ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
DƢƠNG THỊ MƠ
ChÕ ®Þnh nu«i con nu«i
theo ph¸p luËt ViÖt Nam
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
DƢƠNG THỊ MƠ
ChÕ ®Þnh nu«i con nu«i
theo ph¸p luËt ViÖt Nam
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN VĂN CỪ
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học
và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Dƣơng Thị Mơ
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH NUÔI CON NUÔI .................7
1.1.
Khái niệm nuôi con nuôi, chế định nuôi con nuôi ....................................7
1.1.1.
Khái niệm nuôi con nuôi ...............................................................................7
1.1.2.
Khái niệm chế định nuôi con nuôi ..............................................................13
1.1.3.
Đặc điểm của quan hệ nuôi con nuôi ..........................................................14
1.1.4.
Các hình thức nuôi con nuôi .......................................................................15
1.2.
Mục đích, ý nghĩa của việc nuôi con nuôi ...............................................20
1.2.1.
Mục đích ......................................................................................................20
1.2.2.
Ý nghĩa ........................................................................................................21
1.3.
Khái quát quá trình phát triển pháp luật của Việt Nam về nuôi
con nuôi ......................................................................................................22
1.3.1.
Giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 .....................................22
1.3.2.
Giai đoạn trƣớc khi ban hành Luật Nuôi con nuôi năm 2010 .....................25
1.3.3.
Giai đoạn từ khi ban hành Luật nuôi con nuôi đến nay ..............................31
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..........................................................................................34
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẾ ĐỊNH NUÔI CON NUÔI HIỆN NAY ..........35
2.1.
Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi ................................................35
2.1.1.
Nguyên tắc khi giải quyết việc nuôi con nuôi phải tôn trọng quyền
trẻ em là đƣợc sống trong môi trƣờng gia đình gốc ....................................35
2.1.2.
Nguyên tắc việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi và ngƣời nhận con nuôi, tự
nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và
đạo đức xã hội .............................................................................................37
2.1.3.
Nguyên tắc chỉ cho làm con nuôi ngƣời ở nƣớc ngoài khi không thể
tìm đƣợc gia đình thay thế ở trong nƣớc .....................................................39
2.2.
Điều kiện nuôi con nuôi ............................................................................40
2.2.1.
Điều kiện đối với ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi .......................................40
2.2.2.
Điều kiện đối với ngƣời nhận nuôi con nuôi ...............................................42
2.2.3.
Sự thể hiện ý chí của các chủ thể ................................................................45
2.2.4.
Sự công nhận của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền .................................50
2.3.
Trình tự, thủ tục đăng ký nuôi con nuôi .................................................51
2.3.1.
Trình tự, thủ tục đăng ký nuôi con nuôi trong nƣớc ...................................51
2.3.2.
Trình tự, thủ tục đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài ...................55
2.3.3.
Trình tự, thủ tục đăng ký nuôi con nuôi ở khu vực biên giới......................63
2.4.
Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi ....................................................65
2.4.1.
Quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi .......................................................66
2.4.2.
Quan hệ giữa con nuôi với các thành viên khác trong gia đình cha
mẹ nuôi ........................................................................................................74
2.4.3.
Quan hệ giữa cha mẹ đẻ với con đã cho làm con nuôi ................................78
2.5.
Chấm dứt việc nuôi con nuôi ....................................................................82
2.5.1.
Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi ...........................................................83
2.5.2.
Trình tự, thủ tục giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi ...........................86
2.5.3.
Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi .....................................90
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..........................................................................................92
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT NUÔI
CON NUÔI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY............................................................................93
3.1.
Tình hình đăng ký nuôi con nuôi .............................................................93
3.1.1.
Kết quả đăng ký nuôi con nuôi trong nƣớc .................................................93
3.1.2.
Kết quả đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài .................................95
3.2.
Thực tiễn áp dụng quy định của Luật Nuôi con nuôi ............................96
3.2.1.
Đối với công tác đăng ký nuôi con nuôi trong nƣớc ...................................96
3.2.2.
Đối với công tác đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài .................100
3.3.
Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi..........................103
3.3.1.
Kiến nghị, đề xuất về việc thực hiện Luật Nuôi con nuôi.........................103
3.3.2.
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi ..........................................106
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3........................................................................................118
KẾT LUẬN ............................................................................................................119
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................121
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
Bộ luật dân sự
BLTTDS
Bộ luật tố tụng dân sự
Công ƣớc La Hay
Công ƣớc La Hay năm 1993 về bảo vệ trẻ
em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi
quốc tế
HN&GĐ
Hôn nhân và gia đình
NLHVDS
Năng lực hành vi dân sự
Nghị định số 19/2011/NĐ-CP Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật nuôi con nuôi
Nghị định số 24/2019/NĐ-CP Nghị định số 24/2019/NĐ-CP ngày 05/3/2019
của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21
tháng 3 năm 2011 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật nuôi
con nuôi
TAND
Tòa án nhân dân
UBND
Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu
* Tính cấp thiết của đề tài
Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật, nó góp
phần vào việc trông nom, nuôi dƣỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đặc biệt là đối
với trẻ em mồ côi, bị tàn tật, bị cha mẹ bỏ rơi. Việc nuôi con nuôi hiện nay không
còn là vấn đề trong nƣớc mà đã đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới quan tâm. Đặc biệt,
trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, nuôi con nuôi thực sự đã trở thành vấn đề
nhân đạo mang tính toàn cầu và đã đƣợc thể chế hóa trong pháp luật quốc tế và
pháp luật trong nƣớc.
Cùng với sự phát triển của xã hội hiện nay thì chất lƣợng cuộc sống tăng lên
nhƣng tỷ lệ vô sinh và gia đình hiếm muộn con cũng tăng đáng kể. Bên cạnh đó,
nhu cầu nhận nuôi con nuôi của những ngƣời chƣa kết hôn đang phát triển khá
mạnh mẽ dẫn đến nhu cầu cần con nuôi cũng nhiều hơn trƣớc. Với ý nghĩa là một
quyền tự do dân sự của cá nhân, việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi có thể đƣợc
thực hiện theo những cách thức khác nhau, tuỳ theo sự lựa chọn của cá nhân trong
những điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
Trong chiến lƣợc phát triển đất nƣớc, Nhà nƣớc ta luôn quan tâm, coi trọng
việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em. Tuy nhiên, pháp luật với việc bảo vệ quyền
trẻ em hiện nay cho thấy còn nhiều tồn tại vƣớng mắc, cần có những hƣớng giải
quyết tích cực. Trƣớc hết ngƣời nhận nuôi con nuôi còn tâm lí phân biệt giữa con đẻ
và con nuôi, lợi dụng việc nhận nuôi con nuôi để trục lợi bản thân, cho trẻ em làm
con nuôi vì các mục đích khác trái pháp luật (mua bán trẻ em) và đạo đức xã hội;
trong quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi còn tồn tại hiện tƣợng xâm phạm nghiêm
trọng quyền của trẻ em nhƣ bóc lột sức lao động của trẻ, xâm hại tình dục, bạo hành,
ngƣợc đãi đối với con nuôi; hoặc do quan niệm lạc hậu nhƣ nuôi con nuôi để sinh
con… Điều đó dẫn tới việc khó tìm đƣợc gia đình thích hợp cho trẻ chịu nhiều nghiệt
ngã của số phận nhƣ trẻ tàn tật, trẻ em bị bỏ rơi, mắc bệnh hiểm nghèo…
1
Luật Nuôi con nuôi năm 2010 là đạo luật về nuôi con nuôi đầu tiên của Việt
Nam. Pháp luật về nuôi con nuôi ở nƣớc ta đã góp phần quan trọng trong việc bảo
đảm thực hiện quyền trẻ em đƣợc chăm sóc, nuôi dƣỡng và giáo dục trong môi
trƣờng gia đình; động viên, khơi dậy tinh thần nhân đạo, nhân văn của con ngƣời
Việt Nam; giữ gìn và phát huy truyền thống tƣơng thân tƣơng ái, lá lành đùm lá
rách trong nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cha mẹ nuôi, giúp họ ổn
định tƣ tƣởng và yên tâm trong việc nuôi dƣỡng, chăm sóc con nuôi nhƣ con đẻ.
Tuy nhiên trong thực tế việc hiểu và thực hiện các quy định về nuôi con nuôi còn
chƣa đúng, chƣa đầy đủ, thậm chí còn có những sai phạm, làm ảnh hƣởng trực tiếp
đến quyền của trẻ em, nhất là quyền của trẻ em đƣợc nhận làm con nuôi. Luật Nuôi
con nuôi đã quy định các quyền và nghĩa vụ của ngƣời nhận nuôi con nuôi cũng nhƣ
ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi, điều kiện để việc nuôi con nuôi hợp pháp, các thủ
tục và thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi song vẫn còn nhiều bất cập, vƣớng mắc,
nhiều quy định chƣa cụ thể, rõ ràng, nhƣ: các quy định về thủ tục giải quyết việc
nuôi con nuôi phức tạp hơn, hồ sơ nuôi con nuôi cần nhiều loại giấy tờ hơn, quy
định về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi chƣa đầy đủ, thiếu rõ ràng, chƣa có
sự tƣơng thích với quy định của các ngành luật khác có liên quan, đặc biệt là hệ quả
pháp lý của việc nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài còn chƣa đƣợc quy định, các
điều kiện nuôi con nuôi chƣa chặt chẽ, dẫn đến việc nhận thức và áp dụng trong
thực tế thiếu thống nhất...
Nuôi con nuôi là lĩnh vực khá nhạy cảm, quan hệ xã hội này luôn có sự biến
động phức tạp. Vì vậy, để việc nuôi con nuôi đƣợc thực hiện một cách có hiệu quả
và đúng mục đích, đảm bảo quyền lợi trẻ em, thì việc hoàn thiện pháp luật nuôi con
nuôi là một yêu cầu khách quan.
* Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nuôi con nuôi là đối tƣợng quan tâm của nhiều nhà và nhiều lĩnh vực
khoa học nghiên cứu. Từ khi Luật Nuôi con nuôi đƣợc ban hành đến nay, đã có rất
nhiều công trình, bài viết, luận văn thạc sĩ nghiên cứu hệ thống pháp luật điều chỉnh
quan hệ nuôi con nuôi. Có thể kể đến nhƣ:
2
- Luận văn thạc sĩ luật học: Nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam của tác
giả Bùi Thị Hƣơng, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011. Luận văn
phân tích quá trình phát triển của pháp luật nuôi con nuôi, những kết quả đạt đƣợc,
những hạn chế và sự cần thiết của Luật Nuôi con nuôi, nhƣng lại không phân tích
kỹ các nội dung của Luật Nuôi con nuôi.
- Luận văn thạc sĩ luật học: Quan hệ cha mẹ nuôi - con nuôi theo pháp luật
Việt Nam hiện nay của tác giả Kiều Thị Huyền Trang, Khoa luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội, năm 2014. Luận văn đã phân tích một số nội dung về hệ quả pháp lý của
việc nuôi con nuôi qua mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, giữa con nuôi
với các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi, giữa con đã làm con nuôi với
cha mẹ đẻ và chỉ ra một số điểm còn hạn chế trong các quy định của pháp luật về
nuôi con nuôi.
- Chuyên đề “Pháp luật về nuôi con nuôi” năm 2011, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật - Bộ Tƣ pháp. Chuyên đề bao gồm các bài viết về một số nội dung của
Luật Nuôi con nuôi nhƣ mục đích, nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi, các nội
dung liên quan về điều kiện nuôi con nuôi, hồ sơ, thủ tục, thẩm quyền giải quyết
việc nuôi con nuôi, hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi ... Các bài viết trong tạp
chí này mang tính chất thông tin về Luật Nuôi con nuôi sau khi đƣợc ban hành và
mới có hiệu lực.
- Tác giả Nguyễn Phƣơng Lan với bài viết “Hệ quả pháp lý của việc nuôi con
nuôi theo Luật Nuôi con nuôi”, số tháng 10/2011 Tạp chí Luật học và bài viết “Hệ
quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài theo Luật Nuôi con nuôi”,
số tháng 5/2012 Tạp chí Luật học. Các bài viết đã bàn đến quy định của Luật Nuôi
con nuôi về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong nƣớc và nuôi con nuôi có
yếu tố nƣớc ngoài, nêu những điểm vƣớng mắc, bất cập và kiến nghị sửa đổi, bổ
sung một số quy định của pháp luật về vấn đề này.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội: Luật
Nuôi con nuôi - thực tiễn thi hành và giải pháp hoàn thiện, chủ nhiệm đề tài Nguyễn
Phƣơng Lan, năm 2017. Đề tài nghiên cứu tình hình thực thi Luật Nuôi con nuôi, làm
3
rõ những vƣớng mắc, bất cập, chỉ ra những điểm cần sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện
pháp luật về nuôi con nuôi và đề xuất các biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện có hiệu
quả các hoạt động trong quá trình giải quyết, thực hiện việc nuôi con nuôi.
Với tình hình nghiên cứu chung đó, việc nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện
pháp luật về nuôi con nuôi có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Nhằm tìm hiểu một
cách tổng thể, toàn diện, có tính hệ thống và chuyên sâu về pháp luật nuôi con nuôi
trong khoa học pháp lý Việt Nam, tác giả chọn đề tài “Chế định nuôi con nuôi theo
pháp luật Việt Nam” để nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ của mình.
2. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
* Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu các quy định về nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam
giai đoạn trƣớc khi Luật Nuôi con nuôi năm 2010 ra đời.
- Nghiên cứu chế định nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010 và
các văn bản liên quan khác về quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực nuôi con nuôi, hộ
tịch, hôn nhân và gia đình.
- Nghiên cứu thực trạng thực hiện việc nuôi con nuôi, áp dụng pháp luật và
giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ nuôi con nuôi.
- Kiến giải một số vấn đề nhằm hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi ở Việt
Nam hiện nay.
* Mục đích nghiên cứu đề tài
Dựa trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật nuôi con nuôi, tác giả
muốn tìm hiểu rõ hơn những vấn đề lý luận chung, tìm hiểu thực tiễn việc tiến hành
nuôi con nuôi nhằm tìm ra những điểm còn hạn chế, bất cập trong hệ thống pháp
luật Việt Nam hiện hành và trong quá trình thi hành, áp dụng các quy định về nuôi
con nuôi; đề xuất ý kiến nhằm hoàn thiện chế định nuôi con nuôi và đảm bảo hiệu
quả của việc thi hành, áp dụng chế định nuôi con nuôi trong thực tiễn.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Phân tích để hiểu rõ bản chất pháp lý và tính nhân đạo của chế định nuôi con
nuôi trong pháp luật Việt Nam. Nghiên cứu một cách tổng thể pháp luật nuôi con
4
nuôi ở nƣớc ta trong quá trình lập pháp; phát hiện những bất cập, hạn chế, khiếm
khuyết của các quy định về nuôi con nuôi, từ đó có cơ sở để kiến nghị hoàn thiện
pháp luật nuôi con nuôi. Khảo sát và đánh giá thực tiễn áp dụng chế định nuôi con
nuôi, qua đó phát hiện những vƣớng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng và thực
hiện pháp luật nuôi con nuôi.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt đƣợc các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên
cứu luận văn đã sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản sau:
Phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và đƣờng lối quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề tài đƣợc nghiên cứu bằng các phƣơng pháp cụ
thể là phân tích, tổng hợp, hệ thống, kết hợp với các phƣơng pháp khác nhƣ phƣơng
pháp lịch sử.
Một số phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu đƣợc áp dụng:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Thông qua phƣơng pháp này, các khái
niệm, đặc điểm liên quan đến các nguyên tắc, trình tự thủ tục nhận nuôi con nuôi
đƣợc phân tích cụ thể, chỉ ra các mối liên hệ từ đó đƣa ra những kết luận về các vấn
đề cần giải quyết trong luận văn.
+ Phương pháp so sánh: Sử dụng để so sánh các quy định của pháp luật về
nuôi con nuôi từ trƣớc khi Luật Nuôi con nuôi đƣợc ban hành cho đến nay.
+ Phương pháp lịch sử: Đƣợc sử dụng để nghiên cứu quá trình hình thành và
phát triển của chế định nuôi con nuôi qua các thời kỳ.
+ Phƣơng pháp tổng hợp nhằm sắp đặt, liên kết, hệ thống các vấn đề đã phân
tích cũng nhƣ trình bày các vấn đề.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn nghiên cứu tổng thể các quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ
nuôi con nuôi góp phần đánh giá, khắc phục và hoàn thiện hệ thống pháp luật về
nuôi con nuôi của Nhà nƣớc ta thông qua việc xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp
luật trên thực tiễn.
5
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm 3 chƣơng, cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chế định nuôi con nuôi.
Chương 2: Thực trạng chế định nuôi con nuôi hiện nay.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng quy định của Luật nuôi con nuôi và một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật nuôi con nuôi ở Việt Nam hiện nay.
6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH NUÔI CON NUÔI
1.1. Khái niệm nuôi con nuôi, chế định nuôi con nuôi
1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi
Nuôi con nuôi là hiện tƣợng đã xuất hiện từ rất lâu đời trên thế giới. Trong
Bộ luật Hammurabi, một trong những bộ luật thành văn cổ xƣa nhất đã chứa đựng
những quy định về nuôi con nuôi, đặc biệt với đối tƣợng là trẻ em bị bỏ rơi. Mục
106 của Bộ luật này đã quy định: Trƣớc khi đàn ông có thể nuôi một đứa trẻ bị bỏ
rơi, ông ta phải tìm cha mẹ đẻ của nó, nếu tìm thấy thì phải trả đứa trẻ cho họ. Có thể
thấy, từ cổ xƣa đến hiện đại giải pháp tốt nhất mà xã hội giành cho trẻ em vẫn là “ƣu
tiên trƣớc hết đối với trẻ là đƣợc chăm sóc bởi chính cha mẹ đẻ, đƣợc sống trong môi
trƣờng gia đình ruột thịt của mình” (Điều 3 Tuyên bố 1986 của Liên Hợp quốc).
Trong hệ thống pháp luật La Mã cổ đại thì nuôi con nuôi chủ yếu nhằm để
duy trì dòng họ, thờ cúng tổ tiên và thừa kế tài sản.
Trong Bộ luật dân sự Napoleon năm 1804 - Bộ luật ra đời đánh dấu nền lập
pháp hiện đại, vấn đề con nuôi cũng đƣợc đề cập. Ở vào thời kỳ đầu khi đƣợc ban
hành và thực hiện, Bộ luật xóa bỏ đối tƣợng con nuôi là trẻ vị thành niên, chỉ cho
phép con nuôi là ngƣời đã trƣởng thành và đã đƣợc chăm sóc trong gia đình cha mẹ
nuôi 06 năm. Ngƣời nuôi phải từ 50 tuổi trở lên và không có con nối dõi. Giải pháp
nuôi con nuôi chỉ đƣợc thực hiện trong trƣờng hợp cha mẹ nuôi không có ngƣời
thừa kế. Con nuôi đƣợc giữ nguyên tất cả các quyền của chúng trong gia đình gốc,
chỉ đƣợc quyền thừa kế tài sản và mang họ của ngƣời nuôi.
Ở Việt Nam, theo từ điển bách khoa Việt Nam thì khái niệm nuôi con nuôi là
việc một ngƣời (ngƣời nuôi) nhận nuôi ngƣời khác (con nuôi) nhằm tạo ra những
tình cảm gắn bó giữa hai ngƣời, bảo đảm cho ngƣời con nuôi đƣợc thƣơng yêu, nuôi
dƣỡng, chăm sóc, giáo dục tốt. Việc nhận nuôi con nuôi do UBND xã/phƣờng/thị
trấn (UBND cấp xã) nơi ngƣời nuôi và của con nuôi công nhận và ghi vào sổ hộ tịch.
Thông qua sự kiện pháp lý này giữa ngƣời nuôi và con nuôi phát sinh các quyền và
nghĩa vụ nhƣ giữa cha mẹ đẻ và con đẻ [7, tr.316].
7
Theo Luật HN&GĐ năm 2000 thì:
Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa ngƣời nhận
nuôi con nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi, bảo đảm cho ngƣời
đƣợc nhận làm con nuôi đƣợc trông nom, nuôi dƣỡng, chăm sóc, giáo
dục phù hợp với đạo đức xã hội. Một ngƣời có thể đƣợc nhận một hoặc
nhiều ngƣời làm con nuôi. Giữa ngƣời nhận nuôi con nuôi và ngƣời đƣợc
nhận làm con nuôi có các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy
định của Luật này [12, Điều 67].
Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định:
Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa ngƣời nhận
con nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi [15, Điều 3, Khoản 1].
Con nuôi là ngƣời đƣợc một ngƣời hoặc hai vợ chồng nhận làm con và coi
nhƣ con đẻ, nhƣng giữa hai bên không có liên hệ với nhau về mặt sinh học, không
có quan hệ huyết thống với nhau hoặc tuy có quan hệ huyết thống với nhau trong
phạm vi nhất định nhƣng không phải là quan hệ huyết thống trực hệ và không sinh
thành ra nhau [9, tr.11]. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa
ngƣời nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận nuôi, các bên đối xử với nhau nhƣ cha mẹ đẻ
và con đẻ nhƣng không có quan hệ với nhau về mặt sinh học và huyết thống. Nếu
quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con là quan hệ dựa trên sự kiện sinh đẻ, là mối liên hệ
huyết thống tự nhiên, quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa cha mẹ đẻ và con đẻ phát sinh
không phụ thuộc vào hôn nhân của cha mẹ là hợp pháp hay không hợp pháp thì
quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi đƣợc hình thành dựa trên ý chí chủ quan của
cha mẹ nuôi và con nuôi, quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa cha mẹ nuôi và con nuôi
chỉ phát sinh khi quan hệ nuôi con nuôi đƣợc pháp luật công nhận.
Xem xét dƣới góc độ xã hội, “con nuôi là con của người khác nhưng được
một người hoặc hai người là vợ chồng nhận làm con và coi như con đẻ, nhằm thỏa
mãn những nhu cầu, lợi ích nhất định của các bên” [9, tr.10].
Việc nuôi con nuôi có thể đƣợc xác lập do sự thỏa thuận của cha mẹ nuôi và
con nuôi đã thành niên hoặc giữa cha mẹ nuôi và cha mẹ đẻ của con nuôi chƣa
8
thành niên trên cơ sở tình cảm và ƣớc nguyện gắn bó giữa hai gia đình (nuôi con
nuôi trên danh nghĩa) hoặc có thể do ngƣời nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận nuôi đã
gắn bó với nhau, thực hiện quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con trên thực tế, đáp
ứng đƣợc các điều kiện chủ thể nhƣng chƣa đăng ký tại các cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền (nuôi con nuôi thực tế) hoặc việc nuôi con nuôi theo phong tục tập quán
đã từng tồn tại từ lâu trong cộng đồng các dân tộc thiểu số và hiện nay vẫn còn tồn
tại nhƣ: dân tộc Mƣờng, Thái, Dao, Thổ, Mông, Khơ Mú đều có phong tục nhận
nuôi con nuôi [21, tr.70-101].
Nhƣ vậy, dƣới góc độ xã hội, việc nuôi con nuôi không đòi hỏi các điều kiện
chặt chẽ mà chỉ cần đáp ứng những lợi ích về vật chất và tinh thần, không cần có sự
thừa nhận của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi
này không đƣợc pháp luật điều chỉnh.
Dƣới góc độ pháp lý, việc nuôi con nuôi phải đăng ký và do cơ quan nhà
nƣớc có thẩm quyền tiến hành đăng ký, các nghi thức nhận nuôi con nuôi khác (nhƣ
giấy tờ viết tay giữa cha mẹ đẻ cho con đẻ của mình làm con nuôi ngƣời khác hay
ngƣời nhận con nuôi lập đàn lễ cúng tế tổ tiên về việc nhận con nuôi hoặc nhặt đƣợc
trẻ bị bỏ rơi thì mang về nuôi mà… không khai báo, đăng ký với cơ quan nhà nƣớc
có thẩm quyền) đều không có giá trị pháp lý và không đƣợc nhà nƣớc công nhận,
giữa ngƣời nhận con nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi không có các quyền và
nghĩa vụ của cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật.
Ở góc độ này, việc nuôi con nuôi có thể đƣợc hiểu là sự kiện pháp lý hoặc là
quan hệ pháp luật.
* Nuôi con nuôi là một sự kiện pháp lý
Sự kiện pháp lý là những sự kiện xảy ra trong thực tế và chỉ trở thành sự
kiện pháp lý khi pháp luật xác định rõ điều đó [25]. Với tƣ cách là một sự kiện
pháp lý, nuôi con nuôi là một hình thức pháp lý nhằm xác lập quan hệ cha mẹ và
con giữa ngƣời nhận con nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi theo các điều kiện
do pháp luật quy định, mà không liên quan đến quan hệ huyết thống sinh học giữa
hai bên [9, tr.21]. Nuôi con nuôi là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp
9
luật cha mẹ - con giữa ngƣời nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận nuôi, khi giữa họ không
có quan hệ huyết thống trực hệ mà đƣợc xác lập trên cơ sở quyết định của cơ quan
nhà nƣớc có thẩm quyền theo ý chí, nguyện vọng của các đƣơng sự và tuân thủ đầy
đủ quy định của pháp luật về các điều kiện xác lập quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con
nuôi. Để làm rõ bản chất của sự kiện pháp lý nuôi con nuôi cần xem xét mối quan
hệ giữa các sự kiện cấu thành của nó.
Nuôi con nuôi bao gồm các sự kiện pháp lý sau
Một là, các chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi bao gồm: cha mẹ nuôi
(ngƣời nhận con nuôi), con nuôi (ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi) và cha mẹ đẻ của
ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi có đủ điều kiện của việc nuôi con nuôi.
Hai là, sự thể hiện ý chí của các chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi. Quan
hệ nuôi con nuôi chỉ đƣợc hình thành khi các bên có liên quan trong quan hệ nuôi
con nuôi thể hiện ý chí trong việc cho và nhận con nuôi. Pháp luật không thừa nhận
quan hệ nuôi con nuôi khi ý chí của một trong các bên không thể hiện rõ hoặc thể
hiện không đúng theo quy định của pháp luật.
+ Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi
Ngƣời nhận nuôi con nuôi phải thể hiện ý chí của mình về việc mong muốn
nhận nuôi đứa trẻ và thiết lập quan hệ cha mẹ và con với đứa trẻ đó thông qua đơn
xin nhận nuôi con nuôi.
+ Sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em được cho
làm con nuôi
Ý chí của những ngƣời này trong việc cho trẻ em làm con nuôi phải minh thị
và xuất phát từ sự tự nguyện thật sự của bản thân họ mà không có bất cứ sự tác
động, thúc ép, dụ dỗ, hứa hẹn hoặc một áp lực nào. Ý chí đó phải hoàn toàn độc lập.
Nội dung của ý chí đó là đồng ý cho con mình làm con nuôi của ngƣời khác. Sự
đồng ý đó có thể thể hiện bất cứ lúc nào nhƣng nó chỉ có ý nghĩa sau khi đứa trẻ
đƣợc sinh ra mà còn sống ít nhất đƣợc 15 ngày [15, Điều 4].
+ Sự thể hiện ý chí của bản thân người con nuôi
Khoản 1 Điều 21 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định “...trường hợp
10
nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự đồng ý của trẻ
em đó”. Ở độ tuổi này, mặc dù đứa trẻ chƣa có NLHVDS đầy đủ nhƣng đã có khả
năng nhận thức nhất định về cuộc sống, có thể nhận biết và bày tỏ thái độ của mình
mong muốn hay không mong muốn làm con nuôi ngƣời khác, cũng nhƣ cảm nhận
đƣợc sự an toàn hay không an toàn khi đƣợc cho làm con nuôi ngƣời khác, khi phải
thay đổi môi trƣờng sống ... Do đó, pháp luật quy định đứa trẻ từ đủ 09 tuổi trở lên
có quyền thể hiện ý chí độc lập, quyết định vấn đề có liên quan trực tiếp đến cuộc
sống của mình; sự đồng ý làm con nuôi của đứa trẻ là điều kiện bắt buộc để việc
nuôi con nuôi có giá trị pháp lý.
+ Sự thể hiện ý chí của Nhà nước
Ý chí của Nhà nƣớc đƣợc thể hiện thông qua việc công nhận (hay không
công nhận) việc nuôi con nuôi, thông qua thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi (hay
từ chối việc đăng ký nuôi con nuôi). Việc nuôi con nuôi đƣợc công nhận tại cơ quan
nhà nƣớc có thẩm quyền làm phát sinh hiệu lực pháp lý của việc nuôi con nuôi.
Nhƣ vậy, sự kiện nuôi con nuôi là một tập hợp các sự kiện có mối liên hệ với
nhau, vừa có sự ràng buộc nhau và phát sinh theo một trật tự nhất định, bao gồm các
yếu tố cấu thành mà nếu thiếu đi một trong các yếu tố cấu thành đó sẽ không có
hiệu lực, không làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha mẹ nuôi và con nuôi.
* Nuôi con nuôi là một quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật là những quan hệ nảy sinh trong xã hội đƣợc các quy
phạm pháp luật điều chỉnh. Quan hệ nuôi con nuôi là những quan hệ phát sinh trong
lĩnh vực nuôi con nuôi đƣợc các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Là quan hệ pháp
luật, thì quan hệ nuôi con nuôi có thể đƣợc hiểu là một quan hệ pháp luật cụ thể có
đầy đủ các yếu tố: chủ thể, khách thể, nội dung hoặc có thể đƣợc hiểu là một nhóm
các quan hệ pháp luật [9, tr.30].
Thứ nhất, nuôi con nuôi là một loại quan hệ pháp luật, có các yếu tố cấu
thành là chủ thể, khách thể, nội dung.
Chủ thể trong quan hệ pháp luật nuôi con nuôi bao gồm: cha mẹ đẻ, cha mẹ
nuôi và con nuôi. Để đƣợc coi là chủ thể của quan hệ pháp luật nuôi con nuôi thì
11
các bên chủ thể phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện tƣơng ứng theo quy định của
pháp luật về nuôi con nuôi.
Khách thể của quan hệ nuôi con nuôi là những lợi ích mà các bên chủ thể
hƣớng tới. Những lợi ích đó là những lợi ích tinh thần và vật chất mà cả ngƣời nhận
nuôi con nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi mong muốn đƣợc hƣởng và hƣớng
tới. Đó có thể là lợi ích tình cảm của cha mẹ nuôi và con nuôi, đáp ứng điều kiện
cho sự phát triển đầy đủ của đứa trẻ, đáp ứng đƣợc mong muốn của cha mẹ đẻ là
con của họ sẽ có một mái ấm tốt đẹp hơn tại gia đình của cha mẹ nuôi...
Nội dung của quan hệ pháp luật nuôi con nuôi là những quyền và nghĩa vụ pháp
lý của các chủ thể do pháp luật quy định khi tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi, bao
gồm các quyền, nghĩa vụ nhân thân và quyền, nghĩa vụ tài sản giữa các chủ thể.
Việc xác lập quan hệ gia đình, quan hệ cha, mẹ và con giữa ngƣời nhận nuôi
con nuôi với ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi đƣợc hình thành từ quan hệ nuôi
dƣỡng, chăm sóc, dựa trên ý chí chủ quan của các chủ thể tham gia quan hệ nuôi
con nuôi và phải đƣợc sự công nhận của các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật.
Thứ hai, quan hệ pháp luật nuôi con nuôi đƣợc hiểu theo nghĩa là nhóm quan
hệ pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi. Các quan hệ này có thể là các loại quan
hệ khác nhau nhƣ: quan hệ hành chính trong việc đăng ký và quản lý việc nuôi con
nuôi; quan hệ HN&GĐ trong việc điều chỉnh quyền và nghĩa vụ giữa ngƣời nhận
nuôi và con nuôi; quan hệ tố tụng trong giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi;
quan hệ pháp luật hình sự khi có hành vi lợi dụng việc nuôi con nuôi để mua bán trẻ
em ... Tập hợp các quan hệ pháp luật này thể hiện sự điều chỉnh của pháp luật đối
với các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi.
Nhƣ vậy, khái niệm nuôi con nuôi có thể đƣợc hiểu dƣới nhiều góc độ và
đƣợc xét ở nhiều khía cạnh, nhƣng dù dƣới góc độ hay khía cạnh nào thì có thể thấy
các trƣờng hợp nuôi con nuôi đều xuất phát từ ý chí chủ quan của cha mẹ nuôi, cha
mẹ đẻ và con nuôi.
12
1.1.2. Khái niệm chế định nuôi con nuôi
“Chế định pháp luật là khái niệm dùng để chỉ một số quy phạm pháp luật có
những đặc điểm chung giống nhau nhằm điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội
tƣơng ứng” [24, tr.402]. Chế định pháp luật có tính chất nhóm, mỗi chế định có đặc
điểm riêng nhƣng có mối quan hệ nội tại thống nhất với nhau. Việc xác định ranh
giới giữa các chế định nhằm tạo ra khả năng để xây dựng hệ thống quy phạm pháp
luật phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội.
Chế định nuôi con nuôi là chế định pháp lý bao gồm các nguyên tắc, quy định,
quan điểm, tƣ tƣởng pháp lý của nhà nƣớc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh
vực nuôi con nuôi nuôi, nhƣ các quy phạm pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi, trình
tự, thủ tục giải quyết nuôi con nuôi, hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi, chấm dứt
việc nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan trong quan hệ
nuôi con nuôi, bao gồm cả các trƣờng hợp nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài...
Theo Tiến sĩ Nguyễn Phƣơng Lan thì:
Chế định nuôi con nuôi là tổng hợp các quy phạm pháp luật, do nhà nƣớc
ban hành, điều chỉnh việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể có liên quan trong việc cho
nhận con nuôi, trên cơ sở hình thành quan hệ cha mẹ và con giữa ngƣời
nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi [9, tr.35].
Chế định pháp lý về nuôi con nuôi bao gồm những đặc điểm sau:
- Chế định nuôi con nuôi là sự tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
về quan hệ nuôi con nuôi. Đây là các quy phạm pháp luật điều chỉnh về điều kiện,
trình tự thủ tục xác lập, thực hiện, chấm dứt việc nuôi con nuôi... Các quy phạm này
đƣợc thể hiện trong những hình thức nhất định để điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi.
- Chế định pháp lý về nuôi con nuôi bị chi phối bởi yếu tố tình cảm, vì thế ít
có chế tài kèm theo. Đặc điểm này xuất phát từ đặc điểm chung của ngành luật
HN&GĐ, các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ trên cơ sở lợi ích chung, xuất
phát từ tình cảm. Vì vậy, Nhà nƣớc thƣờng sử dụng các biện pháp giáo dục, khuyến
khích, vì thế mà ít có chế tài đƣợc áp dụng trong quan hệ nuôi con nuôi.
13
- Chế định nuôi con nuôi thƣờng bị chi phối bởi các quy phạm đạo đức,
phong tục, tập quán, tôn giáo. Pháp luật Việt Nam quy định quan hệ nuôi con nuôi
dựa trên các quy phạm đạo đức xã hội, ví dụ nhƣ con nuôi phải có bổn phận kính
trọng, hiếu thảo, lắng nghe những lời khuyên bảo của cha mẹ; cha mẹ nuôi cũng
phải có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dƣỡng, giáo dục con nuôi. Mặt khác, Nhà nƣớc
cũng tôn trọng, khuyến khích đồng bào các dân tộc giữ gìn và phát huy các phong
tục tập quán tốt đẹp về vấn đề nuôi con nuôi; có sự ƣu tiên về việc giải quyết đăng
ký cho các trƣờng hợp nuôi con nuôi tại các vùng dân tộc thiểu số.
Việc tìm hiểu khái niệm nuôi con nuôi và chế định nuôi con nuôi sẽ là tiền đề
quan trọng giúp hiểu rõ về bản chất, mục đích của nuôi con nuôi. Từ đó có thể xây
dựng đƣợc một hệ thống quy phạm pháp luật hợp lý, thống nhất để điều chỉnh quan
hệ nuôi con nuôi, đảm bảo việc nuôi con nuôi đƣợc tiến hành vì mục đích nhân đạo,
đồng thời tạo ra cơ sở pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong
quan hệ nuôi con nuôi.
1.1.3. Đặc điểm của quan hệ nuôi con nuôi
Quan hệ nuôi con nuôi có các đặc điểm sau:
Về chủ thể: Quan hệ nuôi con nuôi là quan hệ ràng buộc một ngƣời vào một
hoặc hai ngƣời khác (có quan hệ hôn nhân hợp pháp). Ngƣời nhận nuôi không sinh
ra ngƣời đƣợc nuôi, họ có thể biết hoặc không biết cha, mẹ đẻ của đứa trẻ là ai.
Ngƣời nhận nuôi không phân biệt nam, nữ, đã có gia đình hay chƣa có gia đình
miễn là có nguyện vọng nuôi con nuôi và phải đáp ứng đầy đủ điều kiện theo luật
định. Ngƣời đƣợc nhận nuôi cần có ngƣời chăm sóc, nuôi dƣỡng, giáo dục tốt nhất
để phát triển toàn diện.
Về ý chí: Giữa ngƣời nhận nuôi và ngƣời con nuôi có mong muốn thiết lập
cha, mẹ và con, nhất là từ ngƣời nhận nuôi. Nhà nƣớc không thể bắt một ngƣời có
đủ điều kiện nhận nuôi con nuôi phải nhận một đứa trẻ có hoàn cảnh khó khăn cần
có ngƣời nuôi dƣỡng về làm con của mình. Mà tất cả đều do sự tự nguyện, tự do ý
chí của cả hai bên.
Về khách quan: Ngƣời nhận nuôi con và ngƣời đƣợc nuôi đã cùng chung
14
sống với nhau trong một mái nhà, gắn bó, cƣ xử với nhau trong tình cảm cha mẹ và
con, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con với nhau. Quan hệ
giữa cha mẹ và con phải đƣợc pháp luật thừa nhận, họ hàng, những ngƣời xung
quanh thừa nhận. Việc nuôi con nuôi là đúng mục đích không trái pháp luật và đạo
đức xã hội.
Về hình thức: việc nhận nuôi con nuôi phải đƣợc thực hiện bằng văn bản, có
đăng ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Quan hệ cha mẹ nuôi - con nuôi đƣợc
công nhận và có giá trị pháp lý kể từ thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi.
Xuất phát từ đặc điểm của quan hệ nuôi con nuôi, nên các quy định của pháp
luật điều chỉnh việc nuôi con nuôi phải phù hợp với bản chất khách quan hệ này.
1.1.4. Các hình thức nuôi con nuôi
Nuôi con nuôi là một quyền tự do dân sự của cá nhân, việc xác lập quan hệ
nuôi con nuôi đƣợc thực hiện theo những cách thức khác nhau, tùy theo lựa chọn
của các bên trong mối quan hệ nuôi con nuôi trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
Dựa theo khái niệm nuôi con nuôi đƣợc tiếp cận, có thể xác định cách thức xác lập
quan hệ nuôi con nuôi trong thực tế, đó là: xác lập nuôi con nuôi về mặt xã hội và
xác lập nuôi con nuôi về mặt pháp lý.
* Các hình thức nuôi con nuôi về mặt xã hội
Trong đời sống xã hội Việt Nam, việc nhận nuôi con nuôi đã tồn tại từ lâu,
với nhiều lý do và mục đích khác nhau, nhƣng lý do cơ bản, phổ biến nhất là vì lòng
từ tâm, lòng thƣơng ngƣời, muốn cƣu mang, giúp đỡ những ngƣời rơi vào hoàn
cảnh khó khăn. Với quan niệm nhƣ vậy, việc nuôi con nuôi đã đƣợc thực hiện khá
rộng rãi trong đời sống nhân dân.
Trong thực tế đời sống tồn tại khá nhiều các trƣờng hợp nhận con nuôi
nhƣng không đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Đây
là những trƣờng hợp xác lập quan hệ nuôi con nuôi về mặt xã hội. Qua thực tế đời
sống xã hội Việt Nam, nuôi con nuôi đƣợc xác lập theo hai hình thức: nuôi con nuôi
trên danh nghĩa và nuôi con nuôi thực tế.
Nuôi con nuôi trên danh nghĩa là những trƣờng hợp thƣờng xảy ra trong
15
cuộc sống. Nuôi con nuôi trên danh nghĩa là việc các bên nhận nhau là cha mẹ nuôi
và con nuôi xuất phát từ tình cảm, nhƣng không gắn với quyền và nghĩa vụ của cha
mẹ và con, không nhằm mục đích hình thành quan hệ cha mẹ và con trong thực tế.
Các bên có thể đối xử với nhau, gọi nhau là cha mẹ và con, nhƣng không ràng buộc
thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dƣỡng nhau trên thực tế. Hai bên thƣờng không
sống chung với nhau. Việc nuôi con nuôi này không phụ thuộc vào bất cứ điều kiện
nào, mà chỉ tuỳ thuộc vào tình cảm, sự tự nguyện của các bên, phù hợp với cách
ứng xử, chuẩn mực đạo đức chung của xã hội. Việc nuôi con nuôi này thƣờng đƣợc
thực hiện dƣới hình thức thoả thuận bằng miệng giữa các bên chủ thể. Quan hệ cha
mẹ và con trong hình thức này thƣờng chỉ tồn tại trên danh nghĩa, có ý nghĩa đối với
hai bên chủ thể, mà không có ý nghĩa nhiều lắm đối với những ngƣời khác trong gia
đình của hai bên, những ngƣời xung quanh và xã hội. Tuy nhiên, ở Việt Nam, hình
thức nhận con nuôi hoặc nhận cha mẹ nuôi trên danh nghĩa thƣờng hay xảy ra, vì
ngƣời Việt Nam vốn có lối sống trọng tình, trọng nghĩa, hiếu đễ. Ví dụ: việc nhận
những ngƣời già cả, không có khả năng lao động là cha nuôi, mẹ nuôi để chăm sóc,
nuôi dƣỡng; việc bạn bè của những đồng đội đã hy sinh trong chiến tranh nhận
những ngƣời mẹ liệt sỹ làm mẹ nuôi; hoặc cho con làm con nuôi của những ngƣời
có tài, có đức, giỏi giang… trên danh nghĩa để con cái có thể học đƣợc những phẩm
chất tốt đẹp của họ… Hình thức nuôi con nuôi trên danh nghĩa thể hiện nét đẹp
trong đời sống tinh thần của ngƣời Việt Nam. Đặc biệt, trong điều kiện kinh tế thị
trƣờng, việc nuôi con nuôi trên danh nghĩa còn thể hiện sự chăm sóc, quan tâm của
cộng đồng đối với những ngƣời nghèo khổ, già cả, trẻ mồ côi không nơi nƣơng tựa.
Điều đó ít nhiều tạo điều kiện giúp đỡ họ bớt khó khăn, tạo niềm tin cho họ trong
cuộc sống. Việc nhận nuôi con nuôi này chủ yếu hƣớng tới những giá trị đạo đức,
tinh thần, nhƣng không có giá trị pháp lý [10].
Nuôi con nuôi thực tế là hình thức nuôi con nuôi làm hình thành quan hệ cha
mẹ và con giữa ngƣời nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi. Việc nhận nuôi
thoả mãn đầy đủ các điều kiện của việc nuôi con nuôi, không trái với mục đích của
việc nuôi con nuôi và đạo đức xã hội. Ngƣời con nuôi cùng sống trong gia đình cha
16
mẹ nuôi. Giữa ngƣời nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận nuôi có mong muốn thiết lập
quan hệ cha mẹ và con, đối xử với nhau trong tình cảm cha mẹ và con, đồng thời
thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con đối với nhau để xây
dựng một gia đình thật sự. Quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên đã đƣợc xác lập
trong thực tế, đƣợc họ hàng và mọi ngƣời xung quanh công nhận. Việc nhận nuôi con
nuôi có thể đƣợc thực hiện bằng lời nói hoặc văn bản thoả thuận giữa hai bên gia
đình, nhƣng không đăng ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Quan hệ nuôi con
nuôi thực tế đã hình thành và tồn tại quan hệ cha mẹ và con giữa ngƣời nhận nuôi và
ngƣời đƣợc nhận nuôi trong thực tế cuộc sống. Quan hệ cha mẹ và con đƣợc xác lập
phù hợp với mong muốn, tình cảm của các bên và đƣợc thể hiện rõ ràng, công khai
trong cuộc sống, nhƣng chƣa đƣợc công nhận của cơ quan có thẩm quyền.
Có thể nhận thấy quan hệ con nuôi thực tế và con nuôi danh nghĩa có dấu
hiệu giống nhau là đều không đăng ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, song về
bản chất của hai quan hệ là khác nhau. Con nuôi thực tế là ngƣời đƣợc nhận làm
con trên cơ sở đáp ứng đầy đủ các điều kiện của việc nuôi con nuôi, giữa ngƣời nuôi
và ngƣời đƣợc nhận nuôi đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và
con đối với nhau, nhƣng không đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền [10].
Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cả ngƣời nhận con nuôi và con
nuôi, mọi trƣờng hợp nuôi con nuôi thực tế phải tiến hành đăng ký nuôi con nuôi tại
cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Thực hiện Điều 50 Luật Nuôi con nuôi quy định
về việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau trƣớc ngày Luật có hiệu lực
mà chƣa đăng ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền thì đƣợc thực hiện đăng ký
trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật có hiệu lực (từ ngày 01/01/2011 đến hết
ngày 31/12/2015).
Theo số liệu rà soát, thống kê của Cục con nuôi - Bộ Tƣ pháp, cả nƣớc có
9.436 trƣờng hợp nuôi con nuôi thực tế [29]. Trong đó có 7.399 trƣờng hợp đủ điều
kiện đăng ký (chiếm hơn 78,4% tổng số các trƣờng hợp nuôi con nuôi thực tế) và số
trƣờng hợp nuôi con nuôi thực tế đƣợc đăng ký từ ngày 01/01/2011 đến ngày
17
30/6/2015 là 3.334 trƣờng hợp (chiếm 45% tổng số trƣờng hợp đủ điều kiện đăng
ký). Số trƣờng hợp nuôi con nuôi thực tế chƣa đăng ký là 4.605 trƣờng hợp, trong
đó có 1.884 trƣờng hợp ngƣời dân không đăng ký vì muốn giữ bí mật (chiếm 46%
tổng số trƣờng hợp chƣa đăng ký); 417 trƣờng hợp cha mẹ nuôi hoặc con nuôi đã
chết, 131 trƣờng hợp không còn tồn tại quan hệ nuôi dƣỡng; 84 trƣờng hợp không
đáp ứng khoảng cách độ tuổi giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; 1.549 trƣờng hợp
không đăng ký vì không đáp ứng yêu cầu về hồ sơ hoặc vì ngƣời nhận con nuôi và
con nuôi đều đã lớn tuổi không muốn tiến hành thủ tục đăng ký nuôi con nuôi thực
tế (chiếm 20% tổng số trƣờng hợp nuôi con nuôi thực tế đủ điều kiện đăng ký).
Mặc dù đăng ký nuôi con nuôi thực tế đã đƣợc triển khai, nhƣng thực tế đã
phát sinh nhiều khó khăn, vƣớng mắc trong việc thực hiện đăng ký nuôi con nuôi
thực tế nhƣ: Việc nuôi con nuôi thực tế không đáp ứng đủ điều kiện về độ tuổi (luật
quy định cha, mẹ nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên); có trƣờng hợp ngƣời
nuôi con nuôi xin trẻ em ở địa phƣơng khác về nuôi mà không thông báo với chính
quyền địa phƣơng nơi mình cƣ trú; không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc, nhân
thân của trẻ em; có trƣờng hợp ngƣời nuôi con nuôi đã “hợp thức hóa” con nuôi thành
con đẻ khi đăng ký khai sinh, nhập hộ khẩu và làm các giấy tờ khác đều ghi quan hệ
là con đẻ; hoặc có ngƣời trực tiếp xin con nuôi từ cha mẹ đẻ hoặc ngƣời thân của trẻ
chỉ thỏa thuận bằng miệng mà không có giấy tờ về nhân thân của con nuôi.
Trong quan niệm xã hội và trong tiềm thức của mỗi cá nhân thƣờng e ngại,
không muốn công khai mối quan hệ cha mẹ nuôi - con nuôi, không muốn trẻ em biết
mình là con nuôi để mong tạo sự yên ổn, tránh mặc cảm cho trẻ em là con nuôi. Trình
độ dân trí tại một số vùng, miền còn thấp, điều kiện đi lại khó khăn, tồn tại nhiều tập
quán lạc hậu ảnh hƣởng đến công tác đăng ký nuôi con nuôi thực tế. Nhận thức pháp
luật của nhiều ngƣời dân còn hạn chế, không hiểu hết đƣợc quyền và lợi ích của mình
trong việc đăng ký nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền; còn tâm lý
ngại tiếp xúc với cơ quan chính quyền để tiến hành thủ tục; ngại lập hồ sơ, giấy tờ...
Thực trạng xã hội ở Việt Nam tồn tại nhiều trƣờng hợp nuôi con nuôi thực tế,
tuy nhiên, kết quả thực hiện đăng ký nuôi con nuôi thực tế không đạt đƣợc mục tiêu
18