Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Đường lối cách mạng của ĐCSVN Liên hệ với đơn vị và bản thân đồng chí?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.48 KB, 17 trang )

BÀI LÀM
Câu 1: Đồng chí đã nhận thức như thế nào về đường lối cách mạng của
ĐCSVN? Liên hệ với đơn vị và bản thân đồng chí?
Trả lời:
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam là hệ thống quan điểm,
chủ trương, chính sách về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của
cách mạng Việt Nam. Đường lối cách mạng được thể hiện qua cương lĩnh, nghị
quyết của Đảng.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (2- 1930) đã thông qua Chánh
cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo nhấn mạnh chủ
trương chiến lược là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản. Về phương diện chính trị phải ''Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập''. Đó là
đường lối chính trị hoàn toàn đúng đắn phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam, hướng vào giải quyết những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của một xã hội
thuộc địa, nửa phong kiến và định hướng phát trtển theo nội dung và xu thế của
thời đại. Phong trào cách mạng nước ta từ Xô viết Nghệ -Tĩnh những năm 19301931 đến cuộc vận động dân chủ 1936-1939 là quá trình vừa thực hiện, vừa khảo
nghiệm, tổng kết thực tiễn, khẳng định tính đúng đắn và bổ sung, phát triển hoàn
chỉnh đường lối đó - đường lối cách mạng giải phóng dân tộc (GPDT). Từ thực
tiễn của cách mạng Việt Nam, Hội nghị Trung ương (HNTƯ) họp tháng 11-1939 ở
Bà Điểm (Gia Định) đã nêu cao mục tiêu GPDT. Bước đường sinh tồn của các dân
tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế
quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy
giải phóng độc lập ''phải thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh
đổ đế quốc'' và công nông phải đưa cao cây cờ dân tộc lên.
HNTƯ tháng 11-1940 cho rằng cách mạng phản đế - cách mạng GPDT cao
hơn hết và nêu rõ: Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn
bị để gánh lấy sứ mệnh thiêng liêng: lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông
1



Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập. Tháng 5-1941 HNTƯ đã
phân tích, đánh giá phong trào cách mạng đã và đang diễn ra sôi nổi trên cả nước,
Trung ương Đảng cho rằng: Mặc dù sự đàn áp của giặc Pháp rất dữ dội mà dân ta
vẫn không lùi. Các nghị quyết HNTƯ (11-1939), (11-1940) và (5-1941) đã phát
triển hoàn chỉnh đường lối cách mạng GPDT. Đó là một hệ thống các quan điểm,
chủ trương của Đảng trên mấy vấn đề chủ yếu sau đây: Nêu cao nhiệm vụ GPDT,
giành độc lập hoàn toàn cho đất nước. Tháng 5-1941, HNTƯ quyết định thành lập
Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh). Đảng chủ trương xây dựng và phát triển
căn cứ địa cách mạng, cùng với lực lượng chính trị phải coi trọng xây dựng và phát
triển lực lượng vũ trang để chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền,
giành độc lập. HNTƯ 8 đã khẳng định vấn đề khởi nghĩa vũ trang. Cuộc cách
mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang.
Những nội dung đường lối cách mạng GPDT mà các NQTƯ (11-1939), (111940) và NQTƯ (5-1941) xác định là một hệ thống toàn diện, đồng bộ những vấn
đề chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng, chủ động về nắm bắt tình thế
và thời cơ cách mạng.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ đầu những năm 40 của thế kỷ XX đã diễn
ra theo đường lối cách mạng GPDT mà Đảng và Hồ Chí Minh đã đề ra. Chỉ thị
Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta của Thường vụ Trung ương Đảng
(12-3-1945) đã làm rõ hơn về tình thế và thời cơ cách mạng. Đảng đã kịp thời phát
động cao trào kháng Nhật cứu nước rộng khắp trên cả nước phân tích những điều
kiện cụ thể để khởi nghĩa có thể nổ ra và giành thắng lợi; đặt ra cho các Đảng bộ
địa phương tinh thần chủ động sáng tạo trong lãnh đạo khởi nghĩa ở địa phương
mình khi ở đó những điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi. Hội nghị cán bộ Đảng
toàn quốc ở Tân Trào giữa tháng 8 - 1945 đã kịp thời quyết định Tổng khởi nghĩa
trên cả nước sau khi quân Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh và trước khi quân
đội Đồng minh vào Đông Dương giải giáp quân Nhật. Thời cơ khởi nghĩa thuận lợi
nhất là nửa cuối tháng 8 - 1945. Khởi nghĩa đã nổ ra và giành thắng lợi đúng như
thế.
2



Đường lối cách mạng của Đảng ta không những đưa cách mạng giải phóng
dân tộc dành thắng lợi mà còn thành công trong cả công cuộc đổi mới đất nước.
Vào cuối những năm bảy mươi của thế kỷ XX do những điều kiện khắc
nghiệt của hoàn cảnh đất nước và cả do những khuyết điểm chủ quan trong lãnh
đạo và quản lý mà đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống nhân
dân gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó Đảng, nhà nước và nhân dân ta đã từng
bước thử nghiệm tìm tòi con đường đổi mới để đưa đất nước phát triển.
Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về CNXH và về thời kỳ
quá độ lên CNXH, dựa vào những kết quả bước đầu của sự đổi mới từng phần,
lắng nghe, tổng kết sáng kiến, kinh nghiệm của nhân dân, của các địa phương và
cơ sở, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986)
đã hoạch định đường lối đổi mới. Trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối đổi
mới do Đại hội VI đề ra, nhiều Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị
và đặc biệt Đại hội VII (6-1991) với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội VIII (6-1996) và Đại hội IX (4-2001) đã
không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới, làm rõ hơn nhiều
vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới và xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Có thể thấy rõ những nội dung đổi mới quan trọng và chủ yếu cả về nhận thức, tư
duy lý luận và cả về lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn suốt 20 năm qua.
Trước hết, đó là đổi mới tư duy lý luận mà thực chất là nắm vững và vận
dụng đúng đắn quy luật khách quan, khắc phục căn bệnh nóng vội, chủ quan, duy
ý chí. Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã nhận thức rằng, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội phải trải qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan và độ dài
của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế xã hội của mỗi nước.
“Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất
nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất
khó khăn”. Đại hội IX (4-2001) tổng kết 15 năm đổi mới, khẳng định: “Xây dựng
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã
hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải

3


qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra
sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”. Trong hàng loạt các quy luật
khách quan, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ hơn quy luật về quan hệ sản
xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, sửa chữa sai
lầm trước đó là là đã đưa quan hệ sản xuất đi quá nhanh, quá xa trong khi lực
lượng sản xuất còn rất lạc hậu, tập trung phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất
thông qua thực hiện cách mạng khoa học - công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hóa, từ đó điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp. Các quy luật vận
động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là các quy luật kinh tế đã từng
bước nhận thức và vận dụng đúng đắn và có hiệu quả hơn. Khi quyết định đường
lối đổi mới ở Đại hội VI Đảng ta đã nghiêm túc chỉ ra rằng, cuộc sống cho ta một
bài học thấm thía là không thể nóng vội làm trái quy luật.
Thứ hai, từ nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ, Đảng quyết định đổi mới
cơ cấu kinh tế, coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của
thời kỳ quá độ. Đại hội VI đã vận dụng đúng đắn quan điểm của Lênin về kinh tế
nhiều thành phần: kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu
vực tập thể; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản
nhà nước; kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp. Đại hội IX bổ sung thêm một thành phần
nữa là kinh tế 100% vốn nước ngoài. Trong quá trình đổi mới, 20 năm qua, Đảng
và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Thực tiễn đổi mới cũng cho thấy nhiều thành
phần kinh tế đương nhiên là có nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc. Cùng với đổi mới cơ cấu kinh tế, Đảng chủ trương đổi mới cơ
chế quản lý dứt khoát bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp
chuyển sang hạch toán, kinh doanh và từng bước đưa nền kinh tế vận động theo cơ

chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền
4


kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng
cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây
dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý, phân phối.
Thứ ba, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và vai trò, chức
năng quản lý điều hành của Nhà nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Củng cố sức mạnh của hệ thống chính trị. Đại hội VI của
Đảng đặt ra yêu cầu xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng
cầm quyền, tăng cường sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo và năng lực tổ chức thực
tiễn, đổi mới phong cách làm việc, đi sâu, đi sát thực tế, sát cơ sở, gắn bó với nhân
dân. Nâng cao trình độ trí tuệ, nắm bắt và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan,
hiểu biết sâu sắc những vấn đề kinh tế, xã hội. Từ HNTW3 khoá VII (6-1992), đặc
biệt từ HNTW6 (lần 2) khóa VIII (1-1999) Đảng đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng
chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đại hội
VI của Đảng đã xác định rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội của bộ
máy Nhà nước, nghĩa là, Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và chính sách để
điều hành, quản lý nền kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô. Từ sau Đại hội VII, đặc biệt là
HNTW8 khoá VII (1-1995), HNTW3 khoá VIII (6-1997) đẩy mạnh xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Quan
điểm cơ bản là: quyền lực Nhà nước là thống nhất, song có sự phân công và phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Từ Quốc hội khoá VIII (1987), khoá IX (1992), khoá X (1997) và khoá
XI (2002) hoạt động của Quốc hội ngày càng đổi mới và thực hiện có hiệu quả các
chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và quyền

giám sát tối cao. Từng bước đẩy mạnh công cuộc cải cách nền hành chính nhà
nước cả về chức năng, cơ chế vận hành, quản lý, tổ chức bộ máy và đội ngũ công
chức. Bộ máy và hoạt động tư pháp được củng cố và tăng cường. Cùng với việc
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhiệm vụ xây dựng hoàn thiện Nhà nước là những nội
5


dung quan trọng về đổi mới hệ thống chính trị và có ý nghĩa quyết định đến toàn
bộ tiến trình của sự nghiệp đổi mới.
Thứ tư, thật sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tăng cường và đổi mới công tác vận động quần
chúng nhân dân và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI của Đảng
đã rút ra bài học là trong toàn bộ hoạt động, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân
làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Chính lợi
ích sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới... Một trong
những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới mà HNTW6 (khoá VI) 3-1989 nêu ra
là phải thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng dân chủ luôn luôn gắn
liền với tập trung, gắn liền với nghĩa vụ, trách nhiệm công dân, với kỷ cương, kỷ
luật pháp luật, dân chủ phải có lãnh đạo và lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ.
Nghị quyết Trung ương 8B (khoá VI) 3-1990 về đổi mới công tác quần chúng của
Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Đảng nhấn mạnh các quan
điểm: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; động lực thúc đẩy phong
trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các
lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân; các hình thức tập hợp nhân
dân phải đa dạng; công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà
nước và các đoàn thể. Đảng cũng chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và các tổ chức
thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Cùng với Đảng, Nhà nước,
tổ chức Mặt trận và đoàn thể nhân dân như Tổng liên đoàn lao động, Hội nông dân,
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh

hợp thành hệ thống chính trị. Công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của cả
hệ thống chính trị ở tất cả các cấp. Đảng chú trọng xây dựng Mặt trận dân tộc
thống nhất, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc
đổi mới. Đoàn kết các giai cấp, các thành phần kinh tế, đoàn kết các dân tộc, các
tôn giáo, mọi tầng lớp, cá nhân yêu nước, đoàn kết người Việt Nam ở trong nước
và người Việt Nam ở nước ngoài nhằm phát huy nội lực của dân tộc Việt Nam.
6


Thứ năm, đổi mới chính sách đối ngoại, thực hiện đa phương hóa, đa dạng
hoá, Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trên thế giới trên cơ
sở giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Xây dựng chiến lược bảo
vệ Tổ quốc phù hợp với tình hình mới. Tại Đại hội VI (12-1986), Đảng ta đã nêu rõ
chủ trương: khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức,
nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao. Đi đôi với công bố luật đầu
tư, cần có các chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước
ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh. Luật đầu tư nước ngoài là
luật sớm nhất của thời kỳ đổi mới, được Quốc hội khoá VIII thông qua ngày 2912-1987 và có hiệu lực từ 1-1-1988. Đại hội VII của Đảng tuyên bố chính sách đối
ngoại rộng mở, Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển. Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh
sự hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và các tổ chức quốc
tế. Tích cực đóng góp cho hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết
các vấn đề toàn cầu. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức
phi chính phủ. Đại hội IX của Đảng tiếp tục chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Việt Nam sẵn sàng là
bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế. Đảng ta luôn luôn xác
định, nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các
điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã
hội, công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng
thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình,

độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Với những nội dung rất căn bản và chủ
yếu trong đường lối đổi mới cùng với bản lĩnh chính trị vững vàng và trách nhiệm
trước đất nước, giai cấp và dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa đất nước vượt
qua những khó khăn, thách thức, kể cả tác động tiêu cực do sự sụp đổ của chế độ
xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô đưa lại, không ngừng đẩy mạnh
sự nghiệp đổi mới theo con đường của chủ nghĩa xã hội và qua 20 năm đã đạt được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của đất
7


nước, cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân, như các văn kiện trình Đại hội X
của Đảng đã khẳng định.
Có thể thấy rõ thành tựu của 20 năm đổi mới cả về thực tiễn và nhận thức lý
luận để vững tin vào con đường đã lựa chọn và sự phát triển của đất nước.
Về thực tiễn, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội từ 1996, kinh
tế tiếp tục tăng trưởng khá nhanh (GDP bình quân 1986-1990 là 3,9%, 1991-1995
là 8,2%, 1996-2000 là 7% và 2001-2005 là 7,5%), nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng, công nghiệp hoá, hiện đại hóa
được đẩy mạnh, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội tăng lên đáng kể. Hệ
thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc mà nền tảng là liên minh công nhân nông dân - trí thức do Đảng lãnh đạo ngày càng được tăng cường và củng cố. Nền
quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được giữ vững. Chính trị - xã hội ổn
định. Quan hệ đối ngoại được mở rộng. Vì thế nước ta trên thế giới được nâng cao.
Sức mạnh tổng hợp từ nguồn nội lực của đất nước tăng lên nhiều. Nhân dân tin
tưởng ở đường lối đổi mới và sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, tin
tưởng ở tương lai phát triển của đất nước.
Về lý luận, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam ngày càng rõ hơn, “hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi
mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
đã bước đầu hình thành trên những nét cơ bản”. Nhận thức rõ hơn về mục tiêu, mô
hình của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, rõ hơn về chặng đường, bước đi khi

đã hoàn thành những nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu trên của thời kỳ quá độ,
cho phép chuyển sang chặng đường đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nước, rõ hơn về những công cụ, giải pháp để thực hiện mục tiêu phát triển đất
nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, rõ hơn về những mối quan hệ đặt ra cần được
giải quyết một cách đúng đắn trên con đường đổi mới vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội,
mà trước hết làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
20 năm đổi mới đã có cơ sở để rút ra một số bài học lớn có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn. Đó là các bài học: trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu
8


độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức
và cách làm phù hợp; đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân,
phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén
với cái mới; phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới; đổi mới và hoàn
thiện phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Là một đảng viên mới khi còn ngồi trên giảng đường trường đại học, phấn
đấu vì mục tiêu và lý tưởng cao đẹp của Đảng nhằm xây dựng một nước Việt Nam
giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh và xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội, bản thân tôi thấy cần phải ra sức cố gắng học tập và rèn luyện, góp phần thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ của trường, lớp. Ngoài ra, bản thân phải luôn xác định rõ
vai trò, nhiệm vụ của người Đảng viên, luôn tin tưởng tuyệt đối và chấp hành
nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định
của trường, lớp, luôn phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Câu 2: Đồng chí đã nhận thức như thế nào về tổ chức cơ sở Đảng (vị trí,
chức năng, nhiệm vụ), về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của người Đảng viên ĐCSVN?

Theo đồng chí cần giải quyết những vấn đề gì để xây dựng tổ chức cơ sở Đảng
và nâng cao trách nhiệm của Đảng viên ở đơn vị đồng chí công tác?
Trả lời:
Tổ chức cơ sở Đảng của ĐCSVN bao gồm các chi bộ, đảng bộ cơ sở, là tổ
chức đảng nhỏ nhất và có số lượng đông nhất. Đảng xác định đó là nên tảng của
Đảng và là hạt nhân chính trị cơ sở. Nghị quyết đại hội X đã khẳng định “Với vị trí
là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị cơ sở, vai trò của tổ chức cơ sở đảng rất
quan trọng. Phải dồn sức xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức này thực sự trong sạch vững mạnh…”
9


Để thực sự xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh thì trước
tiên bản thân mỗi đảng viên cần nắm vững các quy định về Điều lệ Đảng về việc
thành lập các tổ chức cơ sở đảng. Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, cũng là đội tiên phong của nhân dân lao động và của toàn thể
dân tộc Việt Nam. Đảng chính là đại biểu chung thành cho lợi ích của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Với mục đích vững vàng của
Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giầu mạnh, xã hội công bằng,
văn minh. Để thực hiện mục đích đó, Đảng phải được tổ chức theo một hệ thống
chặt chẽ, thống nhất từ trung ương đến cơ sở. Tổ chức cơ sở đảng bao gồm chi bộ
cơ sở và đảng bộ cơ sở là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị cơ sở.
Đảng phải gắn bó, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, ở đâu có quần chúng ở
đó cần có sự lãnh đạo của Đảng. Nhận thấy tầm quan trọng của các đơn vị cơ sở
bởi mọi tầng lớp nhân dân, ai cũng đều sinh sống, lao động sản xuất, công tác, học
tập ở một đơn vị cơ sở nhất định trong hệ thống tổ chức xã hội. Vì vậy Đảng ta đã
quyết định thành lập các tổ chức đảng tại các đơn vị cơ sở.
Các tổ chức cơ sở đảng được thành lập đều nắm giữ một vị trí và vai trò hết
sức to lớn. Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã chỉ rõ tổ chức cơ sở đảng (chi
bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị cơ sở.

* Tổ chức cơ sở Đảng là nền tảng của Đảng:
- Xét trong hệ thống tổ chức của Đảng, thì tổ chức cơ sở đảng là tổ chức
đảng nhỏ nhất, số lượng nhiều nhất và gắn liền với các tổ chức hành chính, kinh tế
ở cơ sở. Vì vậy tổ chức cơ sở đảng là “nền tảng”, là “gốc rễ” của Đảng.
- Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt của đời sống xã hội,
tổ chức cơ sở đảng vừa là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật của nhà nước, đồng thời cũng là nơi góp phần phát triển và
hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó, liên hệ mật thiết với nhân dân. Trong
mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng là những “sợi
dây chuyền”, là cầu nối trực tiếp nối liền Đảng với dân.
10


*Tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân chính trị cơ sở:
- Đảng là một thành viên của hệ thống chính trị, nhưng là thành viên giữ vị
trí, vai trò lãnh đạo hệ thống đó, bảo đảm cho mọi hoạt động cơ sở theo đúng định
hướng chính trị của Đảng.
- Tổ chức cơ sở đảng còn là nơi giáo dục, tổ chức, động viên nhân dân thực
hiện có hiệu quả Cương lĩnh, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, góp phần xây dựng một nước Việt Nam dân giầu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
- Chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở là trung tâm đoàn kết quy tụ, tập hợp được
mọi lực lượng ở cơ sở thành một khối thống nhất ý chí và hành động, tạo ra sức
mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của cơ sở.
Tổ chức cơ sở đảng được thành lập nhằm thực hiện các chức năng quan
trọng sau:
Một là, lãnh đạo thực hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảng và
pháp luật nhà nước ở cơ sở.
Hai là, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, phát triển sản xuất

kinh doanh, nâng cao hiệu quả công tác của cơ sở, chăm lo cải thiện đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân, động viên quần chúng hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ
của cơ sở, đơn vị đối với nhà nước.
Từ hai chức năng cơ bản trên, trong Điều lệ Đảng, Điều 23 đã quy định rõ 5
nhiệm vụ cơ bản của tổ chức cơ sở đảng như sau:
Một là, chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có
hiệu quả.
Hai là, xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập chung dân chủ; nâng cao chất
lượng sinh hoạt Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng
cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng;thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản
11


lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình
độ kiến thức, năng lực công tác, làm công tác phát triển đảng viên.
Ba là, lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phòng an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững
mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Bốn là, liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng
và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Năm là, kiểm tra việc thực hiện, đảm bảo các nghị quyết, chỉ thị của Đảng
và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh, kiểm tra tổ chức Đảng
và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
Để thực hiện tốt chức năng lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, cần phải thực
hiện tốt 5 nhiệm vụ cơ bản trên. Mỗi nhiệm vụ có vị trí và yêu cầu riêng, không thể
coi nhẹ nhiệm vụ nào.
Hồ Chí Minh từng nói: “Đảng là gồm các đảng viên mà tổ chức nên. Mọi

công việc Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết Đảng đều do đảng viên
chấp hành. Mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng.
Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện”. Từ
đó có thể nhận thấy rõ vị trí, vai trò lớn lao của người đảng viên:
- Đảng viên là chiến sỹ cách mạng trong đội quân tiên phong của giai cấp
công nhân Việt Nam, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Toàn bộ sức
mạnh, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đều được tạo thành từ từng
người đảng viên. Đảng viên là người tiên tiến nhất trong nhân dân lao động và của
dân tộc.
- Đội ngũ đảng viên là những người có trách nhiệm góp phần xây dựng
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng; đồng thời trách nhiệm tổ chức thực
hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Điều này được chứng minh
từ thực tiễn, nhân dân ta có câu “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, nói lên
12


sự tin tưởng của quần chúng đối với đảng viên và trách nhiệm gương mẫu trước
quần chúng của đảng viên.
- Đảng viên dù ở cương vị nào, cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là người
phục vụ quần chúng. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò “người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân” của người đảng viên cộng sản. Dù ở bất kỳ địa vị nào, làm
công tác gì thì đảng viên đều phải là đầy tớ của nhân dân. Một đảng viên tốt, có đủ
“tư cách một người cách mệnh”, theo Hồ Chí Minh là người biết nêu cao tinh thần
gương mẫu, lời nói phải đi đôi với việc làm. Người nhấn mạnh “Đảng viên bất cứ
làm gì cũng phải gương mẫu”, “muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực
thước cho người ta bắt chước”. Nghĩa là người đảng viên phải có trách nhiệm, có
nghĩa vụ đi đầu, là chiến sĩ tiên phong, là người công dân gương mẫu và cùng nhân
dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, nhiệm vụ chính trị của địa
phương, đơn vị.
- Đảng viên là người kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương

của Đảng. Đạo đức cách mạng của người đảng viên là bất kỳ khó khăn nào cũng
phải quyết tâm làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương cho quần
chúng.
Theo điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ của người đảng
viên gồm:
1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp
hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt
đối sự phân công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực
công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và
các biểu hiện tiêu cực khác.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của
13


nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và
nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng;
phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê
bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt
đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
Không ngừng phấn đấu và rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu đảng viên
cũng là một nhiệm vụ mà người đảng viên phải làm. Thực hiện tốt tiêu chuẩn đảng
viên được quy định trong Điều lệ Đảng: Một là, có lập trường giai cấp đúng đắn,
kiên định, bản lĩnh chính trị vững vàng; Hai là, có trình độ về nhận thức, kiến thức,
năng lực toàn diện để thực hiện công cuộc đổi mới đất nước; Ba là, có phẩm chất

đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh; Bốn là, có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn
sự đoàn kết thống nhất của Đảng trên cơ sở thực hiện đúng các nguyên tắc của
Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình;
Năm là, có quan hệ mật thiết với quần chúng; Sáu là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước
và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Để xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao trách nhiệm của Đảng viên tôi
xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về Đảng, vai trò, nhiệm vụ của tổ chức đảng,
đảng viên. Nội dung cơ bản trên phải trở thành yêu cầu trong từng chi, đảng bộ.
Mỗi cán bộ, giảng viên, sinh viên khi phấn đấu vào Đảng phải hiểu về Đảng, hiểu
về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng và nhiệm vụ của người
đảng viên.
Để làm được điều đó, cấp uỷ đảng cần đổi mới nội dung giáo dục, hình thức,
phương pháp công tác chính trị tư tưởng của các chi bộ, đảng bộ phải gắn với giáo
dục lịch sử, truyền thống yêu nước, tăng cường tính đảng, xây dựng niềm tin vào
sự nghiệp đổi mới đất nước. Cấp ủy chỉ đạo phòng chính trị công tác, phối hợp với
các tổ chức đoàn thể tổ chức phong trào thi đua dạy tốt, học tốt, hoạt động văn hoá,
14


văn nghệ, thể thao, tổ chức nhiều cuộc tọa đàm, đối thoại giữa tổ chức đảng, đảng
viên lão thành với đảng viên trẻ, đoàn viên thanh niên. Cần xây dựng đội ngũ đảng
viên phải có đủ phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị và tri thức: Mỗi đảng viên
- người thầy phải có tấm lòng trong sáng, nhiệt huyết, luôn mong muốn truyền cho
các thế hệ học trò kiến thức của nhân loại. Mỗi đảng viên - sinh viên luôn luôn
khát khao học tập, chinh phục đỉnh cao tri thức, dám làm, không lùi bước trước
khó khăn, nhất là khi tổ chức đảng có yêu cầu.
Thứ hai, nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn. Đây là nhiệm vụ quan
trọng, thường xuyên và là nhiệm vụ chính trị của chi, đảng bộ. Để đội ngũ giáo
viên, chuyên viên, sinh viên hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu, học tập,

đảng ủy nhiều trường đã xây dựng nghị quyết về nâng cao chất lượng đào tạo.
Đảng ủy và ban giám hiệu quan tâm, tạo điều kiện bồi dưỡng lý luận chính trị cho
đội ngũ giáo viên. Các chi bộ chỉ đạo các khoa, phòng xây dựng quy định cụ thể,
phù hợp để khuyến khích, động viên, kiểm tra việc phấn đấu nâng cao trình độ của
cán bộ, đảng viên. Đảng ủy, ban giám hiệu lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng giảng
viên theo từng giai đoạn với một số biện pháp cụ thể như: Vừa khuyến khích, vừa
bắt buộc giáo viên tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, năng
lực sư phạm; ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các phương tiện hiện đại để
đổi mới phương pháp dạy và học. Giáo viên được cử đi bồi dưỡng, nâng cao trình
độ miễn giờ giảng, giữ nguyên lương, được hỗ trợ kinh phí. Khuyến khích giáo
viên học thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài.
Thứ ba, đánh giá đúng, thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình để
sàng lọc làm trong sạch đội ngũ đảng viên. Hằng năm, khi đánh giá chất lượng
đảng viên cần chỉ rõ mặt mạnh, mặt yếu để động viên, khuyến khích hoăc có biện
pháp khắc phục kịp thời. Khi phân tích chất lượng đảng viên cần chi tiết, sát thực
để kết quả phân loại chính xác.
Các chi bộ cần thực hiện phân công nhiệm vụ cho đảng viên phù hợp với
trình độ, năng lực, sở trường và hoàn cảnh mỗi người. Hằng tháng sinh hoạt chi bộ,
phải làm sao cho đảng viên có điều kiện báo cáo việc thực hiện nhiệm vụ, khó
15


khăn cần giúp đỡ, tự phê bình những việc mình chưa hoàn thành và chân tình góp
ý cho đồng chí mình. Cấp ủy quản lý đảng viên qua việc lấy nhận xét, đánh giá
đảng viên ở nơi cư trú… Qua đây, những đảng viên có dấu hiệu vi phạm, đơn thư
khiếu nại, tố cáo được kiểm tra làm rõ, xử lý kịp thời, dứt điểm. Chi bộ phân công
đảng viên có uy tín giúp đỡ đồng chí có khuyết điểm. Biện pháp là giáo dục, có
thời gian thử thách để đảng viên phấn đấu, sửa chữa lỗi lầm. Đồng thời sàng lọc,
đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không đủ tư cách.
Thứ tư, tăng cường công tác phát triển đảng viên. Nâng cao trách nhiệm của

cấp uỷ và của đảng viên với công tác phát triển này. Đồng thời, gắn trách nhiệm
của các tổ chức đoàn thể trong trường với công tác phát triển đảng bằng cách làm
tốt các khâu:
Xây dựng kế hoạch, xác định nội dung, biện pháp cụ thể bồi dưỡng cảm tình
đảng. Việc này cần thực hiện hằng năm một cách nghiêm túc… coi đây là một
trong những tiêu chí xây dựng chi bộ, đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Nghị quyết,
kế hoạch, phải xác định rõ chỉ tiêu, thời hạn, biện pháp, phân công cụ thể đảng
viên giúp đỡ cảm tình đảng.
Coi trọng lựa chọn cảm tình đảng. Khi lựa chọn cảm tình đảng tránh khuynh
hướng chạy theo số lượng, bỏ qua tiêu chuẩn hoặc khắt khe, cầu toàn… Tổ chức
tốt khâu thẩm tra lý lịch. Cần chú trọng từ khâu hướng dẫn cảm tình đảng khai lý
lịch cho tốt. Việc cử đảng viên xác minh lý lịch, tìm hiểu và lấy nhận xét của chi
bộ nơi cư trú cần tiến hành kịp thời; không để kéo dài và tránh phải làm đi làm lại.

16


17



×