiều hơn Nam 15 viên bi. Hỏi …
Học sinh có thể đặt được các câu hỏi sau:
Hỏi cả hai bạn có bao nhiêu viên bi?
Hoặc: Hỏi số bi của Hùng gấp mấy lần số bi của Nam?
Hoặc: Số bi của Nam bằng một phần mấy số bi của Hùng?
Và với mỗi câu hỏi trên thì lại được một bài toán khác và cách giải cũng
khác nhau.

5.1.3. Lập bài toán từ một số dữ kiện đã cho và dữ kiện cần tìm
Với yêu cầu này, tôi chuẩn bị trước một số dữ kiện đã cho, một số câu hỏi,
trong đó có thể có những câu hỏi hoặc những dữ kiện không phù hợp, yêu cầu
học sinh chọn các dữ kiện đó và sắp xếp để được bài toán giải bằng hai phép
tính và giải bài toán đó.
Ví dụ: Hãy lập bài toán giải bằng hai phép tính và giải bài toán đó từ các dữ
kiện sau:
Một đoàn xe có 5 ô tô.
Xe thứ hai chở gấp xe thứ nhất 3 lần.
Mỗi xe còn lại chở được 1200 kg hàng.
Xe đầu chở được 1500 kg hàng.
Hỏi đoàn xe đó chở được bao nhiêu ki-lô-gam hàng?
5.1.4. Lập bài toán giải từ các phép tính cho trước
Với yêu cầu này, tôi đưa ra hai phép tính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
(có thể cho trước hoặc không cho trước danh số), yêu cầu học sinh đặt đề toán
để có bài toán được giải bằng hai phép tính này.
Chẳng hạn: Hãy lập bài toán được giải bằng hai phép tính sau:
1050 x 2 = 2090
1050 + 2090 = 3140
5.1.5. Lập bài toán từ các số và dấu phép tính đã cho


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
Thực ra, yêu cầu này cũng tương tự như yêu cầu "Lập bài toán giải bằng
các phép tính cho trước" nhưng với mức độ cao hơn.
Ví dụ: Cho các số 4; 1200; 300; 900 và các dấu “ - ”, “ : ”; hãy lập bài toán
được giải từ các số và các dấu phép tính trên.
5.1.6. Tìm phép tính và lời giải của phép tính thích hợp với bài toán (hoặc mỗi
bài toán)
Giáo viên đưa sẵn một bài toán hoặc một số bài toán, một số câu lời giải và

phép tính viết liền nhau hoặc một số câu lời giải và một số phép tính viết tách
rời nhau, có thể có cả câu lời giải, phép tính sai dưới hình thức các thẻ, yêu cầu
học sinh lựa chọn phép tính và lời giải của phép tính thích hợp với bài toán
(hoặc mỗi bài toán)
5.1.7. Tìm hướng phát triển cho bài toán
Yêu cầu này cũng tương tự yêu cầu đặt câu hỏi cho bài toán.
5.2. Sưu tầm, thiết kế và tổ chức một số trò chơi toán học có thể vận dụng để
giúp học sinh luyện tập giải toán bằng hai phép tính.
Trong dạy học giải toán có lời văn, nhất là giải những bài toán giải bằng hai
phép tính, nếu đề cập đến việc tổ chức bằng trò chơi thì có lẽ nhiều người sẽ cho
rằng không hợp lí hoặc không được khả thi. Song trên thực tế, trong các tiết dạy
Toán có nội dung dạy về giải bài toán bằng hai phép tính, tôi thường kết hợp tổ
chức các trò chơi học tập để tạo hứng thú cho học sinh đồng thời với cách tổ
chức như vậy tôi có thể kiểm tra được việc nắm bài cũng như giúp các em hiểu
sâu và nhớ lâu kiến thức hơn. Mục đích của các trò chơi đều là rèn kĩ năng giải
các bài toán bằng hai phép tính cho học sinh.
Dưới đây là một số trò chơi Toán học tôi đã sưu tầm, xây dựng để tổ chức
trong các giờ dạy Toán có nội dung về giải bài toán bằng hai phép tính:
5.2.1. Trò chơi “Giải toán tiếp sức”
- Chuẩn bị:
+ Một bài toán hoặc một số bài toán, một số câu lời giải và phép tính viết
liền nhau hoặc một số câu lời giải và một số phép tính viết tách rời nhau, có thể
có cả câu lời giải, phép tính sai dưới hình thức các thẻ.
+ Chọn hai (hoặc ba, bốn,…. nhóm) học sinh chơi, mỗi nhóm 4 - 5 em
- Cách chơi:
Từ một bài toán hoặc một số bài toán, một số câu lời giải, một số phép tính
viết tách rời nhau mà GV đưa ra, yêu cầu HS tiếp nối chọn câu lời giải và phép


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính

tính thích hợp với cách giải của mỗi bài toán đó theo một khoảng thời gian do
GV quy định. Nhóm nào nhanh nhất và đúng nhất thì thắng cuộc.
Ví dụ: Tiết 52 Luyện tập (trang 52 - SGK Toán 3)
Khi dạy học sinh giải bài tập 1 và bài tập 2, tôi đưa luôn cả hai bài toán,
hướng dẫn HS tìm hiểu từng bài toán rồi đưa ra một số câu lời giải, phép tính,
đáp số như sau:
Tất cả số ô tô đã rời bến là:
18 + 17 = 35 (ô tô)
Sau khi rời bến lần thứ nhất, bến xe còn lại số ô tô là:
45 - 18 = 27 (ô tô)
Số con thỏ bác An đã bán đi là:
48 : 6 = 8 (con thỏ)
Bến xe đó còn lại số Ô tô là:
45 - 35 = 10 (ô tô)
Bác An còn lại số con thỏ là:
48 - 8 = 40 (con thỏ)
Số ô tô còn lại trong bến xe là:
27 - 17 = 10 (ô tô)
Sau khi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi, tôi hướng dẫn HS nhận xét, chốt
lại dạng toán, cách giải từng bài toán. Như vậy, bằng cách tổ chức này, tôi vừa
củng cố được cách giải bài toán bằng hai phép tính, vừa tạo được cho HS cách
học một tiết luyện tập toán thoải mái, không gò bó là phải theo các bước tìm
hiểu đề bài, đặt câu hỏi phụ tìm cách giải rồi giải bài toán mà vẫn đòi hỏi học
sinh phải tập trung suy nghĩ để chọn lựa chính xác.
5.2.2. Trò chơi “Chuyển thư” hoặc “Tìm đúng địa chỉ”
- Tiến hành tương tự như trò chơi “Giải toán tiếp sức”, mỗi thẻ trên được
coi là một bức thư và bài toán hoặc mỗi bài toán thì được coi là một địa chỉ cần
gửi thư, những người tham gia chơi là những cá nhân. Trong cùng thời gian quy
định em nào chọn được đúng và nhanh nhất câu lời giải và phép tính để giải bài
toán là người chiến thắng .

5.2.3. Trò chơi “Chim sẻ giúp cô Tấm”
- Chuẩn bị và tiến hành như các trò chơi trên, các bài toán được coi là những
chiếc thúng đựng gạo, đựng thóc, đựng đỗ còn những thẻ trên lại được coi là gạo,
là thóc hoặc là đỗ mà mụ dì ghẻ đã trộn vào nhau bắt Tấm phải nhặt riêng ra.
5.2.4. Trò chơi “Ai nhanh hơn”


Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính
- Trò chơi tiến hành tương tự như các trò chơi trên. Trong cùng thời gian
quy định, em nào chọn được đúng và nhanh nhất câu lời giải và phép tính để giải
bài toán là người chiến thắng.
5.2.5. Trò chơi “Sơn Tinh dời núi”
Trò chơi được mô tả như sau: Từ các yêu cầu "Lập bài toán từ các dữ kiện
đã cho và dữ kiện cần tìm" hoặc “Tìm câu lời giải và phép tính đúng để giải bài
toán” (các dữ kiện đã cho hoặc cần tìm, các phép tính và câu lời giải được coi là
các thẻ), tôi tổ chức cho 2 hoặc 3 nhóm học sinh tham gia chơi, mỗi nhóm chọn
2 học sinh, 1 em đóng vai trò là Sơn Tinh có nhiệm vụ làm theo yêu cầu đặt ra,
còn 1 em đóng vai trò là Núi có nhiệm vụ theo dõi, nhận xét Sơn Tinh, nếu Sơn
Tinh chọn đúng được một câu lời giải, một phép tính hay sắp xếp đúng dữ kiện
của bài thì Núi được nâng cao thêm một bước. Còn nếu sai thì phải lùi một
bước. Cuối cùng, nhóm nào dời được nhiều núi hơn thì chiến thắng.
Thực ra, các trò chơi trên không lạ đối với học sinh, hình thức tổ chức và
cách chơi cũng tương tự nhau những tôi đã lấy các tên khác đi để tránh sự nhàm
chán đồng thời HS biết so sánh, vận dụng các trò chơi đã được tham gia để nắm
luật chơi nhanh hơn.
Từ việc tìm hiểu, đưa ra các yêu cầu khác nhau khi hướng dẫn học sinh giải
toán và thiết kế một số trò chơi Toán học ở trên, trong các tiết dạy Toán ở buổi 2,
tôi đã tổ chức cho học sinh luyện tập giải toán bằng hai phép tính dưới các hình
thức khác nhau như làm các bài toán thông thường hoặc giải toán theo yêu cầu
khác nhau, tổ chức các trò chơi Toán học mà tôi đã vận dụng hoặc thiết kế ở trên

sao cho phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp và tạo hứng thú học tập cho
các em nhằm mục đích giúp học sinh củng cố và phát triển khả năng giải toán
cho học sinh.
Để củng cố kiến thức về giải toán bằng hai phép tính cho học sinh, tôi cho
học sinh luyện tập một số bài tập, dưới đây là một số bài tập tiêu biểu:
Bài 1: Bể thứ nhất chứa 281 l nước, bể thứ hai chứa nhiều hơn bể thứ nhất
196 l nước. Hỏi cả hai bể chứa bao nhiêu lít nước?
Bài 2: Một quyển sách dày 250 trang. Ngày đầu Lan đọc được 107 trang,
ngày hôm sau Lan đọc được 75 trang. Hỏi Lan còn phải đọc tiếp bao nhiêu trang
nữa thì mới xong quyển sách?
Bài 3: Nhà trường nhận về 1250 quyển vở. Nhà trường đã phát cho 4 lớp
khối 3, mỗi lớp 350 quyển vở. Hỏi nhà trường còn lại bao nhiêu quyển vở?


×