Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÂM THỊ LIÊN

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƢỜNG
HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƢA ĐẠT
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG VĂN HÙNG

HÀ NỘI – 2020


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.


Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Lâm Thị Liên


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ............................................................. 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 3
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài ........................................................ 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
5. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu .......................................... 5
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG TRƢỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƢA
ĐẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .................................................. 7
1.1. Khái niệm, căn cứ và ý nghĩa của việc quyết định hình phạt .................... 7
1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt .............................................................. 7
1.1.2. Các căn cứ quyết định hình phạt ........................................................... 10
1.1.3. Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt .................................................. 16
1.2. Khái niệm và đặc điểm của quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt ........................................................................ 19
1.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt ............................................................................................ 19
1.2.2. Đặc điểm của quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt ............................................................................................ 24

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 29


Chƣơng 2: QUY PHẠM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG
TRƢỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƢA ĐẠT
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT
SỐ NƢỚC ...................................................................................................... 30
2.1. Quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay ............................. 30
2.1.1. Các quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt từ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 đến trước pháp
điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam 1985 ................................. 30
2.1.2. Các quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 ................. 33
2.1.3. Các quy phạm về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt trong BLHS Việt Nam năm 1999 ..................................................... 37
2.2. Quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt theo Bộ luật hình sự năm 2015 .......................................... 40
2.2.1. Quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
theo Bộ luật hình sự năm 2015 ....................................................................... 40
2.2.2. Quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt
theo Bộ luật hình sự năm 2015 ....................................................................... 44
2.2.3. Nhận xét quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 .............. 49
2.3. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt trong pháp luật hình sự một số nước ......................................................... 51
2.3.1. Pháp luật hình sự Liên bang Nga .......................................................... 51
2.3.2. Pháp luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ................................ 53
2.3.3. Pháp luật hình sự Thụy Điển................................................................. 54
2.3.4. Pháp luật hình sự Nhật Bản................................................................... 56



KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 58
Chƣơng 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ VÀ BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI
VỚI CHUẨN BỊ PHẠM TỘI VÀ PHẠM TỘI CHƢA ĐẠT.................... 59
3.1. Thực tiễn xét xử về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trong giai đoạn
05 năm (2014 - 2018) ...................................................................................... 59
3.2. Biện pháp đảm bảo hiệu quả áp dụng pháp luật về quyết định hình phạt
đối với chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt ............................................. 85
3.2.1. Biện pháp giải thích, tuyên truyên, phổ biến pháp luật hình sự ........... 86
3.2.2. Biện pháp đảm bảo năng lực chuyên môn của cán bộ bảo vệ pháp luật
......................................................................................................................... 89
3.2.3. Đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử các vụ án hình
sự ..................................................................................................................... 94
3.2.4. Đảm bảo thủ tục tại phiên tòa được thực hiện đầy đủ, đúng quy định ....... 96
3.2.5. Đảm bảo công tác giám sát, kiểm tra, kiểm sát các vụ án chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt ...................................................................................... 97
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1. BLHS

: Bộ Luật hình sự

2. QĐHP


: Quyết định hình phạt

3. TNHS

: Trách nhiệm hình sự

4. LHS

: Luật hình sự

5. PLHS

: Pháp luật hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 3.1. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm của 63
tỉnh/Thành phố trong năm 2014 ...................................................................... 60
Bảng 3.2. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm của 63
tỉnh/Thành phố trong năm 2015 ...................................................................... 63
Bảng 3.3. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm của 63
tỉnh/Thành phố trong năm 2016 ...................................................................... 66
Bảng 3.4. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm của 63
tỉnh/Thành phố trong năm 2017 ...................................................................... 69
Bảng 3.5. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm của 63
tỉnh/Thành phố trong năm 2018 ...................................................................... 72
Bảng 3.6. Kết quả khảo sát 300 vụ án hình sự của một số tỉnh trong giai đoạn
05 năm (2014 - 2018) ...................................................................................... 75
Biểu đồ 3.1. Tổng số vụ án hình sự và bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm của 63
tỉnh/Thành phố trong giai đoạn 05 năm (2014 - 2018) ................................... 74

Biểu đồ 3.2. Kết quả khảo sát 300 vụ án hình sự của một số tỉnh trong giai
đoạn 05 năm (2014 - 2018) ............................................................................. 76


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tội phạm được các nhà khoa học nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau,
trong khoa học LHS, tội phạm được hiểu theo nghĩa khái quát nhất là hành vi
nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái PLHS và phải chịu hình phạt. Sự xuất hiện
của tội phạm diễn ra cùng với sự chuyển đổi xã hội từ trạng thái tự nhiên sang
trạng thái xã hội có Nhà nước và Pháp luật, để bảo đảm cho xã hội không bị
xâm hại bởi các xung đột, mâu thuẫn nội tại nhà nước đã quy định những
hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm và áp dụng trách TNHS nhiệm
hình sự đối với người nào thực hiện các hành vi đó. Quy định tội phạm và
hình phạt luôn luôn là một phương thức đấu tranh chống tội phạm và nó đã
chứng tỏ là một trong những phương thức bảo vệ quyền con người, giữ cho xã
hội ổn định và phát triển, nó phải được duy trì và phát huy hiệu quả, bằng
cách nhận thức ngày càng tốt hơn, đầy đủ hơn về tội phạm và hình phạt.
Chính sự vận động và biến đổi không ngừng của bản thân tội phạm trên thực
tế và tính phức tạp, đa dạng của bản thân tội phạm, làm phát sinh nhu cầu
nghiên cứu những quy định về tội phạm và hình phạt một cách thường xuyên
và dưới nhiều góc độ, trong đó có cả phương thức thực hiện một tội phạm cụ
thể, vấn đề mà đề tài luận văn này muốn đề cập đến.
Kết quả pháp điển hóa lần thứ ba tại Việt Nam là Bộ luật hình sự năm
2015, bộ luật đã quy định rất cụ thể và rõ ràng về vấn đề QĐHP của Tòa án
đối với các trường hợp phạm tội nói chung, trường hợp chuẩn bị phạm tội và
phạm tội chưa đạt nói riêng, trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử ở nước ta
nhiều năm qua cho thấy các vụ án về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt

còn có những hạn chế nhất định.
TNHS đối với người thực hiện hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội
chưa đạt là cần thiết, hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt là những


2

hành vi nguy hiểm cho xã hội, chúng đe dọa trực tiếp gây thiệt hại cho những
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Người chuẩn bị phạm tội và phạm
tội chưa đạt đã có ý thức lựa chọn thái độ phủ định với các yêu cầu và chuẩn
mực xã hội, người chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt chưa thực hiện tội
phạm đến cùng hoàn toàn do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn
của họ.
Xác định chính xác từng giai đoạn phạm tội để phân hóa tội phạm và cá
thể hóa TNHS đối với người phạm tội không phải lúc nào cũng dễ dàng và
chính xác, đặc biệt là phân định ranh giới giữa các hình thức phạm tội khác
nhau trong quá trình thực hiện tội phạm. QĐHP đối với trường hợp chuẩn bị
phạm tội và phạm tội chưa đạt có nơi còn thiếu chính xác, đôi khi còn nặng
quá hay nhẹ quá, thậm chí áp dụng sai quy định pháp luật làm mất đi tính
công bằng và giảm đi hiệu quả của áp dụng hình phạt, ảnh hưởng đến kết quả
đấu tranh phòng chống tội phạm.
Làm sáng tỏ bản chất giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết, qua đó nâng cao hiệu quả công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm yêu cầu xử lý đúng người, đúng
tội và đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan
người vô tội.
Trước khi LHS Việt Nam được pháp điển hóa lần thứ ba thì đã có một số
công trình nghiên cứu về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm
tội chưa đạt.
Tiếp cận và nghiên cứu đề tài QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội

và phạm tội chưa đạt, những vấn đề lý luận và việc áp dụng nó trong thực tiễn
có ý nghĩa quan trọng trong quá trình đấu tranh xử lý và phòng chống tội
phạm. Đây cũng chính là lý do học viên quyết định lựa chọn nghiên cứu đề
tài: “Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội
chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam”.


3

2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Luận văn nghiên cứu một cách đồng bộ có hệ thống và riêng biệt toàn
diện nhất về những vấn đề lý luận và thực tiễn về QĐHP trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam. Luận văn
góp phần hoàn thiện hơn các quy định của BLHS hiện hành về chế định này,
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử của Tòa án về QĐHP
trong các trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt.
Luận văn tiếp cận nghiên cứu các bản án của Toà án đã xét xử, qua đó
xác định đúng và chính xác việc QĐHP trong các trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt. Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần
thiết phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả đặt ra cho mình các nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể như sau:
- Xây dựng khái niệm QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và
phạm tội chưa đạt, chỉ ra các đặc điểm và ý nghĩa của việc QĐHP trong hai
trường hợp này;
- Phân tích các căn cứ QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và
phạm tội chưa đạt;
- Hệ thống hóa các quy định về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm

tội và phạm tội chưa đạt theo BLHS năm 1985 đến nay;
- Luận văn nghiên cứu kết quả hoạt động xét xử của Tòa án đối với việc
QĐHP cho người phạm tội trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Mục đích của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số điểm mới về
mặt lý luận khoa học và thực tiễn của việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị


4

phạm tội, phạm tội chưa đạt theo LHS Việt Nam năm 2015, xác định những
điểm bất cập chưa hợp lý trong thực tiễn xét xử và đề xuất một số biện pháp
đảm bảo nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm về QĐHP trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về
QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo LHS Việt
Nam.
4.1. Tổng quan tài liệu
Trước khi có BLHS Việt Nam năm 2015, các nhà khoa học LHS đã có
một số công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu về QĐHP nói chung,
nhưng QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo
LHS Việt Nam, có rất ít công trình nghiên cứu về vấn đề này.
* Sách chuyên khảo bao gồm: 1) Chế định các giai đoạn thực hiện tội
phạm trong sách Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự,
tập IV, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2000 của tác giả TSKH. GS. Lê
Văn Cảm; 2) Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung),
sách chuyên khảo, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005 của GS. TSKH.
Lê Văn Cảm; 3) Sách giáo trình: Các giai đoạn phạm tội (chương XII, Giáo

trình Luật hình sự Việt Nam Phần chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội của
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí, 2001 (tái bản 2003, 2007).
* Các bài viết bao gồm: 1) Trần Văn Độ, Hoàn thiện các quy định của
Bộ luật hình sự về giai đoạn thực hiện tội phạm, Tạp chí Toà án nhân dân, số
02/1999; 2) GS. TS. Võ Khánh Vinh: Quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đồng phạm, Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 1/1992; 3) Lâm Minh Hạnh, Chương III - Các giai đoạn phạm tội,
trong sách: Những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trong Luật hình sự Việt


5

Nam, NXB Khoa học Xã hội Hà Nội, năm 1986; 4) TS. Phạm Mạnh Hùng:
Hoàn thiện các quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự với trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đồng phạm, Tạp chí Kiểm sát, số
10/1999; 5) PGS. TS. Trịnh Quốc Toản: Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội
chưa đạt, Tạp chí Khoa học (chuyên san Kinh tế - Luật), số 4/2002; 6) TS.
Trịnh Tiến Việt: Về phạm tội chưa đạt và một số hình thức phạm tội khác
trong quá trình thực hiện tội phạm, Tạp chí Khoa học (chuyên san Luật học),
số 02/2009; 7) TS. Dương Tuyết Miên: Quyết định hình phạt trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, Tạp chí Luật học, số 4/2001 và
"Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam", Luận án Tiến sỹ luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2002; 8) TS. Trần Văn Sơn trong:
Quyết định hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 11/2000; 9) Nguyễn Thị Mai, Chuẩn bị phạm tội hay
phạm tội chưa đạt, Tạp chí Toà án nhân dân, số 6/1993,…
Nhận diện một cách tổng quát, các sách báo khoa học pháp lý trên đây
đều đề cập đến một số khía cạnh nhất định về QĐHP trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, nhưng chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ khác
nhau, chưa đưa đến một nhận thức thống nhất, toàn diện. Với nội dung đề tài

đã chọn, học viên lựa chọn nghiên cứu làm luận văn của mình, sẽ góp phần
làm rõ bản chất về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt.
5. Nội dung, địa điểm và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được bố cục thành 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về quyết định hình phạt trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam;


6

Chương 2: Quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam và pháp luật hình sự
một số nước;
Chương 3: Thực tiễn xét xử và biện pháp đảm bảo hiệu quả áp dụng pháp
luật về quyết định hình phạt đối với chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận Chủ nghĩa Mác - Lê
Nin, phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả có sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Trao đổi chuyên gia, tổng hợp, phân tích, so sánh, đối
chiếu…
5.3. Địa điểm nghiên cứu
Tác giả chọn địa điểm nghiên cứu tại cơ sở đào tạo Sau đại học thuộc
Đại học Quốc gia Hà Nội, trụ sở thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà
Nội và một số địa điểm khác thuận lợi cho việc nghiên cứu đề tài.


7


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG
TRƢỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƢA ĐẠT
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, căn cứ và ý nghĩa của việc quyết định hình phạt
1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt
Để thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng và chống tội phạm, Nhà nước
thường sử dụng đồng thời nhiều biện pháp khác nhau về chính trị, kinh tế, xã
hội, giáo dục và pháp lý, các biện pháp này đan xen, hỗ trợ nhau và tùy thuộc
vào yêu cầu cụ thể của công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm
trong từng thời kỳ lịch sử mà biện pháp này hay biện pháp kia được đặt lên
hàng đầu, trong tất cả các biện pháp đấu tranh phòng và chống tội phạm thì
hình phạt là biện pháp nghiêm khắc nhất, được áp dụng phổ biến nhất và có
lịch sử lâu đời nhất. QĐHP được coi là một công việc quan trọng trong hoạt
động xét xử vụ án hình sự của Tòa án [42, tr.11].
QĐHP chính xác, khách quan và công minh là cơ sở để đạt được các
mục đích của hình phạt: Trừng trị và giáo dục, cải tạo người phạm tội; ngăn
ngừa họ phạm tội mới; răn đe, ngăn ngừa những người khác trong xã hội, chỉ
khi hình phạt được quyết định một cách chính xác thì mục đích của hình phạt
mới đạt được. Trong khoa học LHS đã có rất nhiều tác giả đưa ra khái niệm
QĐHP, chẳng hạn như:
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí đưa ra định nghĩa: QĐHP là việc nhận thức
và áp dụng PLHS do Tòa án có thẩm quyền, nhân danh Nhà nước thực hiện
sau khi đã định tội danh và tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể để quyết
định khung hình phạt, loại hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) mức
hình phạt cụ thể áp dụng cho cá nhân người phạm tội trong phạm vi giới hạn


8


của khung hình phạt do luật định, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội; hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội
theo quy định của BLHS [8].
TS. Chu Thị Trang Vân thì cho rằng: QĐHP là một giai đoạn rất quan
trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, là việc Tòa án lựa chọn
loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể được quy định trong LHS tương ứng
với cấu thành tội phạm cụ thể để áp dụng với người phạm tội, thể hiện trong
bản án buộc tội [50, tr.73].
ThS. Đinh Văn Quế đưa ra định nghĩa còn mang tính khái quát như:
“QĐHP là việc Tòa án lựa chọn hình phạt buộc người bị kết án phải chấp
hành. Tòa án lựa chọn loại hình phạt nào, mức hình phạt bao nhiêu phải tuân
thủ theo những quy định của BLHS” [25, tr.88].
GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa cho rằng: QĐHP là sự lựa chọn loại hình
phạt và xác định mức hình phạt (đối với loại hình phạt có các mức khác nhau)
trong phạm vi luật định để áp dụng đối với chủ thể chịu TNHS (bao gồm
người phạm tội và pháp nhân thương mại phạm tội) [12, tr.246].
Các tác giả đều cho rằng: “QĐHP là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt
cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ
cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng cho chủ thể phạm tội”. QĐHP có
thể được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, QĐHP bao gồm việc QĐHP chính và QĐHP bổ sung [12,
tr.247]. Thậm chí, có quan điểm còn cho rằng QĐHP là quyết định biện pháp
xử lý đối với người phạm tội, nghĩa là bao gồm cả việc quyết định lựa chọn
hình phạt, mức hình phạt, quyết định biện pháp tư pháp hoặc quyết định các
biện pháp tha miễn trong luật hình sự [13, tr.65], [55, tr.71].
Thứ hai, QĐHP là quyết định biện pháp xử lý đối với chủ thể chịu
TNHS. Theo nghĩa này, QĐHP là hoạt động tiếp theo việc định tội của Tòa
án, bao gồm quyết định miễn hình phạt, QĐHP chính, hình phạt bổ sung,



9

quyết định các biện pháp tư pháp và quyết định biện pháp chấp hành hình
phạt (như quyết định cho hưởng án treo) [12, tr.247].
Giáo trình LHS Việt Nam (Phần chung) của Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2001 định nghĩa: “QĐHP là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt
cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ
cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội” [6, tr.317].
Hoặc Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội,
2001 cũng tương đồng với quan điểm này khi nêu: “QĐHP là sự lựa chọn
loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp
dụng đối với người phạm tội cụ thể” [14, tr.201]. Ngoài ra, đây cũng là quan
điểm về QĐHP được sử dụng trong một số sách tham khảo, chuyên khảo khác
như: Sách chuyên khảo “Định tội danh và QĐHP theo luật hình sự Việt
Nam”, Hà Nội, 2003 của PGS. TS. Lê Văn Đệ và sách chuyên khảo “Tìm hiểu
về hình phạt và quyết định hình phạt theo luật hình sự Việt Nam”, Hà Nội,
2000 của ThS. Đinh Văn Quế; ... [25, tr.89].
Trên cơ sở những phân tích nêu trên thì dưới góc độ khoa học LHS theo
quan điểm của học viên thì khái niệm QĐHP có thể được hiểu như sau:
QĐHP là hoạt động của Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ
thể bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung, trong phạm vi luật định để
áp dụng đối với người phạm tội.
Có thể hiểu QĐHP là hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS thực định, là
một quá trình nhận thức lý luận mang tính logic để Tòa án lựa chọn loại và
mức hình phạt áp dụng với người có hành vi phạm tội theo quy định của
BLHS Việt Nam. QĐHP chỉ diễn ra sau khi Tòa án đã tiến hành hoạt động
định tội danh và người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội được
khẳng định là có tội. Người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội bị
kết án bằng bản án của Tòa án và phải chịu TNHS về hành vi phạm tội của

mình bằng hình phạt cụ thể.


10

Hình phạt và QĐHP có mối quan hệ khăng khít với nhau, Điều 30 BLHS
Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về hình phạt như
sau: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được
quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc
pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
người, pháp nhân thượng mại đó” [32].
QĐHP được hiểu là hoạt động ở giai đoạn xét xử, cho ra kết quả là biện
pháp xử lý đối với chủ thể phạm tội, QĐHP sẽ bao gồm cả việc quyết định
loại hình phạt, mức hình phạt hay quyết định áp dụng biện pháp tư pháp, biện
pháp chấp hành hình phạt lẫn miễn hình phạt, miễn TNHS. Nội dung của hoạt
động QĐHP theo đó sẽ bao gồm: 1) Lựa chọn áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội hay không áp dụng hình phạt mà quyết định miễn TNHS,
miễn hình phạt hoặc áp dụng biện pháp tư pháp; 2) Lựa chọn loại hình phạt
bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung với mức độ cụ thể
trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội nếu quyết định áp
dụng hình phạt.
1.1.2. Các căn cứ quyết định hình phạt
Quan điểm của các nhà khoa học hiện nay về các căn cứ QĐHP tương
đối giống nhau và chỉ khác nhau về chi tiết.
Theo tác giả Trần Văn Sơn thì “Các căn cứ QĐHP là những yêu cầu đòi
hỏi có tính bắt buộc do Luật hình sự quy định mà Tòa án phải tuân thủ khi
quyết định hình phạt đối với người phạm tội” [62, tr.26].
PGS. TS. Võ Khánh Vinh thì cho rằng, “Các căn cứ QĐHP là những
đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc do Luật hình sự quy định hoặc do giải thích
luật mà có buộc Tòa án phải tuân theo khi QĐHP đối với người thực hiện tội

phạm” [61, tr.127].
Theo cuốn từ điển Tiếng Việt thì “căn cứ” được hiểu là “cái làm chỗ
dựa, làm cơ sở để lập luận hoặc hành động”. Như vậy, có thể hiểu các căn cứ


11

QĐHP chính là chỗ dựa, là cơ sở pháp lý để Tòa án QĐHP đối với người
phạm tội.
Trong LHS Việt Nam, các căn cứ QĐHP được quy định cụ thể trong
BLHS để cho Tòa án dựa vào đó QĐHP trong từng trường hợp cụ thể cho
chính xác. Trên cơ sở quy định của BLHS, việc tuân thủ các quy định các căn
cứ QĐHP của Tòa án có tính chất bắt buộc. Tòa án không thể tùy tiện thêm,
bớt trong việc cân nhắc các căn cứ QĐHP. Việc tuân thủ chặt chẽ các căn cứ
QĐHP sẽ tạo khả năng cho Tòa án có thể QĐHP được đúng đối với người
phạm tội, đảm bảo hình phạt đã tuyên đạt được mục đích của hình phạt. Các
căn cứ QĐHP là những cơ sở pháp lý được quy định trong BLHS mà Tòa án
buộc phải tuân thủ khi QĐHP cho chủ thể phạm tội nhằm đảm bảo hình phạt
đã tuyên đạt được mục đích của hình phạt [21, tr.153].
Các căn cứ QĐHP được quy định tại Điều 50 BLHS năm 2015, bao gồm
bốn căn cứ: 1) Quy định của Bộ luật hình sự; 2) Tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội; 3) Nhân thân người phạm tội; 4) Các tình tiết
giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự [32].
a) Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự
Các quy định của BLHS là căn cứ cơ bản nhất của việc QĐHP, đó cũng
là đòi hỏi quan trọng của nguyên tắc pháp chế xã hội khi QĐHP [6, tr.317].
Khi QĐHP Tòa án phải căn cứ vào các quy định của BLHS để lựa chọn loại
và xác định mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với chủ thể phạm tội. Những
quy định này bao gồm các quy định trong phần thứ nhất của BLHS - Những
quy định chung và các quy định trong phần thứ hai của BLHS - Các tội phạm.

Các quy định Phần chung BLHS cung cấp những nguyên tắc chung cho việc
QĐHP; nội dung, điều kiện và phạm vi áp dụng của các hình phạt chính, hình
phạt bổ sung, các biện pháp tư pháp; điều kiện áp dụng các biện pháp tha
miễn, giảm hình phạt. Các quy định Phần các tội phạm BLHS cung cấp quy
định về khung hình phạt, loại hình phạt tương ứng với hành vi phạm tội.


12

Việc xác định các quy định của BLHS là căn cứ đầu tiên của QĐHP
được xem như sự đảm bảo để thực hiện nguyên tắc pháp chế trong QĐHP đối
với người phạm tội đồng thời cũng để thực hiện các nguyên tắc khác của
LHS, vì trong các quy định của BLHS đều hiện các nguyên tắc đó [12,
tr.249].
b) Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
Các khung chế tài của các tội phạm được xây dựng chủ yếu dựa trên tính
chất nguy hiểm cho xã hội của từng tội phạm nhưng khi QĐHP cụ thể trong
phạm vi khung chế tài xác định, đòi hỏi Tòa án vẫn phải cân nhắc tính chất
nguy hiểm cho xã hội của từng tội phạm. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi
QĐHP cho người phạm nhiều tội hoặc cho nhiều người phạm nhiều tội. Hình
phạt cụ thể được quyết định mặc dù chỉ trong phạm vi khung chế tài cho phép
nhưng phải tương xứng với tính chất nguy hiểm của từng tội phạm trong sự so
sánh với những tội phạm khác. Có như vậy mới đảm bảo được tính thống nhất
trong QĐHP đối với tất cả các hành vi phạm tội.
Cân nhắc mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội khi QĐHP
sẽ đảm bảo được tính thống nhất và sự công bằng trong QĐHP đối với các
trường hợp phạm tội khác nhau trong cùng tội phạm. Vì QĐHP là quyết định
trong phạm vi khung hình phạt cho phép nên có quan điểm cho rằng QĐHP
chủ yếu căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được xác định bởi

tổng thể các dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm mà khi cân nhắc để QĐHP
cần tập trung vào những yếu tố sau: a) Tính chất của hành vi phạm tội như thủ
đoạn, công cụ, phương tiện, hình thức thực hiện...; b) Tính chất và mức độ
của hậu quả đã gây ra hoặc đe dọa gây ra; c) Mức độ lỗi như tính chất của
động cơ, quyết tâm phạm tội...; d) Hoàn cảnh phạm tội; đ) Những tình tiết về
nhân thân có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội ... [32,
tr.250].


13

Từ những sự phân tích nêu trên, tính chất mức độ của hành vi phạm tội
là một trong các căn cứ quan trọng khi QĐHP đối với bị can, bị cáo.
c) Căn cứ vào nhân thân người phạm tội
Nhân thân người phạm tội là một phạm trù xã hội phức tạp, nó là đối
tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Trong PLHS hiện
nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về vấn đề này. Trong tập I Tuyển tập Mác
- Anghen từng viết: "Bản thân con người không phải là những cái trừu tượng,
cố hữu của cá nhân riêng biệt trong tính hiện thực của nhóm bản chất con
người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội" [22, tr.257].
Có ý kiến cho rằng, nhân thân người phạm tội được hiểu là toàn bộ các
yếu tố về tự nhiên và xã hội có liên quan tới người phạm tội. Còn theo quan
điểm chung thì: Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc điểm mang
tính chất xã hội của cá nhân người phạm tội đó, mà những đặc điểm này có
ảnh hưởng đối với việc cá thể hóa TNHS và hình phạt khi Tòa án áp dụng.
Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đòi hỏi loại và mức hình phạt cụ thể
không chỉ tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội mà còn phải phù hợp với nhân thân người phạm tội để bảo đảm
hình phạt đã tuyên đạt được mục đích trừng trị và giáo dục người phạm tội.
Những đặc điểm nhân thân người phạm tội cần cân nhắc trong tổng thể khi

QĐHP là những đặc điểm nhân thân sau: a) Những đặc điểm nhân thân người
phạm tội có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội như phạm tội lần đầu hay đã có tiền án, tiền sự, tái phạm thường hay tái
phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp hay không, là người
chưa thành niên phạm tội hay đã thành niên...; b) Những đặc điểm nhân thân
của người phạm tội phán ánh khả năng giáo dục họ như có thái độ tự thú hoặc
hối cải, lập công chuộc tội hay có thái độ ngoan cố...; c) Những đặc điểm
nhân thân của người phạm tội phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của họ như là


14

người bị bệnh hiểm nghèo, già yếu, phụ nữ có thai hoặc nuôi con nhỏ hoặc là
người có hoàn cảnh bản thân hay gia đình đặc biệt khó khăn ...[12, tr.251].
Trên cở sở về nhân thân người phạm tội, Tòa án thực hiện được nguyên
tắc cá thể hóa hình phạt và bảo đảm nguyên tắc công bằng khi QĐHP đối với
bị cáo.
d) Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự
LHS Việt Nam coi các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS là căn cứ
QĐHP độc lập mà Tòa án phải cân nhắc (nếu có) trong mối liên hệ với toàn
bộ vụ án để quyết định giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS trong phạm vi khung
hình phạt cho phép [12, tr.252].
Theo GS. TSKH. Lê Cảm và TS. Trịnh Tiến Việt thì:
“Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là tình tiết được quy đinh trong
Phần chung Bộ luật hình sự với tính chất là tình tiết giảm nhẹ chung hoặc là tình
tiết do Tòa án tự xem xét, cân nhắc và ghi rõ trong bản án (nếu trong vụ án hình
sự không có tình tiết này), đồng thời là một trong những căn cứ để cơ quan tư
pháp hình sự có thẩm quyền và Tòa án tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự
tương ứng cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt của người phạm tội theo
hướng giảm nhẹ hơn trong phạm vi một khung hình phạt”

“Tình tiết tăng nặng Trách nhiệm hình sự là tình tiết được quy đinh
trong Phần chung Bộ luật hình sự với tính chất là tình tiết tăng nặng chung
và là một trong những căn cứ để cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền chủ
yếu là Tòa án tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng (chủ yếu là
giai đoạn xét xử) cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người
phạm tội theo hương nghiêm khắc hơn trong phạm vi một khung hình phạt
nếu trong vụ án hình sự có tình tiết này” [53, tr.16].
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng năng TNHS được nêu trong căn cứ này là
những tình tiết đã được quy định cụ thể tại Điều 51 và Điều 52 BLHS và có
thể được phân thành ba nhóm khác nhau:


15

- Các tình tiết làm giảm xuống đáng kể mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội (Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phong vệ chính
đáng; Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; Phạm
tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữa người phạm tội; Phạm
tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn
nhân gây ra...;) hoặc các tình tiết làm tăng lên đáng kể mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội (Phạm tội có tổ chức; Phạm tội có tính chất chuyên
nghiêp; Phạm tội có tính chất côn đồ; Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội; Phạm tội đối với
người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên...)
- Các tình tiết phán ánh khả năng giáo dục người phạm tội: Các tình tiết
giảm nhẹ TNHS (Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại
của tội phạm; Người phạm tội tự nguyện sữa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc
khắc phục hậu quả; Người phạm tội tự thú; Người phạm tội thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải; Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách
nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

Người phạm tội đã lập công chuộc tội; người phạm tội có thành tích xuất sắc
trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác...) và các tình tiết tăng nặng
TNHS (Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; phạm tội 02 lần trở lên; Có hành
động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm...).
- Các tình tiết phán ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội: Các tình
tiết làm giảm nhẹ TNHS (Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do
lỗi của mình gây ra; Phạm tội do lạc hậu; Người phạm tội là người khuyết tật
nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; Người phạm tội là phụ nữ có thai; Người
phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên... Các tình tiết làm tăng TNHS (Lợi dụng
hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những
khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội... [21, tr.190].


16

Việc nghiên cứu các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS có ý nghĩa quan
trọng trong việc QĐHP. Nó không chỉ hướng dẫn cho các Tòa án đánh giá
đúng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người
phạm tội để từ đó tuyên một hình phạt phù hợp mà còn bảo đảm việc áp dụng
thống nhất các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS trong phạm vi cả nước,
góp phần hạn chế tình trạng tùy tiện trong áp dụng pháp luật. Đồng thời việc
quy định các tình tiết này trong BLHS góp phần củng cố pháp chế Xã hội chủ
nghĩa cũng như làm cho công dân thấy rõ chính sách hình sự của Nhà nước ta
là nghiêm trị kết hợp với khoan hồng để từ đó tích cực tham gia vào công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm [21, tr.192].
Theo GS. TSKH. Lê Văn Cảm cho rằng: Ngoài bốn căn cứ nêu trên còn
có căn cứ thứ năm là "ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa". Tuân thủ nguyên
tắc khi QĐHP phải có sự thống nhất pháp luật xã hội chủ nghĩa chứ không do
ý muốn chủ quan cá nhân hay suy xét của Thẩm phán. Ý thức pháp luật xã hội

chủ nghĩa soi đường, biến những quan điểm chính trị thành những yêu cầu có
tính chất bắt buộc với tất cả mọi người giúp Tòa án áp dụng đúng đắn và
thống nhất các quy định pháp luật với mục đích xã hội chủ nghĩa. Trên đây là
các căn cứ để Tòa án xem xét khi QĐHP có căn cứ đúng pháp luật, không làm
oan, sai cho người vô tội.
1.1.3. Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt
Quyết định hình phạt đúng có ý nghĩa quan trọng trong công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm, thể hiện:
Thứ nhất, Quyết định hình phạt là cơ sở đầu tiên đạt được mục đích hình phạt
Điều 31 BLHS quy định: Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người,
pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp
luật và các qui tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục
người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và chống
tội phạm [32].


17

Mục đích của hình phạt bao gồm hai mặt là trừng trị và giáo dục. Việc
QĐHP phải đạt được hai mục đích, hai yếu tố trên có mối quan hệ mật thiết
với nhau, không đề cao việc trừng trị đối với người, pháp nhân thương mại
phạm tội bằng việc tuyên hình phạt quá nặng sẽ dẫn tới tâm lý cho người,
pháp nhân thương mại phạm tội cho rằng hình phạt đã tuyên không thỏa đáng
với họ, từ đó sẽ không cố gắng tích cực lao động cải tạo để trở thành công dân
có ích cho xã hội. Ngược lại, nếu coi nhẹ việc trừng trị thì QĐHP không
tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội. Do đó, bản thân người, pháp nhân thương mại phạm tội coi thường pháp
luật và dư luận xã hội sẽ không tin tưởng vào pháp luật. Từ những nội dung ý
nghĩa nêu trên nên cần phải có QĐHP sao cho không quá xem nhẹ tính chất
trừng trị và tính chất giáo dục phòng ngừa tội phạm [12, tr.163].

Thứ hai, Quyết định hình phạt đúng là cơ sở nâng cao hiệu quả của hình phạt
QĐHP là một trong những hoạt động thực tiễn của Tòa án, ở giai đoạn
này Tòa án nhân danh Nhà nước chính thức xác nhận về mặt pháp lý một chủ
thể bị coi là có tội và tuyên hình phạt đối với chủ thể có tội. Điều này thể hiện
sự lên án của Nhà nước đối với hành vi thực hiện tội phạm của chủ thể phạm
tội. Nên QĐHP có ý nghĩa quan trọng. QĐHP là tiền đề, là điều kiện cho việc
đạt được mục đích của hình phạt. Hiệu quả của hình phạt chính là mức độ đạt
được mục đích của hình phạt khi áp dụng hình phạt đối với người, pháp nhân
thương mại bị kết án. Hiệu quả hình phạt phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau như: Chính sách hình sự, QĐHP, chấp hành hình phạt, việc tuyên truyền
giáo dục ý thức pháp luật trong xã hội… Trong tất cả các yếu tố nêu trên
chúng tôi nhận thấy rằng việc QĐHP có ý nghĩa quan trọng nhất. Việc chấp
hành hình phạt có kết quả tốt, nếu Tòa án QĐHP đúng (đúng người, đúng tội,
đúng với các quy định của PLHS và áp dụng chính xác các căn cứ QDHP).
Nếu QĐHP không đúng thì việc chấp hành hình phạt của người, pháp nhân
thương mại bị kết án sẽ không đạt được mục đích của hình phạt.


18

Việc tuyên truyền, giáo dục pháp lý trong nhân dân để nhân dân tự giác
chấp hành pháp luật không đạt hiệu quả nếu QĐHP không đúng. Như vậy,
chúng có tác dụng qua lại tương hỗ với nhau để đạt được mục đích của hình
phạt. Nếu QĐHP quá nặng hoặc quá nhẹ, không tương xứng với hành vi
phạm tội sẽ làm cho tội phạm không thấy được tính chất nghiêm minh của
pháp luật và những yêu cầu chấp hành trong bản án, dẫn tới việc không tích
cực lao động cải tạo trở thành công dân tốt mà vẫn tái phạm tội. Mặt khác,
gây ra những dư luận không tốt trong xã hội, làm cho nhân dân không tin
tưởng vào pháp luật của Nhà nước và không động viên nhân nhân tham gia
vào quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tất cả những điểm không tốt

này làm cho QĐHP không đạt được mục đích [12, tr.166], [21, tr.75], [42,
tr.32].
Thứ ba, Quyết định hình phạt góp phần củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa
Để QĐHP có căn cứ và đúng pháp luật Tòa án phải nhận thức sâu sắc và
toàn diện các đường lối chủ chương chính sách của Đảng và Nhà nước. Tòa
án là người tuân thủ nghiêm chỉnh các QĐHP và các quy định khác có liên
quan. QĐHP do Tòa án tuyên phải tương xứng với tính chất mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Hình phạt và các phán quyết khác do
Tòa án tuyên cần phải phù hợp, không quá nặng hoặc quá nhẹ đối với người
phạm tội, để người đó thấy rằng việc phải chịu TNHS theo bản án đã tuyên là
cần thiết. Trên cơ sở này giúp họ tuân thủ được pháp luật và có tác dụng răn
đe, giáo dục người khác tuân thủ pháp luật hoặc từ bỏ ý định phạm tội hoặc
không chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước. Để làm tốt như
những yêu cầu nêu trên, đòi hỏi QĐHP của Tòa án phải đúng pháp luật, có
căn cứ, đúng người, đúng tội, không để xảy ra oan, sai cho người vô tội, tạo
được lòng tin sâu rộng trong nhân dân về pháp luật, thúc đẩy sự tích cực tham
gia đấu tranh, phòng chống tội phạm.


×