Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Quyết định hình phạt trong đồng phạm theo bộ luật hình sự việt nam năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN PHÚC THỊNH

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG ĐỒNG PHẠM
THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Ngành: Luật học

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03
Ngƣời hƣớng dẫn: GS – TSKH Lê Cảm.

Hà Nội, 2020


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 1
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ............................................................. 3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................ 5
6. Tính mới và những đóng góp của luận văn................................................... 5
7. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 6
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỒNG PHẠM VÀ QUYẾT
ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG ĐỒNG PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM....................................................................................................... 7


1. Vài nét về đồng phạm trong luật hình sự ................................................. 7
1.1. Khái niệm, các đặc điểm và ý nghĩa của đồng phạm .............................. 7
1.1.1. Khái niệm đồng phạm ............................................................................. 7
1.1.2. Các đặc điểm của đồng phạm ................................................................. 9
1.1.3. Ý nghĩa của khái niệm đồng phạm ........................................................ 14
1.1.4. Những loại người đồng phạm ............................................................... 15
1.2. Các hình thức đồng phạm ...................................................................... 18
2. Những vấn đề chung về quyết định hình phạt trong đồng phạm ......... 20
2.1. Khái niệm quyết định hình phạt trong đồng phạm ............................... 20
2.2 Các đặc điểm của quyết định hình phạt trong đồng phạm .................... 26
2.3 Ý nghĩa của quyết định hình phạt trong đồng phạm ............................. 33
KẾT LUẬN CHƢƠNG I ................................................................................ 35
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ THỰC ĐỊNH VỀ
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG ĐỒNG PHẠM ............................. 36
2.1. Quy định của pháp luật hình sự về quyết định hình phạt trong đồng
phạm trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 ................................ 36


2.1.1. Quy định trong giai đoạn trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất.......... 36
2.1.2. Quy định trong Bộ luật hình sự 1985.................................................... 39
2.1.3. Quy định trong Bộ luật hình sự 1999.................................................... 41
2.2. Quy định của Bộ luật hình sự 2015 ............................................................ 43
2.2.1. Quy định về quyết định hình phạt ......................................................... 43
2.2.2. Quy định về quyết định hình phạt trong đồng phạm............................. 47
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 51
Chƣơng 3: THỰC TIỄN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG ĐỒNG
PHẠM HIỆN NAY VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG ĐỒNG PHẠM ............................. 52
3.1 Thực tiễn quyết định hình phạt trong đồng phạm hiện nay ............... 52
3.1.1. Kết quả quyết định hình phạt trong đồng phạm ở Việt Nam hiện nay........ 52

3.1.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân khi quyết định hình phạt trong
trường hợp đồng phạm .................................................................................... 62
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt trong đồng phạm
theo pháp luật hình sự Việt Nam tƣơng lai ................................................ 73
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự ......................................... 73
3.2.2. Một số giải pháp về tổ chức và thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả
quyết định hình phạt trong đồng phạm ........................................................... 77
3.2.3. Nâng cao năng lực, chất lượng đội ngũ Thẩm phán ngành Tòa án nhân
dân ................................................................................................................... 77
3.2.4. Nâng cao năng lực, chất lượng của đội ngũ hội thẩm nhân dân trong
xét xử hình sự .................................................................................................. 81
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 83
KẾT LUẬN .................................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về quyết định hình
phạt nói chung và Quyết định hình phạt trong đồng phạm nói riêng, các Tòa
án nhân dân đã áp dụng triệt để các quy định này nhằm đảm bảo hiệu quả
của quyết định hình phạt. Tuy nhiên, trên thực tế trong thời gian vừa qua,
cùng với sự thay đổi quy định của pháp luật có liên quan, việc quyết định
hình phạt trong đồng phạm vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập, cần đƣợc
giải quyết ví dụ nhƣ: việc xác định vị trí, vai trò của những ngƣời đồng
phạm, nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong đồng phạm, hay vấn
đề quyết định hình phạt trong trƣờng hợp ngƣời thực hành, thực hiện hành vi
vƣợt quá. Khi quyết định hình phạt trong trƣờng hợp đồng phạm, nhiều Tòa
án đã gặp không ít khó khăn do một số quy định về quyết định hình phạt còn
mang tính khái quát cao, chƣa chặt chẽ, một số quy định khác còn chƣa theo

kịp tiến trình phát triển của đời sống kinh tế xã hội... Chính những hạn chế
này đã ảnh hƣởng không nhỏ đến việc nâng cao hiệu quả của hình phạt. Từ
những phân tích nêu trên, việc nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống
đề tài: “Quyết định hình phạt trong đồng phạm theo quy định tại Bộ luật
hình sự năm 2015”, làm rõ hơn về mặt lý luận, nhằm góp phần vào việc
hoàn chỉnh hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam là yêu cầu cấp thiết, đáp
ứng quá trình hội nhập, hợp tác quốc tế, đặt biệt là khi Việt Nam đã gia nhập
Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO).
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nƣớc ta, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về các nội
dung liên quan đến chế định đồng phạm, chế định Quyết định hình phạt. Đáng
chú ý là những công trình sau:
1) Bản chất pháp lý của quy phạm “Nguyên tắc quyết định hình phạt”
tại Điều 37 Bộ luật hình sự Việt Nam (Một số vấn đề lý luận thực tiễn và hoàn
thiện pháp luật), của TSKH. Lê Cảm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1 +2/1989.
1


2) Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (Chương VII
“Quyết định hình phạt”, trong sách “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm
1999- Tập 1 phần chung” do TS. Uông Chu Lƣu chủ biên, Nxb Chính trị
Quốc gia, 2001.
3) Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, của Dƣơng Tuyết
Miên, Luận án Tiến sỹ Luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, 2003.
4) Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (Mục VI, Chương
XIII” Quyết định hình phạt”, trong sách “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
năm 1999- Phần chung”, của ThS. Đinh Văn Quế, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, 2000.
5) Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (Mục VI, Chương
XIX “Quyết định hình phạt”, trong sách: “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam

phần chung” của Trung tâm đào tạo từ xa- Đại học Huế, do TS Võ Khánh
Vinh chủ biên, Nxb Giáo dục, 2001.
6) Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (Chương XVI
“Quyết định hình phạt”, của ThS. Trịnh Quốc Toản, trong sách: “Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam phần chung” (tái bản lần thứ nhất), do TSKH. Lê Cảm
chủ biên, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2003.
7) Dương Tuyết Miên. Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam,
Luận án Tiến sỹ Luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, 2003.
8) Nguyễn Thị Thu Hòa. “Người thực hành trong đồng phạm theo luật
hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật - Đại học quốc gia
Hà Nội, 2011.
9)Nguyễn Thị Liên.“Các hình thức đồng phạm trong Luật hình sự Việt
Nam”, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009.
10)Lê Thị Loan. “Người giúp sức trong đồng phạm theo Luật hình sự Việt
Nam”, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014.
12)Nguyễn Thị Tuyết Mai. “Người tổ chức trong đồng phạm theo Luật
hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật - Đại học quốc gia
Hà Nội, 2011.
2


13)Nguyễn Thị Bình. Quyết định hình phạt trong đồng phạm, Luận văn
thạc sĩ luật học, Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, 2010.
14) Trần Quang Tiệp. Đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam, Luận án
tiến sỹ luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, 2000.
Các công trình nghiên cứu khoa học trên đã đề cập và giải quyết nhiều
vấn đề bức xúc lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đặt ra. Tuy
nhiên, các công trình này mới chỉ dựng lại ở việc nghiên cứu chế định đồng
phạm, chế định Quyết định hình phạt một các riêng lẻ. Có một số công trình
đề cập đến mối liên hệ giữa hai chế định này nhƣng chỉ đƣợc xem xét mối

liên hệ giữa hai chế định này nhƣ khối kiến thức cơ bản ở một phần, một mục
trong các giáo trình giảng dạy, một chƣơng của sách chuyên khảo hay một
phần của luận văn, luận án mà chƣa có công trình nào đề cập đến việc nghiên
cứu với đúng lên gọi là “Quyết định hình phạt trong đồng phạm theo Bộ luật
hình sự năm 2015” một các có hệ thống, toàn diện ở cấp độ một luận văn
thạc sỹ luật học.
Là một ngƣời công tác trong ngành Tòa án, có điều kiện nắm bắt tình
hình tội phạm cũng nhƣ thực tiễn làm công tác xét xử, tôi thấy tình hình tội
phạm đƣợc thực hiện dƣới hình thức đồng phạm có diễn biến phức tạp và xu
hƣớng ngày càng gia tăng không chỉ về số vụ mà cả về tính chất, mức độ
nghiêm trọng, hậu quả thiệt hại....gây ảnh hƣởng xấu đến tình hình trật tự và
an toàn xã hội, cụ thể lổi cộm trong thời gian vừa qua ngành Tòa án đã tiến
hành xét xử các loại tội về tham nhũng về lĩnh vực quản lý kinh tế, dầu khí,
tài chính, ngân hàng,đánh bạc, gây thất thoát cho ngân sách nhà nƣớc nhiều
nghìn tỷ đồng đƣợc dƣ luận đặc biệt quan tâm. Bởi vậy, tôi đã chọn đề tài:
“Quyết định hình phạt trong đồng phạm theo Bộ luật hình sự năm 2015” để
viết luận văn thạc sỹ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trƣớc yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm
chung. Đặc biệt là những tội phạm đƣợc thực hiện bằng hình thức đồng phạm.
3


Luận văn này nhằm mục đích làm rõ hơn, cụ thể hơn về mặt lý luận những
vấn đề Quyết định hình phạt trong vụ án đồng phạm, góp phần nâng cao hơn
nữa hiệu quả của Quyết định hình phạt trong vụ án hình sự có đồng phạm.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể nhƣ sau:

Một là, nghiên cứu những vẫn đề lý luận về Quyết định hình phạt trong
đồng phạm nhƣ khái niệm đồng phạm, khái niệm Quyết định hình phạt trong
đồng phạm, các đặc điểm, các nguyên tắc và căn cứ Quyết định hình phạt
trong đồng phạm.
Hai là, nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển các quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam về Quyết định hình phạt trong đồng phạm.
Ba là, nghiên cứu pháp luật hình sự một số nƣớc trên thế giới về Quyết
định hình phạt trong đồng phạm.
Bốn là, nghiên cứu tình hình Quyết định hình phạt đối với đồng phạm
trên phạm vi cả nƣớc. Từ đó xây dựng giải pháp nâng cao hiệu quả Quyết
định hình phạt trong đồng phạm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn đó là những vấn đề lý luận và thực
tiễn về Quyết định hình phạt và đặc biệt là Quyết định hình phạt trong đồng
phạm, từ đó có nghiên cứu đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những quan điểm, những quy định
về Quyết định hình phạt trong đồng phạm theo luật hình sự Việt Nam, đặc
biệt là trong Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Về không gian đề tài nghiên cứu thực tiễn Quyết định hình phạt trong
đồng phạm trên phạm vi cả nƣớc trong giai đoạn 05 năm, từ năm 2014 đến
năm 2018.
4


Trong luận văn này, tác giả chỉ nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực
tiễn về Quyết định hình phạt đối với cá nhân, không đề cập đối với pháp nhân
thƣơng mại vì thực tiễn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân

thƣơng mại phạm tội chƣa có.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về đấu tranh phòng
và chống tội phạm, về tính nhân đạo của pháp luật, cũng nhƣ thành tựu của
các chuyên ngành khoa học pháp lý nhƣ: Lịch sử pháp luật, lý luận về nhà
nƣớc và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố
tụng hình sự và triết học, những quan điểm khoa học trong các công trình
nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà
khoa học luật hình sự.
Quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả kết hợp sử dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu khoa học nhƣ: Phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp tổng hợp,
phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp thống kê.
6. Tính mới và những đóng góp của luận văn
Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định mới trong
phần Quyết định hình phạt, cụ thể bổ sung mới nội dung tại khoản 2 Điều 54
Bộ luật hình sự 2015: “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong
khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu
là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể”
đây là điểm bổ sung rất mới và hết sức cần thiết, thể hiện đƣợc bản chất nhân
đạo của nhà nƣớc.
Kết quả của đề tài góp phần làm phong phú thêm cho lý luận của khoa
học luật hình sự về Quyết định hình phạt trong đồng phạm. Luận văn góp
phần vào việc Quyết định hình phạt trong đồng phạm của cơ quan Tòa án,
cũng nhƣ đƣa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm của chế định Quyết
định hình phạt trong vụ án hình sự có đồng phạm trong lĩnh vực lập pháp,
5



cũng nhƣ việc áp dụng chúng trong thực tiễn; góp phần cá thể hóa hình phạt
và cá thể hóa tội phạm.
Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo trong lĩnh vực pháp luật, kết
quả nghiên cứu của luận văn có thể đƣợc dùng làm tài liệu tham khảo cần thiết cho
các cán bộ đang làm công tác thực tiễn trong các cơ quan tiến hành tố tụng, các cán
bộ nghiên cứu khoa học, giảng dạy, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên
ngành tƣ pháp, luật hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
đƣợc kết cấu thành 03 chƣơng cụ thể nhƣ sau:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về đồng phạm và quyết định hình phạt
trong đồng phạm
Chƣơng 2: Quy định của pháp luật hình sự thực định về quyết định hình
phạt trong đồng phạm
Chƣơng 3: Thực tiễn quyết định hình phạt trong đồng phạm hiện nay và
một số giải pháp nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt trong đồng phạm.

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỒNG PHẠM VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT TRONG ĐỒNG PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1. Vài nét về đồng phạm trong luật hình sự
1.1. Khái niệm, các đặc điểm và ý nghĩa của đồng phạm
1.1.1. Khái niệm đồng phạm
Dƣới góc độ khoa học, khái niệm đồng phạm cũng đƣợc các tác giả quan
tâm, làm rõ. Hiện nay đang có nhiều quan điểm về khái niệm đồng phạm. Hầu
hết các quan điểm đều có điểm chung là đƣa ra khái niệm đồng phạm dựa trên
các dấu hiệu của đồng phạm (mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể). Tuy

nhiên, bên cạnh đó cũng có những quan điểm khác cho rằng khái niệm đồng
phạm không những phải phản ánh đƣợc các dấu hiệu đặc trƣng của đồng
phạm mà còn phải phản ánh đƣợc các loại ngƣời đồng phạm cũng nhƣ sự
tham gia của họ vào việc thực hiện tội phạm. Do đó, có thể phân thành hai
nhóm quan điểm sau:
Nhóm quan điểm thứ nhất: Dựa vào các dấu hiệu của đồng phạm:
Theo nhóm quan điểm này thì có 3 dạng khái niệm phổ biến là:
Thứ nhất: Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực
hiện một tội phạm. Theo khái niệm này thì số lƣợng ngƣời tham gia thực hiện
tội phạm phải từ hai ngƣời trở lên và những ngƣời này phải cố ý cùng thực
hiện một tội phạm. Ở đây, khái niệm này đƣợc xây dựng dựa vào dấu hiệu
khách quan của đồng phạm. Đây là khái niệm đƣợc quy định tại khoản 1,
Điều 17 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Điểm hạn chế của quan điểm này là sử dụng thuật ngữ “cùng thực hiện
một tội phạm” nên mới chỉ đề cập đƣợc một trƣờng hợp đồng phạm giản đơn,
chỉ có ngƣời thực hành mà không đề cập đến trƣờng hợp đồng phạm phức tạp
còn có ngƣời tổ chức, ngƣời xúi giục, ngƣời giúp sức. Do vậy, thuật ngữ
“cùng thực hiện một tội phạm” không phản ánh hết đƣợc bản chất cũng nhƣ
các trƣờng hợp đồng phạm.
7


Thứ hai: Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự cố ý cùng tham gia
thực hiện tội phạm. [39, tr.76] Theo quan điểm này thì số lƣợng ngƣời tham
gia thực hiện tội phạm cũng là từ hai ngƣời trở lên và những ngƣời này phải
thỏa mãn các điều kiện về chủ thể của tội phạm nhƣ: họ phải đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự và phải có năng lực trách nhiệm hình sự; Ngoài ra, những
ngƣời này phải cố ý cùng tham gia thực hiện tội phạm với nhau thì mới đƣợc
coi là đồng phạm. Có thể thấy, quan điểm này nhấn mạnh vào dấu hiệu mặt

khách quan của đồng phạm và dùng thuật ngữ “tham gia thực hiện tội phạm”
thay vì thuật ngữ “thực hiện tội phạm” nhƣ ở quan điểm thứ nhất. Quan điểm
này không những nói rõ về số lƣợng ngƣời tham gia thực hiện tội phạm mà
còn nêu rõ điều kiện chủ thể của tội phạm đối với những ngƣời này.
Thứ ba: Đồng phạm là sự cố ý cùng tham gia của hai người trở lên vào
việc thực hiện tội phạm do cố ý [2, tr.16]. Quan điểm này giống với hai quan
điểm trên ở dấu hiệu mặt khách quan của đồng phạm (số lƣợng ngƣời tham
gia, mối liên hệ giữa những ngƣời đồng phạm), ngoài ra cũng dùng thuật ngữ
“tham gia” nhƣ quan điểm thứ hai. Tuy nhiên, quan điểm này có thêm dấu
hiệu mặt chủ quan của đồng phạm là những ngƣời đồng phạm thực hiện tội
phạm với lỗi cố ý.
Quan điểm này có cách diễn giải hơi lủng củng và gây khó hiểu cho
ngƣời đọc. Quan điểm này muốn nói rằng: những ngƣời đồng phạm phải có
lỗi cố ý khi tham gia vào việc thực hiện tội phạm và họ phải cố ý cùng thực
hiện tội phạm, tức là họ phải có sự liên hệ với nhau trong quá trình thực hiện
tội phạm. Và nói “Đồng phạm là sự cố ý ...” là không đúng, khái niệm này
nên diễn đạt theo ý là: Đồng phạm là trƣờng hợp có hai ngƣời trở lên cố ý
cùng tham gia thực hiện tội phạm do cố ý. Nói nhƣ vậy ngƣời đọc sẽ dễ hiểu
hơn và câu từ cũng không bị lủng củng.
Nhóm quan điểm thứ hai: Dựa vào các dấu hiệu của đồng phạm và các
loại ngƣời đồng phạm. Theo đó, đồng phạm là hình thức phạm tội có hai
người trở lên cố ý cùng tham gia thực hiện tội phạm do cố ý với vai trò là
8


người thực hiện, người xúi giục, người giúp sức hoặc người tổ chức [32,
tr.53]. Quan điểm này giống với các quan điểm ở trên về số lƣợng ngƣời tham
gia thực hiện tội phạm, lỗi, mối liên hệ giữa những ngƣời đồng phạm. Tuy
nhiên khái niệm đồng phạm ở quan điểm này phản ánh đƣợc những loại
ngƣời đồng phạm (ngƣời thực hiện, ngƣời tổ chức, ngƣời xúi giục và ngƣời

giúp sức). Quan điểm này không chỉ nêu lên đƣợc trong một vụ đồng phạm có
những loại ngƣời đồng phạm nào mà còn sử dụng thuật ngữ “người thực
hiện” thay cho thuật ngữ “người thực hành” – thuật ngữ đang đƣợc sử dụng
trong BLHS Việt Nam hiện hành; nêu rõ đƣợc các dấu hiệu của đồng phạm mà
còn phản ánh đƣợc các loại ngƣời đồng phạm cũng nhƣ các trƣờng hợp đồng
phạm. Ngoài ra, quan điểm này đã dùng thuật ngữ “người thực hiện” thay cho
thuật ngữ “người thực hành” Vì thực hành có thể đƣợc hiểu theo hai nghĩa: Áp
dụng lý thuyết vào thực tế và nghĩa vụ thực hiện. Thuật ngữ “người thực hành”
đƣợc sử dụng để chỉ một loại ngƣời đồng phạm đƣợc hiểu theo nghĩa “người
thực hiện”. Do đó, việc sửa đổi thuật ngữ “người thực hành” thành “người thực
hiện” làm cho thuật ngữ rõ ràng hơn.
Nhƣ vậy, qua việc nghiên cứu các quan điểm khoa học về khái niệm
đồng phạm em đƣa ra khái niệm đồng phạm nhƣ sau: Đồng phạm là trường
hợp có hai người trở lên có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm cố ý cùng
tham gia thực hiện tội phạm do cố ý với vai trò là người thực hiện, người xúi
giục, người giúp sức hoặc người tổ chức.
1.1.2. Các đặc điểm của đồng phạm
* Dấu hiệu thuộc mặt khách quan
Trong trƣờng hợp tội phạm đƣợc thực hiện dƣới hình thức đồng phạm thì
những vấn đề liên quan phải đƣợc xem xét dƣới góc độ là kết quả tổng hợp từ
hành vi của nhiều ngƣời. Để hiểu rõ hơn về bản chất của đồng phạm thì cần
bắt đầu từ việc nghiên cứu dấu hiệu về mặt khách quan của đồng phạm. Từ
khái niệm về đồng phạm, có thể thấy, về mặt khách quan, đồng phạm luôn có
những dấu hiệu bắt buộc là:

9


Dấu hiệu thứ nhất: Có từ hai ngƣời trở lên và những ngƣời này có đủ điều
kiện của chủ thể của tội phạm;

Số lƣợng ngƣời tham gia vào việc thực hiện tội phạm là một trong những
yếu tố đầu tiên cần xem xét để xác định đây có phải là vụ án đồng phạm hay
không. Bởi đây là yếu tố khách quan bắt buộc và không thể thiếu của đồng
phạm. Quan điểm phổ biến và đƣợc công nhận hiện nay đó là số lƣợng ngƣời
tham gia vào việc thực hiện tội phạm trong vụ án đồng phạm là từ hai ngƣời
trở lên [29, tr.27]. Điều này cũng có nghĩa số lƣợng ngƣời tham gia vào vụ án
đồng phạm không bị giới hạn ở mức tối đa. Đây là một quan điểm linh hoạt
và phù hợp với thực tiễn, bởi không có một giới hạn chính xác nào có thể đặt
ra cho mức tối đa số lƣợng ngƣời tham gia vào vụ án đồng phạm cả. Mà số
lƣợng ít hay nhiều ngƣời tham gia vào việc thực hiện một tội phạm phụ thuộc
vào tính chất, quy mô, mục đích hay loại tội phạm mà họ hƣớng đến.
Từ việc số lƣợng ngƣời tham gia vào vụ án đồng phạm là từ hai ngƣời trở
lên, tức là sẽ có nhiều ngƣời cùng nhau bàn bạc, thống nhất ý chí, chung sức để
phối hợp với nhau cùng thực hiện một tội phạm. Do vậy, so với trƣờng hợp
phạm tội đơn lẻ thì đồng phạm sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội hơn và
có tính chất nghiêm trọng hơn.
Tuy nhiên, không phải tất cả mọi trƣờng hợp có nhiều ngƣời tham gia vào
việc thực hiện một tội phạm đều là đồng phạm. Bởi ngoài dấu hiệu về số lƣợng
ngƣời tham gia thì những ngƣời đồng phạm còn phải thỏa mãn cả dấu hiệu về
điều kiện của chủ thể của tội phạm [39, tr.56]. Cụ thể, chủ thể của tội phạm phải
là ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định. Ngƣời có
năng lực TNHS theo luật hình sự Việt Nam là ngƣời đã đạt độ tuổi chịu TNHS
theo Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và không
thuộc trƣờng hợp ở tình trạng không có năng lực TNHS theo Điều 21 Bộ luật
hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 .
Trong một số trƣờng hợp, chủ thể của tội phạm đòi hỏi phải có thêm một
số dấu hiệu đặc biệt khác vì chỉ khi thỏa mãn những dấu hiệu đó những ngƣời
thực hiện hành vi phạm tội mới đƣợc coi là chủ thể của tội phạm. Dấu hiệu
10



chủ thể đặc biệt không đòi hỏi phải có ở tất cả những ngƣời đồng phạm mà
chỉ đòi hỏi ở ngƣời thực hành [29, tr.34].
Về dấu hiệu thứ hai: Những ngƣời này phải cùng thực hiện một tội phạm
(cố ý).
Trong vụ án đồng phạm đòi hỏi những ngƣời đồng phạm phải có sự liên
kết hành động với nhau nhằm cùng tham gia vào việc thực hiện một tội phạm.
Nếu thỏa mãn dấu hiệu về số lƣợng ngƣời tham gia và dấu hiệu chủ thể của
những ngƣời này mà họ không cùng nhau tham gia vào việc thực hiện một tội
phạm thì đó không phải là đồng phạm, mà chỉ đƣợc coi là đồng phạm nếu
những ngƣời này cùng thực hiện một tội phạm.
“Cùng tham gia vào việc thực hiện một tội phạm” đƣợc hiểu là những
ngƣời đồng phạm hành động phối hợp với nhau để đạt đƣợc kết quả chung.
Hành vi của những ngƣời đồng phạm có sự tác động qua lại lẫn nhau, họ hỗ
trợ và thúc đẩy nhau thực hiện tội phạm [39, tr.76]. Và mỗi ngƣời đồng phạm
tham gia vào tội phạm với một hoặc một số hành vi sau: hành vi thực hiện tội
phạm, hành vi tổ chức, hành vi xúi giục, hành vi giúp sức. Trong một vụ đồng
phạm có thể có cả bốn loại hành vi nhƣng cũng có thể chỉ có một trong bốn
loại hành vi trên. Những ngƣời đồng phạm có thể tham gia với một loại hành
vi cũng có thể tham gia với nhiều loại hành vi khác nhau. Họ có thể tham gia
vào vụ án ở bất cứ giai đoạn nào, từ giai đoạn chuẩn bị, trong quá trình thực
hiện tội phạm, trƣớc khi tội phạm hoàn thành hoặc sau khi tội phạm hoàn
thành nhƣng chƣa kết thúc [26, tr.25].
Hành vi của mỗi ngƣời là điều kiện cần thiết cho hoạt động phạm tội
chung. Trong đó hành vi của ngƣời thực hành trực tiếp làm phát sinh hậu quả,
còn các hành vi của những ngƣời đồng phạm khác nhƣ ngƣời tổ chức, ngƣời
xúi giục, ngƣời giúp sức không trực tiếp làm phát sinh hậu quả mà gây ra hậu
quả thông qua hành vi của ngƣời thực hành.
Nhƣ vậy, tìm hiểu dấu hiệu thuộc mặt khách quan của đồng phạm ta cần
phải xác định đƣợc những vấn đề sau: số lƣợng những ngƣời tham gia thực

hiện tội phạm phải từ hai ngƣời trở lên, những ngƣời này phải có đủ điều kiện
11


của một chủ thể tội phạm và những ngƣời đó phải cùng tham gia cố ý thực
hiện một tội phạm.
* Dấu hiệu về mặt chủ quan
Vì đồng phạm là hình thức phạm tội đặc biệt nên mặt chủ quan của đồng
phạm cũng có những dấu hiệu khác so với tội phạm thông thƣờng là những
ngƣời cùng thực hiện một tội phạm đều phải có lỗi cố ý. Tùy theo từng cấu thành
tội phạm tƣơng ứng nếu có quy định dấu hiệu động cơ hoặc dấu hiệu mục đích
thì đồng phạm đòi hỏi những ngƣời cùng thực hiện tội phạm phải có cùng động
cơ hoặc có cùng mục đích phạm tội.
Từ sự khái quát trên ta có thể xem xét các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan
của đồng phạm nhƣ sau:
Dấu hiệu lỗi:
Các quan điểm hiện nay đều cho rằng đồng phạm chỉ đƣợc thực hiện với
lỗi cố ý, cụ thể là gồm cả lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp [29, tr.27-33]. Lỗi
cố ý trong đồng phạm đƣợc thể hiện trên hai mặt đó là mặt lý trí và mặt ý chí.
Mặt lý trí đƣợc thể hiện ở trong nhận thức của những ngƣời đồng phạm đều
phải biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, đồng thời họ cũng phải
biết rằng ngƣời khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình.
Ngoài ra, họ đều thấy trƣớc hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của
mình cũng nhƣ hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện. Mặt ý
chí thể hiện ở việc những ngƣời đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động
chung và cùng mong muốn hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhƣng
cùng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Hiện nay, có nhiều quan điểm cho rằng có trƣờng hợp những ngƣời đồng
phạm đều có lỗi cố ý trực tiếp hoặc đều có lỗi cố ý gián tiếp; Nhƣng cũng có
trƣờng hợp có ngƣời đồng phạm có lỗi cố ý trực tiếp, còn những ngƣời đồng

phạm khác lại có lỗi cố ý gián tiếp. Có thể chia thành các trƣờng hợp nhƣ sau:
Thứ nhất: Trƣờng hợp tất cả những ngƣời đồng phạm đều có lỗi cố ý
trực tiếp. Trong trƣờng hợp này, những ngƣời tham gia thực hiện một tội
phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và biết ngƣời
12


khác có hành vi nguy hiểm cùng với mình, họ đều thấy trƣớc hậu quả nguy
hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng nhƣ hậu quả chung của tội phạm
mà họ tham gia thực hiện, đồng thời họ cùng mong muốn có hoạt động chung
và cùng mong muốn hậu quả xảy ra.
Thứ hai: Trƣờng hợp tất cả những ngƣời đồng phạm đều có lỗi cố ý gián
tiếp. Đây là trƣờng hợp những ngƣời tham gia thực hiện tội phạm đều nhận thức
rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và biết ngƣời khác có hành vi nguy
hiểm cùng với mình, họ đều thấy trƣớc hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành
vi của mình cũng nhƣ hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện, họ
cùng mong muốn có hoạt động chung và tuy không mong muốn nhƣng cùng
có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Thứ ba: Trƣờng hợp trong số những ngƣời đồng phạm có ngƣời có lỗi cố
ý trực tiếp, có ngƣời có lỗi cố ý gián tiếp. Tức là những ngƣời đồng phạm đều
nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và biết ngƣời khác có
hành vi nguy hiểm cùng với mình, họ đều thấy trƣớc hậu quả nguy hiểm cho
xã hội của hành vi của mình cũng nhƣ hậu quả chung của tội phạm mà họ
tham gia thực hiện, họ cùng mong muốn có hoạt động chung, tuy nhiên họ lại
khác nhau về thái độ đối với hậu quả: Có ngƣời mong muốn hậu quả xảy ra,
bên cạnh đó lại có ngƣời tuy không mong muốn nhƣng vẫn có ý thức để mặc
cho hậu quả xảy ra.
Bên cạnh dấu hiệu lỗi cùng cố ý thì đối với những tội phạm có cấu thành tội
phạm mà điều luật quy định dấu hiệu động cơ hoặc dấu hiệu mục đích là dấu
hiệu bắt buộc thì ta cần xem xét thêm dấu hiệu động cơ, mục đích trong mặt chủ

quan của đồng phạm.
Dấu hiệu động cơ, mục đích:
Về dấu hiệu mục đích phạm tội và động cơ phạm tội trong đồng phạm
đều không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, trong một số cấu thành tội
phạm có quy định dấu hiệu mục đích phạm tội, động cơ phạm tội là dấu hiệu
bắt buộc thì để xác định có đồng phạm của tội phạm đó đòi hỏi phải xác định
đƣợc tất cả những ngƣời đồng phạm đều có chung mục đích phạm tội, động
13


cơ phạm tội hoặc nếu không có cùng mục đích, động cơ phạm tội thì cũng
phải biết và có sự tiếp nhận mục đích, động cơ phạm tội của nhau [30, tr.136].
Tóm lại, khi nghiên cứu về dấu hiệu của đồng phạm thì ta cần nghiên
cứu những dấu hiệu về mặt khách quan và những dấu hiệu về mặt chủ quan
của đồng phạm để có thể nhận thức về đồng phạm một cách toàn diện và đầy
đủ nhất.
1.1.3. Ý nghĩa của khái niệm đồng phạm
Trong đồng phạm, những ngƣời phạm tội có mối liên kết để thực hiện
hoạt động phạm tội, với nhiều trƣờng hợp diễn ra rất phức tạp, đa dạng. Trên
cơ sở xác định đúng hình thức đồng phạm, các cơ quan điều tra, truy tố, xét
xử sẽ nhận diện đƣợc đầy đủ hơn, chính xác hơn mức độ nguy hiểm của hành
vi phạm tội và cá thể hóa TNHS của từng ngƣời đồng phạm. Cơ sở để phân
loại các hình thức đồng phạm là căn cứ phản ánh tính chất, mức độ quan hệ
liên kết trong đồng phạm khi những ngƣời đồng phạm chia sẻ ý định phạm
tội, kế hoạch hóa và hiện thực hóa hành vi phạm tội. Vì vậy, việc phân loại
các hình thức đồng phạm là phƣơng pháp để nhận thức đúng các hình thức
đồng phạm. Hình thức đồng phạm cũng nhƣ bất kỳ một hình thức nào đều
phải dựa trên những căn cứ phân loại nhất định.
Phân loại các hình thức đồng phạm là việc chia các hình thức đồng phạm
thành các nhóm khác nhau dựa trên cơ sở một căn cứ xác định nhằm vào những

mục đích nhất định. Phân loại theo căn cứ nào cho phù hợp phụ thuộc vào mục
đích của sự phân loại chứ không nhất thiết phải trên cơ sở một căn cứ nhất định.
Trong khoa học luật hình sự trên thế giới cũng nhƣ Việt Nam, có nhiều quan điểm
khác nhau về các hình thức đồng phạm. Việc chia hình thức đồng phạm thành
những dạng khác nhau là bởi những căn cứ phân loại chúng không giống nhau.
Mỗi cách phân loại lại dựa trên một căn cứ, một mục đích nhất định và cách lý
giải cho sự phân loại đó cũng có sự hợp lý riêng của nó.
Khoa học luật hình sự nhiều nƣớc Tây Âu cũng đã có nhiều nghiên cứu
về việc phân loại các hình thức đồng phạm. Đánh giá về cách phân loại này,
TS. Trần Quang Tiệp cho rằng: Do không muốn làm rõ bản chất của tội
14


phạm là hành vi nguy hiểm, xâm phạm đến lợi ích của giai cấp tƣ sản thống
trị, nên các nhà hình sự khoa học tƣ sản không đƣa ra căn cứ phân loại mà
chia các hình thức đồng phạm thành các loại: hình thức đồng phạm chủ
động, hình thức đồng phạm thụ động; hình thức đồng phạm cần thiết, hình
thức đồng phạm lựa chọn; hình thức đồng phạm trƣớc, hình thức đồng phạm
sau [56, tr.72].
Tại Việt Nam, các hình thức đồng phạm thƣờng đƣợc chia thành: đồng
phạm không có thông mƣu trƣớc và đồng phạm có thông mƣu trƣớc hay đồng
phạm giản đơn (đồng phạm đồng thực hành) và đồng phạm phức tạp (đồng
phạm có sự thực hiện các vai trò khác nhau).
1.1.4. Những loại người đồng phạm
Những loại ngƣời đồng phạm bao gồm: ngƣời tổ chức, ngƣời thực hành,
ngƣời xúi giục và ngƣời giúp sức.
* Người thực hành
Ngƣời thực hành là ngƣời trực tiếp thực hiện tội phạm. Các quan điểm
khoa học hiện nay đều cho rằng hành vi “trực tiếp thực hiện tội phạm” của
ngƣời thực hành đƣợc hiểu là ngƣời thực hành tự mình thực hiện hành vi

đƣợc mô tả trong cấu thành tội phạm (CTTP) hoặc là ngƣời thực hành thực
hiện hành vi đó thông qua hành vi của ngƣời khác mà ngƣời này không phải
chịu TNHS vì những lý do khác nhau [29, tr.31].
Ngƣời thực hành thƣờng là ngƣời giữ vai trò quan trọng trong vụ án đồng
phạm, hành vi của ngƣời thực hành quyết định đến việc hậu quả của tội phạm
có xảy ra hay không, có đạt đƣợc mục đích mà những ngƣời đồng phạm hƣớng
đến hay không. Do vậy về mặt pháp lý, hành vi của ngƣời thực hành đƣợc coi
là vị trí trung tâm vì nhiều vấn đề về định tội và QĐHP đƣợc giải quyết căn cứ
vào hành vi đó [29, tr.22].
Từ sự phân tích trên có thể đƣa ra một khái niệm chung nhất về ngƣời
thực hành nhƣ sau: Ngƣời thực hành là ngƣời trực tiếp thực hiện, tham gia
vào việc thực hiện tội phạm hoặc thực hiện tội phạm bằng thủ đoạn cố ý tác

15


động đến ngƣời khác để ngƣời này thực hiện hành vi đƣợc mô tả trong CTTP,
nhƣng những ngƣời này theo quy định của BLHS thì không phải chịu TNHS.
* Người tổ chức
Quan điểm phổ biến hiện nay cho rằng ngƣời tổ chức là ngƣời chủ mƣu,
cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Ngƣời chủ mƣu là ngƣời đề xuất ra những âm mƣu, vạch ra phƣơng
hƣớng hoạt động của nhóm đồng phạm [36, tr.27]. Hoạt động phạm tội của
ngƣời chủ mƣu thể hiện ở hành vi bày mƣu, tính kế, vạch kế hoạch tiến hành
tội phạm, đƣa ra kế hoạch để cho những ngƣời đồng phạm khác thực hiện
theo. Hay nói cách khác những ngƣời đồng phạm khác sẽ dựa vào những kế
hoạch đƣợc vạch ra bởi ngƣời chủ mƣu để thực hiện hành vi phạm tội.
Ngƣời chủ mƣu có thể tham gia trực tiếp vào việc thực hiện tội phạm
hoặc cũng có thể không tham gia vào tổ chức mà đứng ngoài tổ chức. Nhƣng
ngƣời chủ mƣu luôn mong muốn đồng bọn thực hiện tội phạm theo kế hoạch

của mình để gây ra hậu quả. Trong mọi trƣờng hợp ngƣời chủ mƣu luôn thực
hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp [26, tr.25].
Ngƣời cầm đầu là ngƣời đứng đầu tổ chức phạm tội, là ngƣời trực tiếp
đứng ra thành lập nhóm đồng phạm hoặc tham gia lập kế hoạch phạm tội,
phƣơng hƣớng hoạt động cũng nhƣ đôn đốc, phân công, giao trách nhiệm và
điều khiển hoạt động của nhóm đồng phạm. Ngƣời cầm đầu có thể là ngƣời
tham gia vào nhóm đầu tiên thông qua việc thành lập nhóm đồng phạm rồi lôi
kéo những ngƣời khác vào nhóm, cũng có thể tham gia vào nhóm sau khi
nhóm đã đƣợc thành lập nhƣng do “uy tín” nên đƣợc giữ vị trí cầm đầu của
băng nhóm. Ngƣời chủ mƣu có thể đứng trong hoặc ngoài tổ chức nhƣng
ngƣời cầm đầu thì luôn phải đứng trong tổ chức để trực tiếp điều khiển hoạt
động chung của tổ chức đó.
Ngƣời chỉ huy là ngƣời điều khiển trực tiếp của nhóm đồng phạm có vũ
trang hoặc bán vũ trang [26, tr.23]. Ngƣời chỉ huy đƣợc giao nhiệm vụ đôn
đốc, điều khiển đồng bọn thực hiện kế hoạch phạm tội một cách có hiệu quả.

16


Thông thƣờng chỉ trong đồng phạm phức tạp hoặc phạm tội có tổ chức mới
xuất hiện ngƣời chỉ huy.
Nhƣ vậy, sự phân biệt ba loại ngƣời “chủ mƣu”, “cầm đầu” và “chỉ huy”
chỉ là tƣơng đối bởi vai trò của họ gần giống nhau trong vụ án đồng phạm. Họ
đều tham gia vụ án đồng phạm với vai trò là ngƣời tổ chức, giữ vai trò thành
lập nhóm đồng phạm hoặc điều khiển hoạt đông. Nhƣ vậy họ có vai trò quan
trọng trong việc phát sinh, tồn tại và phát triển của nhóm đồng phạm có tổ
chức nên là ngƣời nguy hiểm nhất trong vụ án đồng phạm. Do đó, nguyên tắc
xử lý tội phạm tại điểm c khoản 1 Điều 3 BLHS năm 2015 đã quy định rõ
rằng: “Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ...”.
* Người xúi giục

Ngƣời xúi giục là ngƣời kích động, dụ dỗ, thúc đẩy ngƣời khác thực hiện
tội phạm.
Đặc điểm của ngƣời xúi giục là không trực tiếp gây ra tội phạm nhƣng thực
hiện ý định phạm tội của mình bằng cách tác động đến tƣ tƣởng và ý chí của
ngƣời khác, khiến ngƣời này phạm tội. Ngƣời xúi giục có thể là ngƣời đã nghĩ ra
việc phạm tội và đã thúc đẩy cho ngƣời khác – ngƣời mà ban đầu chƣa có ý định
phạm tội nhƣng sau khi bị ngƣời khác xúi giục thì đã nảy sinh ý định phạm tội
và dẫn tới việc thực hiện tội phạm. Bên cạnh đó, ngƣời xúi giục cũng có thể tác
động để thúc đẩy một ngƣời thực hiện tội phạm mà trƣớc đó ngƣời này đã có ý
định phạm tội rồi nhƣng chƣa thực hiện.
Ngƣời xúi giục cũng có thể cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm
nhƣng cũng có thể không. Hành vi xúi giục có thể đƣợc thực hiện bằng nhiều hình
thức khác nhau nhƣ kích động, lôi kéo, cƣỡng ép, dụ dỗ, lừa phỉnh [29, tr.66].
Ngƣời xúi giục không cần phải sử dụng hết tất cả những hình thức nêu trên mà chỉ
cần sử dụng một hình thức để xúi giục ngƣời khác phạm tội thì đƣợc coi là ngƣời
xúi giục và ngƣời này phải chịu TNHS về hành vi xúi giục của mình.
* Người giúp sức
Ngƣời giúp sức là ngƣời tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc
thực hiện tội phạm.
17


Từ khái niệm trên có thể hiểu rằng hành vi của ngƣời giúp sức là hành vi
tạo ra những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho ngƣời thực hành thực hiện
hành vi phạm tội. Giúp sức về vật chất có thể là cung cấp công cụ, phƣơng tiện
hoặc khắc phục những trở ngại… để tạo điều kiện cho ngƣời thực hành thực
hiện tội phạm đƣợc dễ dàng, thuận lợi hơn. Giúp sức về tinh thần có thể là đƣa
ra những chỉ dẫn, góp ý kiến, cung cấp tình hình... cho ngƣời thực hành để tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho họ trong việc thực hiện tội phạm [33, tr.34].
Hành vi giúp sức có thể đƣợc thực hiện dƣới dạng hành động nhƣng cũng

có thể có trƣờng hợp dƣới dạng không hành động. Đó có thể là trƣờng hợp của
những ngƣời có nghĩa vụ pháp lý phải hành động nhƣng đã cố ý không hành
động và qua đó đã loại trừ trở ngại khách quan ngăn cản việc thực hiện tội phạm
của ngƣời thực hành, tạo điều kiện cho ngƣời đó có thể thực hiện hoặc tiếp tục
thực hiện tội phạm đƣợc đến cùng.
Một dạng giúp sức đặc biệt là giúp sức bằng lời hứa hẹn trƣớc sẽ che
giấu cho ngƣời phạm tội, che giấu các tang chứng, vật chứng hoặc sẽ tiêu thụ
các vật do phạm tội mà có sau khi tội phạm đã thực hiện xong. Lời hứa hẹn
trƣớc của ngƣời giúp sức tuy không tạo ra những điều kiện thuận lợi cụ thể
cho việc thực hiện hành vi phạm tội, nhƣng đã giúp củng cố ý định phạm tội,
củng cố quyết tâm phạm tội hoặc quyết tâm phạm tội đến cùng của ngƣời
thực hành. Chính do có sự tác động tinh thần nhƣ vậy mà luật hình sự Việt
Nam đã coi hành vi hứa hẹn trƣớc cũng là giúp sức tinh thần. Lời hứa hẹn của
ngƣời giúp sức có thể xảy ra trƣớc khi việc thực hiện tội phạm bắt đầu nhƣng
cũng có thể xảy ra trong quá trình thực hiện tội phạm. Luật hình sự Việt Nam
không đòi hỏi sự hứa hẹn của ngƣời giúp sức phải đƣợc thực hiện bởi dù đƣợc
thực hiện hay không thì lời hứa hẹn đó cũng đã có vai trò giúp sức về tinh
thần cho ngƣời thực hành, nên ngƣời có hành vi này phải chịu TNHS.
1.2. Các hình thức đồng phạm
* Đồng phạm giản đơn
Đồng phạm giản đơn đƣợc khoa học luật hình sự Việt Nam định nghĩa: "
là hình thức đồng phạm, trong đó những ngƣời cùng tham gia vào vụ phạm tội
18


đều có vai trò là ngƣời thực hành" [59, tr.234]. Trong hình thức đồng phạm
giản đơn, những ngƣời tham gia đều thực hiện hành vi phạm tội với vai trò
thực hành, không có sự phân công, phân nhiệm cụ thể giữa từng ngƣời phạm
tội với nhau. Do vậy hình thức tội phạm này không có tính chất nguy hiểm,
tinh vi nhƣ các hình thức đồng phạm khác.

* Đồng phạm phức tạp
Đồng phạm phức tạp đƣợc định nghĩa: " là hình thức đồng phạm, trong
đó có một hoặc một số ngƣời tham gia giữ vai trò ngƣời thực hành, còn những
ngƣời đồng phạm khác giữ vai trò xúi giục, tổ chức hay giúp sức" [28, tr.241].
Ở hình thức đồng phạm phức tạp, hành vi phạm tội của những ngƣời
đồng phạm không những khác nhau ở nội dung phạm tội và hình thức biểu
hiện, mà còn có thể khác nhau về thời gian, địa điểm phạm tội. Phần lớn các
hình thức đồng phạm phức tạp có thông mƣu trƣớc, bởi lẽ hành vi tổ chức,
hành vi xúi giục, hành vi giúp sức thƣờng đƣợc tiến hành trƣớc thời điểm
ngƣời thực hành thực hiện hành vi phạm tội. Sự thỏa thuận giữa những ngƣời
đồng phạm ở hình thức đồng phạm này có thể trƣớc thời điểm thực hiện tội
phạm một thời gian dài, cũng có thể ngay trƣớc thời điểm thực hiện tội phạm.
Sự khác nhau cơ bản giữa đồng phạm phức tạp và đồng phạm giản đơn thể
hiện ở chỗ, trong đồng phạm phức tạp có sự phân công, phân nhiệm về vai trò
của từng ngƣời phạm tội; trong khi đó đồng phạm giản đơn thì tất cả những
ngƣời đồng phạm đều đóng vai trò thực hành, cùng thực hiện hành vi đƣợc
mô tả trong cấu thành tội phạm.
* Đồng phạm không có thông mưu trước
Đồng phạm không có thông mƣu trƣớc là hình thức đồng phạm mà
những ngƣời đồng phạm không có bàn bạc, trao đổi trƣớc với nhau về việc
thực hiện tội phạm [58, tr.189]. Đồng phạm không có thông mƣu từ trƣớc
không có sự câu kết, phối hợp chặt chẽ giữa những ngƣời phạm tội so với
hình thức đồng phạm có thông mƣu từ trƣớc.

19


* Đồng phạm có thông mưu trước
Khoa học luật hình sự Việt Nam định nghĩa: "Đồng phạm có thông mƣu
trƣớc là hình thức đồng phạm, trong đó những ngƣời đồng phạm có sự thỏa

thuận, bàn bạc trƣớc với nhau về tội phạm cùng thực hiện" [58, tr.141]. Trong
hình thức đồng phạm này, những ngƣời phạm tội đã có sự bàn bạc lên kế
hoạch về việc thực hiện hành vi phạm tội. Việc bàn bạc nhằm xây dựng
phƣơng án thực hiện tội phạm, phân công vai trò của từng chủ thể, chuẩn bị
phƣơng tiện vật chất… thể hiện sự cấu kết chặt chẽ, trình độ tổ chức cùng với
tính chất nguy hiểm hơn so với đồng phạm không có thông mƣu từ trƣớc.
* Phạm tội có tổ chức:
Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm ở mức độ cao nhất trong đó
có sự phân công, phân nhiệm cụ thể cho từng chủ thể phạm tội nhằm thực
hiện và che dấu hành vi phạm tội một cách chuyên nghiệp, trong thời gian dài.
Phạm tội có tổ chức phải có sự câu kết chặt chẽ giữa những ngƣời cùng thực
hiện tội phạm. Trong thực tế, sự câu kết này có thể thể hiện dƣới các dạng sau
đây: a) Những ngƣời đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm tội. b) Những
ngƣời đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế hoạch đã
thống nhất trƣớc. c) Những ngƣời đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần,
nhƣng đã tổ chức thực hiện tội phạm theo một kế hoạch đƣợc tính toán kỹ
càng, chu đáo, có chuẩn bị phƣơng tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả
kế hoạch che giấu tội phạm.
2. Những vấn đề chung về quyết định hình phạt trong đồng phạm
2.1. Khái niệm quyết định hình phạt trong đồng phạm
Trƣớc khi tìm hiểu về khái niệm Quyết định hình phạt trong đồng phạm
chúng ta cần phải xác định đƣợc khái niệm Quyết định hình phạt (QĐHP).
Pháp luật là đại lƣợng công bằng áp dụng cho những trƣờng hợp khác
nhau. Do đó, pháp luật hình sự quy định những phạm vi chung đối với những
ngƣời không giống nhau trong thực tế. Ttrong phạm vi đó, làm thế nào để đƣa ra
một quyết định công bằng, hợp lý là nhiệm vụ rất quan trọng và đầy trách nhiệm

20



của những cơ quan và ngƣời áp dụng pháp luật hình sự. Ở đây, việc áp dụng
đúng các quy định của pháp luật hình sự đã đƣợc ban hành liên quan chặt chẽ
với việc áp dụng có căn cứ và đúng đắn các đòi hỏi của các quy phạm pháp luật
hình sự với việc tuân thủ chính xác và nhất quán các quy định của pháp luật với
việc xác định chân lý khách quan của vụ án hình sự.
Lần đầu tiên, khái niệm hình phạt đƣợc quy định trong Điều 26 BLHS
năm 1999, đây là một điểm mới so với BLHS năm 1985 đồng thời tiếp tục
đƣợc ghi nhận tại Điều 30 BLHS 2015. Việc quy định này không những
bảo đảm nhận thức thống nhất về hình phạt trong khoa học, mà còn có
nhiều mục đích khác nhƣ: giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội, bảo đảm tính
răn đe và nghiêm minh của pháp luật hình sự, cũng nhƣ yêu cầu đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm. Bởi lẽ, đề cập tội phạm chúng ta không thể
không nhắc đến hình phạt. Tội phạm và hình phạt là hai nội dung cơ bản
trong luật hình sự của mọi quốc gia. Tội phạm và hình phạt luôn luôn đi
liền với nhau, có nghĩa là giữa tội phạm và hình phạt luôn luôn có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau và không tách rời nhau... [30, tr. 93]. Về nguyên
tắc, khi đã thực hiện tội phạm thì phải chịu TNHS và thông thƣờng phải
chịu hình phạt và ngƣợc lại hình phạt không thể đƣợc áp dụng khi không có
tội phạm xảy ra và cũng không áp dụng đối với ai khác ngoài ngƣời đã
phạm tội. Do đó, đúng nhƣ PGS.TS. Trịnh Quốc Toản đã nhận định:
Chừng nào, Nhà nƣớc còn cần đến luật hình sự và hình phạt, thì hình phạt
chỉ đƣợc áp dụng và chỉ cho phép đƣợc áp dụng với tính chất là sự phản
ứng Nhà nƣớc và xã hội đối với tội phạm; nó là sự phủ định công khai,
quyết liệt của Nhà nƣớc, là sự thể hiện không thể dung thứ của Nhà nƣớc
và xã hội đối với các hành vi phạm tội... [67, tr. 37].
Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc nghiêm khắc nhất đƣợc áp
dụng theo trình tự riêng biệt cho ngƣời phạm tội, bảo đảm cho luật hình sự
thực hiện đƣợc mục đích của mình. Hình phạt với tƣ cách là sự hạn chế, tƣớc
bỏ những quyền, lợi ích quan trọng nhất của ngƣời phạm tội có những tác
động nhất định đến bản thân ngƣời phạm tội cũng nhƣ tác động đến xã hội

21


theo những hƣớng khác nhau tuỳ thuộc vào việc hình phạt đó đƣợc quyết định
thế nào. Luật hình sự đòi hỏi những tác động đó của hình phạt phải đạt đƣợc
những kết quả trực tiếp hay nói cách khác là đạt đƣợc mục đích của hình phạt.
Về mặt lập pháp, Bộ luật hình sự ( BLHS) hiện hành không quy định cụ thể
khái niệm QĐHP là gì ? Dƣới góc độ lý luận, QĐHP là một khái niệm hiện nay
có nhiều quan điểm không giống nhau.
ThS. Đinh Văn Quế đƣa ra định nghĩa mang tính khái quát về QĐHP
nhƣ sau "QĐHP là việc Tòa án lựa chọn hình phạt buộc ngƣời bị kết án phải
chấp hành. Tòa án lựa chọn loại hình phạt nào, mức hình phạt bao nhiêu, phải
tuân theo những quy định của BLHS" [45, tr. 3]. Định nghĩa này đã chỉ ra nội
dung quan trọng của QĐHP là một hoạt động của Toà án đồng thời đó là việc
Toà án lựa chọn hình phạt đồng thời chỉ ra căn cứ pháp lý của QĐHP đó
chính là các quy định của BLHS. Tuy nhiên, định nghĩa này cho thấy chƣa
bao quát đƣợc hết hoạt động QĐHP. Bởi lẽ, QĐHP là một hoạt động khá
phức tạp bao gồm nhiều thao tác ngoài việc lựa chọn loại hình phạt còn xác
định mức hình phạt. Bên cạnh đó, tác giả cho rằng hình phạt áp dụng với
“ngƣời bị kết án” là chƣa chính xác. Bởi ngƣời bị kết án là ngƣời đã có bản án
kết tội của Tòa án.
Trong khi đó, PGS.TS. Lê Văn Đệ thì cho rằng: "QĐHP là sự lựa chọn
loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp
dụng đối với ngƣời phạm tội cụ thể" [24, tr. 161]. Định nghĩa này đã chỉ ra cụ
thể hai thao tác quan trọng khi QĐHP là xác định loại hình phạt và xác định
mức hình phạt đồng thời chỉ ra tính chất pháp lý của của hoạt động QĐHP,
đối tƣợng bị áp dụng hình phạt là ngƣời phạm tội cụ thể. Tuy nhiên, ở đây
chƣa cho thấy chủ thể thực hiện hoạt động áp dụng hình phạt là Toà án.
Cũng có quan điểm tiếp cận khái niệm QĐHP còn đƣợc tiếp cận dƣới góc
độ của luật tố tụng hình sự. Theo đó: QĐHP là một giai đoạn rất quan trọng

trong hoạt động xét xử, là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt
cụ thể đƣợc quy định trong luật hình sự tƣơng ứng với cấu thành tội phạm cụ thể
để áp dụng với ngƣời phạm tội, thể hiện trong bản án buộc tội [70, tr. 73].
22


×