Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

NGHIÊN cứu THựC TRạNG sử DụNG các CHấT DạNG AMPHETAMIN ở NHóM NGƯờI từ 15 đến 60 TUổI tại một xã NGOạI THàNH hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (877.06 KB, 77 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sau khoảng gần 30 năm mở cửa giao lưu với thế giới đất nước ta đã thu
được nhiều thành tựu to lớn về nhiều mặt: vị thế của đất nước trên quốc tế dần
được khẳng định, đời sống của người dân được cải thiện đáng kể cả về vật
chất lẫn tinh thần. Kéo theo sự giao lưu của đất nước với thế giới, xuất hiện
nhiều loại hình giải trí, các tụ điểm vui chơi cho giới trẻ như vũ trường, quán
bar, nhà nghỉ… ngày càng xuất hiện nhiều. Trong đó nổi bật là các tệ nạn xã
hội đi kèm: cờ bạc, mại dâm, trộm cướp, sử dụng chất ma túy (heroin, thuốc
phiện, rượu…)[1]
Chất kích thích dạng Amphetamin (Amphetamin type stimule - ATS hay
ma túy tổng hợp) là tên gọi chung của một nhóm chất kích thích có cấu trúc
hóa học dạng amphetamin. Chúng có tác dụng kích thần gây cảm giác hưng
phấn, khoái cảm, chống mệt mỏi… liều cao kéo dài có thể gây hoang tưởng,
ảo giác. Những năm gần đây nhóm ATS ngày càng được sử dụng phổ biến
trong giới trẻ [1],[2].
Những nghiên cứu gần đây trên thế giới cũng như tại Việt Nam cho thấy tỷ
lệ sử dụng ATS có xu hướng ngày càng tăng nhanh về số lượng cũng như mở
rộng về vùng địa lý. Theo những thống kê mới nhất của Cơ quan phòng chống
tội phạm và ma túy của liên hiệp quốc (United Nations Office on Drugs and
Crime- UNODC) sử dụng ATS toàn cầu năm 2009 dao động từ 0,3%-1,3%
dân số, tương đương với 14-57 triệu người tuổi từ 15-64 đã sử dụng các chất
này ít nhất một lần trong năm qua. Tỷ lệ sử dụng hầu như có ở tất cả các khu
vực trên thế giới, tăng nhanh tại khu vực Châu Á, Châu Phi. Ở Việt Nam, theo
đánh giá của của UNODC (2009), tỷ lệ sử dụng ATS khoảng 1,2% - 1,4% dân
số. Việc sử dụng ATS chủ yếu tại tập chung cao ở khu vực thành thị, đông
dân, nơi có nhiều tụ điểm giải trí cho giới trẻ.[3]


2



Sử dụng ATS gây nhiều hậu quả nghiêm trọng gây nên các bệnh cơ thể
(tim mạch, hô hấp, truyền nhiễm…), các rối loạn về tâm thần (hoang tưởng,
ảo giác, trầm cảm, kích động...), và cũng là vấn đề nhức nhối của xã hội (bạo
lực, tăng tỷ lệ tội phạm...)[2]
Trên thực tế ở nước ta, tuy đã có chương trình tổ chức đánh giá tình hình
sử dụng ATS nhưng chưa có hệ thống. Với những nhu cầu cấp thiết đó chúng
tôi tiến hành đề tài: “ Nghiên cứu thực trạng sử dụng chất dạng
Amphetamin ở nhóm người từ 15 đến 60 tuổi tại một xã ngoại thành Hà
Nội” nhằm đánh giá hai mục tiêu.
1. Thực trạng sử dụng chất dạng Amphetamin nhóm 15 đến 60 tuổi tại
một xã ngoại thành Hà Nội năm 2013
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến việc sử dụng chất dạng
Amphetamin trên các đối tượng nghiên cứu.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Chất dạng Amphetamin
1.1.1. Lịch sử phát triển, sử dụng
Amphetamin được tổng hợp lần đầu tiên vào năm 1887 từ thảo dược có
chứa ephedrine bởi nhà khoa học người Đức là L. Edeleano. Đến năm 1893,
Methamphetamin được tổng hợp từ ephedrine tại Nhật Bản vào bởi nhà hóa
học Nagai Nagayoshi. Thuật ngữ "Methamphetamin" được bắt nguồn từ các
yếu tố của cấu trúc hóa học của hợp chất mới này: methyl alpha methylphenylethylamin. Năm 1919, dạng tinh thể Methamphetamin được
tổng hợp bởi Akira Ogata, từ ephedrine bằng sử dụng phốt pho đỏ và iodine.
[4]
Trong y học, năm 1932 Amphetamin được chỉ định điều trị chứng xung

huyết mũi và hen phế quản ở Đức (Benzedrine). Năm 1937 được chỉ định
thêm điều trị chứng ngủ rũ, Parkison sau viêm não, trầm cảm, ngộ độc thuốc
gây ngủ yên dịu.[4],[5]
Tại Mỹ vào năm 1943, công ty Abbott Laboratories đệ đơn FDA chấp
thuận cho Methamphetamin để điều trị chứng ngủ rũ, trầm cảm nhẹ,
Parkinson sau viêm não, nghiện rượu mãn tính, xơ cứng động mạch não… và
được cấp phép vào tháng 12 năm 1944.[5]
Do tác dụng kích thần, tăng tập trung, hưng phấn nên Methamphetamin
được sản xuất và sử dụng nhiều trong thời kì chiến tranh. Trong chiến tranh
thế giới thứ II, Methamphetamin được sử dụng cả ở lực lượng Phát xít và các
lực lượng Đồng minh. Công ty Temmler chuyên sản xuất methamphetamine
dưới nhãn hiệu Pervitin cho quân đội Đức. Nó được phân chia cho tất cả các
lực lượng quân đội lúc bấy giờ: từ lực lượng bộ binh, xe tăng và phi công …


4

ước tính nhiều triệu liều được phân phối trong suốt cuộc chiến. Hơn 35 triệu
liều 3 miligam Pervitin và Isophan được sản xuất cho quân đội Đức giữa
tháng 4 và tháng 7 năm 1940. Từ 1942 cho đến năm 1945, Adolf Hitler đã
được tiêm tĩnh mạch Methamphetamin bởi bác sĩ riêng của mình. Ở Nhật
Bản, Methamphetamin không những được sử dụng cho mục đích quân sự
trong chiến tranh thể giới lần thứ II mà cũng được sử dụng cho mục đích dân
sự. Trong những năm 1940 và những năm 1950 thuốc được nhiều người quản
lý cho công nhân lao động Nhật Bản để tăng năng suất của họ.[5]
Vào những thập niên 60 và 70 của thế kỷ 20, ATS được sử dụng rộng rãi
trong giới trẻ bởi tác dụng kích thích, hưng phấn, dễ tiếp xúc…và được coi
như chất sử dụng trong lễ hội. Bên cạnh đó tác dụng có hại của ATS được ghi
nhận ngày càng nhiều: loạn thần, kích động, ngộ độc… Năm 1970,
Methamphetamin đã được đưa vào Đạo luật các chất được kiểm soát ở Mỹ.

Các nước khác như Nhật Bản, Châu Âu… chúng dần bị cấm và đưa vào danh
sách các chất sử dụng bất hợp pháp.[4],[5]
Hiện nay ATS chỉ được chỉ định cho một số bệnh nhất định: ADHD, ngủ rũ,
trầm cảm, béo phì… với các dạng bào chế nhất định: Methylphenidate
(Ritalin), Dextroamphetamin (Dextrine)…[6]
1.1.2 Các chất dạng Amphetamin
1.1.2.1 Amphetamin
Công thức hóa học và cấu trúc của amphetamin
Công thức hóa học:

Công thức hóa học: C9H15N


5

Cấu trúc không gian:
Dược động học
Amphetamin thường được sử dụng qua đường hít, ngửi, uống hoặc tiêm
để có tác dụng tức thì. Thời gian bán huỷ còn tuỳ thuộc vào dạng thuốc, liều
lượng, đường dùng và cách dùng. Thuốc bài tiết chủ yếu qua thận, một số ít
qua nước bọt và mồ hôi. Amphetamin tan trong mỡ, nên có thể qua hàng rào
máu não và có tác dụng một giờ sau khi uống. Thuốc được hấp thu nhanh qua
ống tiêu hoá vào máu rồi phân bố ra khắp cơ thể. Amphetamin được tích luỹ
trong mô mỡ, tập trung nhiều ở não, qua màng rau thai dễ dàng, bài tiết qua
sữa với tỷ lệ nhiều hơn trong huyết tương. [7]
Dược lực học
Amphetamin và ATS có tác dụng hưng phấn, đây là tác dụng đóng vai trò
quan trọng trong việc phụ thuộc, gây nên các rối loạn liên quan đến sử dụng
Amphetamin.
Amphetamin giúp tự tin, dễ hòa đồng, tăng cường khả năng tình dục khi

sử dụng. Những người sử dụng Amphetamin cho biết là có tăng tần xuất hoạt
động tình dục và thích quan hệ tình dục với nhiều bạn tình hơn là những
người sử dụng heroin.
Amphetamin còn giúp cải thiện sự tập trung, giảm thèm ăn và giảm nhu cầu
ngủ, chính vì vậy mà các ATS được sử dụng tăng tập trung trí nhớ, giảm cân.
Amphetamin có thể gây ra ảo tưởng, ảo giác, hoang tưởng và các triệu
chứng loạn thần khác nhất là kho sử dụng liều cao kéo dài. Trong lâm sàng rất


6

hay gặp các triệu chứng này trên bệnh nhân sử dụng ATS và rất khó phân biệt
với các triệu chứng dương tính của tâm thần phân liệt. [4][7]
Chuyển hóa
Amphetamin và Methamphetamin được chuyển hóa chủ yếu ở gan, phần
lớn thuốc được dùng qua đường uống và được đào thải nguyên chất qua
đường nước tiểu. Thời gian bán hủy của Amphetamin (liều điều trị) khoảng 719 giờ. Với liều độc, việc điều trị các triệu chứng do Amphetamin gây nên có
thể mất thời gian dài (có thể đến vài ngày), phụ thuộc vào độ pH của nước
tiểu (tăng tính acid làm tăng dào thải). [7]
Cơ chế tác dụng: amphetamin và các chất dạng amphetamin
Các amin sinh học trong quá trình tác động


7

Amphetamin nội sinh: Một số phân tử của một cấu trúc tương tự
amphetamine được tìm thấy tự nhiên trong não. Ví dụ như

l-


phenylalanine và β- Phenethylamine được tìm thấy trong hệ thống thần
kinh ngoại biên cũng như trong não. Các phân tử này được cho là có
vai trò điều chỉnh mức độ của sự ham muốn và sự tỉnh táo.
Dopamin: Amphetamin gây giải phóng dopamin. Các cơ chế ảnh hưởng
đến nồng độ dopamin của amphetamin đã được nghiên cứu rộng rãi. Hiện
nay, có 3 giả thuyết chính. Một giả thuyết nhấn mạnh đến tác dụng của
amphetamin làm tăng nồng độ dopamin trong tế bào thần kinh trước synaps.
Giả thuyết thứ hai trung vào vai trò của các chất vận chuyển dopamin. Giả
thuyết thứ 3 là Amphetamin ức chế IMAO.[8]
Các giả thuyết trước đây được hỗ trợ bởi các nghiên cứu chứng minh
rằng tiêm Amphetamin làm gia tăng nhanh chóng nồng độ dopamin.
Amphetamin giúp cho việc giải phóng dopamin vào bào tương. Amphetamin
và các dẫn xuất amphetamin có thể làm thay đổi độ pH làm tăng acid, tác
động làm phân bố lại dopamin trong túi bào tương
Sự gia tăng của dopamin có thể gây nhiễm độc thần kinh. Dopamin tự
động bị oxy hóa trong bào tương.
Serotonin: Amphetamin được thấy vai trò trên serotonin tương tự như
trên dopamin. Việc vận chuyển serotonin có thể bị đảo ngược khi có tác động
bằng cách kích thích. Cơ chế này được cho là liên quan đến ion canxi cũng
như các protein vận chuyển nhất định.[9]
Sự tương tác giữa amphetamin và serotonin chỉ có ở các vùng đặc biệt
của não như hệ thống trung não - vỏ não - hệ viền. Nghiên cứu gần đây bổ
sung rằng Amphetamin gián tiếp có thể thay đổi hoạt động của hệ
glutamatergic từ các khu vực nhân bụng đến vỏ não trước trán. Hệ


8

glutamatergic liên quan chặt chẽ với việc tăng kích thích ở khớp thần kinh.
Tăng nồng độ serotonin ngoại bào có thể điều chỉnh các hoạt động kích thích

glutamatergic của tế bào thần kinh.[8]
Amphetamin có tác dụng mạnh lên các amin sinh học. Thuốc làm hạn
chế tái hấp thu các amin sinh học với mức độ nhỏ, còn tác dụng chính là tăng
giải phóng amin sinh học từ những túi dự trữ ở đầu mút thần kinh, làm tăng
nồng độ các amin sinh học ở các khe sinaps. Sự giải phóng dopamin ở nhân
áp ngoài và các cấu trúc liên quan được cho là gây ra các tác dụng hưng phấn.
ATS được đưa vào các neuron và đến các túi dự trữ của neuron dẫn truyền.
Bằng cách thay đổi môi trường bên trong các túi này, ATS làm các neuron dẫn
truyền giải phóng các chất dẫn truyền vào bào tương và khe synaps. Nhiễm
độc thần kinh của ATS gây ra không phải do ATS mà là do sự tích tụ dopamin
nội bào.[8],[10]


9

Cơ chế thay đổi ở hệ thần kinh trung ương
Việc sử dụng Amphetamin kéo dài dẫn đến một số thay đổi thích ứng ở
não bộ như kích thích thụ thể dopamin, hoạt hóa adenosin monophotsphate
vòng (cAMP) trong neuron ở trong nhân áp ngoài và thể vân, dẫn đến hoạt
hóa một chuỗi hoạt động trong tế bào, tăng sao chép dynorphin tại axit
ribonuclenoic (RNA) ở chu trình CREB. Dynorphin là một chất chủ vận lựa
chọn k-opioid giải phóng dopamin, làm giảm hoạt động hệ dopaminnergic.
Khi dừng sử dụng amphetamin thì việc giải phóng dopamin dừng lại, giảm
hoạt động dopaminergic, dẫn đến vật vã và khó chịu sau cai Amphetamin.
Ngoài ra, tác động của Amphetamin tới các neuron của nhân áp ngoài
làm giảm độ tập trung của proterin G i (để ngăn cản adenylyl cyclase) và tăng
khả năng phụ thuộc protein cAMP – kinase. Cả hai thay đổi này kéo dài hàng
tuần thì dẫn đến hình thành con đường tạo ra cAMP bất thường. Ở động vật,
những sự tác động làm thay đổi bất thường cAMP làm tăng mức sử dụng
Amphetamin. Những sự thay đổi lâu dài ở con đường cAMP dẫn đến sự tái

xuất hiện một cơ chế tăng dung nạp của Amphetamin.[10]
Sử dụng nhắc lại amphetamin dẫn đến những sự thay đổi về sao chép
gen. Việc sử dụng Amphetamin nhắc lại đã phát sinh những thay đổi hình thái
ở các neuron ở nhân áp ngoài. Một số dẫn truyền thần kinh khác như nồng độ
glutamat ở ngoài tế bào và các chất kích thích thần kinh trong não đã được
chứng minh là làm tăng khả năng đáp ứng với Amphetamin.
Một số nghiên cứu cho thấy khi sử dụng Amphetamin sẽ làm tăng nồng độ
của norepinephrin. Điều này được cho ức chế tái hấp thu cũng như tương tác với
tế bào thần kinh vận tải vận chuyển norepinephrin. [11]


10

1.1.2.2 Methamphetamin
Công thức hóa học: C10H15N

Công thức hóa học

Cấu trúc không gian

Dạng tinh thể
Là chất dạng Amphetamin tổng hợp. Chúng được dùng phổ biến ở các
nước châu Á (Thailan, Nhật, Hàn Quốc…) gần đây cũng phổ biến ở châu Âu,
châu Mỹ, Australia.[12], [13]
Cơ chế tác dụng: Methamphetamin có cấu trúc giống Amphetamin có tác
dụng giống giao cảm mạnh hơn và thời gian tác dụng dài hơn Amphetamin.
Nó có tác dụng trên cả ba cơ chế :
Tăng giải phong chất dẫn truyền thần kinh (DTTK) từ các túi dự trữ



11

Ức chế tái hấp thu chất DTTK ( catecholamine)
Giảm phá hủy bởi IMAO
Chế phẩm cần chú ý là ICE (vì dạng tinh thể trông giống những mảnh vụn
thủy tinh, đá …). Đây là dạng tinh khiết 80% của Methamphetamin, nó có thể
sử dụng theo nhiều cách: hút, hít, tiêm trích, uống... Tác động tâm thần của
ICE đợc mô tả là rất nhanh, mạnh và kéo dài. Theo UNODC dự đoán ICE sẽ
là loại ma tuý được dùng phổ biến nhất trong 5 - 10 năm tới đây.[10][12] [3]
1.1.2.3

Các

chất

giống Amphetamin

(Amphetamin-like;

Designed

Amphetamin)[14]
Là chất tổng hợp, cấu trúc gần giống Amphetamin. Tác động trên hệ
Dopamine và trên cả hệ Serotonin, gây ảo giác giống các chất ma tuý khác
như Cocain, LDS...
Những chất phổ biến:
3-4 Methylen dioxy methamphetamin (MDMA): Adam,ectassy.
N-ethyl-3-4methylen dioxy amphetamin (MDEA): Eva.
5-Methoxy-3-4-methylen dioxy amphetamin (MMDA).
5 Dimethyloxy-4 methylamphetamin (DOM)

Ectassy- MDMA- Adam.
Công thức hóa học C11H15NO2

Cấu trúc hóa học


12

Dạng sử dụng
Chúng được tổng hợp từ 1912 bởi công ty được phẩm Merck. Được sử
dụng nhiều trong quân đội Mỹ từ những năm 50 của thế kỷ XX. Chất này bị
lạm dụng nhiều từ thập niên 70 của thế kỷ trước.
Cơ chế có 3 tác động : Kích thần, gây ảo giác và tăng cảm xúc. Vì vậy
chứng được dùng nhiều trong vũ trường vì:
Tác dụng gây hưng phấn, khoái cảm, lãng mạn…
Tác dụng gây cởi mở ,dễ gần dễ hòa nhập…
Tác dụng gây các ảo giác đầy màu sắc sinh động
Tràn đầy sinh lực và thoát ức chế , buông thả…
Làm tăng nhu cầu tận hưởng âm nhạc kích động, nhu cầu tình dục và khả
năng nhảy múa dẫn đến kiệt sức. Do tác dụng như vậy nên nó được coi là
“party drugs” và được sử dụng phổ biến nhất hiện nay.[14]
Ephedrine và psedoephedrine


13

Đây là nhóm thuốc điều trị cúm. Có thể mua không cần đơn để chữa một
số bệnh: Hen phế quản, viêm mũi xung huyết, chán ăn...Tác dụng của chúng
kém APT song dễ mua và dễ bị lạm dụng. Chúng cũng là những tiền chất để
tổng hợp ATS [15]


Hiện nay trên thị trường buôn bán và sử dụng bất hợp pháp ATS còn nhiều
loại khác nhau và tên được người sử dụng thường dùng như: đá, thuốc lắc,
hồng phiến, viên nữ hoàng, ngọc điên, yaba, Cadillac, Adam, California
Sunrise, Clarity, E, Voi, Eve, ma túy Smile, thuốc tình yêu, Lover's speed, X,
Snowball, XE và XTC…[16]
1.1.2.4 Các chế phẩm Amphetamin chính hiện được sử dụng
Các chế phẩm ATS hiện nay được kê đơn, sử dụng trong một số bệnh nhất
định. Được chỉ định trong điều trị ADHD, ngủ rũ, trầm cảm... Các chế phẩm
này thường ở dạng bán thải chậm và đã được FDA cấp phép. Các thuốc:
Dextroamphetamin (Dextrine), Methamphetamin, Methylphenidate (Ritalin)...
[5],[6],[12]


14

1.1.3 Cách sử dụng ATS
1.1.3.1 Uống

ATS được bào chế dưới dạng viên rất phổ biến. Các thuốc này được sử
dụng đường uống tiện dụng. Dưới dạng viên thuốc được vận chuyển dễ dàng,
phân phối thuận tiện trong các tụ điểm: vũ trường, quán bar…. Tác dụng của
thuốc chậm hơn các dạng sử dụng khác, ít nguy cơ hơn [16]
1.1.3.2 Tiêm chích

Tiêm chích mang nguy cơ cao hơn so với các phương pháp khác khi sử
dụng. Các muối ATS nhất là của Methamphetamine hydrochloride hòa tan
trong nước. Người dùng có thể sử dụng tiêm dưới da hoặc tiêm tĩnh mạch để
đạt được tác dụng nhanh. Nhưng việc sử dụng theo dường tiêm có nguy cơ



15

cao gây nghẽn mạch phổi (PE), tắc nghẽn của động mạch chi, tiêm dưới da có
nguy cơ phát ban da (còn được gọi là "da gà ") hoặc nhiễm trùng tại chỗ tiêm.
Cũng như tiêm bất cứ thuốc nào, nếu một nhóm người dùng chung một bơm
kim tiêm thông thường mà không có khử trùng, có nguy cơ cao lây truyền các
bệnh qua máu như HIV hoặc viêm gan.[17][18][19]
1.1.3.4 Hút

ATS có thể được làm bay hơi để hít khói gây tác dụng. Dạng hay sử dụng
nhất là ICE. Nó thường được hút từ trong ống thủy tinh. Và cũng có thể được
hút trên lá nhôm mỏng được đun nóng bên dưới một ngọn lửa. Đây là hình
thức phổ biến nhất khi dùng ICE, và người sử dụng thường sử dụng theo
nhóm. Phổi bị tổn thương đã được báo cáo khi sử dụng kéo dài.[10][23]
1.1.3.5 Hít sâu
Một dạng sử dụng khi đưa ATS vào mũi sâu. Phương pháp này cho phép
ATS được hấp thụ thông qua các mô mềm của màng nhầy trong hốc xoang, và
sau đó đưa trực tiếp vào máu.[7]
1.1.3.6 Đạn
Đạn (chèn đường hậu môn hoặc âm đạo) là một phương pháp ít phổ biến
của ATS được sử dụng và các nghiên cứu còn tương đối ít. Thông tin về việc
sử dụng còn ít nghiên cứu, có nói đến tác dụng gia tăng khoái cảm tình dục do
ảnh hưởng của thuốc kéo dài. [11][19]


16

Hiện nay ATS không những được sử dụng đơn độc mà có thể được sử
dụng kết hợp. Việc sử dụng cũng tương đối phức tạp, trong đó các đối tượng

cho biết dùng kết hợp các loại ma túy khác: dùng ecstasy chung với ketamine
hoặc marijuana để “tạo hưng phấn tình dục”, ecstasy dùng kèm ketamine và
Amphetamine để tránh tình trạng ‘mệt mỏi’.... Trong số những đối tượng sử
dụng heroin kết hợp với các loại ma túy khác, khoảng 1/3 (8/22) dùng thêm
những loại thuốc khác như ecstasy và Amphetamin vì tin rằng những loại
thuốc này có tác dụng thay thế cho heroin, thậm chí có người còn dùng để cai
heroin.[17] [19][20]
1.1.4 Tác hại của Amphetamin
Tùy theo mức độ sử dụng có thể gây nên các tác động thể chất và tâm
thần khác nhau:
Liều đầu tiên 5mg Amphetamin cũng có thể gây ra cảm giác "phê", khoái
cảm, tăng khí sắc, thân thiện.
Liều nhỏ hơn: tăng sự chú ý, tăng hiệu suất làm việc (nói, viết...), giảm
mệt mỏi, gây chán ăn, tăng ngưỡng kích thích đau, tăng hoạt động tình dục
và tăng năng lượng...
Các chất giống APT có thể gây ảo giác, RL định hướng, méo mó tri giác,
cảm giác say đắm, thấy ánh hào quang rực rỡ... còn đợc gọi là các chất gây ảo
giác và là chất ma tuý thực sự. [2][7]
Về mặt cơ thể:
Nghiêm trọng nhất là tác động trên não, tim và ruột. Đặc biệt đe doạ tính
mạng là nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp kịch phát, chảy máu não và viêm ruột
hoại tử.
Triệu chứng thần kinh: co quắp chân tay, co giật toàn thân, hôn mê, có thể
tử vong (thường do liều quá cao).


17

Tiêm chích có thể liên quan đến lây truyền HIV và viêm gan virus. Đây còn
là cơ địa phát sinh ápxe phổi, viêm nội tâm mạc, viêm mạch hoại tử...

Các tác dụng khác: đỏ mặt, tái nhợt, sốt, đau đầu, tim nhanh, trống ngực,
buồn nôn, nôn, nghiến răng, thở nhanh, run, thất điều… Phụ nữ có thai nghiện
Amphetamine gây: đẻ non, thiếu cân, đầu thai nhỏ, chậm phát triển.[2] [7]
[10]
Về mặt tâm thần
Sử dụng Amphetamin gây bồn chồn, bất an, loạn cảm, mất ngủ, tăng kích
thích, hằn học, thù địch, lú lẫn.
Với liều cao kéo dài: Rối loạn lo âu, rối loạn hoảng sợ, rối loạn giấc ngủ,
giảm tình dục… Có thể có hội chứng Paranoid với các hoang tưởng liên hệ,
bị theo dõi, ảo giác (thị giác, thính giác...).[2],[10][21]
Các chất dạng Amphetamin
Có tác dụng giống Amphetamin
Tác dụng khác: cứng hàm, nghiến răng, khô miệng, tăng tỉnh táo, run, toát
mồ hôi, trống ngực, thấy hào quang rực rỡ, mất ngủ, chóng mặt, ớn lạnh, bốc
nóng... Muộn hơn: ngủ gà, đau đầu, đau cơ, mệt mỏi, trầm cảm, lo âu, sợ hãi,
ảo thị.[10]
Tác dụng phụ nặng (MDMA): tăng thân nhiệt (hypothermia) do thuốc, sau
đó là do tăng hoạt động quá mức (nhảy múa, hò hét), có thể gây tử vong.[14]
Ngoài ra khi sử dụng ATS kết hợp với các chất khác còn gây tác dụng phụ
nguy hiểm. Nhiễm độc Methamphetamin tăng lên khi sử dụng kết hợp với
rượu, cocaine hoặc opiated. Sử dụng rượu và Methamphetamin gây tăng
huyết áp, tăng gánh nặng cho tim. Methamphetamin cũng làm tăng tác hại của
rượu: tăng nguy cơ nhiễm độc rượu và tai nạn giao thông liên quan đến sai
lệch về cảm giác và kiểm soát.[10][14]


18

Sử dụng cannabis và Methamphetamin làm tăng các triệu chứng loạn thần
trong một số trường hợp. Heroin và Methamphetamin có thể gây tình trạng ức

chế hô hấp và có thể suy tim. Methamphetamin cũng có thể làm tăng tình
trạng quá liều heroin.[10]
Tác động của việc sử dụng ATS tới trật tự xã hội
Tác hại của ATS tới cơ thể chúng ta đã thấy rõ. Về mặt trật tự xã hội.
Người sử dụng ATS dễ dẫn tới các biểu hiện rối loạn tâm thần có thể gây các
hành vi bạo lực, mất trật tự gây nguy hiểm cho người khác. Nghiện ATS cũng
như nghiện các chất khác đòi hỏi phải dùng hằng ngày và tăng liều thỏa mãn
vì vậy những hệ lụy kéo theo rất phức tạp: tội phạm, trộm cắp, buôn bán ma
túy… và cững là gánh nặng cho chăm sóc và điều trị y tế.[1][17][21]
Theo nghiên cứu của Teresa L. Kramer (2006) [22] những người sử
dụng ATS có tỷ lệ liên quan các rối loạn bạo lực ở mức cao từ 30 đến 70%
trong vòng 12 tháng trong đó thấy có 25% liên quan tới vấn đề thể chất (đâm,
đấm, đá…), có thể mang theo súng, dao…
Tại Thái Lan năm 2008 theo Susan G. Sherman [23] thống kê thấy có tới
38% các đối tượng hút ATS có hành vi bạo lực, 37% hành vi lái xe không an
toàn. Ngoài ra các hành vi nguy cơ khác cũng được nghi nhận: uống rượu
67%, quan hệ tình dục 54%
1.2 Tình hình sử dụng ATS
1.2.1 Tình hình sử dụng ATS trên thế giới
Như ta đã biết có sự tăng nhanh về sử dụng ATS khắp nơi trên thế giới cả
về số lượng cũng như về vùng địa lý.
Theo các báo cáo của Cơ quan điều tra quốc gia về lạm dụng chất (The
National Household Survey on Drug Abuse-NHSDA) ở Hoa Kỳ năm 2001:
7% dân số dùng ATS ít nhất 1 lần/năm và 1% nghiện. Nhóm tuổi 18 - 25 có tỷ
lệ cao nhất, nhóm 12 - 17 có tỷ lệ nghiện đáng báo động (tỷ lệ tiêm chích


19

chiếm 22%). Tính suốt cuộc đời thì nam có tỷ lệ lạm dụng là 1,5% và nữ là

1%. Cũng theo báo cáo trên, một số vùng của Mỹ có tỷ lệ sử dụng rất cao:
Methamphetamin bị lạm dụng và sản xuất phổ biến ở Hawaii, một nửa số phụ
nữ bị bắt giữ ở Honolulu có Test dương tính với ATS năm 2002, có gần 42%
ở Phoenix và 37 % ở San Diego [24]
Tại Cannada, khoảng 1% dân số có sử dụng ATS, và tỷ lệ từ 7- 12,3% sinh
viên có sử dụng ATS trong 12 tháng [25]
Tại Nam Mỹ La tinh: theo báo cáo 10,8 % lái xe đường dài ở Sao Paolo,
Brazil nghiện ATS [26]. Tại Mexico năm 2006 có khoảng 0,8% dân số sử
dụng ATS đứng hàng thứ 3 sau cần xa (7,2%) và cocain (4,1%) [27][28]
Tại Australia có tỷ lệ dùng ATS rất cao: khoảng 6% báo cáo đã sử dụng và
2% sử dụng thường xuyên trong 2010. Trong đó tỷ lệ tiêm chính với ATS tới
10% [16]
Tại các nước trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, theo báo cáo
UNODC 2013 [29] về sử dụng và buôn bán ATS ngày càng ra tăng, ước tính
hơn 3 triệu người độ tuổi từ 12 đến 65 tuổi đã sử dụng các chất ma túy trong
cuộc đời trong số đó 32% là ATS. Tại Nhật Bản số sử dụng ATS có chiều
hướng giảm chiếm 0,4% dân số từ 15 đến 64 tuổi. Ở Trung Quốc, tỷ lệ sử
dụng ATS ngày càng tăng trong số những người nghiện từ 9% năm 2008 tới
19% năm 2010 và 2013 có 29% người sử dụng ma túy là ATS.
Cũng theo UNODC ước tính hàng năm tỷ lệ sử dụng nhóm các chất kích
thích dao động từ 0,3% và 1,3% trong năm 2009, tương đương với số lượng
14 - 57 triệu người (tuổi từ 15-64) đã sử dụng các chất này ít nhất một lần
trong năm. Với nhóm esctasy, ước tính tỉ lệ hàng năm toàn cầu có khoảng
0,2% đến 0,6% dân số (tuổi 15-64), tương đương 11-28 triệu người sử dụng.
[30]


20

Tại khu vực ATS sử dụng thường được chia thành hai loại chính: (1)

nhóm Amphetamines (chủ yếu là amphetamin và methamphetamin) và (2)
nhóm ecstasy (MDMA và các chất tương tự). Methamphetanin phổ biến nhất
với dạng viên và tinh thể. Tỉ lệ sử dụng các nhóm chất ATS khác nhau giữa
các khu vực. Nhóm chất Amphetamines nhiều nhất ở châu Phi, châu Mỹ và
châu Á, trong khi nhóm ecstasy lại phổ biến hơn tại Châu Âu và Châu Đại
Dương. Tại Bắc Mỹ, hai nhóm sử dụng phổ biến gần như ngang nhau. Nhìn
chung, sử dụng nhóm chất Amphetamines có xu hướng ngày càng tăng, trong
khi nhóm MDMA là ổn định (giảm ở châu Á). Methamphetamin là ATS phổ
biến nhất trên toàn thế giới. Amphetamin và nhóm MDMA có xu hướng ít
hơn, nhưng có hoạt động tinh vi hơn vì những chất ATS nhóm này yêu cầu
thiết bị chuyên biệt hơn, tiêu chuẩn tiền chất và trình độ kỹ năng cao hơn.
Trong năm 2009, số vụ bắt giữ ATS toàn cầu tăng đáng kể, vượt quá mức
cao nhất của năm 2007. Các vụ bắt giữ methamphetamin tăng hơn 40% lên
tới 31 tấn. Bắt giữ amphetamin tăng khoảng 10% (33 tấn). Bắt giữ Ecstasy lên
đến 5,4 tấn (2008). Thị trường ATS mở rộng tại khu vực Đông và Đông Nam
Á. Các chuyên gia chỉ ra rằng tăng sử dụng ATS rất đáng kể, đặc biệt là sử
dụng Methamphetamin. Các chuyên gia đã thông báo rằng methamphetamin
xếp hạng trong tốp ba loại ma túy bất hợp pháp trong khu vực này, gồm cả
Trung Quốc, Nhật Bản và Indonexia. Châu Phi gần đây đã trở thành một trong
các vùng trọng điểm buôn bán ATS. Buôn bán Methamphetamin từ Châu Phi
bị phát hiện đầu tiên vào cuối năm 2008. Methamphetamin cũng có thị trường
mới ở Tây Phi. Ở Đông Á, trao đổi tiền chất đẩy mạnh với giao thông quá
cảnh châu Âu, Tây Á hoặc Đông Phi [2].


21

Tình hình gia tăng các vụ bắt giữ liên quan ATS
1.2.2 Tình hình sử dụng ATS tại Việt Nam
Amphetamin lưu hành bất hợp pháp ở nước ta vào cuối những năm 1990.

Hiện nay đã có mặt ở khắp các thành phố trong toàn quốc. Năm 1999 trong
khuôn khổ dự án B93 do UNODC tài trợ Bộ Lao động -TBXH tiến hành khảo
sát 7905 người nghiện tại 7 tỉnh ở cả 3 miền Bắc, Trung Nam, có 1% nghiện
amphetamin, đến năm 2001 là 1,5% năm 2003 là 4% chủ yếu là các học sinh
sinh viên từ 18-25 tuổi. Nghiên cứu của một số chuyên gia Bộ Y tế cũng như
Cục pḥòng chống tệ nạn xã hội thì số lượng người sử dụng ATS trong những
năm 2007 chiếm đến 64% số bệnh nhân nghiện ma tuý. Trên thực tế có thể
gấp nhiều lần con số đã thống kê và vẫn tiếp tục gia tăng. [1][17]
Trong năm 2010, ATS đã vượt qua thuốc phiện trở thành loại ma túy sử
dụng phổ biến thứ hai sau heroin. Sử dụng ATS tập trung chủ yếu trong số


22

những người trẻ sống ở các thành phố lớn, khu vực biên giới và các khu công
nghiệp (SODC 2011). Theo một cuộc khảo sát hơn 10.000 trung học sinh và
sinh viên đại học sống trong năm thành phố lớn nhất tại Việt Nam (Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng và Quảng Ninh) của Văn
phòng thường trực về Ma túy và Tội phạm (SODC) và UNODC trong năm
2011, thấy 46% số người được hỏi cho biết sự sẵn có của ATS ngày càng tăng,
khoảng 56% sinh viên đại học biết được nhiều người trong cộng đồng của họ
sử dụng ATS. Tuy nhiên, sự thiếu kiến thức của họ về các loại ATS và tác
dụng của ATS cũng là một thực trạng mà SODC và UNODC cảnh báo.[17]
[20]
Gần đây các nghiên cứu dịch tễ học trên các đối tượng nguy cơ ( nam sử
dụng heroin, nam quan hệ tình dục đồng giới, nữ mại dâm, những thanh niên
hay tới các quán bar/vữ trường và công nhân xây dựng hoặc lái xe taxi.) cao
của Lê Minh Giang và cộng sự năm 2011[31] cho thấy có tới 73.84% sử dụng
thuốc lắc và 62.86% sử dụng methamphetamin. Theo UNODC thì Việt Nam
là một trong các nước có tỷ lệ sử dụng ATS ngày càng tăng nhanh.

Ngoài ra các thông tin đại chúng thông báo rất nhiều về tình trạng sử dụng
ma túy tổng hợp (ma túy đá, thuốc lắc…) tràn lan trong xã hội. Tại các bệnh
viện tâm thần tỷ lệ bệnh nhân vào điều trị các rối loạn liên quan tới sử dụng
ATS tăng nhanh. Trong 6 tháng đầu năm 2012 tại Bệnh viện Tâm thần Hà Nội
thấy có tới 42,57% bệnh nhân điều trị tại khoa Nghiện chất do các rối loạn
tâm thần liên quan sử dụng ATS, đồng thời thống kê có tới 39,39 % bệnh nhân
chuyển từ nghiện chất dạng thuốc phiện sang nghiện ATS. [32]
Tình hình sản xuất và buôn bán ATS cũng ra tăng. Báo cáo SODC trong
năm 2010, tổng số vụ bắt giữ liên quan đến ma túy ở Việt Nam là 23.497,
trong đó khoảng 1.600 vụ liên quan đến ATS. Tổng cộng 221.685 viên
Methamphetamin và 22 kg Methamphetamin (cả dạng viên và tinh thể) bị bắt


23

giữ. Từ cuối năm 2007, tỷ lệ Methamphetamin dạng tinh thể bị bắt giữ ở Việt
Nam đã tăng lên đáng kể. Hầu hết Methamphetamin dạng tinh thể được thu
giữ tại phía nam Việt Nam trong khi hầu hết Methamphetamin dạng viên bị
thu giữ ở phía bắc.[29][30]
Cơ sở sản xuất Methamphetamin bất hợp pháp đầu tiên đã bị bắt giữ vào
tháng 6 năm 2005 (SODC 2008). Và không có báo cáo thêm về điều chế
methamphetamin từ năm 2005. Không có báo cáo chính thức MDMA sản
xuất tại Việt Nam. Tuy nhiên trong năm 2008, một số thiết bị dập viên ecstasy
đã được báo cáo bị thu giữ. [3]
1.3. Một số yếu tố liên quan
1.3.1. Tuổi
Độ tuổi sử dụng ATS thường ở độ tuổi 16-28 và có xu hướng sử dụng
nhiều chất với nhau như rượu, cần sa và LSD…[4]
Tại Mexico, tuổi trung bình bắt đầu sử dụng ATS rất sớm, khoảng 17 tuổi.
Sử dụng lần đầu và bị lệ thuộc được tập trung ở tuổi thanh thiếu niên, rất hiếm

người sử dụng lần đầu ở sau tuổi 30. Hầu như tất cả đều bắt đầu trước tuổi 35
[27][28]
Theo Satish Kedia và cộng sự (2007) nghiên cứu ở Mỹ cho kết quả: Nhóm
tuổi lạm dụng các chất dạng amphetamin cao nhất là nhóm từ 18-34 chiếm tỷ
lệ 44,9%. Nhóm thấp nhất là dưới 18 tuổi chiếm tỷ lệ 10%.[33]
Tại Thái Lan nghiên cứu của Catherine Sutcliffe và cộng sự (2008) về sử
dụng methaphetamine tại Chiang Mai tuổi sử dụng trung bình từ 18 đến 20
tuổi.[34]
Theo UNODC 2009 cho biết độ tuổi người sử dụng ATS lần đầu tiên ở
Việt Nam đang giảm. Tuổi sử dụng ma túy lần đầu không có sự khác biệt lớn
giữa các quốc gia [30].


24

1.3.2. Giới
Nam giới có tỉ lệ lạm dụng chất cao hơn nữ. Theo Melanie L.Rusch và
cộng sự (2007) [27] nghiên cứu tại Tijuana, Mexico 2006-2007 có tới 85%
đối tượng lạm dụng ATS là nam giới chỉ có 15% là nữ giới.
Nghiên cứu của Hiệp hội tâm thần Mỹ năm 1994 ở Texas cho biết tỷ lệ
nữ/nam là 3/7. Một nghiên cứu khác của Satish Kedia (2007) ở Mỹ cho kết
quả: Tỷ lệ nam giới lạm dụng các chất dạng Amphetamin là 68,9% còn tỷ lệ
đó ở nữ giới là 31,1%.[33]
Với các nước Châu Á như Thái Lan thấy tỷ lệ Nam chiếm 75%.[34] tại
Việt Nam khi điều tra các nhóm nguy cơ có tỷ lệ nam cũng rất cao chiếm
71,3% [31], còn các đối tượng được vào viện điều trị theo Lý Trần Tình thì
nam chiếm 96,62%[32]
Nam giới có nhiều khả năng tiếp cận cơ hội sử dụng ATS hơn so với nữ.
Nghĩa là không có sự khác biệt nam, nữ một khi cả hai có những cơ hội trải
nghiệm như nhau.[35]

1.3.3.Trình độ học vấn
Các nghiên cứu cho thất các đối tượng lạm dụng ATS có trình độ học vấn
còn ở mức thấp, chỉ mới hoàn thành trung học phổ thông hoặc chưa hoàn
thành. Theo Catherine Sutcliffe và cộng sự (2008), tại Chiang Mai, Thái Lan
thì trình độ học vấn của đối tượng lạm dụng các chất dạng amphetamin ở mức
thấp, chỉ có 39% tổng số đạng học phổ thông trung học.[22]
Còn theo Melanie L.Rusch và cộng sự (2007) nghiên cứu tại Tijuana,
Mexico 2006-2007 thì có 41.5% đối tượng đã hoàn thành bậc trung học phổ
thông.[28]
Cũng theo Stacia M. DeSantis và cộng sự (2010) nghiên cứu ở Mỹ thì có
54.5 % đối tượng đã hoàn thành trung học phổ thông và tham dự vào một số
trường đại học.[33]


25

Trình độ học vấn thường được bao gồm như là một phần của đặc tính giai
cấp xã hội hoặc kinh tế xã hội rộng lớn, và các nghiên cứu về mối quan hệ
giữa trình độ học vấn và sự phát triển của lạm dụng ATS và phụ thuộc có thể
mang lại kết quả trái ngược nhau. Những người có trình độ học vấn thấp hơn
thì dễ lâm vào tình trạng sử dụng ATS nặng hơn. [34]
1.3.4. Tình trạng việc làm và nghề nghiệp
Theo nghiên cứu Teresa L. Kramer năm 2010, tỷ lệ sử dụng ma túy bất
hợp pháp cao hơn trong số những người thất nghiệp (18,5%) hoặc làm
việc bán thời gian (9,4%) so với làm việc toàn bộ thời gian (8,8%). Tuy
nhiên, xu hướng nam giới mắc các rối loạn do sử dụng ma túy bất hợp
pháp có việc làm với thu nhập thấp hơn.[35]
Tỷ lệ thất nghiệp sử dụng ATS chiếm rất lơn. Theo LauYer và cộng sự
(2010) tại Nauy tỷ lệ thất nghiệp là 30%, nghỉ ở nhà là 15%, làm theo giờ là
15 % và 35% là có công viêc ổn định [36]. Còn theo Teresa L. Kramer và

cộng sự (2006) ở Mỹ có đến 68% thất nghiêp ở đối tượng lạm dụng ATS,[35]
Theo nghiên cứu của Pauline Kenny và cộng sự năm 2011 tại Australia thì
có tới 66% đối tượng lạm dụng ATS tham gia nghiên cứu đã thất nghiệp tại
thời điểm điều tra.[16]
Tỷ lệ thất nghiệp ảnh hưởng tới việc lạm dụng ATS. Đồng thời ngược lại
khi sử dụng ATS cũng như các chất ma túy khác cũng làm giảm khả năng có
việc làm.
1.3.5. Bệnh kết hợp
Tình trạng bệnh tật hiện tại cũng đóng góp vai trò đáng kể dẫn tới việc sử
dụng ATS. Có nhiều rối loạn tâm thần có trước khi bệnh nhân sử dụng chất.
Trong đó phổ biến nhất là trầm cảm.
Theo Suzette Glasner, Edwards và cộng sự (2010) cho thấy có khoảng từ 510% số người sử dụng ATS đã có biểu hiện trầm cảm trước đó. Và ngược lại


×