Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Thực hiện hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN KIM NGÂN

THùC HIÖN HîP §åNG DO HOµN C¶NH THAY §æI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN KIM NGÂN

THùC HIÖN HîP §åNG DO HOµN C¶NH THAY §æI
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN KIÊN

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công


trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Kim Ngân


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KHI HOÀN
CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN ....................................................................................... 8
1.1.

Hợp đồng, đặc điểm của hợp đồng ..............................................................8

1.1.1. Định nghĩa hợp đồng .......................................................................................8
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng.................................................................................12
1.2.

Thực hiện hợp đồng ....................................................................................15


1.2.1. Thực hiện hợp đồng, các nguyên tắc thực hiện hợp đồng ............................15
1.2.2. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng ....................................................................16
1.2.3. Chế tài khi vi phạm hợp đồng .......................................................................23
1.3.

Khái quát về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi ......................30

1.3.1. Khái niệm thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi ................................30
1.3.2. Ý nghĩa của quy định thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi...............34
1.3.3. Nguyên tắc của thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi ........................36
1.3.4. Phân biệt điều khoản thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ
bản và một số chế định tƣơng tự ...................................................................39
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..........................................................................................46
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỰC HIỆN
HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN ................................. 47
2.1.

Quy định của pháp luật Việt Nam về thực hiện hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi trƣớc BLDS năm 2015 ........................................................47

2.2.

Quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản từ
thời điểm BLDS năm 2015 có hiệu lực thi hành.......................................54


2.2.1. Điều kiện áp dụng quy định thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi ...........54
2.2.2. Cơ chế thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi ......................................63
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..........................................................................................74
CHƢƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỰC

HIỆN HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN .............75
3.1.

Nhận định, đánh giá chung về quy định thực hiện hợp đồng khi
hoàn cảnh thay đổi trong pháp luật Việt Nam .........................................75

3.1.1. Thực trạng quy định pháp luật của Việt Nam về thực hiện hợp đồng
khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản.......................................................................75
3.1.2. Thực tiễn thực thi quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay
đổi cơ bản trong pháp luật Việt Nam ............................................................78
3.2.

Một số kiến nghị hoàn thiện quy định thực hiện hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi trong pháp luật Việt Nam...................................................81

3.2.1. Cần phải đề cao nguyên tắc thực hiện đúng hợp đồng khi áp dụng điều
khoản về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi...................................81
3.2.2. Về điều kiện để công nhận hoàn cảnh thực hiện hợp đồng thay đổi ............82
3.2.3. Về yêu cầu đàm phán lại hợp đồng của một bên ..........................................83
3.2.4. Về sự can thiệp của cơ quan có thẩm quyền đến việc các bên thực hiện
hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi ..................................................................85
3.2.5. Về sự bảo đảm đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật .....................88
3.2.6. Cần nâng cao nhận thức của ngƣời dân, doanh nghiệp và cơ quan xét xử khi
áp dụng điều khoản về việc thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi .............89
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3..........................................................................................91
KẾT LUẬN ..............................................................................................................92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................95


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


STT

KÝ HIỆU NGUYÊN NGHĨA

1

BLDS

BLDS

2

PECL

Bộ Nguyên tắc Luật Hợp đồng Châu Âu

3

PICC

Bộ Nguyên tắc Hợp đồng Thƣơng mại quốc tế


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp đồng là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các chủ thể tham gia nhằm
phát sinh một hậu quả pháp lý nhất định. Việc thực hiện hợp đồng là một quá

trình, quá trình này hàm chứa nhiều rủi ro có thể đến từ môi trƣờng thiên nhiên,
môi trƣờng kinh doanh hoặc môi trƣờng xã hội khiến điều kiện thực hiện hợp
đồng bị thay đổi căn bản, do vậy nội dung các bên đã thỏa thuận tại thời điểm giao
kết có thể không còn là ý chí của các bên tại thời điểm thực hiện hợp đồng. Bởi
vậy, "lý thuyết về hợp đồng đã tìm ra muôn vàn lý do để xử lý một cách công
bằng nếu điều kiện thực hiện hợp đồng đã đổi thay căn bản. Các ngoại lệ này trải
rộng từ việc vô hiệu hóa hợp đồng do nhầm lẫn, quyền đƣợc hủy hợp đồng, các lý
do bất khả kháng, các lý do làm cho hợp đồng không thể thực hiện đƣợc, cho đến
các lý do hủy nghĩa vụ hợp đồng do một bên vi phạm nghĩa vụ trung thành, vi
phạm truyền thống tốt đẹp" [8].
Khi soạn thảo, ban hành BLDS năm 2015, Quốc hội đã đƣa thêm một giải
pháp nữa để các bên có thể phân bổ rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng, đó
chính là điều khoản về "Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản" (Điều
420 BLDS). Điều khoản này cho phép một bên có quyền yêu cầu đàm phán lại hợp
đồng khi hoàn cảnh thực hiện hợp đồng có sự đổi thay căn bản khiến bên này có thể
bị thiệt hại nghiêm trọng nếu tiếp tục thực hiện hợp đồng. Bên cạnh đó, Pháp luật
dân sự Việt Nam cho phép Tòa án bên cạnh thẩm quyền chấm dứt hợp đồng thì còn
có quyền điều chỉnh nội dung hợp đồng nhằm đảm bảo sự công bằng cho các bên
tham gia khi hoàn cảnh thực hiện có sự đổi thay căn bản.
Phải đánh giá đây là một sự thay đổi tiến bộ trong quá trình lập pháp của
nƣớc ta, thể hiện một tƣ duy mới về hợp đồng, rằng hợp đồng không thể "đóng kín
và đầy đủ" [8] mà "hợp đồng suy cho cùng là một công cụ để phản ánh ý chí của
các bên trong việc ứng xử đối với môi trƣờng kinh doanh luôn đổi thay" [8]. Khi

1


môi trƣờng thực hiện hợp đồng thay đổi, nội dung trong hợp đồng không còn phù
hợp, không phản ánh đúng ý chí của các bên tham gia giao kết; khi những rủi ro từ
môi trƣờng kinh doanh gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng đến một

hoặc các bên tham gia giao kết thì việc các bên ngồi lại, cùng đàm phán tìm ra giải
pháp để giải quyết khắc phục, ngăn chặn thiệt hại là yêu cầu cần thiết.
Mặc dù trƣớc đây, pháp luật Việt Nam có quy định về ngoại lệ ứng xử của
các bên khi hoàn cảnh thực hiện hợp đồng có sự thay đổi nhƣng điều khoản về
"thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản" cho đến BLDS năm 2015 mới
đƣợc ghi nhận để áp dụng chung cho mọi loại hợp đồng. Tuy nhiên, cách quy định
của BLDS hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, mâu thuẫn với một số văn bản
pháp luật khác và thậm chí là mâu thuẫn với quy định khác trong chính BLDS.
Cùng với đó, trƣớc khi BLDS năm 2015 ra đời, một số văn bản pháp luật chuyên
ngành khác đã khá tiến bộ khi đƣa nội dung về điều chỉnh hợp đồng khi xuất hiện
những yếu tố khách quan tác động đến việc thực hiện hợp đồng. Nhƣng đến nay,
khi điều khoản về "thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản" đã đƣợc ghi
nhận trong BLDS (vốn đƣợc coi là luật chung của hệ thống luật tƣ) thì những quy
định đó có nhiều điểm không tƣơng thích, không phù hợp. Đồng thời, do đây là quy
định mới nên mức độ nhận thức, hiểu biết của ngƣời dân, doanh nghiệp chƣa cao,
kinh nghiệm của Tòa án trong việc giải quyết vụ việc liên quan cũng chƣa nhiều
khiến việc áp dụng quy định này chƣa thật sự hiệu quả, và đạt đƣợc đúng, đủ ý
nghĩa, vai trò của nó.
Bởi vậy, việc nghiên cứu quy định này là một vấn đề cấp bách và cần thiết,
để một mặt giúp cá nhân, doanh nghiệp có thể tìm hiểu kỹ hơn về quy định mới này,
từ đó có thể áp dụng trong thực tế giao dịch, kinh doanh, mặt khác có thể tìm ra
những tồn tại, hạn chế có thể xuất hiện trong thực tiễn áp dụng pháp luật sau này.
Trên cơ sở phân tích những vấn đề cấp thiết trên, tác giả đã lựa chọn đề tài "Thực
hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản" cho luận văn thạc sĩ luật học của
mình, góp phần bổ sung kiến thức lý luận và thực tiễn, hoàn thiện pháp luật tại Việt
Nam về vấn đề này.

2



1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản không còn mới mẻ với
pháp luật của nhiều nƣớc trên thế giới. Tuy nhiên, đến khi BLDS năm 2015 đƣợc
soạn thảo và ban hành, quy định này mới đƣợc công nhận một cách chính thức. Bởi
vậy, tại thời điểm BLDS năm 2015 đƣợc soạn thảo, trƣng cầu ý kiến, và thời điểm
sau khi bộ luật này có hiệu lực thi hành, có tƣơng đối nhiều các bài nghiên cứu dƣới
mức độ và phạm vi khác nhau.
Dƣới cấp độ bài nghiên cứu, tạp chí, có thể kể đến các bài nghiên cứu sau
đây: bài "Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi trong pháp luật
nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam" của tác giả Lê Minh Hùng trong Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 6 tháng 3/2009; bài “Mối liên hệ giữa thực hiện hợp đồng
khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản với giao dịch bảo đảm” của tác giả Nguyễn Văn Duy
trong tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề 5/2017; bài “Đề xuất diễn giải và
áp dụng điều 420 BLDS 2015 về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ
bản” của TS. Nguyễn Thị Minh Hằng và ThS Trần Thị Giang Thu đƣợc đăng tải
trên website , bài "Điều khoản “harship” trong
thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế” của tác giả Trần Thanh Tâm và
Nguyễn Minh Hiển đƣợc đăng tải trên website ,
bài "Một số vấn đề về thực hiện hợp đồng khi có hoàn cảnh thay đổi quy định trong
BLDS 2015 dưới góc nhìn so sánh với pháp luật quốc tế" của Ths Lê Đinh Bảo
Trâm đƣợc đăng tải trên website ngày 20/09/2017, bài "Thực
hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản" của Ngô Thu Trang, Nguyễn Thế
Đức Tâm đƣợc đăng tải trên website , bài "Mối liên hệ giữa thực hiện
hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản với giao dịch bảo đảm" của Ths Nguyễn
Văn Huy đƣợc đăng tải trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật điện tử (website
www.tcdcpl.moj.gov.vn), bài “Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi trong
BLDS 2015” của TS Dƣơng Quỳnh Hoa đƣợc đăng tải trên Tạp chí Luật sƣ Việt
Nam số 9/2016, bài “Một số bình luận về Điều 420 BLDS năm 2015: Thực hiện
hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản" của Đàm Thị Diễm Hạnh, Lê Thị Kim
Oanh đƣợc đăng tải trên Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, Số 7/2018…


3


Dƣới cấp độ luận văn, luận án, hiện nay mới có luận văn thạc sĩ “Thực hiện
hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản” của Thái Thị Hải Yến, đƣợc nghiên cứu
tại trƣờng Đại học Luật Hà Nội.
Tuy nhiên, dƣới dạng bài nghiên cứu, tạp chí, các bài viết trên cũng chỉ mang
tính khái quát, sơ lƣợc giới thiệu quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh
thay đổi cơ bản. Dƣới cấp độ luận văn, số lƣợng luận văn nghiên cứu nội dung này
còn hạn chế, do vậy cũng chƣa đủ để làm rõ, đầy đủ đƣợc những điểm hợp lý và
những tồn tại của điều khoản này.
Trên thế giới, đây là đề tài đƣợc khá nhiều học giả quan tâm, là chủ đề hấp
dẫn, tạo ra nhiều tranh luận giữa các học giả từ hơn 200 năm trƣớc. Dƣới dạng bài
nghiên cứu, có thể kể đến bài "The effect of change in circumstances on the
performance of contract" của Egidijus Baranauskas and Paulius Zapolskis, viết năm
2009 tại trƣờng Đại học Wroclaw, bài "Force Majeur and Hardship International
Sales Contract" của Ingeborg Schwenzer tại Trƣờng Đại học Basel, Sƣitzerland.
Dƣới dạng sách, có thể kể đến cuốn "Force Majeur and Hardship under General
Contract Principles: Exemption for Non-Perforrmance in International Arbitration"
của Christoph Bunne, Nhà xuất bản Wolters Kluwer law&Business. Đặc biệt, một
trong những tác phẩm đƣợc đánh giá là chi tiết, dễ hiểu, dễ tiếp cận để tham khảo có
thể đƣợc kể đến là cuốn sách "The effect of change of circumtances on the binding
force of contracts – Comparative perspectives", độ dày khoản 300 trang của nhà
nghiên cứu ngƣời Chi Lê Rodrigo Momberg Uribe phát hành năm 2011 [1]…
Tuy nhiên, phần lớn các tài liệu về "thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay
đổi cơ bản" trên thế giới chƣa đƣợc dịch ra tiếng Việt, do vậy sẽ hạn chế số ngƣời
tiếp cận những tài liệu này để tìm hiểu, nghiên cứu và áp dụng quy định pháp luật.
2. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
2.1. Về đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu:
Đối tƣợng nghiên cứu mà luận văn hƣớng tới là một số vấn đề lý luận chung
về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, pháp luật thực định về thực

4


hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản và phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp
luật, nâng cao hiệu quả thực thi.
Phạm vi nghiên cứu:
trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả nghiên cứu quy định về quy
định thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong hệ thống pháp luật
Việt Nam. Trong đó, tập trung làm rõ các nội dung sau:
- Lý luận chung về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản: bao
gồm định nghĩa thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, ý nghĩa, nguyên
tắc của quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản;
- Quy định pháp luật hiện hành về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi
cơ bản: Điều kiện để công nhận hoàn cảnh thực hiện hợp đồng thay đổi cơ bản và
cơ chế để thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản;
- Dựa trên cơ sở lý luận và pháp luật thực định đã phân tích, kiến nghị hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật.
2.2. Về mục đích nghiên cứu
Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản có ý nghĩa quan trọng
nhằm duy trì hiệu lực của hợp đồng, đảm bảo công bằng giữa các bên khi tham
gia giao dịch. Tuy nhiên, đây là quy định còn khá mới mẻ, chƣa nhiều cá nhân,
doanh nghiệp biết đến. Bởi vậy, thông qua việc nghiên cứu trong phạm vi đã
đƣợc nêu trên, tác giả mong muốn cung cấp cho ngƣời đọc hiểu biết cơ bản về cơ
sở lý luận, ý nghĩa của quy định thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ
bản; Hiểu rõ về quy định này trên cơ sở phân tích, đánh giá, so sánh với quy định
của một số nƣớc trên thế giới. Đồng thời, dựa trên những đánh giá đó, đƣa ra

đƣợc những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật quy định về thực hiện hợp
đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để có thể đạt đƣợc mục đích đề ra, khi nghiên cứu đề tài, tác giả đã đặt ra
những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, cung cấp những lý luận cơ bản về quy định thực hiện hợp đồng khi

5


hoàn cảnh thay đổi cơ bản; Lý giải vì sao quy định này là quan trọng, cần thiết trong
quá trình hoàn thiện pháp luật về hợp đồng.
Thứ hai, đề tài khái quát, phân tích, bình luận về quy định về thực hiện hợp
đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản đƣợc quy định trong BLDS năm 2015. Đồng
thời, có đối chiếu, so sánh với pháp luật của một số nƣớc trên thế giới. Từ đó, đánh
giá những thành tựu, hạn chế của quy định này trong thực tiễn thực thi.
Thứ ba, từ những phân tích mặt tích cực và hạn chế, đề xuất những kiến nghị
để hoàn thiện quy định pháp luật.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu là quy định về thực hiện hợp đồng khi
hoàn cảnh thay đổi cơ bản, để đạt đƣợc mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu trên, luận
văn đã đƣợc sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp diễn giải: Phƣơng pháp này đƣợc áp
dụng để để giải thích, lảm rõ quy định của pháp luật hiện hành về thực hiện hợp
đồng khi hoàn cảnh thay đổi;
- Phƣơng pháp đánh giá, phƣơng pháp so sánh: Đƣợc sử dụng để đối chiếu
quy định của pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ, quy định của pháp luật Việt Nam
với thế giới;
- Phƣơng pháp quy nạp: Đƣợc dùng để đƣa ra những nhận định, đánh giá sau
khi đã phân tích, làm rõ các vấn đề pháp lý đã đề ra.

Việc sử dụng kết hợp các phƣơng pháp này giúp đề tài đƣợc xem xét từ
nhiều góc độ, phƣơng diện khác nhau, trên cơ sở đó có cách nhìn nhận vấn đề một
cách toàn diện và sâu sắc.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là kết quả của quá trình nghiên cứu công phu của tác giả, dựa trên
cơ sở phân tích lý luận, pháp luật thực định, thực tiễn thực thi pháp luật. Cụ thể:
Làm sáng tỏ phƣơng diện lý luận về quy định thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh
thay đổi cơ bản, làm rõ đƣợc những nội dung của pháp luật hiện hành, và đƣa ra
đƣợc những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật.

6


Do vậy, luận văn một mặt có thể đƣợc sử dụng nhƣ một tài liệu tham khảo
hữu ích để ngƣời dân, doanh nghiệp muốn tìm hiểu về quy định pháp luật hiện
hành, hay cho sinh viên, giảng viên, những ngƣời nghiên cứu chuyên sâu… khi thực
hiện nghiên cứu về đề tài liên quan. Mặt khác, luận văn cũng là một cơ sở để các cơ
quan chức năng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình tham khảo để bổ
sung, hoàn thiện quy định pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
đề tài nghiên cứu gồm ba chƣơng:
Chương 1: Lý luận chung về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản.
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về thực hiện hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi cơ bản.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi cơ bản.

7



CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KHI
HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN
1.1. Hợp đồng, đặc điểm của hợp đồng
1.1.1. Định nghĩa hợp đồng
Cùng với sự phát triển của xã hội, con ngƣời càng có nhiều hơn nhu cầu về
sinh hoạt và sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, bản thân họ không thể tự mình thực
hiện, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu ấy. Do vậy, việc hợp tác, hỗ trợ, trao đổi lẫn nhau
về tài sản, hàng hóa hay thực hiện công việc là yêu cầu tất yếu để mỗi cá nhân, tổ
chức đáp ứng nhu cầu tồn tại, phát triển của chính mình. Để thực hiện điều này, các
bên thiết lập với nhau các cam kết, khế ƣớc, thỏa thuận, hay nói cách khác là các
hợp đồng. “Hợp đồng cho phép con ngƣời gánh chịu những trách nhiệm và sự tận
tụy trên cơ sở có đi có lại, đƣa ra những lời hứa mà ngƣời khác có thể tin tƣởng, loại
bỏ một số thứ không chắc chắn, và tạo lập những ƣớc vọng hợp lý cho các công
việc trong tƣơng lai” [2].
Có nhiều thuật ngữ khác nhau đƣợc dùng để chỉ về hợp đồng nhƣ cam kết,
khế ƣớc, giao kèo hay luật riêng của các bên … Là một trong những nội dung nền
tảng của luật dân sự, đƣợc hình thành từ rất sớm, định nghĩa về hợp đồng cũng dần
đƣợc hoàn thiện.
Theo BLDS Bắc kỳ năm 1931, “Khế ƣớc là một hiệp ƣớc của một ngƣời hay
nhiều ngƣời cam đoan với một hay nhiều ngƣời khác để tặng cho để làm hay không
làm cái gì” (Điều 644). BLDS Trung kỳ năm 1936 định nghĩa “Khế ƣớc là hiệp ƣớc
của một hay nhiều ngƣời cam đoan với một hay nhiều ngƣời khác để chuyển giao,
làm hay không làm cái gì” (Điều 680). Phần nào thừa kế, phát triển định nghĩa trên,
Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 quy định “Hợp đồng dây sự là sự thỏa thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các
bên trong mua bán, thuê, vay, mƣợn, tặng, cho tài sản, làm một việc hoặc không
làm một việc, dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm


8


đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng”. Nhƣ vậy, so với BLDS Bắc kỳ và BLDS
Trung kỳ nêu trên thì cách định nghĩa của Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991
khái quát, đầy đủ hơn về mặt chủ thể tham gia hợp đồng, đồng thời cũng liệt kê cụ
thể hơn các giao dịch, thỏa thuận giữa các bên khi tham gia giao kết. Tuy nhiên,
cách liệt kê của Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 nhƣ trên sẽ dẫn đến trƣờng
hợp không thể “quét” đƣợc hết các giao dịch, tình huống phát sinh trên thực tế, từ
đó có thể gây khó khăn cho các chủ thể áp dụng, thực hiện pháp luật.
Khắc phục nhƣợc điểm này, BLDS 2005, tiếp đến là BLDS 2015 đã định
nghĩa lại một cách đầy đủ hơn, nhƣng ngắn gọn hơn, tập trung vào các đặc điểm,
bản chất pháp lý của hợp đồng, cụ thể: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các
bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” (Điều 388,
BLDS 2005), hay “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” (BLDS 2015).
Nhƣ vậy, dù cách định nghĩa có sự thay đổi qua các thời kỳ thì hợp đồng
luôn đƣợc xác định qua hai yếu tố cơ bản: 1 - sự trao đổi, thống nhất ý chí và 2 - tạo
ra một hậu quả pháp lý. Trong đó, thống nhất ý chí là thống nhất trong mỗi chủ thể
(giữa ý chí, mong muốn nội tại và hành động đƣợc thể hiện qua việc thỏa thuận đàm
phán hợp đồng); và thống nhất ý chí giữa các bên tham gia giao kết. Hậu quả pháp
lý chính là việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Pháp luật dân sự nói chung và pháp luật về hợp đồng của các nƣớc nói riêng
đều tôn trọng, đề cao sự tự do ý chí của các chủ thể tham gia hợp đồng. Điều đó có
nghĩa, các bên có thể tự do lựa chọn đối tác tham gia hợp đồng, đối tƣợng của hợp
đồng, và tự thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Quyền, nghĩa vụ của các bên
tham gia hợp đồng – hậu quả pháp lý sau khi ký kết hợp đồng là do các bên cùng
thỏa thuận, xây dựng nên.
Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp, để bảo đảm trật tự xã hội, bảo vệ quyền
của các bên yếu thế hơn, đảm bảo lợi ích công cộng và thực hiện mục tiêu phát triển

xã hội, nhà nƣớc hạn chế tự do ý chí của các bên tham gia hợp đồng bằng cách can
thiệp vào việc giao kết, thực hiện hợp đồng. Sự hạn chế này đƣợc biểu hiện ở những
khía cạnh sau:

9


Một là nhà nƣớc hạn chế tự do lựa chọn đối tác ký kết hợp đồng.
Một trong những biểu hiện của tự do ý chí là mỗi bên đƣợc tự do lựa chọn
ngƣời ký kết hợp đồng với mình. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp, pháp luật hạn
chế việc lựa chọn ngƣời giao kết hợp đồng hoặc phải ƣu tiên giao kết hợp đồng với
một số ngƣời nhất định. Tại Khoản 1 Điều 127 Luật Nhà ở năm 2014 quy định:
Trƣờng hợp chủ sở hữu bán nhà ở đang cho thuê thì phải thông báo bằng
văn bản cho bên thuê nhà ở biết về việc bán và các điều kiện bán nhà ở;
bên thuê nhà ở đƣợc quyền ƣu tiên mua nếu đã thanh toán đầy đủ tiền
thuê nhà cho bên cho thuê tính đến thời điểm bên cho thuê có thông báo
về việc bán nhà cho thuê, trừ trƣờng hợp nhà ở thuộc sở hữu chung;
trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bên thuê nhà ở nhận đƣợc thông báo
mà không mua thì chủ sở hữu nhà ở đƣợc quyền bán nhà ở đó cho ngƣời
khác, trừ trƣờng hợp các bên có thỏa thuận khác về thời hạn.
Quy định này hạn chế quyền tự do lựa chọn ngƣời giao kết hợp đồng của
chủ sở hữu nhà, buộc chủ sở hữu có nghĩa vụ ƣu tiên bán nhà cho ngƣời đang
thuê nhà, trƣờng hợp ngƣời thuê không mua nhà thì chủ sở hữu mới đƣợc bán
nhà cho ngƣời khác.
Bên cạnh việc hạn chế tự do giao kết hợp đồng, pháp luật còn có những quy
định nhằm hạn chế tự do không giao kết hợp đồng. Điều này có thể thấy ở nhiều
lĩnh vực, nhƣng nhiều nhất có thể thấy là trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ công
cộng. "Đối với ngƣời cung cấp dịch vụ công cộng không đƣợc từ chối giao kết hợp
đồng nếu còn khả năng cung cấp dich vụ và phải mở ra cho tất cả mọi ngƣời đều có
cơ hội nhƣ nhau trong việc mua và sử dụng dịch vụ. Ngƣời giao kết hợp đồng

không đƣợc từ chối giao kết hợp đồng vì lý do sắc tộc, tôn giáo hay quốc tịch…" [9]
Hai là nhà nƣớc hạn chế tự do ấn định nội dung hợp đồng.
Khi giao kết hợp đồng, mặc dù các bên có quyền tự do thỏa thuận các nội
dung hợp đồng nhƣng sự tự do này vẫn phải nằm trong khuôn khổ pháp luật và
đạo đức xã hội. Mọi thỏa thuận trái với pháp luật và đạo đức đều không có hiệu
lực thi hành.

10


Bên cạnh đó, về nguyên tắc các bên tham gia hợp đồng đều tự nguyện, bình
đẳng. Tuy nhiên, trong thực tế, có rất nhiều trƣờng hợp một bên trong hợp đồng yếu
thế hơn nhiều so với bên còn lại về kinh tế, về cơ hội lựa chọn đối tác ký kết…, nên
họ buộc phải chấp thuận những hợp đồng mẫu hoặc những điều khoản bất lợi đƣợc
đƣa ra bởi bên có lợi thế hơn. Bởi vậy, để bảo vệ quyền lợi của bên yếu thế hơn,
pháp luật đƣa ra những giới hạn cơ bản buộc các bên phải tuân thủ khi giao kết. Nội
dung nào của hợp đồng trái với những nội dung bắt buộc này của pháp luật thì
không có hiệu lực. Ví dụ, tại Điều 31 Luật Điện lực năm 2004 quy định về giá điện
và các loại phí thì:
1. Biểu giá bán lẻ điện do Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt. Cơ quan điều
tiết điện lực giúp Bộ trƣởng Bộ Công nghiệp xây dựng biểu giá bán lẻ
điện trình Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt.
2. Khung giá phát điện, bán buôn điện và các loại phí truyền tải điện,
phân phối điện, điều độ hệ thống điện, điều hành giao dịch thị trƣờng
điện lực, các phí dịch vụ phụ trợ do đơn vị điện lực có liên quan xây
dựng, cơ quan điều tiết điện lực thẩm định trình Bộ trƣởng Bộ Công
nghiệp phê duyệt.
3. Giá phát điện, giá bán buôn điện, giá bán lẻ điện theo hợp đồng mua
bán điện có thời hạn do các đơn vị điện lực quyết định nhƣng không
đƣợc vƣợt quá khung giá, biểu giá đã đƣợc cơ quan nhà nƣớc có thẩm

quyền phê duyệt.
4. Giá mua bán điện giao ngay đƣợc hình thành theo thời điểm giao dịch
trên thị trƣờng điện lực và do đơn vị điều hành giao dịch thị trƣờng điện
lực công bố phù hợp với quy định tại điểm e và điểm h khoản 1 Điều 21
của Luật này.
Nhƣ vậy, mặc dù hợp đồng cung ứng điện đƣợc giao kết giữa khách hàng sử
dụng điện, hoặc đơn vị bán buôn, bán lẻ điện, đơn vị phát điện với đơn vị điện lực
nhƣng giá điện bán buôn, giá điện bán lẻ, giá phát điện không phải do các bên tùy ý
thỏa thuận mà buộc phải tuân theo biểu giá điện đã đƣợc phê duyệt bởi cơ quan có

11


thẩm quyền. Điều này là hợp lý, bởi lẽ điện năng là sản phẩm có vai trò quan trọng
đối với sinh hoạt, sản xuất trên cả nƣớc, sản xuất điện là một ngành kinh doanh độc
quyền. Nếu nhƣ giá điện đƣợc "thả trôi", không có sự kiểm soát của nhà nƣớc thì sẽ
dẫn đến việc đơn vị điện lực tăng giá tùy ý, làm "lũng đoạn" thị trƣờng điện năng,
ảnh hƣởng nghiêm trọng đến đời sống sản xuất và sinh hoạt trong nƣớc.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng
Hợp đồng có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng.
Hợp đồng chỉ đƣợc hình thành khi có sự tham gia của hai hay nhiều bên. Nếu
nhƣ trong hành vi pháp lý đơn phƣơng chỉ cần một chủ thể thể hiện ý chí của mình
cũng có thể làm phát sinh hậu quả pháp lý thì hợp đồng chỉ đƣợc hình thành khi có
sự gặp gỡ ý chí của hai hay nhiều bên. “Sự gặp gỡ này đƣợc xét tới ở hai thành tố là
“đề nghị” và “chấp thuận” [2]. Nếu nhƣ một bên đề nghị nhƣng không đƣợc bên kia
chấp thuận thì hợp đồng không thể đƣợc xác lập.
Theo quy định của BLDS năm 2015 thì các bên tham gia hợp đồng chỉ có thể
là cá nhân hoặc pháp nhân. Trong khi đó, tại BLDS năm 2005, chủ thể tham gia hợp
đồng có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác – không có tƣ cách pháp nhân

nhƣ tổ hợp tác, hộ gia đình… Nhƣ vậy, so với quy định tại BLDS năm 2005 thì chủ
thể tham gia hợp đồng theo BLDS năm 2015 có sự thu hẹp lại.
Tuy nhiên, không phải cho đến BLDS năm 2015, chủ thể tham gia hợp đồng
mới thu hẹp nhƣ vậy. Dù đƣợc sử dụng bằng các thuật ngữ pháp lý khác nhau
nhƣng chủ thể tham gia hợp đồng trong BLDS Bắc Kỳ, BLDS Nam Kỳ và Pháp
lệnh hợp đồng dân sự cũng chỉ bao gồm cá nhân và pháp nhân.
Tuy vậy, điều kiện để một tổ chức đƣợc coi là pháp nhân và năng lực tham
gia giao kết khế ƣớc, giao kết hợp đồng của cá nhân có sự thay đổi qua từng thời kỳ.
Về năng lực giao kết khế ƣớc, BLDS Bắc Kỳ quy định: "phàm ngƣời vị thành niên
chƣa đƣợc thoát quyền thì không có tƣ cách quản trị tài sản cùng tự do tự xử về
mình". Nhƣ vậy, theo pháp luật thời kỳ này, một ngƣời chỉ đƣợc tự do tham gia giao
dịch dân sự khi ngƣời này đủ hai mốt tuổi (Điều 221 BLDS Bắc Kỳ) và đƣợc "thoát

12


quyền". Trong đó, đƣợc coi là đƣợc thoát quyền khi đã "giá thú" và có nhà ở riêng
khác nhà cha mẹ, hoặc khi đã đủ mƣời tám tuổi và đƣợc cha, mẹ cho phép "thoát
quyền". Đến Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991, quyền tự do của con ngƣời
đƣợc đảm bảo hơn. Điều 3 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định;
1- Cá nhân từ đủ mƣời tám tuổi trở lên, có khả năng nhận thức, thực hiện
quyền, nghĩa vụ hợp đồng và tự chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa
vụ đó, thì có quyền giao kết hợp đồng dân sự.
2- Cá nhân dƣới mƣời tám tuổi đƣợc giao kết hợp đồng dân sự, nếu đƣợc
cha, mẹ hoặc ngƣời đỡ đầu đồng ý, trừ hợp đồng có giá trị nhỏ phục vụ
nhu cầu thiết yếu hàng ngày.
3- Cá nhân từ đủ mƣời sáu tuổi đến dƣới mƣời tám tuổi đƣợc giao kết hợp
đồng dân sự, nếu họ có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thanh toán,
trừ trƣờng hợp pháp luật quy định phải từ đủ mƣời tám tuổi trở lên.
Đến BLDS năm 2015, năng lực hành vi dân sự của cá nhân đƣợc quy định tại

Điều 21 nhƣ sau:
1. Ngƣời chƣa thành niên là ngƣời chƣa đủ mƣời tám tuổi.
2. Giao dịch dân sự của ngƣời chƣa đủ sáu tuổi do ngƣời đại diện theo
pháp luật của ngƣời đó xác lập, thực hiện.
3. Ngƣời từ đủ sáu tuổi đến chƣa đủ mƣời lăm tuổi khi xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự phải đƣợc ngƣời đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao
dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
4. Ngƣời từ đủ mƣời lăm tuổi đến chƣa đủ mƣời tám tuổi tự mình xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất
động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định
của luật phải đƣợc ngƣời đại diện theo pháp luật đồng ý.
Nhƣ vậy có thể thấy, qua các thời kỳ, pháp luật càng mở rộng hơn quyền tự
do cá nhân, đảm bảo tốt hơn quyền tự do tham gia hợp đồng của mỗi cá nhân, phù
hợp với năng lực nhận thức và điều chỉnh hành vi của chủ thể.

13


Thứ hai, về ý chí của các bên trong hợp đồng
Một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là “cá nhân, pháp
nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do,
tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải
đƣợc chủ thể khác tôn trọng” (Khoản 2 Điều 3 BLDS 2015). Là một trong những
chế định đặc thù của luật dân sự, các quy định về hợp đồng cũng không nằm ngoài
nguyên tắc trên.
Hợp đồng là “một thỏa thuận”, có nghĩa nó phải chứa đựng yếu tố tự nguyện.
Trong thực tiễn xã hội, mỗi bên chủ thể tham gia giao kết hợp đồng thƣờng để theo
đuổi những mục đích, lợi ích riêng của mình. Và thực chất, quá trình đàm phán,
thƣơng thảo hợp đồng là quá trình các bên trao đổi các mong muốn, mục đích của

mình với đối tác, từ đó, hai bên thống nhất, tìm ra đƣợc tiếng nói chung, hợp tác vì
lợi ích chung. Quá trình giao kết này, các bên phải tuân theo các nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng, tự do, nhƣng không
đƣợc trái pháp luật và đạo đức xã hội. Hợp đồng chính là kết quả của quá trình giao
kết đó, là sự tuyên bố và thống nhất ý của các chủ thể nhằm phát sinh một hậu quả
pháp lý nhất định.
Thứ ba, hậu quả pháp lý của hợp đồng.
Hợp đồng đƣợc ví nhƣ “luật giữa các bên”. Tức khi tham gia hợp đồng, các
bên đã thỏa thuận, thiết lập các quyền và nghĩa vụ của mình thông qua các điều
khoản của hợp đồng. Các điều khoản này có thể là điều khoản cơ bản, điều khoản
thông thƣờng hoặc điều khoản tùy nghi. Điều khoản cơ bản là điều khoản xác định
quyền, nghĩa vụ cơ bản của mỗi bên, nếu không thỏa thuận đƣợc những điều khoản
này thì hợp đồng không thể giao kết đƣợc. Điều khoản thông thƣờng là những điều
khoản mà nội dung đã đƣợc xác định trong văn bản pháp luật. Nếu nhƣ các bên
không thỏa thuận những điều khoản này thì đƣợc coi là các bên đồng ý thực hiện
những nội dung pháp luật đã quy định. Điều khoản tùy nghi là các điều khoản mà
các bên tham gia giao kết đồng ý lựa chọn và thỏa thuận với nhau để xác định cụ

14


thể hơn về quyền và nghĩa vụ. Điều này có nghĩa hợp đồng chính là cơ sở xác lập
quyền và nghĩa vụ của các bên, các quyền và nghĩa vụ này đƣợc đảm bảo thực hiện
bởi pháp luật. Trƣờng hợp không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng hợp đồng
thì theo yêu cầu của một bên, cơ quan có thẩm quyền có thể buộc bên vi phạm thực
hiện chế tài theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
Trên thực tế, chúng ta thƣờng đƣa ra rất nhiều cam kết. Tuy nhiên, không
phải cam kết nào cũng đƣợc coi là hợp đồng, chỉ những cam kết, những thỏa thuận
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự, đƣợc pháp luật bảo đảm thực hiện thì mới
đƣợc coi là hợp đồng.

1.2. Thực hiện hợp đồng
1.2.1. Thực hiện hợp đồng, các nguyên tắc thực hiện hợp đồng
Hiện nay, BLDS không có định nghĩa thế nào là thực hiện hợp đồng, mà chỉ
nêu ra các yêu cầu của việc thực hiện đối với từng loại hợp đồng cụ thể.
Tại Luận văn thạc sĩ “Thực hiện hợp đồng dân sự - những vấn đề lý luận và
thực tiễn”, Thạc sĩ Thái Thị Hải Yến quan điểm “Thực hiện hợp đồng dân sự là bên
có nghĩa vụ trong hợp đồng phải làm hoặc không đƣợc làm một công việc theo một
thời hạn nhất định đã đƣợc xác định trong nội dung của hợp đồng dân sự, qua đó
thỏa mãn quyền dân sự tƣơng ứng của bên kia”. Nhƣ vậy, theo quan điểm này, thực
hiện hợp đồng đƣợc hiểu tƣơng đƣơng với việc thực hiện các nghĩa vụ đã đƣợc hai
bên thỏa thuận, và chỉ trọng tâm chú ý đến hành vi của bên có nghĩa vụ - một bên
trong quan hệ hợp đồng.
Trong khi đó, đối chiếu quy định tại Điều 274 BLDS năm 2015 thì "nghĩa vụ
là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ)
phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện
công việc hoặc không đƣợc thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc
nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)". Và hợp đồng chỉ là một
trong những căn cứ phát sinh nghĩa vụ (Khoản 1 Điều 275 BLDS năm 2015). Ngoài
hợp đồng, nghĩa vụ còn có thể phát sinh từ các nguồn gốc khác mà không phải là từ
sự thỏa thuận của các bên nhƣ hành vi pháp lý đơn phƣơng, thực hiện công việc

15


không có ủy quyền, chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc đƣợc lợi về tài sản không có
căn cứ pháp luật, gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật… Một cách khái quan, có
thể thấy nguồn hình thành nghĩa vụ bao gồm: hành vi pháp lý (hợp đồng và hành vi
pháp lý đơn phƣơng) và sự kiện pháp lý [2]. Nhƣ vậy, có thể hiểu, thực hiện nghĩa vụ
là bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng các yêu cầu của bên có quyền theo nội dung
đã thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Hay nhƣ cách định nghĩa của

PGS.TS Ngô Huy Cƣơng thì "có thể hiểu một cách đơn giản, thực hiện nghĩa vụ là
việc ngƣời thụ trái làm thỏa mãn các yêu cầu của trái chủ trong một quan hệ nghĩa vụ
xác định với một hoặc nhiều đối tƣợng nào đó theo đúng sự thỏa thuận hoặc quy định
của pháp luật". Trong đó, trái chủ là bên có quyền, ngƣời thụ trái là bên có nghĩa vụ.
Trong khi đó, trong hợp đồng, các bên thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của
mỗi bên. Quyền của bên này tƣơng ứng với nghĩa vụ của bên kia, nhƣ trong hợp
đồng mua bán hàng hóa, bên mua có quyền nhận hàng, bên bán có nghĩa vụ giao
hàng. Do vậy, việc thực hiện hợp đồng phải đƣợc hiểu là việc các chủ thể tham gia
hợp đồng làm cho các điều khoản trong hợp đồng trở thành hiện thực. Tức, bên có
quyền đƣợc quyền đƣa ra yêu cầu đối với bên có nghĩa vụ, và đƣợc thực hiện các
công việc trong phạm vi đã thỏa thuận; Bên có nghĩa vụ sẽ phải thực hiện các công
việc nhƣ đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Theo Từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tƣ pháp, “thực hiện
hợp đồng là những hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng nhằm làm
cho các điều khoản, nội dung đã cam kết trong hợp đồng trở thành hiện thực”. Nhƣ
vậy, việc thực hiện hợp đồng phải đƣợc hiểu là thực hiện các quyền (những việc
đƣợc làm) và nghĩa vụ (những việc buộc phải làm) đã đƣợc các bên thỏa thuận
trong hợp đồng, hoặc theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng
Hiện nay, BLDS 2015 không có quy định riêng về nguyên tắc thực hiện
hợp đồng. Tuy nhiên, là một trong những chế định quan trọng của luật dân sự,
việc thực hiện hợp đồng cũng tuân theo những nguyên tắc cơ bản của pháp luật
dân sự sau đây:

16


Thứ nhất, nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử
Bình đẳng, không phân biệt đối xử là nguyên tắc đặc thù của quan hệ pháp
luật dân sự nói chung và quan hệ hợp đồng nói riêng, cụ thể hóa quan điểm của

nhà nƣớc ta về quyền con ngƣời, quyền tự do của công dân trên mọi mặt của đời
sống, xã hội. Tại Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định "ở nƣớc Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con ngƣời, quyền công dân về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội đƣợc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo
Hiến pháp và pháp luật".
Khi tham gia quan hệ dân sự nói chung và quan hệ hợp đồng nói riêng, các
bên không phân biệt giới tính, tuổi tác, tôn giáo, địa vị xã hội, năng lực kinh tế…
trong việc lựa chọn, quyết định tham gia hợp đồng, thỏa thuận các nội dung trong
hợp đồng và thực hiện hợp đồng. "Bình đẳng và không phân biệt đối xử có ý nghĩa
quan trọng nhằm bảo đảm công bằng xã hội, hạn chế đặc quyền, đặc lợi hoặc cạnh
tranh không lành mạnh khi lợi dụng sự yếu thế về kinh tế" [3]. Một hợp đồng không
bảo đảm yếu tố bình đẳng có thể bị tuyên bố vô hiệu.
Thứ hai, nguyên tắc thực hiện thiện chí, trung thực
Khi tham gia hợp đồng, các bên đều mong muốn đạt đƣợc một lợi ích vật
chất, tinh thần nào đó. Tuy nhiên, quan hệ hợp đồng là quan hệ pháp luật tƣơng đối,
tức quyền, lợi ích của bên này chỉ có thể đạt đƣợc nếu nhƣ bên kia thực hiện nghĩa
vụ của mình. Do vậy, để quyền và lợi ích của mỗi bên đƣợc đảm bảo, không cách
nào khác, mỗi bên trong hợp đồng đều phải có thái độ thiện chí, trung thực khi thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Sự thiện chí, trung thực phải đƣợc thể hiện ngay từ khi các bên chuẩn bị ký
kết, xác lập hợp đồng. Các bên phải cho bên kia biết các thông tin ảnh hƣởng đến
việc chấp nhận giao kết hợp đồng nhƣ tình trạng của đối tƣợng hợp đồng, khả năng
thực hiện hợp đồng của bản thân… Đây chính là biểu hiện của thái độ trung thực.
Trƣờng hợp một bên cung cấp thông tin không trung thực dẫn đến bên kia chấp
thuận hợp đồng thì hợp đồng có thể vô hiệu do lừa dối. Đồng thời, nếu một bên biết
đƣợc những thông tin bí mật của bên kia trong quá trình giao kết hợp đồng thì có
trách nhiệm bảo mật thông tin và không đƣợc sử dụng cho mục đích riêng.

17



Trong quá trình thực hiện hợp đồng, mỗi bên không chỉ quan tâm đến lợi ích
của mình mà còn phải quan tâm, tôn trọng đến quyền, lợi ích của đối tác. Mỗi bên
phải căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh, khả năng của mình để thực hiện nghĩa vụ một
cách mẫn cán, trung thực, đồng thời, phải hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để xác lập, thực
hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ từ đó đạt đƣợc mục đích chung của hợp đồng.
Nếu nhƣ việc ký kết hợp đồng mang tính chất thời điểm thì việc thực hiện
hợp đồng lại là một quá trình. Trong thời gian thực hiện hợp đồng, rất nhiều yếu tố
khách quan có thể xuất hiện, gây trở ngại cho các bên, đặc biệt là đối với các hợp
đồng dài hạn hay các hợp đồng trong lĩnh vực có độ rủi ro cao. Trong trƣờng hợp
này, các bên tham gia hợp đồng phải cùng nhau bàn bạc, tìm cách khắc phục trên
tinh thần hợp tác, từ đó tìm mọi biện pháp cần thiết để thực hiện các cam kết, thỏa
thuận và hạn chế các thiệt hại gây ra cho nhau. Bên có quyền không đƣợc lợi dụng
tình thế bất lợi của bên có nghĩa vụ để trục lợi cho mình, đồng thời phải tạo điều
kiện thuận lợi để ngƣời đó vƣợt qua đƣợc khó khăn, thực hiện đƣợc đầy đủ và
nghiêm chỉnh các nghĩa vụ của mình. Bên có nghĩa vụ cũng không đƣợc ỷ lại vào
những khó khăn khách quan, lấy đó làm nguyên cớ để không thực hiện nghĩa vụ
mà phải thi hành các biện pháp trong khả năng cho phép để khắc phục những khó
khăn khách quan đó.
Thứ ba, nguyên tắc thực hiện đúng hợp đồng
Nhƣ đã nói, hợp đồng đƣợc ví nhƣ "luật giữa các bên", điều này có nghĩa
một hợp đồng với các thỏa thuận hợp pháp sẽ đƣợc ràng buộc thực hiện bởi chính
các bên tham gia hợp đồng và bởi pháp luật. Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên tham gia, Nhà nƣớc có những cơ chế đảm bảo tính an toàn và tính thực
thi của các giao dịch hợp pháp đó. Trƣờng hợp một bên không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng hợp đồng, từ đó gây ra tranh chấp thì bên đó có thể phải chịu các
chế tài do bên bị vi phạm đƣa ra hoặc do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền áp dụng
theo quy định pháp luật. Bởi thế ngay từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên
phải có nghĩa vụ thực hiện đúng hợp đồng.
Thực hiện đúng hợp đồng đƣợc hiểu là bên có nghĩa vụ phải thực hiện một


18


cách đầy đủ, toàn bộ nội dung của hợp đồng. Tùy từng loại hợp đồng mà các bên
đƣa ra những thỏa thuận khác nhau phù hợp với mục đích của hợp đồng, nhƣng
thông thƣờng, các bên có những thỏa thuận cơ bản sau đây:
Một là, đối tượng của hợp đồng
Đối tƣợng của hợp đồng là tài sản, hàng hóa hoặc công việc mà các bên tham
gia hợp đồng tác động tới để đạt đƣợc mục đích của mình nhƣ vật, tiền, giấy tờ có
giá, quyền tài sản hay một công việc. Ví dụ 1: Trong hợp đồng mua bán xe máy, đối
tƣợng hợp đồng là xe máy. Bên bán muốn chuyển quyền sở hữu xe để thu lại lợi
nhuận, còn bên mua muốn đƣợc sở hữu xe máy đó. Ví dụ 2: Trong hợp đồng tƣ vấn
pháp luật, Công ty A muốn Công ty luật B tƣ vấn cho mình về trình tự, thủ tục đăng
ký đầu tƣ ra nƣớc ngoài. Trong trƣờng hợp này, đối tƣợng hợp đồng chính là dịch
vụ tƣ vấn trình tự, thủ tục đăng ký đầu tƣ ra nƣớc ngoài của Công ty luật B.
Để các bên có cơ sở thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, cũng nhƣ để hạn
chế tranh chấp, các bên đều thỏa thuận cụ thể về đối tƣợng hợp đồng. Trƣờng hợp
đối tƣợng hợp đồng là hàng hóa, các bên cần thực hiện, giao dịch đúng hàng hóa
với tên, loại, chất lƣợng, chủng loại, kích thức, nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa... nhƣ
đã thỏa thuận. Đối với đối tƣợng hợp đồng là một công việc thì cũng thực hiện đúng
loại công việc với cách thức thực hiện, chất lƣợng, thời hạn hoàn thành… đã xác
định. Trƣờng hợp các bên không thỏa thuận cụ thể về một tiêu chí của đối tƣợng
hợp đồng thì việc thực hiện hợp đồng sẽ đƣợc tuân theo quy định của pháp luật. Ví
dụ, về chất lƣợng của tài sản mua bán, Khoản 2 Điều 432 BLDS quy định "trƣờng
hợp không có tiêu chuẩn về chất lƣợng của tài sản đã đƣợc công bố, quy định của
cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền và tiêu chuẩn ngành nghề thì chất lƣợng của tài
sản mua bán đƣợc xác định theo tiêu chuẩn thông thƣờng hoặc theo tiêu chuẩn riêng
phù hợp với mục đích giao kết hợp đồng và theo quy định của Luật bảo vệ quyền
lợi ngƣời tiêu dùng".

Trong trƣờng hợp đối tƣợng của hợp đồng là tùy ý lựa chọn, các bên có thể
lựa chọn một trong các đối tƣợng đã thỏa thuận để thực hiện quyền hay nghĩa vụ
của mình. Ví dụ: A cho B vay 500.000 (năm trăm nghìn) đồng với thỏa thuận B

19


×