Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, lớp 12 THPT (chương trình chuẩn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.04 KB, 22 trang )

1. Lời giới thiệu
Nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu đến năm
2020 sẽ từ một nước nông nghiệp về cơ bản trở thành một nước công nghiệp, hội nhập với
cộng đồng quốc tế. Nhân tố quyết định của công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế là con người - phát triển cả về số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được
nâng cao. Để làm được điều này cần được bắt đầu từ giáo dục. Giáo dục và đào tạo là một
lĩnh vực luôn được Đảng, nhà nước quan tâm, hoạch định chiến lược quốc gia. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2001) xác định rõ: “Phát triển giáo dục đào tạo chính là
một trong những động lực quan trọng để thúc đẩu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là
điều kiện quan trọng để phát huy nguồn nhân lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và bền vững”. Tùy theo chức năng, vị trí và đặc trưng
của mình mà mỗi lớp học, cấp học, ngành học có những đóng góp cụ thể vào thực hiện nhiệm
vụ chung của ngành giáo dục.
Do vậy, mỗi môn học cũng phải đổi mới toàn diện, góp phần thực hiện chủ trương,
đường lối phát triển giáo dục của Đảng đề ra. Mục tiêu giáo dục nước ta đã được cụ thể hóa
trong điều II Luật giáo dục (năm 2005): “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có
đạo đức, có tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách năng lực của công dân đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Thực hiện mục tiêu đó, ngành giáo dục
đó phải hết sức quan tâm, chú ý để không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, nhằm đào tạo
một đội ngũ tri thức đông đảo, đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội.
Trong những năm qua, để đáp ứng mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục, bộ môn lịch sử đã
có nhiều đổi mới. Cùng với những đổi mới quan niệm, nội dung chương trình, nội dung sách
giáo khoa thì phương pháp dạy học lịch sử cũng cần đổi mới. Đổi mới phương pháp dạy học
có nhiều biện pháp khác nhau, trong đó việc vận dụng tài liệu tham khảo và đồ dùng trực
quan vào dạy học lịch sử là một trong những biện pháp quan trọng.
Tài liệu tham khảo tiêu biểu nhất, gần gũi nhất trong dạy học lịch sử là các văn kiện
Đảng. Văn kiện Đảng thể hiện những quan điểm, tư tưởng, đường lối của Đảng nói chung và
trong mỗi thời kì lịch sử nói riêng. Những quan điểm đó được xuất phát từ tình hình thực tế và
nhằm thực hiện những yếu cầu bức thiết của thực tiễn đặt ra. Bản thân văn kiện Đảng chứa
đựng yếu tố khoa học, khách quan, phản ánh những chủ trương, đường lối của Đảng, đáp ứng


được nguyện vọng chính đáng của quảng đại quần chúng, tập hợp sức mạnh đoàn kết toàn
dân, đưa sự nghiệp cách mạng đi lên giành thắng lợi. Tính khách quan, khoa học của tư liệu
lịch sử nói chung, của văn kiện Đảng nói riêng là cơ sở của việc nâng cao hiệu quả dạy học
lịch sử ở trường THPT.
Mặt khác, bộ môn lịch sử có nhiều đặc trưng riêng: mang tính quá khứ, tính không lặp
lại… Quá trình nhận thức nói chung và nhận thức trong học tập Lịch sử nói riêng lại phải tuân
theo quy luật: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ tư duy trìu tượng đến thực
tiễn”. Vì vậy, trong dạy học lịch sử, nguyên tắc trực quan là cần thiết và sử dụng đồ dùng trực
quan cũng như sử dụng văn kiện Đảng góp phần khôi phục lại bức tranh quá khứ như nó từng
diễn ra.
Văn kiện Đảng thường gắn với sự kiện lịch sử ở những vị trí, không gian cụ thể, với
các vị lãnh đạo Đảng và nhà nước… Vì vậy, sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực
quan giúp học sinh củng cố, khắc sâu kiến thức, là chỗ dựa hình thành khái niệm, hiểu sâu sắc
bản chất của sự kiện lịch sử.
Chính vì những lí do trên mà tôi chọn đề tài: “Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ
dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, lớp 12 THPT (chương
trình chuẩn)” để nghiên cứu và ứng dụng.
1


2. Tên sáng kiến.
“Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt
Nam giai đoạn 1930 – 1945, lớp 12 THPT (chương trình chuẩn)”
3. Tác giả sáng kiến.
- Họ và tên: Nguyễn Quang Kê
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Đồng Đậu (Trung Nguyên - Yên Lạc - Vĩnh
Phúc.
- Số điện thoại: 0976.176.423
- E_mail:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến.

Nguyễn Quang Kê
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến.
- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phương pháp giảng dạy môn lịch sử.
- Vấn đề sáng kiến giải quyết: Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan
để nâng cao hiệu quả cho giờ dạy lịch sử, phần lịch sử Việt Nam 1930-1945.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử.
Sáng kiến được áp dụng lần đầu trong học kì 1 năm học 2019-2020 (từ cuối tháng 112019 đến đầu tháng 12-2019)
7. Mô tả bản chất của sáng kiến.
7.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực
quan trong dạy học lịch sử THPT.
7.1.1 Cơ sở lí luận
7.1.1.1 Văn kiện Đảng trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
Về khái niệm “văn kiện” từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa đó là những văn bản có ý
nghĩa quan trọng về chính trị - xã hội. Từ định nghĩa này có thể rút ra định nghĩa về văn kiện
Đảng: Tài liệu văn kiện Đảng là những tài liệu thành văn (văn bản) của Đảng về những sự
kiện có tác dụng lớn đến quá trình phát triển lịch sử. Như vậy tài liệu văn kiện Đảng là những
sự kiện có thật gắn liền với quá trình lịch sử khi Đảng ra đời đó là những tài liệu đáng tin cậy
nhất.
Khi nói tới văn kiện Đảng bao giờ chúng ta cũng phải khẳng định rằng đây là loại tài
liệu chính xác nhất và đáng tin cậy nhất, nói như vậy không có nghĩa là không có cơ sở.
Lịch sử dân tộc ta từ những năm 30 trở lại đây là lịch sử của quá trình đấu tranh của
nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi bước đi của lịch sử dân tộc đều có sự lãnh đạo
của Đảng, và tất cả những đường lối, chủ trương, chính sách ấy đều được thể hiện dưới dạng
các văn kiện.
Các tài liệu văn kiện Đảng thể hiện rõ quan điểm đường lối của Đảng trong lãnh đạo,
thể hiện sự vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác – LêNin một cách sáng tạo vào thực tiễn đấu
tranh, soi sáng cho thực tiễn đấu tranh ấy. Bởi vậy, trong bất kỳ nội dung nào, văn kiện cũng
thể hiện những sâu sắc những quan điểm, đường lối của Đảng trong lãnh đạo.
2



Với vai trò to lớn của mình, văn kiện Đảng đã giúp ích rất nhiều cho thế hệ trẻ hiểu
biết về quá khứ lịch sử của dân tộc ta. Trong giảng dạy lịch sử nội dung tài liệu văn kiện của
Đảng đều có tác dụng giáo dưỡng, giáo dục và phát triển với học sinh.
Vẫn biết rằng sách giáo khoa là tài liệu học tập cơ bản của học sinh song chỉ giới hạn
trong một số tràn nhất định, với những kiến thức xúc tích, ngắn gọn, đôi khi còn sơ lược. Học
sinh không chỉ xem như vậy là đủ mà cần tìm hiểu thêm một số tài liệu nhất định, chứ không
bị động nghe giảng. Nhận thức của học sinh là một quá trình biện chứng, từ cái đơn giản đến
cái phức tạp, từ cái cụ thể đến khái quát. Trong lịch sử, các em cần nhận thức “từ trực quan
sinh động đến trìu tượng”. Học sinh sẽ không thể hiểu được quá khứ chân thật và sống động
một cách sâu sắc nếu giáo viên không giúp các em có được một biểu tượng đúng đắn. Những
kiến thức sách giáo khoa không đủ để tạo biểu tượng, mà chỉ có tài liệu tham khảo. Qua đó
giáo viên giới thiệu cho các em hoặc hướng dẫn cho các em tự hình thành biểu tượng lịch sử
thông qua bài tường thuật, miêu tả… Như vậy mới khắc sâu các sự kiện lịch sử cho các em.
Việc sử dụng tài liệu lịch sử có tác dụng lớn trong việc kích thích các hoạt động nhận
thức độc lập của học sinh. Làm cho học sinh say mê môn lịch sử, ngoài ra nó còn góp phần
nâng cao trình độ văn hóa nói chung của học sinh, do tính phong phú của nguồn tài liệu cung
cấp. Và thông qua các tài liệu đó học sinh mở rộng tầm hiểu biết của mình hơn, học sinh hiểu
được vị trí địa lí, văn học và biết các thành tựu văn hóa nói riêng của các nước… Để làm
được điều đó là cả một quá trình tìm tòi ham hiểu của giáo viên để từ đó giáo viên chọn lọc
các tài liệu hợp lí vào để học sinh tiếp thu tránh tình trạng “ôm đồm” kiến thức.
Với tính đa dạng phong phú của bộ môn, các quá trình lịch sử ở trường phổ thông có
khả năng giáo dục nhiều mặt cho học sinh, giáo dục niềm tin vững chắc vào lí tưởng cách
mạng trên cơ sở nhận thức đúng sự phát triển khách quan, hợp với quy luật của xã hội loài
người. Giáo viên còn giáo dục cho học sinh truyền thống tốt đẹp của nhân dân Việt Nam trong
quá trình dựng nước và giữ nước. Giáo dục những phẩm chất đạo đức của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động. Với những hình ảnh sống động và biểu tượng sâu sắc, có tác dụng khơi
dậy trong các em những cảm xúc lành mạnh.
Tài liệu lịch sử cung cấp cho học sinh những thông tin chính xác, cụ thể về sự kiện –
hiện tượng lịch sử, nó như một bằng chứng xác thực, tác động vào bản thân các em một cách

tự nhiên, tạo ra những rung cảm và động cơ bên trong chứ không như những biện pháp cưỡng
chế, tác động từ bên ngoài.
Việc giới thiệu tà liệu này giúp học sinh hiểu được sự hi sinh và lòng anh dũng kiên
cường của cha ông ta đã quyết tâm chống lại âm mưu cướp nước của bọn đế quốc. Từ đó giáo
dục cho các em biết quý trọng và bảo vệ những thành quả mà dân tộc ta đã giành được trong
chiến tranh tàn khốc.
Trong khi sử dụng tài liệu lịch sử để giảng dạy, giáo viên không nhất thiết phải trình
bày hay thông báo những tài liệu trước học sinh mà có thể hướng dẫn các em tự tìm kiếm
thông tin từ các nguồn tài liệu. Diều đó không những có ý nghĩa giáo dục mà còn rèn luyện
trực tiếp cho học sinh tinh thần chịu khó, tính tự giác và sáng tạo trong lao động. Bằng cách
này học sinh khắc phục được thói quen ỷ lại, thụ động, mà còn tiếp thu một bài giảng một
cách sâu sắc hơn, rèn luyện thói quen làm việc độc lập với tài liệu… Hơn nữa nó còn giúp học
sinh đào sâu suy nghĩ, tìm tòi và chính điều đó sẽ mở rộng tầm hiểu biết của học sinh.
Phải nói rằng tài liệu lịch sử ngoài việc phát triển năng lực nhận thức, rèn luyện năng
lực thực hành cho học sinh như quan sát tài liệu , tưởng tượng, tư duy, phân tích, so sánh, tổng
hợp… Giáo viên hướng dẫn học sinh phương pháp tiếp cận tài liệu rồi tiến hành thao tác phân
tích, so sánh, tổng hợp, khái quát và rút ra kết luận cần thiết, những kinh nghiệm, bài học cho
cuộc sống.
Hơn nữa việc sử dụng tài liệu lịch sử là yếu tố kích thích sự phát triển các thành phần
nhân cách của học sinh. Với những đặc trưng riêng của nó sinh động, hấp dẫn, phong phú và
3


có sự chú ý, sẽ tạo ra rung cảm trong bản thân các em và tạo ra những xúc cảm lịch sử. Đây là
điều kiện cơ bản để giáo dục học sinh qua dạy học lịch sử.
Ngoài ra, giáo viên hướng dẫn cho học sinh độc lập tư duy trên cơ sở tự học, trình bày
các chủ đề có liên quan tới sự kiện cơ bản, làm đồ dùng trực quan, sưu tầm tài liệu địa phương
hay bảo tàng, thư viện, rèn luyện cho học sinh tác phong nghiên cứu khoa học, biết sử dụng
tài liệu lịch sử nói riêng và tài liệu môn học nói chung hợp lý và có sức lôi cuốn. Học sinh
phải tự nhận thức về lịch sử quá khứ sâu sắc hiện tại, xác định trách nhiệm của mình trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN của chúng ta.
Tài liệu văn kiện Đảng có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển toàn
diện học sinh. Nó không chỉ giúp học sinh lĩnh hội các tri thức lịch sử mà quan trọng hơn là
nắm vững các quy luật phát triển của tiến trình lịch sử trong mối quan hệ biện chứng. Văn
kiện Đảng làm cho học sinh dễ hiểu, hiểu sâu sắc và làm cho các em dể nhớ và ghi nhớ một
cách vững bền, nắm được bản chất, sự kiện – hiện tượng và quá khứ lịch sử. Nó góp phần cho
học sinh phát triển toàn diện, làm cho bài học lịch sử có hiểu quả cao hơn. Để đạt được chất
lượng như vậy chúng ta phải sử dụng nhiều phương pháp, biện pháp và những phương tiện
dạy học.
7.1.1.2 Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
Đồ dùng trực quan giữ vai trò quan trọng trong dạy học Lịch sử. Do đặc điểm của bộ
môn lịch sử là không lặp lại nên chúng ta không thể trực tiếp quan sát, không thể tiến hành thí
nghiệm cho học sinh. Quá trình học tập của học sinh là quá trình phải đi từ sự kiện cụ thể đến
tư duy trìu tượng. Có nghĩa là hoạt động nhận thức gồm nhiều quá trình ở những mức độ phản
ánh khác nhau: cảm giác, tri giác, tư duy, trìu tượng. Nó phải trải qua hai giai đoạn nhận thức
cảm tính và lí tính. Để quá trình học tập lịch sử đạt kết quả tốt phải tạo biểu tượng cho học
sinh, thông qua biểu tượng để hình thành khái niệm lịch sử, nắm được quy luật, bản chất và
các mối liên hệ sự kiện, hiện tượng lịch sử. Vì vậy đồ dùng trực quan có ưu thế trong dạy học
lịch sử, giúp các em nhận thức được lịch sử một cách đầy đủ nhất, làm cho các em như đang
được trực tiếp chứng kiến sự kiện.
Trong dạy học phổ thông, đồ dùng trực quan không phải để minh họa. Bản thân nó
chứa đựng nguồn kiến thức, là nguồn tài liệu phong phú cho việc nhận thức lịch sử, góp phần
khôi phục quá khứ một cách sinh động, chân thực, giúp cho quá trình nhận thức được hoàn
thiện hơn.
Nguyên tắc trực quan là nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học. Đồ dùng trực quan
hoàn toàn không phải đưa vào để tăng “màu sắc” của bài giảng mà thông qua đó giúp học sinh
nhớ kĩ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Những hình ảnh được lưu giữ lại lại
đặc biệt vững chắc trong trí nhớ là những hình ảnh thu nhận được bằng trực quan
Đồ dùng trực quan còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng tư duy và ngôn
ngữ của học sinh. Nhìn vào đồ dùng trực quan nào học sinh cũng thích nhận xét, phán đoán,

hình dung quá khứ được phản ánh, minh học như thế nào. Học sinh suy nghĩ và tìm cách diễn
đạt bằng lời nói chính xác, có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã qua.
Như vậy, đồ dùng trực quan sẽ giúp tạo biểu tượng là điều kiện để “biết” lịch sử trên
cơ sở khôi phục lại quá khứ như nó từng tồn tại, là cơ sở để hình thành khái niệm. Đảm bảo
được quá trình giảng dạy như thế mới đưa được học sinh từ biết đến hiểu lịch sử. Đồ dùng
trực quan khẳng định một điều, đó chính là một trong nguồn tri thức nhận thức lịch sử. Do đó,
đồ dùng trực quan có ý nghĩa rất lớn trong giáo dục tư tưởng, cảm xúc thẩm mĩ gây hứng thú
cho học sinh và là chiếc cầu nối quá khứ và hiện tại.
Do đặc trưng của bộ môn lịch sử nên việc tạo biểu tượng cho học sinh trong quá trình
dạy học là vô cùng quan trọng. Để tạo biểu tượng cho học sinh có rất nhiều phương thức. Có
thể dùng phương pháp miêu tả, tường thuật với ngôn ngữ trong sáng, gợi cảm, giàu hình ảnh,
4


giáo viên sẽ dẫn dắt học sinh trở về với quá khứ của lịch sử, tạo biểu tượng rõ ràng, cụ thể, có
hình ảnh, tăng thêm tính sinh động, gợi cảm của bài giảng và gây hứng thú cho việc học tập
của học sinh. Tạo biểu tượng còn được hình thành từ phương pháp trực quan hay hoạt động
thực tiễn cuộc sống. Dù bằng phương thức nào thì đồ dùng trực quan vẫn có vị trí quan trọng
trong việc khôi phục và tái hiện quá khứ lịch sử. Đồ dùng trực quan giúp học sinh tiếp thu
kiến thức nhanh, bền vững, tránh tình trạng hiện đại hóa lịch sử.
Qua mỗi phương tiện đồ dùng trực quan, học sinh học hỏi được nhiều hơn, mở mang
được nhiều kiến thức với nhiều ý nghĩa thực tiễn. Đồ dùng trực quan sẽ thu hút chú ý của học
sinh, phù hợp với nhu cầu ham học hỏi, khám phá, không thỏa mãn với những gì đã có. Với
đồ dùng trực quan những hình ảnh được quan sát kĩ sẽ đặc biệt vững chắc và chúng ta có thể
hiểu bản chất, tư tưởng của nó khi nó được khắc sâu vào trí nhớ có sự tham gia của hoạt động
trìu tượng.
Nếu biết cách sử dụng đồ dùng trực quan, quá trình nhận thức tích cực sẽ diễn ra và vì
thế giáo dục sẽ đạt kết quả tốt. Đồ dùng trực quan sẽ bồi dưỡng tư tưởng tình cẩm cho học
sinh. Qua đồ dùng trực quan các em sẽ có cảm xúc thẩm mĩ, trước tiên sẽ được thể hiện ở
những nét bề ngoài đẹp hay xấu, bé nhỏ hay hoành tráng, sau đó là cảm xúc sẽ biểu hiện ở nội

dung đồ dùng trực quan.
Với đồ dùng trực quan các em sẽ hiểu rõ nội dung của lịch sử. Chính điều đó có tác
dụng truyền cảm mạnh mẽ và sâu sắc, nó hình thành những phẩm chất đạo đức cần thiết cho
mỗi con người, tinh thần yêu lao động, biết trân trọng giá trị người lao động, đồng tình với
cuộc chiến tranh chính nghĩa, có thái độ đúng đắn với kẻ thù xâm lược làm nảy nở tinh thần
yêu nước, đoàn kết dân tộc phấn đấu học tập và xây dựng quê hương đất nước.
Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử sẽ phát triển tư duy cho học sinh.
Rèn luyện học tập thông qua sử dụng đồ dùng trực quan sẽ giúp học sinh biết phân tích, nhận
xét, phán đoán và sẽ giúp học sinh luyện tập khả năng diễn đạt. Từ đó khi quan sát một vật thể
nào đó, các em sẽ có cái nhìn nhạy bén, hình thành trong đầu các em những câu hỏi cần giải
đáp.
7.1.1.3 Ý nghĩa của việc sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học
lịch sử ở trường THPT
Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường
trung học phổ thông có ý nghĩa rất quan trọng.
Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan có thể phát huy được hiệu quả
từng mặt riêng của cả văn kiện Đảng lẫn đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử trên tất cả
các mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
Phương tiện trực quan có ưu thế trong tạo biểu tượng sinh động cho học sinh. Vì vậy
trong dạy học lịch sử khi kết hợp sử dụng văn kiện Đảng với đồ dùng trực quan sẽ tạo ra hình
ảnh chân thực về quá khứ. Lí luận dạy học hiện đại xem nguyên tắc trực quan là một trong
những nguyên tắc cơ bản để học sinh trực tiếp quan sát, sử dụng đồ dùng học tập, nâng cao
nhận thức, rèn luyện kĩ năng thực hành… “Trong dạy học lịch sử, phương pháp dạy học trực
quan góp phần quan trọng tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục
tình trạng hiện đại hóa lịch sử của học sinh” [13; tr 141]
Trong dạy học lịch sử khi sử dụng văn kiện Đảng, nếu không cẩn thận thì giờ học lịch
sử dân tộc sẽ dễ bị trở thành giờ dạy học Lịch sử Đảng. Các biện pháp sư phạm phải tập trung
thể hiện sử dụng văn kiện Đảng trong dạy học lịch sử dân tộc chứ không phải là đề cao thái
quá nguồn tư liệu này trong dạy học lịch sử, càng không phải “chệch hướng” biến giờ học lịch
sử dân tộc thành nghiên cứu văn kiện. Văn kiện Đảng phải được chú ý sử dụng phù hợp với

nội dung của bài học lịch sử cụ thể và đặt trong tổng thể các biện pháp dạy học lịch sử hiện
nay ở trường phổ thông. Nếu kết hợp văn kiên Đảng với đồ dùng trực quan sẽ giúp hạn chế
5


được vấn đề này. Sử dụng văn kiện Đảng phải kết hợp chặt chẽ với đồ dùng trực quan bởi lẽ
nhiều văn kiện Đảng gắn với sự kiện lịch sử ở nhiều vị trí, không gian cụ thể, gắn với những
nhân vật lịch sử cụ thể, với các vị lãnh đạo Đảng và nhà nước…
Hơn nữa, ngoài là một tài liệu tham khảo thì trong chương trình học một số văn kiện
Đảng còn là những nội dung kiến thức cơ bản của bài học.
Vì vậy, sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan giúp cho học sinh củng cố,
khắc sâu kiến thức, là chỗ dựa cho việc hình thành khái niệm, hiểu sâu sắc bản chất của sự
kiện lịch sử. Chẳng hạn, quan sát hình ảnh chân dung Nguyễn Ái Quốc (những năm 1930),
học sinh liên tưởng ngay đến hội nghị thành lập Đảng và “Chính cương vắn tắt”, “Sách lược
vắn tắt” do Người soạn thảo và được Hội nghị thông qua, đó là những văn kiện với những nội
dung ngắn gọn nhưng đã chỉ ra được đường lối cho cách mạng Việt Nam. Hay khi quan sát
ảnh chân dung đồng chí Trần Phú, học sinh liên tưởng ngay đến Luận cương chính trị năm
1930 và nhớ lại nội dung của văn kiện này. Nhìn hình ảnh hang Pác Bó, học sinh sẽ nhớ ra sự
kiện Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII (tháng 5/1945) với những nội dung quan trọng
trong việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng và sự ra đời của Mặt trận Việt Minh.
Quan sát hình ảnh Nà Lừa, cây đa Tân Trào, mái đình Hồng Thái, học sinh dễ dàng nhận ra
những địa danh lịch sử, nơi diễn ra hội nghị toàn quốc của Đảng, quốc dân đại hội Tân trào
với những quyết định phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng
Tám năm 1945…
Tóm lại, sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với tài liệu trực quan có tác dụng phát huy tính
tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập lịch sử. Trong giờ học, các em tỏ ra
hào hứng phân biệt, ý kiến, tranh luận sôi nổi. Nếu kết hợp tài liệu văn kiện Đảng với đồ dùng
trực quan sẽ góp phần cơ bản nâng cao hiệu quả dạy học ở trường phổ thông.
7.1.2 Cơ sở thực tiễn.
7.1.2.1 Về phía giáo viên

Tất cả các giáo viên tuy nhận thức khác nhau về ý nghĩa của việc sử dụng văn kiện
Đảng và đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử nhưng phần lớn đều thấy rõ sự cần thiết của
công việc này. Tuy vậy, một số giáo viên lại chưa nhận thức toàn diện, đầy đủ và sâu sắc về
vấn đề này, nhất là chưa quyết tâm sử dụng. Trong thực tế còn có nhiều mâu thuẫn giữa nhận
thức và việc làm khi nhiều giáo viên cho rằng là cần thiết nhưng lại ngại khó thực hiện. Thông
thường giáo viên chỉ dừng lại ở việc thông báo một vài tài liệu trong văn kiện Đảng để minh
họa cho sự kiện lịch sử đang học, có sử dụng đồ dùng trực quan nhưng nhiều khi còn qua loa,
chiếu lệ. Vấn đề sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan được đánh giá là hay
nhưng để làm được không phải là dễ nên còn chưa được áp dụng nhiều.
7.1.2.2 Về phía học sinh
Hiện nay tình hình học tập môn lịch sử ở trường THPT đã được cải thiện hơn số em
học sinh yêu thích môn lịch sử đã tăng. Theo các em môn lịch sử giúp các em mở rộng thêm
tầm hiểu biết về những vấn đề xã hội. Qua đó hiểu rõ lịch sử nhân loại và lịch sử dân tộc. Tuy
nhiên bên cạnh đó còn có nhiều em chưa thực sự quan tâm thật sự đến môn lịch sử… Ngoài lí
do học lịch sử để phục vụ cho thi tốt nghiệp, đại học, các em nhận xét học lịch sử hiện nay
quá khô khan, bài dài và khó nhớ. Trong giờ học đa số các em đã tham gia xây dựng bài
nhưng việc xây dựng bài còn mang tính chất chiếu lệ, khi kiểm tra cũng chỉ mong đạt điểm
trung bình hoặc còn học với trạng thái uể oải, đối phó, không nghe giảng, không ghi chép,
không làm bài tập hoặc thường xuyên sử dụng tài liệu khi kiểm tra. Môn lịch sử thường có
khối lượng được trình bày trong sách giáo khoa về nhiều con số, sự kiện, nội dung câu hỏi
thường thiên về tái hiện kiến thức nên học sinh rât hay ỷ lại vào học thuộc lòng.

6


Đa số các em đều mong muốn một giờ học lịch sử sinh động và hấp dẫn hơn, các em
đề thích những giờ học thầy cô cho biết thêm nhiều kiến thức ngoài sách giáo khoa, những
giờ học thầy cô sử dụng đồ dùng trực quan… Tóm lại các em, rất thích những giờ học áp
dụng phương pháp dạy học mới, vì nó phát huy được khả năng tư duy, nhận thức chủ động,
độc lập, sáng tạo của học sinh. Các em thấy hứng thú hơn khi thấy tự mình góp phần tìm ra và

nắm bắt những tri thức mới của nhân loại.
7.1.2.3 Nguyên nhân của hiện trạng trên
Nguyên nhân đầu tiên chính ở ngay ý thức chủ quan của giáo viên. Một số giáo viên
vẫn chưa có cách nhìn nhận, đánh giá đúng về môn lịch sử, chưa thấy được chức năng của
môn lịch sử nước ngoài việc cung cấp kiến thức còn góp phần quan trọng vào việc giáo dục
truyền thống cách mạng, xây dựng lòng tin, niềm tự hào dân tộc cho học sinh. Vì vậy, một bộ
phận giáo viên chưa toàn tâm toàn ý, say mê với nghề, chưa tìm ra phương pháp dạy học sinh
động, hấp dẫn, gây hứng thú, chú ý cho học sinh trong dạy học lịch sử.
Sách giáo khoa đã được đổi mới về nội dung, phong phú hơn về kênh hình và kênh
chữ đồi hỏi giáo viên phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học. Tuy nhiên phương pháp
dạy học của không ít giáo viên hiện nay là “đọc chép”, “độc thoại” phần lớn thời gian trên
lớp, ở trên thầy làm việc là chính, phần lớn thời gian là thuyết trình của giáo viên mà không
nêu ra những vấn đề nhận thức để cho học sinh làm việc. Nếu có, giáo viên nêu ra câu hỏi vụn
vặt, chưa kích thích tư duy học sinh, chưa đòi hỏi sự tập trung suy nghĩ để tìm câu trả lời, các
em chỉ cần dựa vào nội dung có sẵn trong sách giáo khoa để trả lời. Như thế các em sẽ không
chú ý, sao nhãng việc học, thậm chí làm mất trật tự hoặc làm việc riêng trong giờ.
Thứ hai, là do quan niệm chưa đúng về bộ môn lịch sử. Từ các cấp lãnh đạo, quản lí
giáo dục đến giáo viên, cha mẹ học sinh và cả học sinh nữa đều coi lịch sử là môn phụ. Chính
vì vậy, các cấp quản lí giáo dục chưa quan tâm đầu tư cơ sở vật chất cho môn lịch sử, coi
thường môn lịch sử. Đối với giáo viên, do ý thức chủ quan nên nhìn nhận, đánh giá chưa đúng
về vai trò, chức năng của môn lịch sử. Do đó, một số giáo viên chưa tâm huyết với nghề, chưa
tìm ra phương pháp dạy học tích cực nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh. Còn đối với
cha mẹ học sinh cũng không thích con em mình học môn lịch sử mà hướng cho con mình học
các môn tự nhiên để sau này thi vào các trường đại học có khả năng tiền đồ cao hơn và xin
việc dễ hơn. Từ đó, đa số học sinh học tập một cách đối phó, thời gian giành cho môn lịch sử
chưa nhiều… làm cho bản thân giáo viên không hào hứng giảng dạy. Cứ như thế, chất lượng
dạy môn lịch sử không cao.
Thứ ba, hiện nay, việc đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa và phương pháp
dạy học yêu cầu giáo viên phải bắt kịp và cập nhật. Sách giáo khoa mới đã phong phú hơn về
kênh hình và kênh chữ đòi hỏi giáo viên phải tìm tòi sáng taọ và có những phương pháp dạy

học tích cực, hợp lí để thu hút sự chú ý của học sinh. Tuy nhiên, phương pháp dạy học của
nhiều giáo viên vẫn còn bảo thủ, lạc hậu làm cho chất lượng dạy học bộ môn chưa cao. Thực
tế, nhiều giáo viên chưa rõ tầm quan trọng và chưa hiểu đúng bản chất của đổi mới phương
pháp dạy học lịch sử, thậm chí một số giáo viên còn ngại đổi mới. Do đó, nhiều giáo viên vẫn
áp dụng phương pháp dạy học cũ cho sách giáo khoa mới. Hiện tượng “thầy đọc”, “trò chép”
vẫn còn khá phổ biến. Ở trên lớp, thầy vần làm việc là chính, phần lớn thời gian là “thuyết
trình” của giáo viên mà không nêu ra những vấn đề nhận thức để cho học sinh cùng làm việc.
Nếu có, giáo viên mới chỉ nêu ra các câu hỏi vụn vặt, chưa kích thích được tư duy của học
sinh, các em chỉ cần dựa vào những nội dung có sẵn trong sách giáo khoa để trả lời. Như thế
học sinh không hứng thú tìm hiểu về lịch sử. Do đó không hình thành nề nếp học tập một cách
thường xuyên.
Thứ tư, trong một tiết học có rất nhiều nội dung kiến thức mà thời gian có hạn, giáo
viên phải biết lựa chọn những kiến thức cơ bản kết hợp với đồ dùng trực quan và nhiều tài
liệu tham khảo khác để khắc sâu kiến thức cho học sinh. Tuy nhiên, trên thực tế quá trình dạy
7


học, giáo viên chủ yếu dựa vào sách giáo khoa, rất ít bổ sung kiến thức tham khảo để xay
dựng những đoạn miêu tả, tường thuật… cho học sinh. Thậm chí có một số giáo viên vẫn
chưa chuẩn bị giáo án một cách chu đáo. Do đó, bài học lịch sử trở nên khô khan, kém sinh
động, không gây hứng thú học tập cho học sinh, các em chán học, không chú ý trong giờ.
Ngược lại, một số giáo viên lại đưa quá nhiều tài liệu tham khảo khiến học sinh không hiểu
được những kiến thức cơ bản của bài học. Bài học lúc này trở nên căng thẳng, nhồi nhét, học
sinh không thể theo kịp.
Thứ năm, hiện nay ở các trường THPT cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học thiếu
thốn. Hầu hết các trường chưa có phòng học bộ môn. Thậm chí, ở thư viện cũng không đủ tài
liệu tham khảo cho giáo viên. Còn đối với học sinh thì ít trường mở thư viện cho học sinh đọc
tài liệu tham khảo. Chính vì thế, học sinh không có điều kiện tìm hiểu về bộ môn.
Ngoài ra, còn phải kể đến yếu tố kinh tế thị trường tác động không nhỏ đến cả giáo viên và
học sinh. Do điều kiện khó khăn về kinh tế nên không ít giáo viên chưa quan tâm, chưa giành

nhiều thời gian đến việc giảng dạy lịch sử
một cách hiệu quả còn học sinh “quay lưng lại với môn lịch sử”.
Từ lí luận và thực tiễn đã trình bày, là cơ sở để khẳng định sự cần thiết phải sử dụng
văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học. Đó là cơ sở để tôi đưa ra những
biện pháp thiết thực để sự dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan một cách hợp lí
nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử trong tình hình hiện nay.
7.2 Các biện pháp sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học
lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 trong chương trình lớp 12 ban cơ bản.
7.2.1. Nội dung cơ bản của khóa trình lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 ở lớp 12
THPT ban cơ bản
Sách giáo khoa trình bày phong trào cách mạng qua các giai đoạn 1930 – 1935, 1936 –
1939, 1939 – 1945.
Hậu quả của khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933, sự bóc lột tàn bạo và những cuộc
khủng bố trắng của Pháp đã làm cho mâu thuẫn Đông Dương với Pháp trở nên gay gắt: “ sự
áp bức bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng, có cách
mạng thì sống, không có cách mạng thì chết” [2; tr 15]. Phong trào cách mạng 1930 – 1931 đã
diễn ra trên một quy mô rộng lớn, với tính chất quyết liệt triệt để, đạt tới đỉnh cao là sự ra đời
của Xô viết Nghệ Tĩnh. Trước tình hình đó Đảng họp Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ nhất tháng 10 /1930.Dẫu bị đàn áp dã man, song phong trào cách mạng 1930 –
1931 được coi là cuộc diễn tập đầu tiên của Đảng cho Tổng khởi nghĩa. Từ 1932 – 1935,
phong trào cách mạng nước ta tạm thời lắng xuống, bước vào giai đoạn phục hồi, chuẩn bị
cho một giai đoạn đấu tranh mới.
Cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 thể hiện rõ vai trò quan trọng của Đảng cộng sản
Đông Dương trong việc tiếp thu sáng tạo đường lối của Quốc tế cộng sản cho phù hợp với
thực tiễn đấu tranh trong nước. Phong trào đã diễn ra dưới nhiều hình thức và đạt nhiều thành
quả.
Xuất phát từ những biến đổi của tình hình thế giới và trong nước khi chiến tranh thế
giới thứ hai bùng nổ, Đảng triệu tập hội nghị Trung ương lần thứ VI (11/1939) để quyết định
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng. Từ việc xác định rõ kẻ thù của nhân dân Đông
Dương là đế quốc Pháp và tay sai phản động, phân tích mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam,

Đảng nhấn mạnh: “Vấn đề giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách nhất của
cách mạng Đông Dương. Mọi vấn đề cách mạng khác – kể cả vấn đề ruộng đất đều nhằm vào
mục đích đó mà giải quyết” [22; tr 104]. Để thực hiện điều đó Đảng chủ trương thành lâp mặt
trận dân tộc thống nhất,
8


Tháng 9/ 1940, phát xít Nhật nhảy vào xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp đi từ hết
sự thỏa hiệp này đến thỏa hiệp khác với phát xít Nhật đẩy nhân dân ta vào cảnh “một cổ hai
tròng”, mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Đông Dương với Pháp – Nhật trở nên gay gắt
không thể điều hòa. Vận mệnh quốc gia đòi hỏi phải giải quyết bằng một cuộc đấu tranh một
mất một còn của nhân dân với kẻ thù giành độc lập. Vì vậy, các cuộc khởi nghĩa đã liên tiếp
nổ ra: Khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam Kì, binh biến Đô Lương
Các cuộc khởi nghĩa trên đều bị thực dân Pháp, phát xít Nhật đàn áp đẫm máu, nhưng
nó chứng tỏ sức mạng quần chúng và đã để lại cho Đảng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý
báu. Chính vì vậy, ba cuộc khởi nghĩa được coi là những phát súng đầu tiên báo hiệu thời kì
đấu tranh mới của dân tộc ta.
Trước những biến đổi mau lẹ của tình hình trong nước và quốc tế, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc triệu tập hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII (5/1941) tại Pác Bó – Cao Bằng để
hoàn chỉnh đường lối cách mạng của Đảng đã đề ra trong hội nghị Trung ương Đảng lần thứ
VI. Hội nghị tiếp tục khẳng định nhiệm vụ dân tộc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, đề ra
khẩu hiệu đấu tranh trong thời kì mới và quan trọng nhất là hội nghị đã thành lập mặt trận
Việt Minh nhằm tập hợp đông đảo các lực lượng yêu nước. Trên cơ sở đó mặt trận Việt Minh
đã xây dựng căn cứ địa cách mạng, xây dựng lực lượng chính trị trên cơ sở các hội cứu quốc,
lực lượng vũ trang là đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”.
Sau đảo chính Nhật – Pháp (9/3/1945), Đảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước làm
tiền đề cho tổng khởi nghĩa. Cao trào diễn ra nhiều hình thức và thúc đẩy thời cơ cách mạng
mau chóng chín muồi, lực lượng của ta nhanh chóng trưởng thành vượt bậc, kẻ thù bị khủng
hoảng, hàng ngũ phân hóa… Ta chuẩn bị những tiền đề cần thiết để khi thời cơ đến, nhanh
chóng chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang khởi nghĩa toàn phần giành chính quyền trong cả

nước.
Sau khi phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng đồng minh vô điều kiện, Đảng ta đã triệu tập
Hội nghị toàn quốc (14 – 15/8/1945) và Quốc dân đại hội Tân Trào tại Tân Trào (Tuyên
Quang) quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
7.2.2 Một số yêu cầu chung trong sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan
trong dạy học Lịch sử.
Việc xác định các nguyên tắc sư phạm để sử dụng hiệu quả văn kiện Đảng kết hợp với
đồ dùng trực quan có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp cho việc phát huy ưu thế của phương
pháp bộ môn. Đồng thời trên cơ sở đó đưa ra được các biện pháp sử dụng hợp lí. Trong dạy
học lịch sử dân tộc giai đoạn 1930 – 1945 khi kết hợp văn kiện Đảng với đồ dùng trực quan
cần quán triệt một số nguyên tắc cơ bản sau:
- Tính tư tưởng: Việt Nam vẫn tiếp tực đi vào con đường XHCN với nền tảng chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Giữ vững quan điểm lập trường là người cộng sản, trách
nhiệm đặt lên vai những thầy cô giáo. Nhà trường là môi trường thích hợp để định hướng thế
hệ trẻ đi theo con đường mà Đảng và chính phủ đã lựa chọn. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VII (năm 1991) đã xác định mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm “nâng cao dân trí, đòa
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức, co tay nghề, có
năng lực thực hành, tự chủ năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng , có tinh thân yêu
nước CNXH”. Chính vì vậy, sử học đóng vai trò quan trọng mà sử học phục vụ chính trị rất
tốt, vì bản thân lịch sử là cuộc sống quá khứ diễn ra trên nhiều mặt có liên quan đến hiện tại.
Văn kiện Đảng có ưu thế quan trọng trong việc thể hiện tính tư tưởng. Còn đồ dùng trực quan
đưa học sinh trở về quá khứ “chân thực” nhận thức đúng, rõ đường lối chính trị của Đảng.
Thế nên đảm bảo tính tư tưởng là một nguyên tắc quan trọng trong việc xác định và thể hiện
kiến thức trong sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan.

9


- Tính sư phạm: Khi thực hiện các biện pháp sư phạm nhằm sử dụng văn kiện Đảng kết hợp
với đồ dùng trực quan có hiệu quả phải căn cứ vào nhiều yếu tố, thể hiện được nội dung phù

hợp với yêu cầu của từng bài, phù hợp với khả năng nhận thức của các em và đảm bảo đúng
phương pháp khi dạy để giáo dục thẩm mĩ cũng như kĩ năng cần thiết.
Không phải bài học lịch sử nào cũng có thể sử dụng tài liệu lịch sử như nhau, hoặc
không phải chỗ nào có đồ dùng trực quan cũng có thể sử dụng kết hợp với văn kiện Đảng. Với
những bài học lịch sử sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan cần chú ý tính
cân đối và phù hợp. Điều đó đòi hỏi giáo viên phải có khả năng phân tích, khả năng tổng hợp
hợp lí.
Hơn nữa các biện pháp sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan đều phải
dựa trên hệ thống phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông bao gồm: Phương pháp
thông tin – tái hiện, nhận thức lịch sử, tìm tòi – nghiên cứu. Các phương pháp này kết hợp
biện chứng với nhau, tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình
giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông. Việc sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực
quan dựa vào phương pháp dạy học bộ môn sẽ phát huy hiệu quả của học sinh trong quá trình
dạy học lịch sử. Giáo viên phải kết hợp chặt chẽ lời nói sinh động, giàu hình ảnh, với sách
giáo khoa và các phương tiện trực quan, các tài liệu học tập khác trong các hình thức tổ chức
để giờ học đạt hiệu quả.
Khi sử dụng văn kiện Đảng kết hợp đồ dùng trực quan thì bảo đảm tính vừa sức với
học sinh là một yêu cầu quan trọng để nâng cao hiệu quả, giúp học sinh hứng thú học tập và
đạt kết quả cao. Giáo viên cần căn cứ vào khả năng nhận thức của học sinh để khai thác nội
dung văn kiện kết hợp với đồ dùng trực quan cho phù hợp. Không được “nhồi nhét” quá nhiều
vấn đề không cần thiết hoặc quá khó hình dung, tưởng tượng, liên hệ… với học sinh sẽ phản
tác dụng của công tác giáo dục. Để thực hiện tốt nguyên tắc vừa sức trong học tập, giáo viên
cần tính đến sự phù hợp kiến thức với lứa tuổi, tâm sinh lí cũng như khả năng của từng đối
tượng.
- Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan phải góp phần phát triển các năng lực
nhận thức của học sinh: Bên cạnh việc giáo dục phẩm chất con người cách mạng Việt Nam,
còn phải hình thành trí tuệ, năng lực hành động cho học sinh. Cuộc sống diễn ra vô cùng phức
tạp, đòi hỏi con người phát huy tích cực theo nó. Học sinh cần phải được trang bị khối lượng
kiến thức nhất định để đáp ứng yêu cầu thực tế khách quan. Để phát huy tối đa hiệu quả, văn
kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan phải phản ánh đúng nội dung lịch sử, phản ánh đúng

sự thật lịch sử. Vì thế, khi sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan phải cung
cấp những sự kiện lịch sử đúng đắn nêu ra quy luật phát triển, rút ra được bài học kinh
nghiệm nhằm phát triển năng lực nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học.
7.2.3 Biện pháp cụ thể.
7.2.3.1 Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với tranh ảnh lịch sử.
Tranh ảnh là một tư liệu quý hiếm, phản ánh một phần hiện thực của xã hội trong một
giai đoạn nhất định. Tranh ảnh lịch sử có ý nghĩa quan trọng đối với việc cung cấp các tri thức
cho học sinh.
Đó là những tài liệu trực quan giàu tính thuyết phục, tạo hứng thú say mê và tìm tòi, sáng tạo
của học sinh, tạo ra những biểu tượng sinh động chân thực về quá khứ. Vì vậy, việc khai thác
và sử dụng tranh ảnh là một biện pháp sư phạm quan trọng cung cấp nhận thức cho học sinh
Khi sử dụng tài liệu văn kiện Đảng với tranh ảnh lịch sử có ưu thế trong việc nâng cao
nhận thức của học sinh và bồi dưỡng tình cảm đúng mực, trong sáng đối với sự kiện, hiện
tượng lịch sử. Bên cạnh sử dụng tranh ảnh kết hợp với đồ dùng trực quan giáo viên cần đặt ta
những câu hỏi để tập trung sự thu hút, chú ý của các em, câu trả lời của các em là cơ sở để
10


đánh giá trình độ của học sinh, qua đó có sự hướng dẫn, điều chỉnh về phương pháp cũng như
nâng cao trình độ của giáo viên.
Trong các loại tranh ảnh lịch sử, chân dung giữ một vai trò quan trọng. Trong sách
giáo khoa phổ thông, ảnh chân dung lịch sử thường của những nhân vật tiêu biểu, điển hình
(những lãnh đạo phong trào cách mạng, những vị lãnh đạo Đảng và nhà nước…). Do vậy,
việc kết hợp sử dụng chân dung lịch sử với văn kiện Đảng sẽ tạo ra một dấu ấn sâu đạm về
nội dung kiến thức lịch sử. Đây cũng là biện pháp tích cực để học sinh có những mối liên hệ,
tái tạo hình ảnh của quá khứ. Tuy nhiên sử dụng tranh ảnh chân dung không thôi đã không dễ,
kết hợp với văn kiện Đảng càng khó hơn, cần đảm bảo các nguyên tắc chung.
Ví dụ, khi dạy bài 14: “Phong trào cách mạng 1930 – 1935”, mục 3: “Hội nghị lần
thứ nhất Ban chấp hành Trung ương lâm thời Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 10/1930) ” [22;
tr 94], trước khi trình bày nội dung luận cương chính trị do đồng chí Trần Phú soạn thảo, giáo

viên cho học sinh quan sát ảnh chân dung đồng chí Trần Phú và giới thiệu:
“Đồng chí Trần Phú sinh đúng ngày Quốc tế lao động (1/5/1904) tại Quảng Ngãi (nguyên
quán Đức Thọ - Hà Tĩnh). Từ nhỏ đã pahir chịu cảnh cực khổ, cha mẹ mất sớm, phải tự tìm
cách sinh sống và học tập. Sau đó được nhờ bà con giúp đỡ, ông vào học tại trường Quốc
học – Huế. Là một học sinh rất giỏi, nuôi hoài bão lớn lao, ông nhanh chóng cảm tình rồi đi
theo cách mạng, rồi trưởng thành được đào tạo tại trường Phương Đông của Quốc tế cộng
sản. Tại hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 10/1930, Trần Phú được bầu làm
Tổng bí thư của Đảng cộng sản Đông Dương. Bản luận cương được đồng chí Trần Phú soạn
thảo ngay dưới hầm nhà của một viên chức người Pháp khi ông làm bồi bếp cho hắn ở số nhà
5B – Hàng Bông (Hà Nội). Chắc không bao giờ tên thực dân ấy có thể ngờ rằng người giúp
việc bé nhỏ ấy lại đang bí mật làm một việc lớn lao, soạn thảo bản “khai tử” cho chính quyền
thực dân ở Đông Dương và 15 năm sau, bản án ấy được thi hành.
Thật đau xót, ông bị bắt ngày 14/4/1931 do sự phản bội của Ngô Đức Trì. Trong nhà tù đế
quốc, ông chịu đựng mọi cực hình tra tấn dã man của kẻ thù, giữ vững phẩm tiết của người
cách mạng. Trước những dây phút cuối cùng của cuộc đời, ông nhắc nhở các đồng chí của
mình “hãy giữ vững chí khí chiến đấu”. Ông hi sinh lúc mới 27 tuổi đời, đó là một tổn thất
lớn cho cách mạng nước nhà”.
Việc trình bày cuộc đời và hoạt động của Trần Phú gắn với giới thiệu nội dung cơ bản
trong các đoạn trích của “Luận cương chính trị” năm 1930: “Luận cương xác định những vấn
đề chiến lược và sách lược của cách mạng Đông Dương. Cách mạng Đông Dương lúc đầu là
cuộc cách mạng tư sản dân quyền, sau đó tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kì tư bản chủ nghĩa,
tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa” [22; tr 94]. Qua kết hợp ảnh chân dung tổng bí
thư Trần Phú với Luận cương chính trị sẽ khắc họa cho học sinh hình ảnh sâu đậm về một
nhân vật tiêu biểu và một văn kiện Đảng điển hình của Đảng ta.
Khi dạy bài 16: “Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939
– 1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời”, khi giảng mục IV: “Nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa được thành lập (2/9/1945)” [22; tr 108], giáo viên cho học sinh quan sát hình
ảnh chân dung: “Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập” và tường thuật: “Ngày
2/9/1945, Hà Nội tưng bừng, rực rỡ cờ và hoa mừng ngày độc lập. Tại quảng trường Ba Đình
lịch sử, trên lễ đài trang trọng, chủ tịch Hồ Chí Minh – vĩ lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta giản

dị, chỉnh tề trong bộ quần áo kaki cao cổ. Cả biển người hướng về phía Bác, ai nấy đều muốn
nhìn rõ khuôn mặt hiền từ, vầng trán mênh mông, đôi mắt sáng ngời và chòm râu thưa, dài
trông rất trang nghiêm và vô cùng thân thương, gần gũi. Với giọng nói trầm ấm, mang âm
sắc của miền quê xứ Nghệ, người dõng dạc tuyên bố: “Tất cả các dân tộc sinh ra trên thế
giới đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do… Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” [4; tr 1].

11


Biện pháp sư phạm đó có tác dụng củng cố, khắc sâu kiến thức lịch sử cho học sinh.
Đông thời bồi dưỡng tình cảm tôn kính của các em đối với lãnh tụ.
Cùng với tranh ảnh chân dung lịch sử, tranh ảnh trong sách giáo khoa cũng có tác dụng tích
cực đối với cung cấp kiến thức lịch sử cho học sinh phổ thông. Ví dụ, khi dạy bài 15: “Phong
trào dân chủ 1936 – 1939”[22; tr 98], giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh “Mít tinh kỉ
niệm ngày Quốc tế lao động (1/5/1938) tại khu Đấu Xảo (nay thuộc khu vực Cung văn hóa
Hữu Nghị Hà Nội” [22; tr 101] và giới thiệu cho học sinh hiểu rằng đó là cuộc mít ting được
tổ chức công khai ở Hà Nội thu hút đông đảo quần chúng tham gia với đầy đủ các đoàn thể
đại diện cho các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội: công nhân, trí thức, thợ thủ công, thanh
niên, phụ nữ. Tất cả có 2,5 vạn người hàng ngũ chỉnh tề, ngực đeo phù hiệu, rực rỡ băn rôn,
biểu ngữ, biểu dương lực lượng trong ngày Quốc tế lao động 1/5/1938, tại Đấu Xảo Hà Nội,
nay là Cung văn hóa Hữu Nghị Hà Nội. Họ giương cao khẩu hiệu: “Ủng hộ mặt trận bình dân
Pháp”, “Đi tới mặt trận dân chủ Đông Dương”, “Chống nạn thất nghiệp”, “Đi tới phổ thông
đầu phiếu”, “Tự do, dân chủ” [11; tr 258]
Sau đó, giáo viên có thể nêu câu hỏi: “Những khẩu hiệu trên gắn với chủ trương nào
của Đảng trong thời kì lịch sử này?”. Giáo viên gợi lại các văn kiện của Đảng nói về chủ
trương tạm gác khẩu hiệu “Độc lập dân tộc và người cày có ruộng” để thực hiện đòi quyền
dân chủ “dân chủ đơn sơ”: “Tự do, cơm áo, hòa bình” và tranh thủ được sự ủng hộ của chính
phủ mặt trận bình dân Pháp đẩy mạnh cuộc đấu tranh công khai, bán công khai nhằm khôi
phục, củng cố lực lượng, tuyên truyền, giác ngộ quần chúng.

Cũng khi dạy bài 16: “Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám
(1939 – 1945)”, khi giảng phần II: “Phong trào giải phóng dân tộc từ tháng 9/1939 đến tháng
3/1945”, mục 3: “Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Hội nghịlần thứ
VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương (5/1941)” [22; tr 108], khi
giảng về Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII, giáo viên cho học sinh quan sát ảnh “Lán
Khuổi Nậm” sau đó giáo viên giới thiệu cho học sinh biết đây là nơi họp Hội nghị lần thứ VIII
Ban chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5/1941) với những nội dung chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược quan trọng như tiếp tục đặt nhiệm vụ dân tộc lên làm nhiệm vụ hàng đầu “ Lúc này
nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn
thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc phải chịu mãi kiếp ngựa châu mà
quyền lợi của bộ phận đến vạn năn không đòi được” [1; tr 196] và chủ trương thành lập mặt
trận Việt Minh “để liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng
phái, xu hướng chính trị đặng cùng nhau mưu cuộc giải phóng và sinh tồn” [1; tr 149, 150],
như vậy sau khi học sinh học xong học sinh sẽ ghi nhớ được những nét cơ bản của nội dung
nghị quyết.
Hoặc quan sát ảnh “Đình Tân Trào”, giáo viên giảng cho học sinh biết đây là nơi diễn ra
Quốc dân đại hội, bầu Ủy ban dân tộc giải phóng – chính phủ lâm thời của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa sau ngày cách mạng tháng Tám thành công, nơi chủ tịch Hồ chí Minh thay
mặt Ủy Ban giải phóng đọc lời thề danh dự: “Chúng tôi những người được Quốc dân đại biểu
bầu vào ủy ban dân tộc giải phóng để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân ta. Trước lá cờ
thiêng liêng của Tổ Quốc, chúng tôi kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, chiến đấu chống
quân thù, giành lại độc lập cho Tổ Quốc. Dù phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng, quyết
không lùi bước. Xin thề!” [9; tr 25,26]
Và ra nơi ra đời của quân lệnh số 1: “Chúng ta phải hành động cho nhanh với một tinh thần
vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng” [9; tr 442]
Khi giảng mục 4: “Chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền” [22; tr 109], giáo
viên cho học sinh quan sát bức ảnh “Lễ thành lập đội Tuyên truyền Giải phóng quân”, sau đó
giáo viên nêu câu hỏi: “Tại sao lực lượng vũ trang của ta lại mang tên đội Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân?”, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bối cảnh lịch sử cuối 1944
qua sự phân tích tài liệu của chủ tịch Hồ Chí Minh:

12


“Bấy giờ, thời kì phát triển hòa bình đã qua nhưng thời kì khởi nghĩa toàn dân chưa tới. Nếu
bây giờ chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới.
Nhưng phát động phong trào vũ trang khỏi nghĩa ngay quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc
đấu tranh bây giờ phait từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Phải tìm ra một
hình thức thích hợp thì mới có thể đẩy phong trào tiến lên” [10; tr 130]
Sau khi học sinh phân tích tình hình lúc bấy giờ qua đoạn trích tài liệu trên, giáo viên
nhấn mạnh rằng, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
đã ra đời: “Hôm đó, là ngày 22/12/1944 lúc 5 giờ chiều, lễ thành lập được cử hành trong một
khu rừng nằm giữa Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám, đội Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân đã ra đời dưới sự che chở của anh linh hai đấng anh hùng dân tộc” [10;tr 142] .
Sau khi cho học sinh quan sát bức ảnh 34 chiến sĩ dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp đang
trang nghiêm đọc 10 lời thề danh dự dưới lá cờ Tổ quốc thiêng liêng, giáo viên nêu câu hỏi:
“Nhìn bức ảnh các em có nhận xét gì về lực lượng vũ trang cách mạng của ta trong buổi đầu
thành lập”. Học sinh quan sát và nhận ra rằng:
Về lực lượng cách mạng: còn non mỏng, trang phục thiếu thốn (quần áo, mũ nón những kiếu
khác nhau, giày dép không đủ, vũ khí thô sơ”
Về ý chí: đầy quyết tâm, tin tưởng (nét mặt trang nghiêm).
Từ đó giáo viên kết luận vấn đề theo nhận định của chủ tịch Hồ Chí Minh về lực lượng vũ
trang cách mạng của ta khi mới ra đời: “Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhở nhưng tiền đề đó
của nó rất vẻ vang” [6; tr 337]
7.2.3.2 Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với bản đồ, lược đồ.
Bản đồ, lược đồ được sử dụng thường xuyên trong dạy học lịch sử. Sử dụng văn kiện
Đảng kết hợp với sơ đồ, lược đồ sẽ tạo cho học sinh hình ảnh về vị trí, không gian cụ thể về
sự kiện lịch sử. Chúng ta đã biết, mọi sự kiện lịch sử đều gắn với một không gian cụ thể. Bản
đồ, lược đồ là những đồ dùng trực quan quy ước giúp học sinh hiểu những nơi xảy ra sự kiện
lịch sử. Chỉ khi nắm vững vị trí không gian, địa điểm, điều kiện địa lí học sinh mới có thể lí
giải được vì sao sự kiện lịch sử lại xảy ra ở nơi đó và vì sao nó lại diễn ra như vậy. Chính vì

thế, sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với tài liệu trực quan quy ước nói trên có tác dụng tốt
trong việc củng cố, khắc sâu kiến thức lịch sử cho học sinh.
Khi sử dụng giáo viên nên kết hợp với các câu hỏi để phát huy tính tích cực của học
sinh. Vì khi kết hợp với câu hỏi sẽ khơi gợi cho các em óc phán đoán, phân tích.
Ví dụ khi dạy bài 14: “Cao trào cách mạng 1930 – 1935”, phần II: “Phong trào cách
mạng 1930 – 1931” [22; tr90] kết họp sử dụng sách giáo khoa và bản đồ “Phong trào Xô viết
Nghệ Tĩnh” [22; tr 92], giáo viên hướng dẫn học sinh trình bày những vấn đề như sau về
phong trào cách mạng 1930 - 1931:
- Quy mô: Rộng lớn từ Bắc – Trung – Nam, thu hút đông đảo quần chúng.
- Hình thức: biểu tình, bãi công, vũ trang.
- Tính chất: quyết liệt, triệt để. Đạp tan chính quyền địch, lập ra các Xô viết Nghệ Tĩnh. Các
Xô viết đã thực hiện những chính sách tiến bộ, kịp thời.
Và giáo viên có thể đặt ra một vấn đề cho học sinh giải quyết: “Tại sao các Xô viết lại ra đời
ở Nghệ Tĩnh”? Giáo viên đọc cho học sinh nghe đoạn trích trong “Nghệ Tĩnh đỏ” của Nguyễn
Ái Quốc: “Địa thế hai tỉnh nhiều rừng núi, đất đai cằn cỗi, nông giang chẳng có, ở đây
thường xảy ra lụt bão, do đó nhân dân đói khát và nơi ăn, chốn ở khổ sở. Sưu thuế nặng nề và
nạn áp bức xã hội và chính trị làm cho cảnh ngộ họ càng cùng cực hơn…Trong thời kì Pháp
xâm lược cũng như trong các phong trào cách mạng quốc gia (1905 – 1925) Nghệ tĩnh đã nổi
tiếng. Trong cuốc đấu tranh hiện nay công nhân và nông dân Nghệ Tĩnh vẫn giữ truyền thống
cách mạng của mình. Nghệ Tĩnh thật xứng đáng với “danh hiệu đỏ” ” [3; tr 51, 52]
13


Ví dụ, khi dạy bài 16: “Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám
(1939 – 1945)”, phần III. “Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền”, mục 1: “Khởi nghĩa từng
phần (từ tháng 3 đến tháng 8/ 1945)” và phần 2: “Sự chuẩn bị cuối cùng trước ngày Tổng
khởi nghĩa” [22, tr 112, 113], giáo viên sử dụng: “Lược đồ Khu giải phóng Việt Bắc” [22; tr
114] như sau:
“Trước hết, giới thiệu về vị trí không gian “Khu giải phóng” bao gồm vùng giải phóng thuộc
các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang và một số ngoại vi thuộc

các tỉnh lân cận như Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Yên Bái. Tiếp đó, giáo viên nêu câu hỏi:
“Tại sao có sự ra đời của khu giải phóng Việt Bắc?”, dựa vào văn kiện Đảng, giáo viên gợi ý
cho học sinh trả lời theo các hướng sau:
- Sau khi có bản chỉ thị: “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. “Khởi nghĩa
từng phần diễn ra giành thắng lợi chủ yếu ở những nơi nào?”
- “Hội nghị quân sự Bắc kì hợp nhất các lực lượng vũ trang toàn quốc. Điều đó liên quan gì
đến sự ra đời của Khu giải phóng Việt Bắc”?
- “Vì sao Hồ Chí Minh quyết định thành lập Khu giải phóng?”
Việc sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với bản đồ như vậy giúp cho học sinh nhận thấy
các vị trí không gian, nơi diễn ra khởi nghĩa từng phần giành thắng lợi, thấy rõ nơi ra đời của
Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Cứu quốc quân và nơi hợp nhất các lực lượng vũ
trang thành Việt Nam Giải phóng quân (Định Biên – Định Hóa – Thái Nguyên). Chính điều
đó làm cho lực lượng vũ trang phát triển mạnh, vùng giải phóng được mở rộng, căn cứ địa
ngày càng được củng cố và mở rộng . Trong bối cảnh đó, tháng 5/1945, Hồ Chí Minh từ Cao
Bằng về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng trong toàn quốc. Tại đây, vùng giải
phóng được mở rộng tạo nên giải liên hoàn giữa các tỉnh, Người chỉ thị “Thành lập khu giải
phóng Việt Bắc”. Theo tinh thần đó khu giải phóng Việt Bắc đac ra đời tháng 6/1945 – đó là
hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Cùng với những bản đồ, lược đồ trong sách giáo khoa, giáo viên có thể chỉ thêm
những tài liệu trực quan để kết hợp văn kiện Đảng và các tài liệu khác trong dạy học lịch sử.
Chẳng hạn, phân tích cuộc đảo chính Nhật – Pháp trên nội dung bản chỉ thị: “Nhật – Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta” kết hợp với bản đồ khu vực Đông Nam Á học sinh ghi
nhận và củng cố kiến thức lịch sử tốt hơn . Nội dung bản chỉ thi đó là:
“1. Hai con chó đế quốc không thể ăn chung một miếng mồi béo bở như Đông Dương
2. Tàu, Mĩ sắp đánh vào Đông Dương, Nhật phải hạ Pháp để trừ cái họa bị Pháp đánh sau
lưng khi đồng minh đổ bộ.
3. Sống chết Nhật phải giữ lấy cái cầu trên con đường bộ nối liến các thuộc địa Miền Nam
Dương với Nhật vì sau khi Philuậttân bị Mĩ chiếm đường thủy của Nhật bị cắt đứt” [6; tr 364]
Cũng từ đây cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc diễn ra ở Đông Dương thể hiện trên các mặt:
“1. Hai quân cướp nước cắn xé nhau chí tử

2. Chính quyền Pháp tan rã
3. Chính quyền của Nhật chưa ổn.
4. Các tầng lớp đứng giữa hoang mang.
5. Quần chúng nhân dân muốn hành động” [6; tr 365]
Thông qua văn kiện này cùng với bản đồ Đông Nam Á, học sinh sẽ nhận thấy rõ tình
hình khu vực khiến Nhật phải tiến hành đảo chính Pháp và Đảng ta đã phân tích tình hình
đúng đắn để đưa ra chỉ thị phù hợp. Từ việc quan sát bản đồ đó học sinh sẽ ghi nhớ được nội
dung chỉ thị của Đảng.
14


7.2.3.3 Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp niên biểu.
Niên biểu là bảng hệ thống hóa các sự kiện quan trọng và có tác dụng rất lớn trong
giúp học sinh khái quát kiến thức và ghi nhớ kiến thức theo mối liên hệ, liên quan giữa chúng.
Có thể sử dụng văn kiện Đảng để lập niên biểu so sánh. Chẳng hạn, khi dạy bài 15: “Phong
trào dân tộc dân chủ 1936 – 1939” và bài 16: “Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi
nghĩa tháng Tám (1939 – 1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời” [22; tr 98, 102],
giáo viên có thể hướng dẫn học sinh dựa vào đoạn trích văn kiện sau để lập bảng so sánh Mặt
trận dân chủ Đông Dương với Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương:
“Khác với mặt trận dân chủ chỉ là sự liên hiệp các giai cấp có ít nhiều tiến bộ, các đảng phái
cách mệnh với Đảng phái cải lương để đòi cải cách tiến bộ, các mặt trận dân tộc, các giai
cấp, các Đảng phái, các phần tử cơ tính chất phản đế. Nếu mặt trận dân chủ chưa là liệt bại
các xu hướng cải lương, đề huề, thì mặt trận, T.N.D.T.P.Đ là một mặt trận kịch liệt chống đối
các Đảng phái, các xu hướng cải lương đề huề, làm liệt bại chúng nó hoàn toàn trong phong
trào giải phóng dân tộc” [5; tr 357 - 358]
“Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mạng phản đế,
không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất
hành động giữa các lực lượng ấy đặng đấu tranh tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc
Pháp, Nhật và các thể lực phản động ngoại xâm, diệt trừ phong kiến và các hạng phản bội
quyền lợi dân tộc, làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng… Vô sản giai cấp phải

mật thiết liên lạc với bần nông, liên minh với trung nông, tiểu tư sản thành thị, bắt tay tư sản
bản xứ và địa chủ phản đế… liên hiệp với Hoa kiều kháng Nhật và những người Pháp chống
phát xít, chống đầu hàng và có những xu hướng dân chủ, tán thành cho Đông Dương độc
lập…[6, tr 77] Không phải giai cấp vô sản ở Đông Dương bỏ mất điền địa đi đâu, cũng không
phải đi lùi một bước, mà chỉ đi lùi một bước ngắn hơn để có sức mà bước dài hơn” [6, tr 119]
Bảng so sánh:
Nội dung

Mặt trận dân chủ Đông Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế
Dương
Đông Dương

Hoàn cảnh
Mục tiêu
Lực lượng tham gia
→ Từ bảng so sánh đó học sinh có thể rút ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa hai
mặt trận và lí giải tại sao có sự khác nhau như vậy.
Có thể xây dựng niên biểu bài tập trên cơ sở các văn kiện Đảng. Ví dụ, khi học xong hết
chương giáo viên có thể ra cho học sinh một số bài tập dạng niên biểu trên cơ sở các văn kiện
Đảng tiêu biểu của ba văn kiện Đảng tiêu biểu nhất trong ba giai đoạn.
Tìm nội dung văn kiện Đảng điền vào ô sau sao cho phù hợp.
1930 – 1931

1936 - 1939

1939 - 1945

Kẻ thù

…………………


………………….

………………

Nhiệm vụ

…………………

………………….

………………

đấu …………………

………………….

………………

Phương
tranh

pháp

15


Hoặc một niên biểu bài tập khác giúp học sinh ghi nhớ được thời gian, nội dung các văn kiện
qua các thời kì mà không bị nhầm lẫn.
Ví dụ bài tập sau: Sắp xếp lại tài liệu ở hai cột dưới đây cho phù hợp với nhau về nội dung:

Nội dung văn kiện Đảng

Xuất xứ

1. “Ta phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn a. “Chính cương vắn tắt” (2/1930)
sàng, nhằm vào cơ hội thuận lợi hơn cả mà đánh lại b. “Sách lược vắn tắt” (2/1930)
quân thù…”
c. “Luận cương chính trị” (10/1930)
2. “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và
d. Chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”
hành động của chúng ta” (3/1945)
3. “Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền vô sản
giai cấp và nông dân là hai động lực chính nhưng e. Nghị quyết hội nghị Trung ương VI
vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới ( 11/1939)
thắng lợi được”.
g. Nghị quyết hội nghị Trung ương VII
(11/1940)
4. “Hai quân cướp nước cắn xé nhau chí tử
Chính quyền Pháp tan rã
Chính quyền Nhật chưa ổn
Các tầng lớp đứng giữa hoang mang

h. Nghị quyết hội nghị Trung ương VIII
(5/1941)
i. Bản quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi
nghĩa (8/1945)

Quần chúng nhân dân muốn hành động”


k. Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa của Chủ
5. “Giờ quyết định vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn tịch Hồ Chí Minh
quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà giải
phóng cho ta”
6. “Chúng ta phải hành động cho nhanh với tinh
thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng”
7.3. Thực nghiệm sư phạm.
7.3.1 Mục đích thực nghiệm.
Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm nghiệm, chứng minh hiệu quả của việc sử dụng văn
kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945, lớp 12 THPT. Kết quả của thực nghiệm sẽ chứng tỏ tính khả thi của phần lí luận đã nêu
trên và là cơ sở cho chúng tôi vận dụng vào quá trình giảng dạy sau này.
7.3.2 Đối tượng và thời gian thực nghiệm.
Thực nghiệm sư phạm được tiến hành tại trường THPT Đồng Đậu - Yên Lạc - Vĩnh
Phúc. Được sự giúp đỡ của các thầy cô nhóm bộ môn lịch sử, tôi đã tiến hành thực nghiệm tại
2 lớp: 12A1 và 12A2.
7.3.3 Tiến trình thực nghiệm.
* Chuẩn bị cho thực nghiệm
Để tiến hành thực nghiệm tôi tiến hành các hoạt động sau:
- Xây dựng hai kiểu giáo án cho hai lớp
Giáo án thứ nhất: Dạy theo phương pháp truyền thống, chủ yếu là thuyết trình và sử
dụng kiến thức và hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa. Giáo án này được thực hiện tại lớp
12A1- lớp đối chứng.
16


Giáo án thứ hai: Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan nhằm mục
đích tăng hứng thú cho người học. Giáo án này được dạy tại lớp 12A2- lớp thực nghiệm
- Chuẩn bị cho giờ dạy
Gặp gỡ học sinh 2 lớp

Phiếu điều tra sau giờ thực nghiệm
* Tiến trình thực nghiệm
Tiến trình giờ học đối chứng: Dạy học đối chứng được tiến hành tại lớp 12A1. Các
phương pháp giáo viên tiến hành trong giờ học là: thuyết trình, vấn đáp. Trong giờ học giáo
viên đã sử dụng tư liệu sách giáo khoa là chủ yếu.
Tiến trình giờ học thực nghiệm: Dạy học thực nghiệm được tiến hành tại lớp 12A2.
Các phương pháp giáo viên tiến hành trong giờ học là: thuyết trình, hoạt động nhóm, nêu vấn
đề, sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan.
7.3.4 Kết quả thực nghiệm.
Kết quả thực nghiệm sư phạm được thể hiện trên 2 tiêu chí:
- Ý kiến đánh giá của giáo viên sau khi quan sát giờ học
- Mức độ đạt mục tiêu bài học và không khí, thái độ học tập của học sinh.
Đánh giá của giáo viên sau khi quan sát giờ học
Tiết học có sự tham gia của giáo viên lớp 12A2, giáo viên đánh giá cao việc sử dụng văn kiện
Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử. Với việc sử dụng việc sử dụng
phương pháp này vừa đảm bảo kiến thức chung vừa kích thích tư duy, hứng thú học tập của
học sinh khá giỏi.
Về mức độ đạt mục tiêu kiến thức bài học
Điều này thể hiện trong bài kiểm tra 10 phút, học sinh làm cuối 2 tiết học. Đề kiểm tra ở hai
lớp là giống nhau để việc so sánh được khách quan. Học sinh làm bài kiểm tra một cách
nghiêm túc và đúng thời gian. Kết quả thu được như sau:
Bảng thống kê kết quả điều tra lớp 12A1 và lớp 12A2
Điểm số

Lớp đối chứng 12A1

Lớp thực nghiệm 12A2

(45 học sinh)


(46 học sinh)

Số học sinh

Tỷ lệ (%)

Số học sinh

Tỷ lệ (%)

Giỏi (9-10)

1

2.2

5

10.9

Khá (7-8)

20

44.4

30

65.2


Trung bình (5-6)

19

42.2

11

23.9

Yếu, kém (<4)

5

11.2

0

0

Nhìn vào bảng số liệu và biểu đồ trên, chúng ta nhận thấy:
Kết quả điểm của lớp đối chứng lớp 12A1 có 1 học sinh đạt điểm giỏi chiếm 2.2% trong khi
đó lớp 12A2 có 5 em đạt điểm giỏi chiếm 10.9% tổng số học sinh trong lớp. Trong 5 em đạt
điểm giỏi có 2 em đạt điểm tối đa là 10 điểm. Về điểm yếu tại lớp đối chứng 11.2% học sinh
đạt điểm yếu trong khi lớp thực nghiệm không có học sinh nào đạt điểm yếu. Tỷ lệ học sinh
17


đạt điểm khá tại lớp đối chứng thấp hơn lớp thực nghiệm 20.8%. Điểm trung bình của lớp đối
chứng cao hơn lớp thực nghiệm 18.3%.

Tất cả những con số đó cho thấy chất lượng giờ dạy thực nghiệm tốt hơn hẳn so với lớp đối
chứng. Học sinh tiếp thu bài nhanh và hiệu quả. Hơn nữa, một số học sinh học kém trong lớp
cũng tham gia phát biểu xây dựng ý kiến. Giờ học thực nghiệm đã đạt được mục tiêu đề ra.
Bầu không khí lớp học
Tại lớp thực nghiệm 12A2 có 17% HS chọn phương án hơi trầm; 56,5% học sinh chọn
phương án lớp học sôi nổi; 26.5% học sinh chọn phương án lớp học bình thường. Còn tại lớp
đối chứng 12A1 có 22.2% HS chọn phương án hơi trầm; 33.3% chọn phương án lớp học sôi
nổi và 55.5% chọn không khí lớp học bình thường
Kết quả cho thấy trong giờ học thực nghiệm giáo viên đã cuốn hút được học sinh tham gia
vào bài học nên không khí lớp học vì thế sôi nổi hơn nhiều so với giờ học tại lớp đối chứng.
7.4. Kết luận.
Lịch sử là một môn học hết sức quan trọng trong chương trình đào tạo thế hệ trẻ của
mỗi quốc gia. G.Tsecnưsépxki đã viết rằng: “Có thể không biết, có thể không cảm thấy say mê
học tập môn Toán, tiếng Hy Lạp, La tinh, Hóa học, có thể không biết đến hàng nghìn môn học
khác nhưng dù sao đã là người có giáo dục mà không yêu thích môn lịch sử thì chỉ có con
người không phát triển về trí tuệ”. Bản thân lịch sử rất sinh động và hấp dẫn nhưng sự truyền
đạt của giáo viên không tốt thì sẽ biến bài lịch sử thành trình bày một sự kiện rời rạc, khô
khan, thiếu sinh động và sức hấp dẫn của nó giảm đi rất nhiều. Để khắc phục tình trạng này
thì việc đầu tiên của người giáo viên lịch sử là phải hiểu sâu sắc sự kiện lịch sử, dựa trên
những cơ sở tài liệu, sự kiện sinh động, chân thực và cụ thể để truyền đạt cho học sinh một
cách có hồn để học sinh cảm tưởng như mình vừa chứng kiến sự việc xảy ra, học sinh có thái
độ, tình cảm đúng đắn với sự kiện, hiện tượng lịch sử. Khác các môn học khác lịch sử không
thể tái tạo hay biểu diễn thí nghiệm như một số môn khoa học khác. Lịch sử chỉ diễn ra một
lần và không bao giờ lặp lại. Bởi vậy chỉ nhận thức lịch sử như nó vốn là điều rất khó nhưng
lại rất càn thiết trong dạy học lịch sử. Người giáo viên phải biết mức độ nhận thức của học
sinh để truyền đạt kiến thức và đẻ giúp học sinh nhìn nhận sự kiện, hiện tượng trong quá khứ
không chỉ đơn thuần bằng lời nói mà giáo viên còn phải kết hợp cả cử chỉ, điệu bộ và phải
thực sự có xúc cảm khi tường thuật hay miêu tả một sự kiện hay nhân vật nào đó, một điều
không thể thiếu là giáo viên phải biết sử dụng các loại tài liệu lịch sử để minh họa, cụ thể hóa
kiến thức cho bài giảng, làm cho bài giảng sinh động hơn, hấp dẫn hơn đối với học sinh.

Những năm gần đây, ngành giáo dục nước ta đã có nhiều cố gắng, song hiệu quả còn
hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu giáo dục đề ra. Đảng ta đã từng chỉ rõ tình
trạng yếu kém là do “Chậm đổi mới về cơ cấu, hệ thống, mục tiêu, nội dung và phương pháp,
chưa làm tốt chức năng tham mưu và trách nhiệm quản lí của nhà nước” [8]. Bản thân ngàng
giáo dục cũng có nhiều yếu kém, thiếu sót, mà “yếu kém chủ yếu nhất của giáo dục hiện nay
là chậm chuyển biến để thích ứng với nền kinh tế đang đổi mới. Tình trạng của lạc hậu của
giáo dục thể hiện từ cơ cấu, hệ thống đến mục tiêu, chương trình và nội dung phương pháp”
[18]. Vì vậy, sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan một cách hợp lí sẽ góp
phần đổi mới nội dung, phương pháp dạy học trong điều kiện lịch sử hiện nay.
Thông thường có rất nhiều loại tài liệu tham khảo khác nhau, mỗi loại tài liệu có vị trí
và tầm quan trọng khác nhau như tài liệu gốc, tài liệu kinh điển, tài liệu văn học, tài liệu văn
kiện Đảng… Nhưng tựu chung lại ta thấy rằng các loại tài liệu này có tác dụng giáo dưỡng và
phát triển toàn diện cho học sinh. Tài liệu văn kiện Đảng có ưu điểm về sự trung thực và
chính xác, vì nó là “tiếng nói của Đảng” tôn trọng sự thật, đáng tin cậy nhất. Đó là sự thể hiện
chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh cào trong thực tiễn nước ta.

18


Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử là một phương tiện dạy học đóng vai trò là một
nguồn kiến thức “cửa sổ mở ra cho thấy hoạt động lịch sử”, chứa đựng tài liệu phong phú cho
việc nhận thức lịch sử, góp phần khôi phục lại bứa tranh quá khứ một cách sinh động, chân
thực, giúp cho quá trình nhận thức lịch sử trở nên hoàn thiện hơn.
Chính vì vậy việc kết hợp văn kiện Đảng và đồ dùng trựa quan trong dạy học lịch sử
sẽ góp phần phát huy ưu thế của cả văn kiện Đảng lẫn đồ dùng trực quan; kích thích sự suy
nghĩ, tìm tòi của học sinh, làm cho học sinh có hứng thú học tập, bởi vì giờ học đó sinh động,
phong phú. Song thực tế ở trường phổ thông ngày nay việc sử dụng văn kiện Đản kết hợp với
đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử còn chưa phổ biến. Muốn sử dụng tài liệu văn kiện
Đảng kết hợp đồ dùng trực quan đạt kết quả cao không phải là điều đơn giản, nó đòi hỏi
không được sử dụng một cách tùy tiện mà phải tuân thủ theo những nguyên tắc yêu cầu lí luận

bộ môn đã quy định. Biết kết hợp nhuần nhuyễn các biện pháp sử dụng, các hình thức trình
bày…để từ đó có những biện pháp thích hợp.
8. Những thông tin cần được bảo mật.
Không có thông tin nào trong sáng kiến cần được bảo mật
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến.
- Về phía nhà trường: Trang bị phòng học bộ môn có đầy đủ máy chiếu và đồ dùng
trực quan.
- Về phía giáo viên: Sưu tầm tài liệu văn kiện Đảng liên quan đến bài học, ứng dụng
công nghệ thông tin trong việc soạn giảng.
- Về phía học sinh: Sưu tầm tài liệu văn kiện Đảng và đồ dùng trực quan, có tính tự
giác và chủ động trong học tập, nghiên cứu.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý
kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến
lần đầu, kể cả áp dụng thử theo các nội dung sau.
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo
ý kiến của tác giả:
- Về mức độ đạt mục tiêu kiến thức bài học
Điều này thể hiện trong bài kiểm tra 10 phút, học sinh làm cuối 2 tiết học. Đề kiểm tra
ở hai lớp là giống nhau để việc so sánh được khách quan. Học sinh làm bài kiểm tra một cách
nghiêm túc và đúng thời gian. Kết quả thu được như sau:
Bảng thống kê kết quả điều tra lớp 12A1 và lớp 12A2
Điểm số

Lớp đối chứng 12A1

Lớp thực nghiệm 12A2

(45 học sinh)

(46 học sinh)


Số học sinh

Tỷ lệ (%)

Số học sinh

Tỷ lệ (%)

Giỏi (9-10)

1

2.2

5

10.9

Khá (7-8)

20

44.4

30

65.2

Trung bình (5-6)


19

42.2

11

23.9

Yếu, kém (<4)

5

11.2

0

0
19


Tất cả những con số đó cho thấy chất lượng giờ dạy thực nghiệm tốt hơn hẳn so với
lớp đối chứng. Học sinh tiếp thu bài nhanh và hiệu quả. Hơn nữa, một số học sinh học kém
trong lớp cũng tham gia phát biểu xây dựng ý kiến. Giờ học thực nghiệm đã đạt được mục
tiêu đề ra.
- Bầu không khí lớp học
Tại lớp thực nghiệm 12A2 có 17% HS chọn phương án hơi trầm; 56,5% học sinh chọn
phương án lớp học sôi nổi; 26.5% học sinh chọn phương án lớp học bình thường. Còn tại lớp
đối chứng 12A1 có 22.2% HS chọn phương án hơi trầm; 33.3% chọn phương án lớp học sôi
nổi và 55.5% chọn không khí lớp học bình thường

Kết quả cho thấy trong giờ học thực nghiệm giáo viên đã cuốn hút được học sinh tham
gia vào bài học nên không khí lớp học vì thế sôi nổi hơn nhiều so với giờ học tại lớp đối
chứng.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo
ý kiến của tổ chức, cá nhân:
Sáng kiến hiện mới chỉ áp dụng theo ý kiến của tác giả, chưa áp dụng theo ý kiến của
cá nhân hoặc tổ chức nào.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến
lần đầu:
Số
TT

Tên tổ chức/cá nhân

Địa chỉ

1

Hoàng Thị Duyên

Trung Nguyên - Yên Lạc - Phương pháp giảng dạy
Vĩnh Phúc
môn lịch sử

2

Lê Thị Cúc

Tam Hồng - Yên Lạc -Vĩnh Phương pháp giảng dạy
Phúc

môn lịch sử

......., ngày.....tháng......năm......
Thủ trưởng đơn vị/
Chính quyền địa phương
(Ký tên, đóng dấu)

........, ngày.....tháng......năm......
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ
(Ký tên, đóng dấu)

Phạm vi/Lĩnh vực áp
dụng sáng kiến

Yên Lạc, ngày 17 tháng 2 năm 2020
Tác giả sáng kiến
(Ký, ghi rõ họ tên)

Nguyễn Quang Kê

20


MỤC LỤC
1. Lời giới thiệu...........................................................................................................................1
3. Tác giả sáng kiến.....................................................................................................................2
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến.....................................................................................................2
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến....................................................................................................2
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử........................................................2

7. Mô tả bản chất của sáng kiến..................................................................................................2
7.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực
quan trong dạy học lịch sử THPT............................................................................................2
7.1.1 Cơ sở lí luận...............................................................................................................2
7.1.1.1 Văn kiện Đảng trong dạy học lịch sử ở trường THPT........................................2
7.1.1.2 Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường THPT..................................4
7.1.1.3 Ý nghĩa của việc sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong
dạy học lịch sử ở trường THPT.......................................................................................5
7.1.2 Cơ sở thực tiễn...........................................................................................................6
7.1.2.1 Về phía giáo viên................................................................................................6
7.1.2.2 Về phía học sinh..................................................................................................6
7.1.2.3 Nguyên nhân của hiện trạng trên........................................................................7
7.2 Các biện pháp sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch
sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 trong chương trình lớp 12 ban cơ bản...........................8
7.2.1. Nội dung cơ bản của khóa trình lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 ở lớp 12
THPT ban cơ bản................................................................................................................8
7.2.2 Một số yêu cầu chung trong sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan
trong dạy học Lịch sử..........................................................................................................9
7.2.3 Biện pháp cụ thể.......................................................................................................10
7.2.3.1 Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với tranh ảnh lịch sử......................................10
7.2.3.2 Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với bản đồ, lược đồ........................................13
7.2.3.3 Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp niên biểu........................................................15
7.3. Thực nghiệm sư phạm....................................................................................................16
7.3.1 Mục đích thực nghiệm.............................................................................................16
7.3.2 Đối tượng và thời gian thực nghiệm........................................................................16
7.3.3 Tiến trình thực nghiệm.............................................................................................16
7.3.4 Kết quả thực nghiệm................................................................................................17
7.4. Kết luận..........................................................................................................................18
8. Những thông tin cần được bảo mật.......................................................................................19
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến.......................................................................19

10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến
của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả
áp dụng thử theo các nội dung sau............................................................................................19
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý
kiến của tác giả:.....................................................................................................................19
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý
kiến của tổ chức, cá nhân:.....................................................................................................20
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần
đầu:............................................................................................................................................20
21



×