Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.25 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TUẤN DŨNG

HÌNH PHẠT BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TUẤN DŨNG

HÌNH PHẠT BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan



Hà Nội – 2020


Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu, sử dụng phân tích trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực cũng như có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo đúng
quy định. Mọi kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích
một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình
khoa học nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Tuấn Dũng

1


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng số liệu

Trang

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 5

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT BỔ SUNG ĐỐI VỚI
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ ........................... 14
1.1 Khái niệm hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Luật Hình
sự .............................................................................................................................. 14
1.1.1 Khái niệm hình phạt bổ sung ........................................................................... 14
1.1.2. Khái niệm và các đặc điểm của hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm
sở hữu ........................................................................................................................ 16
1.2. Lịch sử lập pháp của các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu
trong pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ từ tháng 8/1945 đến trước khi có Bộ luật
hình sự năm 2015 ...................................................................................................... 24
1.2.1. Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu giai đoạn từ tháng
8/1945 cho tới pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ nhất năm 1985 .................... 25
1.2.2. Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu giai đoạn từ năm 1985
đến năm trước pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ hai năm 1999 ...................... 27
1.2.3. Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu Giai đoạn từ sau pháp
điển hóa lần thứ hai năm 1999 đến năm 2015 .......................................................... 28
1.3. Kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia trên thế giới về hình phạt bổ sung
đối với các tội xâm phạm sở hữu .............................................................................. 31
1.3.1. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự
Pháp .......................................................................................................................... 31

2


1.3.2. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự
Hoa Kỳ....................................................................................................................... 32
1.3.3. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự
Trung Quốc ............................................................................................................... 34
1.3.4. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự
Singapore .................................................................................................................. 35

1.3.5. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự
Liên Bang Nga........................................................................................................... 36
1.3.6. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự
Thụy Điển .................................................................................................................. 38
1.3.7. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự
Nhật Bản .................................................................................................................... 38
Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................... 41
Chƣơng 2: HÌNH PHẠT BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ
HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................... 43
2.1 Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự Việt Nam
hiện hành .................................................................................................................. 43
2.2 Thực tiễn áp dụng các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trên
địa bàn thành phố Hà Nội.......................................................................................... 55
2.3 Những tồn tại, hạn chế về việc áp dụng các hình phạt bổ sung đối với các tội
xâm phạm sở hữu và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế. ............................... 58
Tiểu kết chƣơng II ................................................................................................... 69
Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CÁC HÌNH PHẠT BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI
PHẠM XÂM PHẠM SỞ HỮU .............................................................................. 70

3


3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về hình
phạt bổ sung đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu ............................................... 70
3.2. Tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung
năm 2017 về hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu ........................... 73
3.3. Các kiến nghị, giải pháp khác về nâng cao hiệu quả công tác áp dụng pháp luật
các hình phạt bổ sung đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu ................................ 76

Tiểu kết chƣơng III ................................................................................................. 88
KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................................. 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 91

4


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hiến pháp 2013 quy định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời
sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong thời gian qua, cùng với
công cuộc xây dựng thể chế, phát triển nền kinh tế, xã hội, Đảng và Nhà nước
ta đã có nhiều chủ trường, chính sách trong việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật, bởi pháp luật là nền tảng quan trọng nhất để xây dựng thành công Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong khoa học pháp lý hình sự, tội phạm và hình phạt là hai vấn đề cơ
bản, quan trọng nhất, có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó, tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những khách thể được Bộ
luật hình sự bảo vệ do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện, có lỗi và phải bị xử lý hình sự, hình phạt là chế tài
(biện pháp cưỡng chế) mang tính nghiêm khắc nhất so với các chế tài khác
trong hành chính, kinh doanh, lao động…tác động một cách mạnh mẽ và trực
tiếp đến quyền của người, pháp nhân bị áp dụng. Việc quyết định áp dụng loại
hình phạt, mức hình phạt đúng, phù hợp, cụ thể là kết quả của quá trình đấu

tranh chống tội phạm, đảm bảo được mục đích của hình phạt không chỉ nhằm
trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức
tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới;

5


giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm. Bộ luật hình sự 2015 quy định hệ thống hình
phạt thành hai phần bao gồm các hình phạt chính và các hình phạt bổ sung do
Tòa án áp dụng đối với hai chủ thể bao gồm người và pháp nhân thương mại
phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân
thương mại đó. Việc lựa chọn áp dụng hình phạt chính và hình phạt bổ sung
kèm theo sẽ phát huy được vai trò của những biện pháp tác động của Nhà
nước trong việc ấn định trách nhiệm phải chấp hành của người, pháp nhân
thương mại phạm tội đối với hành vi, hậu quả tội phạm đã gây ra.
Qua nghiên cứu hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam và thực
tiễn áp dụng pháp luật của Tòa án nhận thấy các hình phạt bổ sung được áp
dụng đối với nhiều loại tội danh khác nhau, căn cứ vào những đặc trưng của
tội danh mà lại có những hình phạt bổ sung khác nhau, trong đó đối với các
tội phạm về xâm phạm sở hữu trong bộ luật hình sự thì hệ thống các hình phạt
bổ sung được áp dụng cũng rất đa dạng và linh hoạt, thể hiện tính chất trừng
trị, răn đe đối với người phạm tội cũng như phòng ngừa tội phạm, tuy nhiên
nhận thức về vị trí, vai trò của các hình phạt bổ sung trong quá trình áp dụng
của một số nơi còn có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau, từ đó có thể dẫn
đến những sai lầm trong việc đánh giá đúng, hiệu quả khi áp dụng đối với
người phạm tội xâm phạm sở hữu và như vậy trong nhiều trường hợp có thể
mục đích của hình phạt sẽ không đạt được như mong muốn.
Trải qua những lần pháp điển hóa Bộ luật hình sự, hệ thống hình phạt
bao gồm các hình phạt bổ sung đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích

cực nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên do
việc nhận thức và áp dụng pháp luật của Tòa án trong thực tiễn xét xử còn
khác nhau xuất phát từ bất cập của các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
nên rất cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn về hệ thống hình phạt mà

6


trong đó đặc biệt chú trọng đến các hình phạt bổ sung đối với các tội phạm
xâm phạm sở hữu. Từ đó hoàn thiện được cơ sở lý luận về các hình phạt bổ
sung cũng như thống nhất được cách thức áp dụng chung nhất cho các cơ
quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về các tội xâm
phạm sở hữu. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu của Chiến lược cải cách
tư pháp, góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự, đảm bảo hiệu quả, hiệu lực
của các hình phạt bổ sung trong thực tiễn cũng như nâng cao chất lượng của
hoạt động áp dụng pháp luật.
Từ tất cả những phân tích trên, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài
“Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự
Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu thực hiện luận văn thạc sỹ của mình.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Luận văn sẽ làm sáng tỏ về mặt khoa học của các hình phạt bổ sung, so
sánh với pháp luật hình sự của một số quốc gia trên thế giới về các hình phạt
bổ sung được áp dụng đối với các tội xâm phạm sở hữu, chỉ ra được thực tiễn
áp dụng pháp luật của Tòa án trong hoạt động xét xử để từ đó có những định
hướng tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật góp phần tạo ra nhận thức chung
về lý luận và quá trình áp dụng pháp luật của chế định này.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát đã được chỉ ra, Luận văn sẽ thực hiện
những mục tiêu cụ thể sau đây:

Thứ nhất, tiếp tục kế thừa, phát huy các kết quả của những quan điểm,
công trình nghiên cứu đã được công bố trước đây; phân tích quá trình hình
thành và phát triển thông qua những lần pháp điển hóa Bộ luật Hình sự,

7


nghiên cứu pháp luật so sánh của một số quốc gia trên thế giới có nền pháp
luật điển hình với Luật hình sự Việt Nam về các Hình phạt bổ sung đối với
các tội xâm phạm sở hữu từ đó đi đến thống nhất nhận thức chung về các hình
phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam nói chung và hình phạt bổ sung đối
với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng.
Thứ hai, nghiên cứu và chỉ ra được những nội dung cơ bản về các hình
phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam hiện hành đối với các tội xâm phạm
sở hữu, đồng thời tổng kết thực tiễn áp dụng các hình phạt bổ sung đối với
các tội xâm phạm sở hữu của Tòa án trong hoạt động xét xử, chỉ ra những tồn
tại, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế đó.
Thứ ba, Phân tích nhu cầu tiếp tục hoàn thiện pháp luật trong thời gian
tới, trên cơ sở kết quả nghiên cứu của chương 1 và 2, luận văn có đưa ra một
số kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt bổ sung đối
với các tội xâm phạm sở hữu và một số giải pháp mạng tính đồng bộ khác
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm
sở hữu.
1.3. Tình hình nghiên cứu
Trải qua ba lần pháp điển hóa Bộ luật hình sự, các hình phạt bổ sung
đối với các tội xâm phạm sở hữu đã được ghi nhận và liên tục hoàn thiện theo
thời gian nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tiễn. Trải qua hơn 30 năm
với 03 Bộ luật hình sự, nhận thức lý luận và hoạt động áp dụng pháp luật đã
có nhiều thay đổi, trong đó có các quy định về hình phạt bổ sung gắn với các
tội xâm phạm sở hữu. Trong thời gian qua, nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa

học và các tác giả đã có những luận văn tiến sĩ, luận văn thạc sỹ, sách, giáo
trình cùng rất nhiều các bài viết được công bố trên các tạp chí khoa học

8


chuyên ngành liên quan đến các hình phạt bổ sung. Trong đó đáng chú ý là
những công trình sau:
Về giáo trình, sách chuyên ngành: “Những vấn đề cơ bản trong khoa
học luật hình sự (Phần chung)” của GS.TSKH Lê Văn Cảm, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2019; “Chương XV - Khái niệm hình phạt, hệ thống hình
phạt và các biện pháp tư pháp”, Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam
(Phần chung) của PGS. TS. Trịnh Quốc Toản (GS.TSKH Lê Văn Cảm chủ
biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001 (tái bản năm 2003 và 2007);
“Hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam” của PGS.TS. Trịnh Quốc
Toản, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; “Nghiên cứu hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam dưới góc độ bảo vệ quyền con người” của PGS.TS Trịnh
Quốc Toản, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015; “Tìm hiểu về hình phạt
và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” của ThS. Đinh Văn
Quế, Nxb Chính trị Quốc gia, 2000; “Chương 8 - Khái niệm hình phạt và hệ
thống hình phạt”, Trong sách: Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình
sự Việt Nam (GS.TSKH. Đào Trí Úc chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 199. “Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam” của Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2013; “Giáo trình luật hình
sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân năm
2018; “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 Phần thứ nhất – Những
quy định chung” của tác giả Đinh Văn Quế, Nxb Thông tin và truyền thông
năm 2017;“Từ điển Luật học năm 1999”, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
Về luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ gồm có: “Các hình phạt bổ sung
trong luật hình sự Việt Nam” của Trịnh Quốc Toản, Luận án tiến sỹ năm

2010, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; “Hình phạt bổ sung trong Luật
hình sự Việt Nam đối với các tội phạm về ma túy – trên cơ sở thực tiễn địa
bàn tỉnh Thái Nguyên” của Trương Thị Dung, Luận văn thạc sỹ năm 2017,

9


Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; “Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ
sung trong luật hình sự Việt Nam” của Nguyễn Thị Dung, Luận văn thạc sỹ
năm 2014, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. “Hình phạt tiền trong luật
hình sự Việt Nam” của Phùng Thị Hải Ngọc, Luận văn thạc sỹ năm 2015,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. “Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự
và hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” Lê Quang Chiều, Luận văn thạc sỹ
năm 2012, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. “Các hình phạt không tước
tự do trong Luật hình sự Việt Nam” của Lê Khánh Hưng, Luận văn thạc sỹ
năm 2010, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. “Áp dụng hình phạt bổ
sung theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang” của
Nghiêm Đình Long, Luận văn thạc sỹ năm 2018, Học viện Khoa học xã hội –
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
Tài liệu nghiên cứu là các bài viết đăng trên tạp chí: “Về vai trò của
hình phạt bổ sung trong Luật hình sự”, Trịnh Quốc Toản, ĐHQGHN, Luật
học 28 (2012); “Hình phạt bổ sung trong tiến trình phát triển của Luật hình
sự Việt Nam”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí Khoa học ĐHQGHN số 1 năm 2005;
“Các hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự năm 1999 và hướng hoàn
thiện”, Dương Tuyết Miên, Tòa án nhân dân số 4/2009; “Hình phạt bổ sung
trong tiến trình phát triển của Luật hình sự Việt Nam”, Trịnh Quốc Toản, tạp
chí Khoa học ĐHQGHN số 4 năm 2004; “Bàn về hình phạt bổ sung đối với
người bị xét xử được hưởng án treo theo BLHS 1999” của Huỳnh Văn Út,
Tạp chí Tòa án nhân dân số 11 năm 2013; “Hình phạt bổ sung và thực tiễn áp
dụng”, Đỗ Văn Chỉnh, Tạp chí tòa án nhân dân số 04 năm 2007; “Lý luận và

thực tiễn áp dụng hình phạt bổ sung quản chế, tước một hoặc một số quyền
công dân theo quy định của Bộ luật Hình sự”, Vũ Thành Long, Tạp chí Tòa
án nhân dân số 11 năm 2007; “Các hình phạt bổ sung trong BLHS 1999 và
hướng hoàn thiện”, Dương Tuyết Miên, Tạp chí Tòa án nhân dân số 08 năm

10


2009; “ Hình phạt bổ sung – Thực trạng và kiến nghị”, Nguyễn Quang Hiền,
Tạp chí Nghề luật số 03 năm 2015; “Phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ
sung trong LHS nước ta và những kiến nghị hoàn thiện”, Trịnh Quốc Toản,
tạp chí Khoa học ĐHQGHN số 1 năm 2006; “Về khái niệm và đặc điểm của
hình phạt bổ sung trong LHS”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí Khoa học
ĐHQGHN số 1 năm 2009; “Nhu cầu và những quan điểm cơ bản hoàn thiện
chế định hình phạt bổ sung trong LHS Việt Nam”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí
Khoa học ĐHQGHN số 4 năm 2009; “Thực tiễn áp dụng hình phạt bổ
sung”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí Khoa học ĐHQGHN số 23 năm 2009; “Về
tồn tại, hạn chế của chế định hình phạt bổ sung trong BLHS 1999”, Trịnh
Quốc Toản, tạp chí Khoa học ĐHQGHN số 2 năm 2010; “Những kiến nghị
và giải pháp hoàn thiện hình phạt bổ sung trong BLHS 1999 và nâng cao hiệu
quả của chế định này trong thực tiễn áp dụng”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí
Khoa học ĐHQGHN số 3 năm 2010; “Lịch sử của chế định hình phạt bổ
sung trong LHS Việt Nam từ năm 1945 đến nay”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí
Khoa học ĐHQGHN số 2 năm 2010; “Về những tồn tại và hạn chế cuả chế
định hình phạt bổ sung trong BLHS hiện hành”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí
Khoa học ĐHQGHN số 1 năm 2011; “Những kiến nghị hoàn thiện các quy
định về hình phạt bổ sung trong BLHS năm 1999”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí
Khoa học ĐHQGHN số 7 năm 2011; “Thực tiễn áp dụng hình phạt bổ sung”,
Trịnh Quốc Toản, tạp chí Khoa học ĐHQGHN số 3 năm 2012.
Nội dung các công trình, bài viết trên đã có sự nghiên cứu rất sâu sắc

về những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các hình phạt bổ sung, trong đó
phải kể đến Luận án tiến sĩ “Các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt
Nam” của TS Trịnh Quốc Toản năm 2010. Đây là công trình đã thể hiện được
đầy đủ và chuyên sâu về các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam,

11


công trình nghiên cứu này cùng với các nguồn tài liệu khác sẽ là nguồn tài
liệu tham khảo rất hữu ích cho tác giả trong quá trình thực hiện luận văn này.
1.4. Tính mới và những đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ tiếp tục đưa ra những luận điểm
mới để tiếp tục hoàn thiện cơ sở lý luận của các hình phạt bổ sung trong luật
hình sự Việt Nam, bên cạnh đó có những phân tích chuyên sâu về đặc điểm
của Hình phạt bổ sung đối với nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu; luận văn có
những phân tích về thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án địa bàn thành phố
Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018 cũng như so sánh với
pháp luật hình sự một số nước trên thế giới trong việc áp dụng các hình phạt
bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu, từ đó đưa ra những kiến nghị tiếp
tục hoàn thiện pháp luật. Do đó, luận văn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo
cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên
cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành Tư pháp hình sự, cũng như góp
phần phục vụ công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự trong việc đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu, cũng như
công tác giáo dục, cải tạo những người phạm vào các tội này ở nước ta hiện
nay.
1.5. Đối tƣợng, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu
1.5.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài Luận văn là một số vấn đề lý luận và
thực tiễn áp dụng các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam đối với

các tội xâm phạm sở hữu; trong đó tập trung nghiên cứu những quy định về
các hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017 đối với các tội xâm phạm sở hữu và thực tiễn áp dụng của Tòa án trong
hoạt động xét xử. Luận văn cũng nghiên cứu lịch sử lập pháp của Việt Nam

12


và kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới nhằm làm sáng tỏ
những đặc điểm chung của Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở
hữu trong pháp luật hình sự.
1.5.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt bổ
sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Luật hình sự Việt Nam dưới góc
độ pháp lý hình sự. Ngoài ra, luận văn còn phân tích thực tiễn xét xử trên
phạm vi thành phố Hà Nội trong các năm gần đây (từ 2014-2018), nhằm giải
quyết các nhiệm vụ nghiên cứu.
1.5.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa vào phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, kết hợp với quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách
pháp luật của Nhà nước. Luận văn cũng sử dụng linh hoạt các phương pháp
nghiên cứu cụ thể, tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, logic, kết hợp với
các phương pháp khác như tổng kết thực tiễn, chuyên gia, điều tra xã hội học.
Tùy từng nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả sẽ áp dụng
phương pháp nghiên cứu phù hợp, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu.

13


CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT BỔ SUNG

ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong
luật hình sự
1.1.1. Khái niệm hình phạt bổ sung
Tội phạm và hình phạt là những chế định quan trọng nhất của Luật Hình
sự, trong đó hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà
nước, được Luật Hình sự quy định, do Tòa án áp dụng đối với chủ thể bị kết
tội bằng một bản án và được thể hiện ở việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi
ích của họ nhằm trừng trị, giáo dục, cải tạo họ và đảm bảo cho Luật Hình sự
thực hiện được nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm [30].
Hệ thống hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung, tuy
hình phạt bổ sung không đóng vai trò quyết định trong công cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm nhưng vẫn có ý nghĩa quan trọng trong phạm vi ảnh
hưởng của nó. Hình phạt bổ sung là một bộ phận không thể tách rời của Hệ
thống hình phạt – hệ thống các biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc
nhất của Nhà nước được quy định trọng Pháp luật hình sự. Hình phạt bổ sung
cũng là chế định không thể thiếu trong hệ thống các công cụ, biện pháp của
Nhà nước tới tội phạm. Bên cạnh những hình phạt chính, các hình phạt bổ
sung có tác dụng bổ khuyết, hỗ trợ hình phạt chính trong việc trừng trị, giáo
dục, cải tạo người bị kết án hình sự và giáo dục cộng đồng về ý thức đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Trong một số trường hợp, Hình phạt bổ sung còn
giúp Tòa án khi xét xử có được sự linh hoạt khi phải quyết định có nên áp
dụng Hình phạt bổ sung hay không hoặc nên lựa chọn loại Hình phạt bổ sung
nào đối với bị cáo trong từng vụ án hình sự cụ thể. Sự linh hoạt này có ý
nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình

14


sự trong Luật Hình sự.

BLHS Việt Nam hiện hành không có quy phạm làm rõ, định nghĩa chính
xac về Hình phạt bổ sung, các định nghĩa, khái niệm dưới đây của các học giả
nghiên cứu khoa học Luật Hình sự sẽ giúp chúng ta tiếp cận, hiểu rõ hơn về
khái niệm của chế định này:
PGS.TS Trịnh Quốc Toản từng quan niệm: Hình phạt bổ sung là biện
pháp cưỡng chế nhà nước được quy định trong luật hình sự, do Tòa án nhân
danh nhà nước tuyên kèm theo hình phạt chính trong bản án kết tội với người
bị kết án, tước bỏ, hạn chế những quyền và lợi ích nhất định của họ hoặc đạt
ra những nghĩa vụ pháp lý nhất định đối với họ nhằm củng cố, tăng cường
hiệu quả của hình phạt chính và phòng ngừa tội phạm [42, tr 142-150].
PGS.TS. Trần Văn Độ quan niệm: “HPBS là hình phạt được áp dụng
kèm theo Hình phạt chính nhằm tăng cường hiệu quả của việc áp dụng hình
phạt, đáp ứng mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội, phòng ngừa chung
và phòng ngừa riêng.” [63, tr 8].
TS. Uông Chu Lưu thì định nghĩa: “HPBS là biện pháp cưỡng chế của
Nhà nước được quy định trong BLHS do Tòa án áp dụng đối với người phạm
tội, phản ánh sự đánh giá của nhà nước về hành vi phạm tội và người đã thực
hiện hành vi đó.” [62, tr 16].
GS.TS. Võ Khánh Vinh lại cho rằng: “HPBS là hình phạt được bổ sung
thêm vào Hình phạt chính và không được tuyên độc lập mà chỉ có thể tuyên
kèm theo một Hình phạt chính. Tùy theo từng trường hợp cụ thể của vụ án,
kèm theo một Hình phạt chính, Tòa án có thể tuyên một hoặc vài HPBS.” [61,
tr 113].
Sau quá trình tiếp thu, phân tích các tư tưởng, quan niệm ở trên và theo
những lý luận khoa học về đặc điểm, nội dung, hình thức, ý nghĩa của Hình

15


phạt bổ sung, tác giả đưa ra nhận định về khái niệm HPBS như sau:

Hình phạt bổ sung là loại hình phạt được quy định trong Luật Hình sự
mà sau khi đã lựa chọn được hình phạt chính thì Tòa án có thể hoặc bắt buộc
phải lựa chọn để áp dụng thêm đối với người hoặc pháp nhân thương mại bị
kết án nhằm hỗ trợ cho Hình phạt chính đạt được mục đích phòng ngừa
chung và phòng ngừa riêng.
1.1.2. Khái niệm và các đặc điểm của hình phạt bổ sung đối với các tội xâm
phạm sở hữu
1.1.2.1. Khái niệm và các đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu
Đầu tiên để hiểu về hệ thống các hình phạt bổ sung được nghiên cứu
trong luận văn này chúng ta phải xác định được nội dung và bản chất của các
tội xâm phạm sở hữu được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam.
Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do
người đủ độ tuổi chịu trách nhệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại hoặc đe dọạ gây thiệt hại cho
quan hệ sở hữu được Luật Hình sự bảo vệ.
Tội xâm phạm sở hữu là tội xâm phạm quyền sở hữu của người. Tội xâm
phạm sở hữu có thể được phân thành ba nhóm. Nhóm các tội chiếm đoạt là
nhóm chiếm số đông (8 tội) và có tính điển hình. Nhóm tội có mục đích tư lợi
nhưng không có tính chiếm đoạt gồm 2 tội và nhóm tội không có mục đích tư
lợi gồm 3 tội [65, tr 200].
Theo Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) thì các tội xâm phạm
sở hữu quy định các loại hành vi khách quan ở các dạng sau đây:
+ Hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi của một người phạm tội cố ý
chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ

16


thể khác thành tài sản “của mình” hoặc của người khác mà mình quan tâm
[30].

+ Hành vi chiếm giữ trái phép tài sản là hành vi cố tình không giao tài
sản do ngẫu nhiên mà chiếm hữu được (ví dụ như: nhặt được, được chuyển
khoản nhầm,…) sau khi chủ tài sản hay người quản lý hợp pháp tài sản hoặc
cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.
+ Hành vi sử dụng trái phép là vì vụ lợi hoặc vì động cơ cá nhân khác
mà khai thác giá trị, giá trị sử dụng các tài sản mà không được phép, không
được sự đồng ý của chủ sở hữu hoặc người có chức năng quản lý về nghiệp
vụ đối với loại tài sản bị khai thác trái phép đó.
+ Hành vi hủy hoại, làm hư hỏng tài sản là những hành vi được thể hiện
thông qua đối tượng tác động làm mất hoàn toàn giá trị, giá trị sử dụng của tài
sản (hủy hoại); làm mất giá trị từng phần có thể khôi phục được (làm hư
hỏng).
+ Hành vi vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản là thiếu trách
nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của nhà nước hoặc vô ý gây thiệt
hại nghiêm trọng đến tài sản.
Các hành vi xâm phạm sở hữu có thể được thể hiện bằng hành động hoặc
không hành động. Riêng các tội phạm có tính chất chiếm đoạt chỉ có thể được
thực hiện bằng hành động. Cách thức và hình thức chiếm đoạt rất đa dạng và
được mô tả, khái quát thành những tội danh cụ thể.
Từ các đặc điểm của hành vi khách quan khác nhau như trên, có thể phân
loại Tội xâm phạm sở hữu thành các loại:
- Nhóm tội phạm có tính chất chiếm đoạt gồm 8 tội danh:
+ Tội cướp tài sản (Điều 168);

17


+ Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169);
+ Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170);
+ Tội cướp giật tài sản (Điều 171);

+ Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172);
+ Tội trộm cắp tài sản (Điều 173);
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174);
+ Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175).
- Nhóm tội có mục đích tư lợi không có tính chất chiếm đoạt gồm 2 tội
danh:
+ Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176);
+ Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 177).
- Nhóm tội không có tính vụ lợi, không chiếm đoạt gồm 3 tội danh:
+ Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178);
+ Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan,
tổ chức, doanh nghiệp (Điều 179);
+ Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 180).
1.1.2.2. Khái niệm và các đặc điểm của hình phạt bổ sung đối với các tội xâm
phạm sở hữu
Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu là những hình phạt
do Nhà nước quy định trong Bộ luật Hình sự, có thể được Tòa án áp dụng
kèm theo hình phạt chính đối với các tội phạm thuộc chương XVI phần Các
tội phạm nhằm hỗ trợ cho hình phạt chính đạt được mục đích phòng ngừa
chung và phòng ngừa riêng.

18


Đối với các tội xâm phạm sở hữu, phần các tội phạm của Bộ luật hình sự
2015 quy định 05 hình phạt bổ sung có thể được áp dụng đối với nhóm tội
này là
- Phạt tiền khi không áp dụng là Hình phạt chính;
- Quản chế;
- Cấm cư trú;

- Tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản;
- Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định.
* Những đặc điểm của Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm
sở hữu
Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trước hết sẽ mang
những đặc điểm chung của Hình phạt bổ sung với vai trò đứng bên cạnh, hỗ
trợ Hình phạt chính như sau:
Thứ nhất, Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu không
tuyên độc lập mà chỉ được áp dụng kèm theo Hình phạt chính đối với mỗi loại
tội phạm cụ thể [64, tr 49-61].
Khoản 3 Điều 32 quy định “đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị
áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt
bổ sung”, đây là điểm khác nhau cơ bản của Hình phạt chính và Hình phạt bổ
sung được quy định rất rõ ràng trong Bộ luật Hình sự. Hình phạt bổ sung
không được áp dụng độc lập mà chỉ có thể được áp dụng kèm theo Hình phạt
chính, nếu như bị cáo không được tuyên áp dụng Hình phạt chính thì đương
nhiên không được áp dụng Hình phạt bổ sung.
Hình phạt bổ sung vốn được coi là những hình phạt không có khả năng
thể hiện đầy đủ sự phản ứng của nhà nước không được áp dụng một cách độc

19


lập và chỉ được tuyên kèm với loại hình phạt chính nào đó do BLHS quy định
[42, tr 142-150]. Do đó, Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu
cũng chỉ có thể được áp dụng kèm theo Hình phạt chính khi có điều luật cụ
thể nào đó trong Chương XIV BLHS năm 2015 quy định chứ không phải
được áp dụng kèm với bất kỳ hình phạt chính nào.
Thứ hai, Hình phạt bổ sung không được áp dụng đối với tất cả các tội

xâm phạm sở hữu quy định trong Chương XIV BLHS năm 2015. Về nguyên
tắc, hình phạt bổ sung chỉ được phép áp dụng đối với những tội phạm do nhà
làm luật quy định. Trong Bộ luật hình sự, không phải tội phạm nào cũng bị
quy định áp dụng hình phạt bổ sung, trong tất cả các tội xâm phạm sở hữu
quy định tại Chương XIV, mặc dù phần lớn đều được nhà làm luật quy định
về việc áp dụng hình phạt bổ sung, song cũng có tội trong số đó lại không có
quy định này.
Thứ ba, Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu là biện pháp
cưỡng chế Nhà nước ít nghiêm khắc hơn so với Hình phạt chính được áp
dụng đối với nhóm tội phạm này [64, tr 49-61].
Vai trò của Hình phạt bổ sung là tăng cường, củng cố hiệu quả cho Hình
phạt chính nên tất yếu tính nghiêm khắc của Hình phạt bổ sung không thể
nặng hơn so với Hình phạt chính được. Tuy vậy, đối với các tội xâm phạm sở
hữu Bộ luật Hình sự 2015 vẫn có một số quy định Hình phạt bổ sung có tính
nghiêm khắc hơn so với Hình phạt chính (Ví dụ như các Hình phạt chính là
phạt tiền chỉ từ 10 triệu – 50 triệu hoặc cải tạo không giam giữ mà Hình phạt
bổ sung lại là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định).
Về bản chất, Hình phạt chính là biện pháp cưỡng chế có thể tước đi tính
mạng, tự do thân thể, cách ly người bị kết án ra khỏi xã hội thì Hình phạt bổ

20


sung không đem đến những hậu quả mang tính răn đe, trừng trị như vậy mà
chủ yếu hướng về phòng ngừa, cải tạo, giáo dục người bị kết án nhiều hơn. Ở
đây chúng ta có thể thấy rõ được mức độ nghiêm khắc thấp hơn của Hình phạt
bổ sung so với Hình phạt chính.
Thứ tư, Tòa án có thể áp dụng một hoặc một số Hình phạt bổ sung kèm
theo một Hình phạt chính đối với mỗi tội phạm [64, tr 49-61].

Đây là đặc điểm rất đặc trưng khác với Hình phạt chính của Hình phạt
bổ sung, Khoản 3 Điều 32 đã quy định “đối với mỗi tội phạm, người phạm tội
chỉ bị áp dụng một hình phạt chính nhưng có thể bị áp dụng một hoặc một số
hình phạt bổ sung”. Tuy nhiên, Tòa án chỉ có thể áp dụng Hình phạt bổ sung
chỉ khi có cơ sở là điều luật về tội phạm đó phải quy định được phép áp dụng
Hình phạt bổ sung.
Thứ năm, Hình phạt bổ sung không được áp dụng đối với người bị kết án
là người dưới 18 tuổi phạm tội [64, tr 49-61].
Khoản 6 Điều 91 Bộ luật Hình sự hiện hành quy định không áp dụng
hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, bởi vì Luật Hình sự
Việt Nam không coi đối tượng dưới 18 tuổi là người có được năng lực trách
nhiệm hình sự như người trưởng thành.
Có thể nhận thấy việc áp dụng Hình phạt bổ sung đối với người bị kết án
là người dưới 18 tuổi làm cho hiệu quả của hình phạt không đạt được, thậm
chí điều này còn được chứng minh trong thực tiễn vì khi nhưng đối tượng là
các em lứa tuổi dưới 18 phải chịu những biện pháp cưỡng chế sẽ bị tác động
xấu về cả tinh thần lẫn thể chất hoặc bị tước đi một phần tự do khiến cho quá
trình phát triển về nhân cách, năng lực không thể được diễn ra ở trong một
môi trường lành mạnh, tự nhiên.
Người dưới 18 tuổi là những chủ thể mà quá trình phát triển về tâm thức,

21


trí tuệ, thế giới quan không thực sự tương xứng với sự phát triển của thể chất,
chính vì sự biến đổi phức tạp về sinh học này dẫn đến những năng lực trách
nhiệm hình sự còn hạn chế và khó có thể đánh giá chính xác yếu tố lỗi của
hành vi. Việc quy định không áp dụng Hình phạt bổ sung đối với đối tượng
này đã thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của các nhà làm luật nước ta.
Thứ sáu, Hình phạt bổ sung không đòi hỏi một bộ máy thi hành án cồng

kềnh, tốn kém [42, tr 145]:
Trái với thi hành Hình phạt chính, việc thi hành Hình phạt bổ sung được
thực hiện rất đơn giản, không tốn kém của cải Nhà nước mà lại phát huy được
vai trò của chính quyền khu vực, chính quyền địa phương và hơn nữa là toàn
thể quần chúng xung quang người bị kết án trong việc giáo dục, đưa người
phải chấp hành án trở lại với cộng đồng xã hội và ngăn ngừa họ phạm tội
phạm mới. Đặc điểm này của Hình phạt bổ sung chính là ưu điểm vượt trội so
với thi hành án Hình phạt chính phải có sự phối hợp rất chặt chẽ giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng, Tòa án và cơ quan thi hành án và để đảm bảo tính thực
thi, hiệu quả thì Nhà nước phải bỏ ra rất nhiều kinh phí của ngân sách cho
những hoạt động này, đôi khi dẫn đến những tiêu cực trong thực tiễn thi hành
án rất bất cập.
Ngoài ra, Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu cũng có
những đặc điểm riêng biệt như sau:
Thứ nhất, Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu chỉ được
quy định tùy nghi áp dụng mà không phải là bắt buộc áp dụng. Đối với các
hình phạt bổ sung nói chung, Bộ luật hình sự Việt Nam có hai hình thức quy
định: một là bắt buộc áp dụng và hai là có thể áp dụng [66]. Theo đó có nhiều
điều khoản quy định bắt buộc hoặc được phép tùy nghi áp dụng Hình phạt bổ
sung. Tuy nhiên, đối với các tội xâm phạm sở hữu thì các Hình phạt bổ sung

22


luôn được quy định dưới hình thức lựa chọn. Với những trường hợp tùy nghi
(có thể áp dụng hoặc không) này, Tòa án phải cân nhắc xem xét từng tình tiết
của vụ án, tính chất nguy hiểm của tội phạm, nhân thân người phạm tội và các
tình tiết tăng giảm khung để có thể đưa ra phán quyết về áp dụng Hình phạt
bổ sung hay không tránh những trường hợp bản án không chính xác, chưa
công bằng hoặc chưa đủ cá thể hóa hình phạt. Ví dụ đối với tất cả các Hình

phạt bổ sung có thể được áp dụng đối với các tội xâm phạm sở hữu đều là tùy
nghi các hình phạt như phạt tiền, tịch thu tài sản hoặc là cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề công viện nhất định. Việc quy định tùy nghi áp dụng Hình
phạt bổ sung là một trong những đặc điểm rất mới của Bộ luật Hình sự 2015
so với các đạo luật trước đây của nước ta hầu hết hoặc chiếm phần lớn đều
quy định bắt buộc áp dụng Hình phạt bổ sung đối với tội phạm cụ thể, đặc
điểm này đóng vai trò rất lớn trong việc cá thể hóa hình phạt cũng như phân
hóa Trách nhiệm hình sự của pháp luật.
Thứ hai, hình phạt bổ sung phạt tiền hoặc tịch thu tài sản được quy định
một cách rất phổ biến đối với các tội xâm phạm sở hữu. Theo đó, trong tất cả
các tội xâm phạm sở hữu có thể được áp dụng hình phạt bổ sung thì tội nào
cũng quy định phạt tiền là hình phạt bổ sung. Điều này có thể lý giải qua hầu
hết các khách thể và đối tượng tác động mà nhóm tội phạm này xâm hại tới,
đó đều là những quan hệ về tài sản, đều tác động trực tiếp đến tài sản và chủ
thể thường hay có mục đích chiếm đoạt hoặc tư lợi. Vì vậy, các hình phạt bổ
sung đánh vào lợi ích kinh tế như hình phạt tiền hoặc hình phạt tịch thu tài sản
áp dụng bên cạnh hình phạt chính đối với nhóm tội phạm này sẽ hỗ trợ tích
cực cho hình phạt chính đạt được hiệu quả trừng trị và giáo dục phòng ngừa.
Thứ ba, Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu không nhằm
tước đi quyền tự do lãnh thổ của người nước ngoài phạm tội ở nước ta. Điều
này thể hiện qua việc tất cả các điều luật được quy định trong chương các tội

23


×