Tải bản đầy đủ (.pdf) (169 trang)

Tạp chí Khoa học – Công nghệ Thủy sản: Số 4/2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.13 MB, 169 trang )

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 4/2016

THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC

HIỆN TRẠNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRÊN ĐẦM Ô LOAN HUYỆN TUY AN, PHÚ YÊN
AQUACULTURE STATUS AND SUSTAINABLE DEVELOPMENT SOLUTIONS
FOR O LOAN LAGOON -TUY AN DISTRICT, PHU YEN PROVINCE
Phạm Thị Anh1, Nguyễn Thanh Sơn2
Ngày nhận bài: 16/12/2015; Ngày phản biện thông qua: 29/4/2016; Ngày duyệt đăng: 15/12/2016

TÓM TẮT
Kết quả điều tra tình hình nuôi trồng thủy sản (NTTS) trên đầm Ô Loan huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên dựa
trên việc phỏng vấn trực tiếp 100 hộ gia đình ở 5 xã: An Hải, An Cư, An Hiệp, An Ninh Đông và An Hòa. Nguồn
lao động chính xung quanh hồ chủ yếu là nam giới (89,11%), tỷ lệ lao động trong nhóm tuổi từ 40 - 55 cao
nhất chiếm 67,33%; hầu hết những người tham gia vào NTTS đều có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề với
93% có kinh nghiệm từ 5 năm trở lên, trình độ văn hóa của người tham gia NTTS trình độ 9/12 cao nhất chiếm
61,39%. Năm 2014, tổng sản lượng và diện tích nuôi trồng thủy sản trên đầm Ô Loan lần lượt là 1548,7 tấn và
541,5 trong đó chủ yếu là diện tích nuôi tôm chiếm 96,21% tổng diện tích nuôi, sản lượng nuôi chiếm 98,41%
tổng sản lượng nuôi trồng xung quanh đầm. Tất cả số hộ NTTS nuôi tôm đều sử dụng thuốc kháng sinh và hóa
chất để phòng trị bệnh cho tôm và xử lý môi trường ao nuôi.
Từ khóa: đầm Ô Loan, nuôi trồng thủy sản, hiện trạng, đầm
ABSTRACT
A survey was conducted to evaluate the aquaculture status on O Loan lagoon. A total of 100 households
were interviewed belong to the communes An Hai, An Cu, An Hiep, An Ninh Dong and An Hoa in O Loan
lagoon. The results showed that the labors in the lagoon were mainly male (89.11%), the percentage of workers
in the age from 40 to 55 years are highest, accounted for 67.33%. Most people who involved in aquaculture
have at least 5 years of experience or higher (93%). They have low level of education with the highest
percentage at 9/12 (61.39%). In 2014, the total area and production of aquaculture activities of O Loan lagoon


were 541.5 hectares and 1548.7 tons, respectively. Especially, shrimp farming was dominant with the area and
production accounted for 96.21 % and 98.41 % of the total, respectively. All shrimp farms used antibiotic and
chemical products for disease preventing and water treatment.
Keywords: O loan lagoon, aquaculture, penaeus vannamei, status, lagoon
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Khu vực Nam Trung Bộ từ lâu đã nổi tiếng
với những đầm phá nổi như đầm Nại (Bình
Thuận), đầm Ô Loan (Phú Yên), đầm Thị Nại
(Bình Định), đầm Nha Phu (Khánh Hòa), đầm
Môn (Khánh Hòa), đầm phá Tam Giang - Cầu Hai
1
2

(Thừa Thiên Huế), đầm Cù Mông (Phú Yên),
vịnh Xuân Đài (Phú Yên)… Các đầm đều có
hình dạng và cấu tạo rất đa dạng, chủ yếu
là các thủy vực nông sát biển, nhận nước từ
một hoặc vài con sông và thải nước ra biển
qua cửa riêng của mình, rộng hẹp tùy đầm.

Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang
Viện Công nghệ Sinh học - Môi trường - Trường Đại học Nha Trang

NHA TRANG UNIVERSITY • 3


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Những sông trong vùng thường nhỏ, tổng
lượng nước ít và chỉ chảy rất tập trung trong
một vài tháng. Trong mùa khô kéo dài, sông lại

rất cạn kiệt, nhiều nơi lòng sông trơ ra để lại
hai bên bờ những dải cát, hay có những đầm bị
khống chế hoàn toàn bởi nước biển, ở những
đầm này độ muối thường cao, có trường hợp
trở nên quá mặn, đạt giá trị 39 - 40‰ và khá
ổn định [6]. Các hoạt động nuôi trồng thủy sản
trên các đầm phá ngày càng phát triển với quy
mô rộng với nhiều đối tượng nước lợ, nước
mặn mang lại nhiều lợi ích kinh tế cao như:
tôm sú, tôm chân trắng, tôm hùm, cua ghẹ, cá
biển và một số loài nhuyễn thể, rong biển. Hiện
nay hầu hết các đầm phá đều được sử dụng
để phát triển nuôi trồng thủy sản, các hoạt
động nuôi trồng thủy sản đang diễn biến hết
sức phức tạp trên quy mô lớn, đặc biệt các
ngành nghề nuôi tôm thâm canh, chuyên canh
đã và đang mang lại những tác dụng tiêu cực
cho môi trường các đầm phá ven biển [2,7].
Phú Yên là tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ,
với lợi thế bờ biển dài gần 190 km cùng với
nhiều eo, vịnh, đầm phá là nơi nuôi dưỡng,
sinh trưởng của rất nhiều loài thủy hải sản
khác nhau, có nhiều tiềm năng và lợi thế
trong việc phát triển toàn diện ngành kinh tế
thủy sản cũng như một số ngành kinh tế quan
trọng khác [1]. Từ lâu đầm Ô Loan từ lâu đã
nổi tiếng với nguồn lợi thủy sản đa dạng với
rất nhiều các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao
như sò huyết, ghẹ xanh, cua và hàu…, trong
đó sò huyết đầm Ô Loan được coi là đặc sản

của vùng [1]. Nghề nuôi trồng thủy sản xung
quanh đầm Ô Loan đã góp phần nâng cao
năng suất và sản lượng thủy sản, thúc đẩy
nền kinh tế cho huyện Tuy An và tỉnh Phú Yên.
Có thể khẳng định rằng đời sống của dân cư
5 xã vùng đầm phụ thuộc vào nguồn lợi thuỷ
sản của đầm Ô Loan. Đầm Ô Loan vẫn đóng
một vai trò quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế thuỷ sản của tỉnh Phú Yên cũng
như phát triển kinh tế huyện Tuy An, nguồn lợi

4 • NHA TRANG UNIVERSITY

Số 4/2016
thủy sản từ đầm giúp nâng cao đời sống của
cộng đồng dân cư sinh sống xung quanh đầm.
Năm 2013, diện tích nuôi trồng thủy sản trong
đầm là 360,75 ha, trong số này diện tích nuôi
cao triều là 20,5 ha (trong đó nuôi trên cát là 3,5
ha), diện tích hồ hở (hồ chất đá) là 125 ha [4].
Hoạt động nuôi trồng thủy sản của huyện Tuy
An tập trung chủ yếu ở vùng đầm Ô Loan do
người dân của 5 xã An Ninh Đông, An Hải, An
Cư, An Hòa và An Hiệp tham gia nuôi trồng
thủy sản, tổng diện tích nuôi xung quanh đầm
là 420 ha, chiếm hơn 80% diện tích nuôi toàn
huyện [8]. Tuy nhiên, do hoạt động nuôi trồng
thuỷ sản quá mức, thiếu quy hoạch đã dẫn
đến môi trường đầm suy thoái, tình hình dịch
bệnh trong nuôi trồng thủy sản diễn biến phức

tạp: Năm 2008 dịch bệnh trên tôm bùng phát
ở đầm Ô Loan, 50/180 ha tôm sú bị mất trắng
do bệnh, chủ yếu là bệnh đỏ thân và bệnh đốm
trắng. Đầu năm 2009, có gần 70 ha tôm bị chết
chủ yếu do bệnh taura và các bệnh có liên
quan đến môi trường [3]. Theo báo cáo của
Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
huyện Tuy An, những tháng đầu năm 2009,
biên độ triều trong đầm Ô Loan thấp hơn trung
bình từ 0,2-0,3m, độ mặn giảm so với trung
bình nhiều năm từ 0,5 - 0,6 %. Đáng chú ý là
kết quả tại điểm thu mẫu An Hải về chỉ tiêu ô
nhiễm vi sinh đã vượt ngưỡng cho phép. Đầu
năm 2010, 85 ha tôm chân trắng bị nhiễm bệnh
chủ yếu tập trung ở 2 huyện Tuy An và Đông
Hòa. Năm 2011 riêng khu vực đầm Ô Loan có
gần 100 ha nuôi tôm bị dịch bệnh, tập trung
chủ yếu ở các xã An Ninh Đông, An Ninh Tây
và An Cư, ngoài ra đại đa số hồ ở đây chủ yếu
là hồ hở nên việc lây lan dịch bệnh rất nhanh
chóng [3].
Do đó việc đánh giá lại hiện trạng nuôi
trồng thủy sản xung quanh đầm Ô Loan hiện
nay là cần thiết để có những giải pháp kịp thời
nhằm phát triển các hoạt động nuôi trồng thủy
sản xung quanh đầm một cách bền vững và ít
nguy hại nhất đến môi trường đầm.


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản


Số 4/2016

II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu tiến hành từ tháng 02/2014 đến hết tháng 12/2014 xung quanh đầm Ô Loan Phú Yên. Đối tượng phỏng vấn là các hộ nuôi trồng thủy sản trên đầm ở 5 xã: xã An Hòa, An Hiệp,
An Ninh Đông, An Hải và An Cư.

Hình 1. Đầm Ô Loan và cửa đầm Tân Quy [12]

2. Phương pháp nghiên cứu
- Số liệu thứ cấp được thu thập tại Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Phú Yên, Phòng
Nông nghiệp huyện Tuy An và các sách báo,
tài liệu có liên quan.
- Số liệu sơ cấp được tổng hợp dựa trên
quá trình phỏng vấn trực tiếp các ngư dân nuôi
trồng thủy sản xung quanh vùng đầm Ô Loan
thuộc 5 xã ven đầm (xã An Hòa, An Hiệp, An
Ninh Đông, An Hải và An Cư) và cán bộ quản
lý khu vực nghiên cứu qua bộ câu hỏi điều tra
với 101 phiếu.
- Thông tin thu thập được xử lý theo từng
nội dung riêng dựa trên bộ câu hỏi phỏng vấn
và dữ liệu được xử lý trên phần mềm Excel.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Nguồn lao động nuôi trồng thủy sản trên
đầm Ô Loan
- Tỷ lệ giới tính: Trong 101 phiếu được khảo

sát về tình hình NTTS xung quanh đầm Ô Loan
cho thấy có số lượng nữ tham gia NTTS chiếm
tỷ lệ 10,89% (11/101 phiếu), còn lại đều là nam
giới chiếm tỷ lệ 89,11% (90/11 phiếu). Đây là một
trong những thực tế hiện nay do tính chất của
các công việc trong nuôi trồng thủy sản đòi hỏi

nhiều sức lực cũng như thời gian làm việc nên
nam giới tham gia có tỷ lệ chiếm rất cao.
- Cơ cấu độ tuổi của những người tham
gia NTTS: Những người tham gia NTTS có thể
chia thành 3 nhóm độ tuổi khác nhau là dưới
40 tuổi, từ 40 đến 55 tuổi, trên 55 tuổi. Trong
đó, tỷ lệ lao động trong nhóm tuổi từ 40 - 55
cao nhất chiếm 67,33% (68/101 phiếu), đây là
nguồn lao động có sức khỏe tốt và nắm bắt
các kĩ thuật nuôi, kinh nghiệm nuôi tốt hơn so
với những nhóm tuổi khác. Nhóm tuổi trên 55
chiếm 13,86 % (14/101 phiếu), nhóm tuổi dưới
40 chiếm 18,81% (19/101 phiếu).
- Số năm kinh nghiệm trong NTTS: Nguồn
lao động có số năm kinh nghiệm tham gia vào
NTTS khá cao, số chủ hộ có thâm niên NTTS
từ 10 đến 15 năm chiếm tỷ lệ cao nhất đạt
40,59%, từ 5 đến 10 năm chiếm 32,67%, từ 15
- 20 năm chiếm 14,85%, các chủ hộ nuôi trên
20 năm chiếm 4,95%.
- Trình độ văn hóa thấp: Kết quả điều tra
cho thấy, đa số các chủ hộ có trình độ văn hóa
(9/12) chiếm tỷ lệ 61,39%, tiếp theo đến trình

độ 12/12 chiếm 20,79%, trình độ 8/12 chiếm
6,93%, trình độ tiểu học chiếm 4,95% và tỷ lệ
người không biết chữ chiếm 5,94%. Khảo sát
này cũng chỉ ra rằng trong tất cả các hộ được
NHA TRANG UNIVERSITY • 5


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
phỏng vấn không có chủ hộ nào đã qua lớp
đào tạo chuyên môn có trình độ đại học, tất
cả kinh nghiệm trong NTTS chủ yếu được học
tập theo kiểu truyền miệng và kinh nghiệm của
bản thân.
- Thu nhập bình quân đầu người/năm: Năm
2010, thu nhập bình quân đầu người/năm đạt
mức 12,1 triệu/năm, con số này ngày càng gia
tăng và đến năm 2013 là 20,1 triệu/người/năm
và năm 2014 là 22,6 triệu/người/năm, tăng gấp
1,86 lần so với năm 2010.
2. Hiện trạng nuôi trồng thủy sản trên đầm
Ô Loan

Số 4/2016
2.1. Diện tích nuôi và sản lượng nuôi trồng thủy
sản trên đầm Ô Loan
Diện tích nuôi trồng thủy sản của 5 xã An
Hải, An Hiệp, An Hòa, An Cư và An Ninh Đông
năm 2014 có sự chênh lệch đáng kể: xã Ninh
Đông và An Hòa có diện tích nuôi lớn nhất
chiếm lần lượt là 133ha và 152ha, đây là hai xã

có diện tích NTTS chiếm chủ lực xung quanh
đầm Ô Loan. Tổng diện tích NTTS trong đầm
Ô Loan năm 2014 là 541,5 ha, trong đó diện
tích nuôi tôm công nghiệp là 521 ha (chiếm
96,21%). Tổng sản lượng NTTS năm 2014 đạt
1548,7 tấn, trong đó sản lượng tôm nuôi đạt
1524,1 chiếm 98,41% [8].

Hình 2. Diện tích và sản lượng NTTS của các xã trên đầm Ô Loan năm 2014 [7]

Nhìn vào biểu đồ hình 2 cho thấy xã An
Cư năm 2014 có diện tích nuôi đứng thứ 3 chỉ
sau xã An Ninh Đông và An Hòa, tuy nhiên sản
lượng nuôi lại thấp nhất so với các xã khác, chỉ
đạt 137 tấn, điều này là do vấn đề dịch bệnh.
Sáu tháng đầu năm 2014 toàn huyện Tuy An
có 169,5 ha tôm bị bệnh, trong đó diện tích mất
trắng là 67 ha (tôm chân trắng 61 ha, tôm sú 6
ha). Tôm bị dịch bệnh rải rác khắp các xã: An
Ninh Đông 44 ha, An Cư 39 ha, An Hòa 45 ha,
An Hiệp 15 ha và An Hải 0,5 ha. Tôm chủ yếu
bị bệnh đốm trắng và hoại tử gan tụy cấp tính,
dịch bệnh xảy ra ở tôm nuôi 10 đến 20 ngày
tuổi [3]. Theo Trung tâm Giống và kỹ thuật thủy
sản (Sở NN-PTNT 3/2014), qua lấy mẫu phân
tích cho thấy, nước tại vùng nuôi cách xa cửa
biển như An Cư, ngoài ra còn bị ảnh hưởng

6 • NHA TRANG UNIVERSITY


của nước ngọt từ sông Cái và sông Hà Yến đổ
xuống nên độ mặn và độ kiềm tương đối thấp,
độ mặn dưới 10‰, độ kiềm thấp từ 30 đến
40 ppm. Cũng theo Trung tâm này, ô nhiễm
dinh dưỡng cũng được phát hiện ở vùng nuôi
này: hàm lượng NH3-N hoặc NO2-N cao vượt
ngưỡng cho phép, lần lượt dao động từ 0,5
đến 1ppm và 0,1 đến 0,3ppm. An Hải là xã có
diện tích nuôi thấp nhất với 40ha, đây là xã
nằm gần cửa biển nên mực nước ở khu vực
này sâu, chế độ thủy lực không ổn định, nước
mặn hơn phía trong đầm do thường xuyên trao
đổi với nước biển, nên phù hợp với việc nuôi
các loài ưa độ mặn cao như cá mú, cá hồng,
hàu,... Diện tích nuôi cá biển của xã An Hải
cũng chiếm nhiều nhất trong vùng với 12/23 ha
(chiếm 52,17%)[1].


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 4/2016

2.2. Đối tượng nuôi xung quanh đầm Ô Loan
Bảng 1. Một số đối tượng nuôi ở các xã xung quanh vùng đầm Ô Loan năm 2014

Đơn vị tính: %

STT


Hình thức nuôi

An Ninh Đông

An Hải

An Cư

An Hiệp

An Hòa

1

Tôm he chân trắng

92,16

71,43

33,33

66,67

100

2

Tôm sú


7,84

19,05

50

33,33

0

3

Cá các loại

0

4,76

0

0

0

4

Sò huyết

0


4,76

16,67

0

0

Đối tượng nuôi chính trên đầm Ô Loan
chủ yếu là tôm he chân trắng (Penaeus
vanamei) và tôm sú (Penaeus monodon), số
lượng các hộ nuôi hai đối tượng này chiếm hầu
hết diện tích nuôi trong đầm Ô Loan. Theo số
liệu phỏng vấn người dân xung quanh các xã
thì xã An Hòa có 100% số hộ nuôi tôm he chân
trắng, tiếp đến là An Ninh Đông là 92,16%, An
Hải 71,43% và An Cư là 33,33%. Các hộ nuôi
cá (cá mú Epinephelus fuscoguttatus, cá hồng
Lutjanus campechanus) và nhuyễn thể (hầu,
sò huyết) rất ít chủ yếu nằm ở hai xã An Hải
và An Cư.
Kết quả điều tra khảo sát cho thấy diện tích
xung quanh vùng đầm Ô Loan chủ yếu là nuôi
tôm thẻ chân trắng và tôm sú, các đối tượng
nuôi truyền thống và nổi tiếng của vùng ít được
quan tâm chú trọng như ghẹ xanh, sò huyết,
cua, hàu, tôm đất v.v... Tuy nhiên các đối tượng
này lại được khai thác một cách triệt để để
phục vụ khách du lịch, đây cũng là một trong
những vấn đề đáng quan tâm của địa phương


trong quá trình phát triển nuôi trồng thủy sản
một cách bền vững. Sò huyết đầm Ô Loan từ
lâu đã nổi tiếng trên cả nước và đây cũng là
một trong những lý do để đầm nước lợ Ô Loan
được công nhận là danh lam thắng cảnh quốc
gia, tuy nhiên hiện nay nguồn lợi này đang bị
giảm sút nghiêm trọng.
2.3. Hình thức nuôi trồng thủy sản
Nuôi trồng thủy sản trên đầm Ô Loan chủ
yếu theo hai hình thức là nuôi tôm chuyên canh
và nuôi ghép tôm với cua và cá biển. Diện tích
nuôi các đối tượng như nhuyễn thể (hầu hoặc
sò huyết) chủ yếu là nuôi theo hình thức bán
thâm canh. Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản
năm 2014 có xu hướng tăng hơn so với các
năm trước, mặc dù chính quyền địa phương
đã có thông báo cấm mở rộng diện tích nuôi
trên đầm, tuy nhiên một số hộ nuôi vẫn tiến
hành đào thêm các ao nuôi mới, điều này đang
là mối đe dọa lớn đối với hệ sinh thái cũng như
địa chất của đầm [10,12,13].

Bảng 2. Hình thức nuôi tôm và kiểu hồ nuôi tôm tại các xã xung quanh đầm Ô Loan
STT

Hình thức nuôi

An Ninh Đông


An Hải

An Cư

An Hiệp

An Hòa

1

Thâm canh (%)

84,31

66,67

66,67

66,67

100

2

Bán thâm canh (%)

15,69

33,33


33,33

33,33

0

3

Nuôi hồ kín (%)

100

76,19

33,33

66,67

100

4

Nuôi hồ hở (%)

0

23,81

66,67


33,33

0

Hình thức nuôi tôm chủ yếu là nuôi thâm
canh trên vùng cao triều (bằng các ao đất
lót bạt) với mật độ nuôi cao, hình thức nuôi
này chiếm đến 100% ở xã An Hòa, 84,31% ở
An Ninh Đông. Có hai loại hồ nuôi tôm thâm
canh chính ở các xã xung quanh đầm là hồ
kín và hồ hở. Hồ kín là hồ được đắp bằng đất

có lót bạt bờ và bạt đáy, hồ kín cao hơn mực
nước trong đầm và nằm ở vùng cao triều, hồ
kín có thể tự điều tiết nước bằng hệ thống bơm
(chiếm 100% ở An Ninh Đông và An Hòa, An
Hải và An Hiệp lần lượt là 76,19% và 66,67%).
Hồ hở là hồ được chất bằng đá, san hô hoặc
bao lưới vây tạo thành hồ nên mực nước
NHA TRANG UNIVERSITY • 7


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
trong hồ phụ thuộc vào mực nước của đầm,
đại đa số hồ hở tập trung ở xã An Cư chiếm
66,67%. Hình thức nuôi hồ hở chịu nhiều rủi ro
cao do không điều tiết được mực nước trong
hồ, khi môi trường đầm có biến động đột ngột
tôm dễ bị sốc hoặc bị nhiễm dịch bệnh. Thông
thường khi bắt đầu có dịch bệnh xảy ra thì

những hồ hở sẽ bị nhiễm bệnh đầu tiên [9].
2.4. Thức ăn, thuốc kháng sinh và hóa chất sử
dụng trong các ao nuôi tôm
- Thức ăn
Theo số liệu điều tra trong quá trình khảo
sát 101 phiếu về NTTS xung quanh đầm
thì 100% các hộ đều sử dụng thức ăn công
nghiệp. Mặc dù nguồn thức ăn công nghiệp ít
gây ô nhiễm môi trường như thức ăn tươi sống
và thức ăn chế biến, tuy nhiên số lượng các
hộ nuôi nhiều, hình thức nuôi chủ yếu là nuôi
thâm canh nên lượng chất thải rất lớn, lượng
chất thải này xả trực tiếp ra đầm không qua xử
lý (100% các hộ không qua xử lý trước khi thay
nước). Lượng thức ăn thừa và các chất thải
liên tục được đưa vào trong đầm trong nhiều
năm liên tiếp làm cho lượng bùn đáy của đầm
ngày càng nhiều, lượng chất độc tích lũy trong
nền đáy như H2S, CH4, NH3 gia tăng. Bên cạnh
đó, cửa đầm Tân Quy rất nhỏ cho nên khả
năng trao đổi nước rất thấp, điều này có thể là
nguyên nhân gây chết cho tôm cá trong đầm
trong vài năm trở lại đây.
- Sử dụng thuốc kháng sinh và hóa chất
trên các đối tượng NTTS
Kết quả điều tra cho thấy 100% các hộ
nuôi đều quan tâm tới việc quản lý môi trường
ao nuôi. Trong đó, 86,13% (87/101 phiếu) các
hộ định kỳ sử dụng men vi sinh 2 tuần/lần
sau 3 tháng nuôi; 100% các hộ sử dụng vôi

để ổn định pH và độ trong ao nuôi. Trong
suốt thời gian nuôi hầu hết các hộ không thay
nước mà chủ yếu cấp bù nước do quá trình
siphong chất thải trong ao ra đầm. Ở hình
thức nuôi bán thâm canh, ao nuôi tôm được
định kỳ vệ sinh, khử trùng 15 ngày/lần bằng
các loại hóa chất như vôi bột, BKC, formol,
Iodine hay Zeolite. Ngoài việc sử dụng hóa chất,

8 • NHA TRANG UNIVERSITY

Số 4/2016
các loại chế phẩm sinh học thì cũng theo kết
quả điều tra cho thấy có 83/101 hộ phỏng
vấn sử dụng một số loại kháng sinh để bổ
sung vào thức ăn cho tôm như Enrofloxacim,
Colistin sunfate, Norfloxacin, Cephalexin…
trong đó kháng sinh Enrofloxacin luôn là vấn
đề liên tục mang lại khó khăn cho doanh nghiệp
xuất khẩu thủy sản Việt Nam do người nuôi
vẫn sử dụng trong nuôi trồng, khiến cho nhiều
lô hàng bị thị trường nhập khẩu cảnh báo và
trả về. Ngày 16/1/2012, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn đã ban hành Thông tư
số 03/2012/TT – BNNPTNT bổ sung các chất
Cypermethrin, Deltamethrin và Enrofloxacin
vào danh mục hóa chất, kháng sinh cấm sử
dụng trong sản xuất, kinh doanh thủy sản. Tuy
nhiên hiện nay kháng sinh Enrofloxacin vẫn
được người dân sử dụng trong quá trình nuôi

tôm, chính vì vậy cần có những chế tài cần
thiết để quản lý việc sử dụng các loại kháng
sinh bị cấm này.
3. Một số giải pháp phát triển nuôi trồng
thủy sản bền vững trên đầm Ô Loan
Để duy trì và phát triển nuôi trồng thủy sản
bền vững trên đầm Ô Loan cần có giải pháp
đồng bộ, hợp lý và hữu hiệu.
- Triển khai, quản lý thực hiện có hiệu quả
quy hoạch chi tiết các vùng nuôi, chú trọng
phát triển các đối tượng truyền thống của vùng
như sò huyết, ghẹ xanh, tôm đất… Đa dạng
hóa đối tượng nuôi trên đầm, có thể nuôi luân
canh các đối tượng thủy sản khác như cá rô
phi đơn tính, cá măng, hải sâm, rong câu, cua
xanh… để cải tạo môi trường ao nuôi. Đối với
các vùng nuôi có đáy bùn, khuyến khích nuôi
ghép tôm nước lợ với một số đối tượng như cá
rô phi, rong biển, vẹm xanh, hàu.
- Khuyến khích các hộ nuôi tôm công
nghiệp trong các hồ hở chuyển sang hồ kín để
dễ kiểm soát chất lượng nước, sức khỏe vật
nuôi cũng như tình hình dịch bệnh.
- Có biện pháp ngăn chặn việc gia tăng diện
tích nuôi một cách ồ ạt không theo quy hoạch
làm phá vỡ cân bằng hệ sinh thái cũng như


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
làm gia tăng ô nhiễm môi trường, bùng phát

dịch bệnh…
- Cần có những quy định về xả thải cho
người dân hoặc những biện pháp xử lý chất
thải trước khi đưa vào môi trường tự nhiên ở
những vùng nuôi thâm canh công nghiệp, đồng
thời có những chế tài xử phạt đi kèm để hạn
chế việc gây ô nhiễm môi trường như hiện nay.
- Yêu cầu những người tham gia NTTS
tuân thủ những quy định về danh mục các
loại hóa chất, thuốc kháng sinh được phép
sử dụng trong nuôi trồng thủy sản. Có chế tài
và các biện pháp xử lý nghiêm chỉnh đối với
các hộ nuôi khi vẫn tiếp tục sử dụng các sản
phẩm này.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
- Người lao động tham gia NTTS xung
quanh đầm Ô Loan chủ yếu là nam giới, chiếm
89,11%, cơ cấu độ tuổi người lao động trong
nhóm tuổi 40 - 55 có giá trị cáo nhất chiếm
67,33%, ngoài ra hầu hết những người tham
gia NTTS xung quanh đầm đều có nhiều năm
kinh nghiệm, số người có trên 5 năm kinh
nghiệm chiếm 93%, trình độ văn hóa 9/12
chiếm tỷ lệ cao nhất đạt 61,39%
- Tổng diện tích nuôi của các xã xung quanh
đầm Ô Loan năm 2014 là 541,5 ha với sản lượng
thu hoạch của cả năm là 1548,7 tấn. Xã An
Hòa và An Ninh Đông có diện tích nuôi lớn nhất


Số 4/2016
(152 và 133 ha) và sản lượng nuôi cũng với giá
trị cao nhất (528 và 393 tấn).
- Đối tượng nuôi chính của vùng là tôm he
chân trắng với diện tích 100% ở các xã An Hòa,
84,31% ở An Ninh Đông, các xã còn lại như An
Hải, An Cư và An Hiệp đều chiếm 66,67%.
- Có hai hình thức nuôi trồng thủy sản là
nuôi thâm canh và nuôi bán thâm canh xung
quanh đầm Ô Loan, không có hình thức nuôi
quảng canh và quảng canh cải tiến. Số hộ
nuôi theo kiểu hồ kín chiếm 100% ở An Ninh
Đông và AN Hòa, An Hải và An Hiệp lần lượt là
76,19% và 66,67%. Số hộ nuôi theo kiểu hồ hở
tập trung chủ yếu ở xã An Cư (66,67%).
- 100% các hộ nuôi tôm có sử dụng thuốc
và hóa chất trong quá trình nuôi để phòng
trị bệnh và xử lý môi trường, trong đó có
83/101 hộ sử dụng các loại kháng sinh trong
nuôi trồng thủy sản, trong đó có kháng sinh
Enrofloxacim thuộc danh mục thuốc cấm sử
dụng trong NTTS
2. Kiến nghị
Cần quy hoạch vùng nuôi một cách cụ
thể tránh hiện tượng nuôi tự phát của người
dân dẫn đến ô nhiễm môi trường và dịch bệnh
nghiêm trọng trên các đối tượng nuôi.
Cần có những chế tài nghiêm ngặt để
nghiêm cấm sử dụng thuốc kháng sinh trong
nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là những loại

kháng sinh trong danh mục thuốc kháng sinh
cấm sử dụng trong nuôi trồng thủy sản

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1.

Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Phú Yên giai đoạn 2006 đến 2010. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
tỉnh Phú Yên.

2.

Báo cáo hiện trạng nuôi trồng thủy sản của tỉnh Phú Yên 2013 - 2014. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
tỉnh Phú Yên.

3.

Báo cáo kết quả nuôi trồng thủy sản năm 2014, triển khai kế hoạch phòng chống dịch bệnh cho động vật nuôi
thủy sản năm 2015. Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Tuy An, Phú Yên

4.

Báo cáo thực trạng nuôi trồng thủy sản đầm Ô Loan. Phương hướng tổ chức lại nghề nuôi trong đầm thành các
Tổ đồng quản lý (2013). Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Tuy An

5.

Cục thống kê tỉnh Phú Yên. Niên giám thống kê tỉnh Phú Yên năm 2010; 2011; 2012; 2013; 2014.
NHA TRANG UNIVERSITY • 9



Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 4/2016

6.

Lương Văn Thanh, 2008. Báo cáo chuyên đề “Hiện trạng nuôi tôm vùng duyên hải miền Trung Nam bộ và một
số định hướng phát triển”. Hội thảo đề tài khoa học “Ứng dụng các biện pháp công trình và phi công trình để cải
tạp các vùng đất bị bỏ hóa ở Duyên hải Nam Trung Bộ do đào ao nuôi trồng thủy sản không đúng kỹ thuật thành
các vùng canh tác nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản bền vững”. Đà Nẵng tháng 6 năm 2008.

7.

Trần Văn Phước, Ngô Văn Hiệp, 2011. Hiện trạng khai thác nguồn lợi hải sản và giải pháp bảo vệ, phát triển bền
vững tại xã Ninh Ích, đầm Nha Phu, tỉnh Khánh Hòa.

8.

UBND huyện Tuy An, Phú Yên. Niên giám thống kê năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014 huyện Tuy An.

9.

Ram C. Bhuiel, 2008. Statistics for Aquaculture, Asian Institute of Technology (AIT). Wiley Blackwell.

Tiếng Anh
10. />(Lê Hảo)
11. (Anh Ngọc)
12. (Thế Lập)
13. Theo PYO, (Ngọc Như)


10 • NHA TRANG UNIVERSITY


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 4/2016

THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC

HÀM LƯỢNG URÊ TRONG HẢI SẢN Ở KHÁNH HÒA
UREA CONTENTS IN SEAFOOD AT KHANH HOA PROVINCE
Nguyễn Thuần Anh1, Đỗ Thị Thanh Thủy1
Ngày nhận bài: 03/8/2015; Ngày phản biện thông qua: 8/12/2015; Ngày duyệt đăng:15/12/2016

TÓM TẮT
Mục đích của nghiên cứu này nhằm cung cấp những thông tin về hàm lượng urê trong các loài hải sản
(cá ngừ bò, cá nục, mực, cá đổng và cá cờ) đại diện cho 5 loại hình nghề khai thác có sản lượng lớn và tiêu
thụ nhiều ở Khánh Hòa. Hàm lượng urê được phân tích bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao với đầu
dò huỳnh quang (HPLC-FLD: High-performance liquid chromatography with fluorescence detection) trên các
mẫu được lấy tại các cảng cá, cơ sở thu mua hải sản và các chợ ở Khánh Hòa. Kết quả phân tích cho thấy có
271 trong số 390 mẫu có urê với các hàm lượng khác nhau, cao nhất là 5,01 g/kg. Tỷ lệ mẫu phát hiện có urê
ở các loài hải sản khai thác như sau: cá nục (15,9%), cá ngừ bò (13,8%), cá cờ (13,8%), cá đổng (13,8%) và
mực (12,1%). Tại các chợ cá, tỷ lệ mẫu phát hiện có urê (32,6%) cao hơn so với cơ sở thu mua hải sản (24,6%)
và cảng (12,3%). Hàm lượng urê trung bình trong cá ngừ bò (1,69 g/kg), mực (1,81 g/kg), cá đổng (1,62 g/kg)
cao hơn trong cá cờ (1,27 g/kg) và cá nục (0,99 g/kg). Nghiên cứu đã cung cấp những thông tin có giá trị để
tiếp tục thực hiện việc đánh giá nguy cơ phơi nhiễm urê đối với người tiêu dùng do ăn hải sản và từ đó có các
giải pháp quản lý an toàn thực phẩm hải sản hiệu quả.
Từ khóa: thủy sản, urê, cảng cá, cơ sở thu mua hải sản, chợ cá, Khánh Hòa
ABSTRACT

This paper aims to provide data of urea contents in the seafood consumed in a great amount which
are representative of the 5 popular fisheries exploitation types having great yields at Khanh Hoa province.
The urea contents of the samples from the fish ports, seafood purchace agencies and fish markets at Khanh
Hoa province are determined by HPLC-FLD (High Performance Liquid Chromatography with fluorescence
detection). The results showed that there were 271 in 390 samples contaminated by urea in different contents,
the maximum is 5.01 g/kg. The rate of the seafood sample contaminated by urea decreased in the following
order: tune (15.9%), round scad (13.8%), squid (13.8%), horsehead fish (13.8%) and paradise fish (12.1%).
In the markets, the rate of the seafood sample contaminated by urea (37.7%) is higher than those in the
seafood purchase agencies (31.8%) and in the fish ports (16.9%). The average urea contents in the tune (1.69
g/kg), the squid (1.81 g/kg), the horsehead fish (1.62 g/kg) are higher than those in the paradise fish (1.27 g/kg)
and the round scad (0.99 g/kg). This study provided valuable information for continuing to assess urea risk to
consumers due to seafood consumption, hence giving the solutions for the efficient seafood safety management.
Keywords: seafood, urea, fish port, seafood purchase agency, fish market, Khanh Hoa

1

Khoa Công nghệ thực phẩm - Trường Đại học Nha Trang

NHA TRANG UNIVERSITY • 11


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Urê là một loại phân bón hóa học được
dùng trong nông nghiệp để tăng lượng đạm
cho cây trồng và không phải là hóa chất bảo
quản thực phẩm. Ở Việt Nam trong mấy năm
gần đây đã có nhiều người kinh doanh thực
phẩm, thủy sản tươi sống sử dụng urê trộn với
đá để bảo quản thực phẩm vì khi urê hòa tan

trong nước, nước sẽ trở nên lạnh do phản ứng
thu nhiệt, nhờ vậy mà thịt cá được tươi lâu.
Việc lạm dụng urê trong bảo quản là do các
chuyến đi biển kéo dài, thời gian bảo quản cá
sau thu hoạch dài, nước đá bảo quản không
đủ, trang bị thiết bị bảo quản chưa đầy đủ,
chưa phù hợp cho việc bảo quản hải sản dài
ngày. Bên cạnh đó, urê lại rất dễ mua, dễ sử
dụng, giá rẻ; cộng với sự thiếu hiểu biết, ý thức,
thái độ không tốt của người tham gia cung ứng
hải sản về vấn đề an toàn thực phẩm. Ngoài
ra, công tác quản lý còn chưa tốt, chế tài xử
phạt chưa đủ sức răn đe, công tác phối hợp
giữa các đơn vị chưa hợp lý; tổ chức chưa
hoàn thiện, thiếu kinh phí hoạt động, hình thức
truyền thông về các mối nguy gây mất an toàn
thực phẩm chưa thật sự phong phú. Các lý do
trên đã tạo nên nguy cơ về mối nguy urê trong
hải sản.
Urê không nằm trong danh mục các chất
phụ gia được phép sử dụng trong thực phẩm
được ban hành kèm theo Thông tư số 27/2012/
TT-BYT - Thông tư quản lý phụ gia thực phẩm
của Bộ Y tế [4] cũng không có trong danh mục
phụ gia thực phẩm do Ủy ban Tiêu chuẩn Thực
phẩm (CODEX) ban hành.
Thường xuyên ăn phải những thức ăn có
ướp urê mặc dù hàm lượng thấp sẽ bị ngộ
độc mãn tính với các dấu hiệu mất ngủ kéo
dài, đau đầu, nhức mỏi cơ thể, giảm trí nhớ,

thường bị chuột rút, chán ăn dẫn đến suy dinh
dưỡng, viêm loét ruột, mất cân bằng canxi và
phospho gây loãng xương… Khi ăn phải thực
phẩm chứa dư lượng urê cao thì người ăn có
thể bị ngộ độc cấp tính với các triệu chứng đau
bụng, buồn nôn, tiêu chảy, khó thở, suy tim,
xơ cứng động mạnh có thể dẫn tới tử vong.

12 • NHA TRANG UNIVERSITY

Số 4/2016
Ngoài ra, còn có các tổn thương khác như: tiểu
đường, suy giảm chức năng tuyến giáp, suy
giảm tình dục, rối loạn kinh nguyệt ở phụ nữ.
Trên động vật thí nghiệm, cho tiếp xúc với liều
lượng lớn, kéo dài bằng các đường khác nhau
(da, hô hấp, tiêu hóa, tĩnh mạch), có thể làm
rối loạn chuyển hóa, rối loạn sinh sản… Ngoài
ảnh hưởng đối với sức khỏe người tiêu dùng
của chính urê, thì chúng còn có thể gây hại
cho sức khỏe do các kim loại nặng như chì,
thủy ngân, cadimi… có thể còn lẫn nhiều trong
urê sử dụng trong nông nghiệp có độ tinh khiết
không cao [12].
Chi cục Quản lý Chất lượng Nông lâm
Thủy sản Bình Thuận (2010) đã báo cáo có
33,3% số mẫu thủy sản lấy tại Bình Thuận
trong 8 tháng đầu năm 2010 có chứa urê [6].
Chi cục VSATTP TP. Hồ Chí Minh đã phát hiện
40/67 mẫu ở chợ Bình Điền có urê [14].

Ở tỉnh Khánh Hòa, nghiên cứu của Nguyễn
Thị Ngọc Huệ (2005) cho thấy 42,39% số mẫu
hải sản có urê, trong đó mực 23,33% và cá
61,76% [10]. Lê Tấn Phùng và cộng sự (2010)
đã xác định được 24/30 (80%) mẫu cá ở
Khánh Hòa có chứa urê, hàm lượng urê cao
nhất là 2,66 g/kg, thấp nhất là 0,28 g/kg; số
mẫu có hàm lượng urê trên 1g/kg là 11 mẫu,
chiếm tỷ lệ 45,8% [9]. Trong năm 2012, Chi cục
ATVSTP đã tiến hành kiểm tra 234 mẫu và có
28 mẫu không đạt các chỉ tiêu an toàn thực
phẩm, trong đó phát hiện có mẫu mực tươi sử
dụng phân urê bảo quản [5].
Báo cáo của Cục ATTP (2012) cho thấy
54/60 mẫu cá biển tại tàu cá, cảng cá, bến
cá và các chợ bán buôn, bán lẻ thủy sản có
urê nhưng ở mức thấp (nằm trong khoảng
10-125 ppm) [8].
Mặc dù việc sử dụng urê trong hải sản khá
phổ biến nhưng những nghiên cứu, những
phân tích kiểm nghiệm liên quan lại không
nhiều và cũng chưa thực hiện trên toàn bộ
chuỗi cung ứng để có được những nhận định
cụ thể về nguyên nhân nhiễm mối nguy urê.
Tỉnh Khánh Hòa, một tỉnh có sản lượng đánh
bắt và tiêu thụ hải sản lớn, là đầu mối cung cấp


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
hải sản quan trọng cho cả nước thì việc đánh

giá hàm lượng urê trong hải sản khai thác là
vấn đề mang tính chất thời sự và cấp thiết cao.
II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: là 5 loại hải sản đại
diện cho 5 loại hình nghề khai thác ở Khánh
Hòa (Sản phẩm nghề chụp: mực, sản phẩm
nghề lưới kéo: cá đổng, sản phẩm nghề lưới
rê: cá ngừ bò, sản phẩm nghề lưới vây: cá nục,
sản phẩm nghề câu: cá cờ). Đây là các loại hải
sản được khai thác với sản lượng lớn và tiêu
thụ nhiều tại Khánh Hòa.
Mẫu để phân tích urê được lấy tại:
- 5 cảng cá (cảng cá Hòn Rớ, cảng cá Vĩnh
Trường, cảng cá Vĩnh Lương, cảng cá Đá Bạc
và cảng cá Đại Lãnh)
- 11 chợ loại 1 và loại 2 ở Khánh Hòa gồm
5 chợ loại 1 và 2 ở Nha Trang (chợ Đầm, chợ
Xóm Mới, chợ Vĩnh Hải, chợ Phước Thái, chợ
Phương Sơn), 1 chợ loại 2 ở Cam Ranh (chợ
Ba Ngòi), 2 chợ loại 2 ở Ninh Hòa (chợ Dinh,
chợ Dục Mỹ), 2 chợ loại 2 ở Vạn Ninh (chợ
Đại Lãnh, chợ Tu Bông) và chợ cá Nam Trung
Bộ. Lý do chỉ chọn các chợ loại 1, loại 2 (trong
tổng cộng 140 chợ thương mại ở Khánh Hòa)
và chợ cá Nam Trung Bộ làm đối tượng nghiên
cứu là do các chợ trên có tổng số người buôn
bán hải sản nhiều, có quy mô lớn, có khu vực
riêng để bán hải sản và cũng là các đầu mối
phân phối hải sản đến các khu vực buôn bán

hải sản khác trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa.
- 101 cơ sở mua bán hải sản (47 cơ sở
mua bán ở thành phố Nha Trang, 22 cơ sở
mua bán hải sản ở Cam Ranh, 14 cơ sở mua
bán hải sản ở huyện Ninh Hòa, 18 cơ sở mua
bán hải sản ở huyện Vạn Ninh [7]): lập danh
sách 101 cơ sở mua bán hải sản theo địa
phương và theo thứ tự alphabet của tên cơ
sở, số cơ sở thu mua cần được chọn lựa để
lấy mẫu là 10

[1]. Các
cơ sở được chọn lựa để lấy mẫu theo phương
pháp lấy mẫu ngẫu nhiên hệ thống. Khoảng
cách chọn lựa các cơ sở là 10 (101/10), tức là

Số 4/2016
cứ cách 10 cơ sở thì 1 cơ sở mua bán lại được
chọn trong danh sách. Cụ thể số cơ sở mua
bán được chọn là: 4 cơ sở mua bán tại Nha
Trang, 2 cơ sở mua bán tại Cam Ranh, 2 cơ
sở mua bán tại Ninh Hòa và 2 cơ sở mua bán
tại Vạn Ninh. Tại 10 cơ sở được chọn lựa, tiến
hành lấy mẫu. Nếu cơ sở nào không có loại hải
sản cần lấy mẫu thì tiến hành lấy mẫu hải sản
đó tại các cơ sở mua bán hải sản kế tiếp trong
danh sách.
Số lượng mẫu của 5 loại hải sản được lấy
tại 5 cảng, 11 chợ và 10 cơ sở mua bán hải sản
ở 3 đợt trải đều trong năm 2014 là 390 mẫu

(5 loại*(5 cảng + 11 chợ +10 cơ sở mua bán)* 3
đợt = 390 mẫu). Lấy mẫu được thực hiện theo
quy định của Bộ Y tế tại Thông tư số 14/2011/
TT-BYT ngày 01/4/2011 với khối lượng mẫu
lấy tại 1 điểm trong 1 lần thu mẫu là 1,5 kg (nếu
khối lượng của cá thể lớn hơn 1,5 kg thì lấy
toàn bộ cá thể ấy) [3]. Mẫu được lấy phải đảm
bảo tính đại diện, khách quan và ngẫu nhiên.
Mẫu sau khi lấy được bao gói và ghi ký mã
hiệu nhận diện. Các mẫu nhanh chóng được
mang đi phân tích tại phòng thí nghiệm thuộc
Trung tâm Thí nghiệm Thực hành - Trường
Đại học Nha Trang. Điều kiện bảo quản mẫu
ở nhiệt độ -800C.
Hàm lượng urê được xác định bằng
phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao với
đầu dò huỳnh quang (TCVN 8025:2009) [15]
với giới hạn phát hiện LOD = 10 mg/kg. Kết
quả được xử lý bằng phần mềm SPSS 16.
Sự khác biệt về hàm lượng urê trung bình
giữa các loại hải sản khai thác tại Khánh Hòa
đã được kiểm tra bằng phép phân tích phương
sai một yếu tố kèm theo phép so sánh luân
phiên từng cặp để thể hiện sự sai khác có ý
nghĩa thống kê của các giá trị hàm lượng urê.
Sự khác biệt hàm lượng urê trung bình được
coi là có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Tỷ lệ mẫu phát hiện có urê
Tỷ lệ (%) mẫu các loại hải sản được phát

hiện có urê được thể hiện trong Hình 1.
NHA TRANG UNIVERSITY • 13


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Hình 1. Tỷ lệ (%) mẫu phát hiện có urê trong các loại
hải sản khác nhau

Tỷ lệ (%) mẫu hải sản tại các địa điểm lấy
mẫu khác nhau (cảng, cơ sở thu mua hải sản,
chợ cá) được phát hiện có urê được trình bày
ở Hình 2.

Hình 2. Tỷ lệ mẫu phát hiện có urê tại cảng, chợ
và cơ sở thu mua ở Khánh Hòa

Kết quả trình bày ở Hình 1 và 2 cho thấy
có 69,5% số mẫu (271 mẫu trong số 390 mẫu
hải sản phân tích) phát hiện có urê. Trong đó
tỷ lệ mẫu phát hiện có urê ở các loài hải sản
khai thác như sau: cá nục (15,9%), cá ngừ bò
(13,8%), cá cờ (13,8%), cá đổng (13,8%) và
mực (12,1%). Các mẫu phát hiện có urê nhiều
nhất là ở chợ cá (32,6%) sau đó là cơ sở thu
mua (24,6%) và ít nhất là ở cảng cá (12,3%).
Urê nếu có trong hải sản có thể do nội sinh
hoặc ngoại sinh (thêm từ ngoài vào):
- Urê nội sinh do quá trình phân giải các
thành phần có đạm trong cơ thịt động vật thủy

sản như: protein, axit amin, axit creatinin...
Hàm lượng urê trong loài cá xương sụn
như cá nhám khoảng 1.000 - 2.000 mg%.
Với cá xương cứng và những động vật thủy
sản không xương sống khác chỉ có khoảng
1-10 mg% [11].

14 • NHA TRANG UNIVERSITY

Số 4/2016
- Urê ngoại sinh là urê do người tham gia
cung ứng hải sản (ngư dân và người buôn
bán) đưa vào để bảo quản hải sản tươi vì khi
hòa tan urê trong nước sẽ làm lạnh môi trường
nước. Tuy nhiên, urê khi sử dụng trong bảo
quản hải sản sau thu hoạch có thể làm hải sản
nhiễm mối nguy urê (urê ngoại sinh).
Tại các chợ cá, tỷ lệ mẫu phát hiện có urê
(32,6%) cao hơn so với cơ sở thu mua hải sản
(24,6%) và cảng (12,3%). Nguyên nhân có
thể do: tại các chợ thương mại, khi thời gian
lưu giữ hải sản kéo dài hơn 12 tiếng, đặc biệt
có trường hợp hải sản không bán hết trong
ngày nhưng không được bảo quản đúng cách
đã làm hải sản giảm chất lượng và nhanh hư
hỏng, quá trình phân hủy protein tạo urê cũng
diễn ra nhanh hơn, do đó mà urê nội sinh sinh
ra nhiều. Nguyên nhân khác có thể do người
cung ứng hải sản tại chợ muốn hải sản nhìn
tươi hơn và bảo quản lâu hơn nên đã sử dụng

urê để bảo quản hải sản.
Tại các cơ sở thu mua hải sản, tỷ lệ mẫu
phát hiện có urê ở mức thấp hơn so với chợ có
thể là do cơ sở thu mua có điều kiện bảo quản
tốt hơn ở chợ nên hàm lượng urê nội sinh sinh
ra trong quá trình bảo quản thấp hơn ở chợ.
Mặt khác, tại cơ sở thu mua khi bán cho các
công ty chế biến hải sản thì cơ sở thu mua phải
cam kết đảm bảo chất lượng ATTP hải sản nên
họ ít sử dụng urê để bảo quản hải sản hơn so
với chợ.
Tại các cảng cá, tỷ lệ mẫu hải sản phát
hiện có urê ở mức thấp nhất có thể là do đây
là mắt xích đầu tiên trong chuỗi cung ứng hải
sản khai thác nên thời gian bảo quản hải sản
kể từ khi đánh bắt ngắn hơn so với tại các mắt
xích tiếp theo nên lượng urê nội sinh hay ngoại
sinh nếu có cũng không nhiều bằng ở các mắt
xích tiếp theo.
2. Hàm lượng urê trung bình trong hải sản
khai thác tại Khánh Hòa
Hàm lượng urê trong 5 loại hải sản (Cá
nục, cá cờ, cá ngừ bò, mực và cá đổng) được
trình bày trong Bảng 1.


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 4/2016


Bảng 1. Hàm lượng urê (g/kg) trong 5 loại hải sản (cá nục, cá cờ, cá ngừ bò, mực và cá đổng)
Hàm lượng urê (g/kg)

Loại hải sản

Trung bình

Nhỏ nhất

Lớn nhất

Cá ngừ bò

1,69

0,91

3,12

Mực

1,81

0,32

3,38

Cá đổng

1,62


0,04

3,67

Cá cờ

1,27

0,21

5,01

Cá nục

0,99

0,27

2,67

Việc kiểm tra bằng phép phân tích phương
sai một yếu tố kèm theo phép so sánh luân
phiên từng cặp cho thấy không có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (P > 0,05) hàm lượng
urê trung bình giữa cá ngừ bò, mực, cá đổng;
và giữa cá cờ với cá nục. Kết quả trình bày
ở Bảng 1 cho thấy hàm lượng urê trung bình

trong cá ngừ bò (1,69 g/kg), mực (1,81 g/kg),

cá đổng (1,62 g/kg) cao hơn trong cá cờ
(1,27 g/kg) và cá nục (0,99 g/kg).
Hàm lượng urê (g/kg) trong 5 loài hải sản
(Cá nục, cá cờ, cá ngừ bò, mực và cá đổng)
được thu mẫu tại cảng, chợ và cơ sở thu mua
được trình bày trong Bảng 2.

Bảng 2. Hàm lượng urê (g/kg) trong 5 loài hải sản (Cá nục, cá cờ, cá ngừ bò, mực và cá đổng)
được thu mẫu tại cảng, chợ và cơ sở thu mua
Cảng

Chợ

Cơ sở thu mua

Hàm lượng urê (g/kg)

Loại hải sản
Trung bình Nhỏ nhất

Lớn nhất Trung bình Nhỏ nhất

Lớn nhất Trung bình Nhỏ nhất

Lớn nhất

Cá ngừ bò

2,07


1,02

3,12

1,42

1,15

1,88

1,72

0,91

2,88

Mực

1,33

1,06

1,51

2,02

0,32

3,38


1,79

1,26

2,91

Cá đổng

2,01

0,04

3,67

1,19

0,27

2,21

1,80

0,15

3,57

Cá cờ

0,95


0,32

1,46

1,36

0,21

5,01

1,34

0,21

4,31

Cá nục

1,05

0,53

1,52

0,92

0,27

1,92


1,02

0,27

2,67

Tổng

1,50

0,04

3,67

1,35

0,21

5,01

1,51

0,15

4,31

Tuy nhiên, thông tư 29/TT-BNNPTNT của
Bộ NN&PTNT và Quyết định 46/2007/QĐ-BYT
của Bộ Y tế chưa quy định mức giới hạn urê
trong thực phẩm thủy sản [2]. Từ 01/7/2011,

theo Luật An toàn thực phẩm [13], việc đưa ra
quy định về chỉ tiêu phân tích, mức giới hạn
cho phép đối với từng loại sản phẩm sẽ thuộc
trách nhiệm của Bộ Y tế và thường dựa trên
việc tham khảo các quy định hiện hành của
Codex, hoặc các tổ chức quốc tế khác về vệ
sinh an toàn thực phẩm trong khi hiện nay các
tổ chức này đều chưa qui định mức giới hạn
cho phép của urê trong thực phẩm. Tuy vậy,
kết quả ở Bảng 2 cho thấy hàm lượng ure phát
hiện trong các loại hải sản thu mua ở Khánh
Hòa gấp 10 - 20 lần hàm lượng ure nội sinh

trong các loài cá xương cứng và những động
vật thủy sản không xương sống khác (khoảng
1-10 mg%) [11]. Như vậy, các số liệu này là
đáng suy ngẫm và sẽ là cơ sở để thực hiện
các nghiên cứu cần thiết tiếp theo nhằm cung
cấp số liệu cho việc xây dựng các qui định liên
quan đến giới hạn tối đa cho phép của urê
trong hải sản, từ đó thực sự đảm bảo an toàn
cho người tiêu dùng.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Tại các chợ cá, tỷ lệ mẫu phát hiện có urê
(32,6%) cao hơn so với cơ sở thu mua hải sản
(24,6%) và cảng (12,3%). Tỷ lệ mẫu phát hiện
có urê ở các loài hải sản khai thác như sau:
NHA TRANG UNIVERSITY • 15



Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
cá nục (15,9%), cá ngừ bò (13,8%), cá cờ
(13,8%), cá đổng (13,8%) và mực (12,1%).
Hàm lượng urê trung bình trong cá ngừ bò
(1,69 g/kg), mực (1,81 g/kg), cá đổng (1,62 g/kg)
cao hơn trong cá cờ (1,27 g/kg) và cá nục
(0,99 g/kg). Các số liệu của nghiên cứu này
cho thấy thực trạng về mối nguy urê trong hải
sản khai thác ở khánh Hòa. Đây là các dữ liệu
có giá trị cho các nghiên cứu tiếp theo về đánh
giá nguy cơ của mối nguy này đối với sức khỏe
để làm cơ sở xây dựng các qui định liên quan
và từ đó có được các giải pháp thích hợp trong
việc quản lý an toàn thực phẩm nói chung và
an toàn thực phẩm hải sản nói riêng.
2. Kiến nghị
Để có thể đưa ra các giải pháp hiệu quả
trong quản lý an toàn thực phẩm hải sản có

Số 4/2016
liên quan đến urê trong hải sản thì cần tiến
hành những công việc cụ thể sau:
- Đánh giá nguy cơ của người tiêu dùng đối
với mối nguy urê do ăn hải sản
- Nghiên cứu để đánh giá sự biến đổi urê
nội sinh trong quá trình bảo quản hải sản.
- Nghiên cứu để dưa ra quy định về giới
hạn ure cho phép trong hải sản
- Kiểm soát chặt chẽ việc kinh doanh, mua

bán và sử dụng urê trong bảo quản hải sản.
- Chỉ đạo chặt chẽ việc quản lý vệ sinh an
toàn thực phẩm tại các cảng cá, cơ sở thu mua
hải sản và các chợ đầu mối.
- Tuyên truyền, giáo dục cho các đối tượng
tham gia vào chuỗi cung ứng hải sản về an
toàn thực phẩm nói chung và về tác hại của
urê nói riêng. Đồng thời tẩy chay những hải
sản có ngâm urê.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.

(Đặng Văn Hợp), Đỗ Minh Phụng, Nguyễn Thuần Anh, Vũ Ngọc Bội, 2007. Phân tích kiểm nghiệm thực phẩm
thủy sản. NXB Khoa học và Kỹ thuật, 261.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), 2010. Thông tư 29/TT-BNNPTNT của Bộ NN&PTNT
Ban hành “Danh mục chỉ tiêu, mức giới hạn cho phép về an toàn vệ sinh thực phẩm đối với một số sản phẩm
thực phẩm có nguồn gốc động vật nhập khẩu, sản xuất lưu thông trong nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn”
Bộ Y tế, 2011. Thông tư số 14/2011/TT-BYT ngày 01/4/2011 Về việc ban hành “Hướng dẫn chung về mẫu thực
phẩm phục vụ thanh tra, kiểm tra chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm”, Hà Nội.
Bộ Y Tế, 2012. Thông tư số 27/2012/TT-BYT- Thông tư hướng dẫn việc quản lý phụ gia thực phẩm của Bộ Y Tế.
Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm Khánh Hòa, 2012. Báo cáo công tác vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2012.
Chi cục Quản lý Chất lượng Nông lâm Thủy sản Bình Thuận, 2010. Báo cáo công tác đảm bảo an toàn thực
phẩm năm 2010
Chi cục Chi cục Quản lý Chất lượng Nông lâm Thủy sản Khánh Hòa, 2013. Danh mục các cơ sở thu mua hải
sản tại Khánh Hòa
Cục An toàn thực phẩm, 2012. Báo cáo công tác đảm bảo an toàn thực phẩm năm 2012 và nhiệm vụ trọng tâm 2013.
Lê Tấn Phùng và cộng sự, 2010. Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp khả thi nhằm đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm tại Khánh Hòa. Đề tài nghiên cứu khoa học tỉnh Khánh Hòa.
Nguyễn Thị Ngọc Huệ, 2005. Tìm hiểu tình trạng sử dụng hàn the, urê trong thịt, hải sản tươi tại Khánh Hòa và
mức độ nhiễm khuẩn của chúng. Luận văn Thạc sĩ sinh học, Trường Đại học Đà Lạt.
Nguyễn Trọng Cẩn và cộng sự, 2006. Nguyên liệu chế biến thủy sản. Công nghệ chế biến thực phẩm thủy sản.
NXB Nông nghiệp: 42-151
Nguyễn Thuần Anh, 2013. Cảnh giác với thực phẩm có chứa urê. Tạp chí Thuốc & sức khỏe 468/2013. 19-20
Quốc hội, 2010. Quốc hội số: 55/2010/QH12 ngày 17 tháng 06 năm 2010. Quốc hội ban hành Luật an toàn thực phẩm
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Tp. HCM, 2007. Báo cáo công tác vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2007.
TCVN 8025:2009. Xác định hàm lượng Urê - Phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) dùng detector
huỳnh quang sau khi tạo dẫn xuất với xanthydrol.

16 • NHA TRANG UNIVERSITY


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản


Số 4/2016

THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC

SINH KẾ CỘNG ĐỒNG VÀ TÌNH TRẠNG KHAI THÁC –
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN VÙNG HỒ THỦY ĐIỆN ĐỒNG NAI 3,
HUYỆN ĐĂK G’LONG, TỈNH ĐĂK NÔNG
COMMUNITY LIVELIHOODS AND SITUATION OF FISHING - AQUACULTURE
AT HYDROPOWER RESERVOIR OF DONG NAI 3, DAK G’LONG DISTRICT,
DAK NONG PROVINCE
Nguyễn Văn Quỳnh Bôi1, Trần Văn Phước1
Ngày nhận bài: 05/01/2016; Ngày phản biện thông qua: 08/7/2016; Ngày duyệt đăng:15/12/2016

TÓM TẮT
Áp dụng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA – Rapid Rural Appraisal) và phương pháp điều
tra xã hội sử dụng bộ câu hỏi bán cấu trúc, nghiên cứu đã cho thấy cộng đồng dân cư vùng hồ Đồng Nai 3 là
một cộng đồng “thủy diện” chỉ được hình thành gần đây với cư dân từ nhiều vùng khác nhau. Do nguồn lực
hạn chế và cơ cấu dân số trẻ (chỉ 7,1% dân số trên tuổi lao động), hầu hết cư dân của cộng đồng tham gia
vào các hoạt động tạo thu nhập, chủ yếu là nuôi cá lồng (45,8%) và khai thác thủy sản (41,7% tổng số hộ).
Đời sống của các hộ, do vậy, dễ bị tổn thương với 4,2% số hộ ở tình trạng nghèo đói (thu nhập bình quân đầu
người dưới 400.000 VND/tháng). Theo đó, nguồn lợi thủy sản có chiều hướng suy thoái do áp lực khai thác.
Từ khóa: cộng đồng và nguồn lợi thủy sản, điều tra xã hội, nguồn lực, sinh kế
ABSTRACT
Applying methods of Rapid Rural Appraisal and social survey using semi-structured questionnaire, the
study showed that residential community at Dong Nai 3 reservoir was a “water-based living” just formed
recently by people from many different areas. Due to limited livelihood resources and young population structure
(only 7.1% population was over working age), almost people of the community involved in income generating
activities, mainly fish cage-culture (45.8%) and fishing (41.7% total households). Therefore, households living
was easily vulnerable with 4.2% total households in poverty (income per capita was less than 400,000 VND
per month). Accordingly, fisheries resources were likely decreased due to fishing pressure.

Keywords: community and fisheries resources, social survey, assets, livelihoods
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, trong bối cảnh suy thoái môi
trường và nguồn tài nguyên sinh vật nói chung,
thủy sinh vật nói riêng, vai trò của nguồn lợi
thủy sinh vật đối với đời sống cộng đồng ngày
càng được chú trọng. Bên cạnh giá trị đối với hệ
sinh thái và cảnh quan - môi trường, nguồn lợi

1

thủy sản còn góp phần tạo công việc cho cư
dân địa phương, tăng thu nhập cho các hộ
và cộng đồng. Do đó, phát triển kinh tế địa
phương đi đôi với bảo vệ môi trường, bảo tồn
và phát triển nguồn lợi thủy sản là những vấn
đề luôn được các quốc gia đang phát triển
quan tâm. Đối với Việt Nam, do tầm quan trọng

Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang

NHA TRANG UNIVERSITY • 17


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
của nguồn lợi thủy sản, ngày 13/02/2012, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
188/QĐ-TTg phê duyệt chương trình bảo vệ và
phát triển nguồn lợi thủy sản đến năm 2020.
Mục tiêu tổng thể của Chương trình là bảo tồn

và tái tạo nguồn lợi thủy sản
Đến nay vẫn tìm thấy không nhiều các
nghiên cứu tập trung cụ thể vào vấn đề liên
quan giữa nuôi trồng và nguồn lợi thủy sản
với sinh kế những cộng đồng dân cư khu vực
quanh các hồ chứa thủy điện, đặc biệt ở Việt
Nam và nhất là ở Tây Nguyên. Trong phạm
vi khu vực, công bố của Phounsavath năm
1998 về một nghiên cứu điển hình đối với hai
cộng đồng nghề cá tại hồ chứa Nam Ngum,
Lao P.D.R nhấn mạnh đến vai trò quản lý dựa
trên cộng đồng đối với nghề cá hồ chứa nhằm
phát triển nuôi trồng và quản lý nguồn lợi thủy
sản. Chuyên khảo của Mạng lưới trung tâm
nuôi trồng thủy sản châu Á - Thái Bình dương
(Network of Aquaculture Centres in Asia-Pacific
- NACA) về tình trạng nghề cá hồ chứa tại 5
quốc gia châu Á bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ,
Nepal, Sri Lanka và Thái Lan [11] cũng phần
nào cho thấy ý nghĩa của vấn đề kinh tế - xã
hội (bao gồm thu nhập và sinh kế) trong việc
quản lý và khai thác các nguồn lợi của hồ chứa.
Tập trung vào các hoạt động sinh kế của cộng
đồng dân cư trong vùng, có công bố của Hồ
Mạnh Tuấn và cộng sự năm 2008 về một nghiên cứu điển hình ở hai hồ chứa nhỏ thuộc
tỉnh Bình Phước. Gần đây, một công bố của Lê
Ngọc Châu và cộng sự (2011), về hiện trạng
khai thác cá ở một số hồ chứa nhỏ (<1.000 ha)
thuộc tỉnh Đồng Nai và Bình Phước đề cập đến
công cụ và năng suất khai thác giữa hai nhóm

hồ có và không có tổ chức quản lý khai thác.
Ở khu vực Tây Nguyên, một nghiên cứu của
Phan Đình Phúc và cộng sự tại 2 hồ Easoup và
Lak (tỉnh Daklak trước đây) được công bố năm
2009 nhấn mạnh vai trò đồng quản lý đối với hồ
chứa nhỏ. Ngoài các công bố trên, rất ít công
trình nghiên cứu đề cập đến cơ sở sinh kế của
những cộng đồng sống trong khu vực lân cận
các hồ chứa, đặc biệt là các hồ chứa thủy điện.

18 • NHA TRANG UNIVERSITY

Số 4/2016
Bài báo này trình này nguồn lực và hoạt
động sinh kế, bao gồm cả khai thác và nuôi
trồng thủy sản của cộng đồng cư dân khu vực
hồ thủy điện Đồng Nai 3, huyện Đăk G’Long,
tỉnh Đăk Nông.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Hồ Đồng Nai 3 nằm ở khu vực tiếp giáp
hai tỉnh Lâm Đồng và Đăk Nông. Là hồ chứa
thủy điện, hồ Đồng Nai 3 bắt đầu xây dựng
cuối năm 2004 và hoàn thành năm 2011 với
diện tích khoảng 56 km2, tổng dung tích chứa
nước là 1 tỷ 400 triệu m3.
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 1
đến tháng 6 năm 2014 tại khu vực hồ chứa
thủy điện Đồng Nai 3, thuộc địa bàn huyện
Đăk G’Long, tỉnh Đăk Nông theo phương pháp
đánh giá nhanh nông thôn (RRA - Rapid - Rural

Appraisal) và phương pháp điều tra xã hội sử
dụng bộ câu hỏi bán cấu trúc. Thông tin và dữ
liệu được khảo sát bao gồm 5 nội dung là thông
tin chung về hộ (họ và tên, địa chỉ, số điện
thoại) và cơ cấu sinh kế (số thành viên của hộ,
tuổi, giới tính, học vấn, nghề nghiệp,…), thông
tin về kinh tế - đời sống (thông tin về nhà - đất,
tiện nghi đời sống, thu nhập và tích lũy,…), các
hoạt động sinh kế chính (khai thác thủy sản,
chăn nuôi, trồng trọt,…), thuận lợi và khó khăn
trong hoạt động sinh kế, và hỗ trợ của chính
quyền/ban ngành địa phương.
Do số hộ cư trú vùng lòng hồ thuộc phạm
vi nghiên cứu không lớn (60 hộ theo số liệu
điều tra trước đây của Công An địa phương)
nên nghiên cứu đã khảo sát tất cả các hộ bắt
gặp trong các chuyến khảo sát thuộc khu vực
nghiên cứu.
Nguồn số liệu thứ cấp được thu thập từ
niên giám thống kê địa phương.
Nguồn số liệu sơ cấp được tổng hợp dựa
trên quá trình phỏng vấn các hộ dân sống trong
khu vực hồ thông qua bộ câu hỏi điều tra.
Ngoài ra, để hiểu rõ hơn hiện trạng kinh tế xã hội, tình hình quản lý và sử dụng nguồn lợi
thủy sản ở địa phương, các cán bộ quản lý cấp
huyện và xã được phỏng vấn với tính chất là
người am hiểu thông tin (key informant).


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số liệu sơ cấp và số liệu thứ cấp được tổng
hợp và thống kê bằng phần mềm Microsoft
Excel (Version 2007). Thông tin được xử lý
theo từng nội dung dựa trên phiếu điều tra.
Sinh kế của các cộng đồng nghiên cứu

Số 4/2016
được phân tích dựa theo khung sinh kế bền
vững đề xuất bởi Bộ Phát triển Quốc tế Vương
quốc Anh (United Kingdom Department for
International Development - DFID) [3].

Hình 1. Hình ảnh hồ thủy điện Đồng Nai 3
(Nguồn hình trái: truy cập ngày 23/10/2014)

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Khái quát về hồ thủy điện Đồng Nai 3
Trước đây, hồ Đồng Nai 3 thuộc sự quản lý
của Ban Quản lý Công trình thủy điện 6. Hiện
nay, Công ty Thủy điện Đồng Nai 3 - Tập đoàn
Điện lực Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý đập,
vận hành nhà máy và phát điện. Riêng về khía
cạnh thủy sản, theo Phòng Nông nghiệp huyện
Đăk G’Long - tỉnh Đăk Nông, cho đến nay vẫn
chưa có bất kỳ văn bản nào đề cập đến việc
kết hợp giữa hai tỉnh Lâm Đồng và Đăk Nông
trong vấn đề bảo tồn và phát triển nguồn lợi hồ
Đồng Nai 3. Thuộc phạm vi hành chính tỉnh Đăk
Nông, Ủy ban Nhân dân các xã Quảng Khê,
Đăk Som, và Đăk Plao - huyện Đăk G’Long chịu

trách nhiệm phối hợp trong việc quản lý và bảo
vệ hồ theo Nghị định số 112/2008/NĐ - CP về
quản lý, bảo vệ, khai thác tổng hợp tài nguyên
và môi trường các hồ chứa thủy điện, thủy lợi.
Có thể do lý do này mà những vấn đề liên quan
đến bảo tồn nguồn lợi thủy sản cũng như phát
triển nuôi trồng thủy sản hồ Đồng Nai chưa
được chú ý đúng mức [7].
2. Nguồn lực sinh kế của cộng đồng cư dân
vùng hồ thủy điện Đồng Nai 3
Cộng đồng cư dân vùng hồ Đồng Nai 3 chỉ
được hình thành trong những năm gần đây

sau khi hồ được ngập nước bao gồm cư dân
từ nhiều vùng khác nhau kể cả Việt kiều từ
Cambodia trở về. Phần lớn cư dân của cộng
đồng không có đất tại địa phương nên gần như
tất cả các hộ đều cư trú trên những nhà-bè
trôi nổi trên mặt hồ. Trong thực tế, số hộ vùng
lòng hồ thay đổi hàng năm phụ thuộc vào sinh
kế, chủ yếu dựa trên nguồn lợi thủy sản khai
thác được. Do vậy, có thể xem cộng đồng dân
cư vùng lòng hồ Đồng Nai 3 là một cộng đồng
mang tính chất tạm thời.
2.1. Nguồn lực tự nhiên
Mặc dù gần rừng nhưng tài nguyên rừng
không được xem là nguồn lực tự nhiên đối
với sinh kế cộng đồng dân cư vùng lòng hồ
do việc khai thác rừng bị cấm và tập quán đời
sống “thủy diện”. Có thể nói nguồn lực tự nhiên

của cộng đồng dân cư vùng lòng hồ thủy điện
Đồng Nai 3 là nguồn lợi thủy sản vùng hồ và
mặt nước để thực hiện nuôi trồng thủy sản đối
với một số hộ.
2.2 Nguồn nhân lực
Tuổi trung bình của cư dân thuộc cộng
đồng là 27, thay đổi từ 1 đến 66. Trong số
161 nhân khẩu thuộc 48 hộ được khảo sát,
51 nhân khẩu dưới tuổi lao động (31,7%),
98 nhân khẩu trong tuổi lao động (60,9%)
và 12 nhân khẩu trên tuổi lao động (7,5%).
NHA TRANG UNIVERSITY • 19


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số nhân khẩu từ 45 và 50 tuổi trở xuống lần
lượt là 130 và 139 người, tương ứng tỷ lệ
86,1% và 92,1%. Những kết quả này cho thấy
cấu trúc dân số cộng đồng vùng lòng hồ Đồng
Nai 3 rất trẻ (Hình 2). Kết quả điều tra còn cho
thấy số nhân khẩu trong hộ thay đổi từ 1 đến 7,
phổ biến từ 3 – 4 nhân khẩu/hộ với tỷ lệ nam/nữ
là 93/68. Trình độ học vấn của cộng đồng rất
thấp. Khảo sát cho thấy chỉ có 1 em thuộc hộ
có nhà trên đất liền, chiếm gần 2% nhóm dưới

Số 4/2016
tuổi lao động và 0,6% tổng dân số, còn đi học
(lớp 6). Tất cả các trường hợp còn lại đều đã
nghỉ học. Kết quả khảo sát chỉ ra rằng cộng

đồng cư dân vùng lòng hồ không có bất kỳ lao
động nào có trình độ chuyên môn. Nguồn nhân
lực trong độ tuổi lao động đạt đến lớp 5 và lớp
6 lần lượt chiếm 2 tỷ lệ cao nhất là 10,2% và
14,3%. Bên cạnh đó, tỷ lệ lao động mù chữ
chiếm 15,5% tổng dân số và lên đến 25,5% số
nhân lực trong độ tuổi lao động.

Hình 2. Một số đặc trưng về nhân khẩu và lao động của cộng đồng vùng lòng hồ thủy điện Đồng Nai 3

2.3. Nguồn lực tài chính
Chỉ có 12 hộ (25%) cung cấp dữ liệu về đất
và rẫy tại địa phương đăng ký hộ khẩu với diện
tích đất thay đổi trong khoảng 120 - 30.000 m2,
trung bình là 6.500 m2. Có 30 hộ (62,5%) không
cung cấp dữ liệu này, 1 hộ (2,1%) xác nhận
đang ở nhờ, 5 trường hợp (độc thân hoặc mới
lập gia đình) không có đất (10,4%). Theo lý
thuyết, có thể xem đây là một bộ phận tạo nên
nguồn lực sinh kế đối với các hộ. Tuy nhiên, rất
khó đánh giá khía tài chính của nguồn lực này
đối với cộng đồng dân cư vùng hồ Đồng Nai 3.
Bên cạnh đó, xem xét toàn bộ cộng đồng cư
dân khu vực lòng hồ Đồng Nai 3, chỉ có 1 hộ
(2,1%) có nhà gỗ xây dựng năm 2009 với giá
trị hiện nay khoảng 500 triệu và 3 hộ (gần
6,3%) có nhà tạm xây dựng trên đất được quy
hoạch cho nhà máy thủy điện. Tất cả các hộ
còn lại (91,6%) đều cư trú trên bè có diện tích
trung bình 28 m2, phổ biến từ 15 đến 24 m2.

Được làm từ năm 2008 trở lại đây, giá trị của
bè ước tính thấp nhất 1 triệu và cao nhất là 60
triệu, trung bình 15,5 triệu. Tuy nhiên, hầu hết
số hộ có phương tiện đi lại và thực hiện hoạt

20 • NHA TRANG UNIVERSITY

động sinh kế là ghe xuồng. Kết quả khảo sát
cho thấy khoảng 4,2% số hộ (2 hộ) không có
ghe xuồng, 8,3% (4 hộ) chỉ có xuồng chèo tay
với giá trị không lớn. Tất cả các hộ còn lại đều
có ghe máy có công suất từ 5 HP đến 24 HP
với giá trị từ 5 triệu đến 60 triệu.
Bên cạnh đó, tiện nghi đời sống và phương
tiện hoạt động rất hạn chế do điều kiện vùng
hồ. Chỉ có 2 hộ (4,2%) có xe cơ giới (xe “công
nông”) phục vụ hoạt động sinh kế, khoảng 20
hộ (41,7%) có xe máy (gởi nhờ các nhà trên
đất liền) và 9 hộ (18,8%) có tivi. Thậm chí, 2
hộ (4,2%) khẳng định không có bất cứ tiện
nghi đời sống nào. Những dữ liệu này cho
thấy rằng, nhìn chung, nguồn lực tài chính của
cộng đồng khu vực lòng hồ Đồng Nai 3 không
đáng kể.
Xem xét về mặt hỗ trợ, trong số 48 hộ được
khảo sát, chỉ có 1 trường hợp (2,1%) được
“Quỹ Bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng” (thuộc
Dự án Bảo tồn thiên nhiên khu vực Tà Đùng,
tỉnh Đăk Nông) hỗ trợ không hoàn lại 14 triệu
cho các hoạt động sinh kế và 1 trường hợp

(2,1%) được vay vốn hỗ trợ dành cho các hộ


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
cận nghèo từ Ngân hàng chính sách huyện.
Bên cạnh đó chỉ có 11 trường hợp (22,9%)
được hỗ trợ từ người thân hoặc bạn bè, 1
trường hợp (2,1%) được đầu tư từ chủ bè lân
cận và 6 trường hợp (12,5%) phải vay ngoài.
Đối với cộng đồng cư dân vùng hồ thủy điện
Đồng Nai 3, không có trường hợp nào vay
vốn từ các ngân hàng. Khảo sát cho thấy 32
hộ (gần 66,7%) xác nhận có nhu cầu vay vốn
nhưng không vay được do không có hộ khẩu
và nơi cư trú ổn định, 1 hộ (2,1%) khẳng định
không dám vay, chỉ có 7 hộ (14,6%) không có
nhu cầu vay vốn. Kết quả ngày một lần nữa
xác nhận nguồn lực tài chính của cộng đồng
khá hạn chế.
2.4. Nguồn lực vật lý
Khảo sát cho thấy cộng đồng cư gần như
không có nguồn lực vật lý. Do không có hệ
thống cung cấp nước nên 1 hộ (2,1% tổng số
hộ) sử dụng nước mưa và 5 hộ (10,5%) mua
nước bình để uống; ngoài 1 hộ (2,1%) sử dụng
nước suối, tất cả các hộ còn lại (85,4%) sử
dụng nước hồ phục vụ mục đích sinh hoạt. Tùy
theo khu vực đặt bè, khoảng cách đến trường
cấp I & II lên đến 15 km. Để đến được các trạm
hoặc trung tâm y tế, nhiều hộ phải vượt quãng

đường 20 km (đến trạm xá xã Đăk Som và trạm
xá xã Quảng Khê, huyện Đăk G’Long, tỉnh Đăk
Nông hoặc bệnh viện huyện Di Linh, tỉnh Lâm
Đồng). Do thiếu cơ sở hạ tầng và phương tiện,
đối với nhiều hộ (18,8%), việc tiếp cận thông
tin thường chậm và không đầy đủ, chỉ qua
radio và thông tin từ những bè kế cận. Việc
phát triển sinh kế, theo đó, rất khó khăn.
2.5. Nguồn lực xã hội
Kết quả khảo sát chỉ ra rằng mặc dù được
quan tâm nhiều từ chính quyền huyện và xã
nhưng do điều kiện khách quan, cộng đồng
gần như không có bất kỳ tổ chức xã hội nào.
Việc xây dựng và triển khai hoạt động hỗ trợ
do vậy cũng rất hạn chế. Kết quả khảo sát cho
thấy chỉ có 2 hộ (4,2% tổng số hộ) xác nhận
chính quyền địa phương có hỗ trợ phao cứu
sinh, màn và gạo (100 kg) đối với 4 hộ đặc
biệt khó khăn. Bên cạnh đó, chính quyền địa

Số 4/2016
phương còn tổ chức tập bơi cho trẻ em. Tuy
nhiên, có đến 31 hộ (64,6%) cho rằng không
có bất kỳ hỗ trợ nào từ chính quyền hoặc các
cơ quan ban ngành địa phương. Số còn lại (15
hộ - 31,3%) xác nhận không biết rõ. Kết quả
này chỉ ra rằng chính quyền các cấp nên chu
trọng đến việc xây dựng các tổ chức xã hội
cho cộng đồng cư dân vùng lòng hồ. Bên cạnh
việc hỗ trợ để ổn định đời sống cho cộng đồng,

điều này cũng góp phần bảo đảm trật tự-trị an
và quản lý hành chính vùng lòng hồ.
So sánh với kết quả nghiên cứu của Trấn
Tiến Khai và Nguyễn Ngọc Danh năm 2012 về
nguồn lực sinh kế của các cộng đồng dân cư
nông thôn Việt Nam nói chung, những kết quả
trình bày trên đây cho thấy nguồn lực sinh kế
của cộng đồng dân cư vùng hồ Đồng Nai 3
kém hơn hẳn. Điều này chỉ ra rằng cộng đồng
vùng hồ Đồng Nai 3 rất dễ bị tổn thương về
sinh kế và đời sống [2].
3. Hoạt động sinh kế
Do đa số cư dân vùng lòng hồ phải thực
hiện nhiều hoạt động sinh kế nên nguồn thu
nhập của một lao động trong nghiên cứu này
được phân chia thành 3 nhóm bao gồm thu
nhập chính (hoạt động sinh kế thường xuyên
và tạo ra nguồn thu nhập lớn nhất), nguồn thu
nhập phụ thứ nhất (hoạt động sinh kế phụ tạo
nên nguồn thu thứ hai cho lao động nếu có)
và nguồn thu nhập phụ thứ hai (các hoạt động
sinh kế bổ sung tạo nên nguồn thu thứ ba nếu
có). Nhìn chung, sinh kế của cộng đồng cư
dân vùng lòng hồ thủy điện Đồng Nai 3 rất hạn
chế, cơ hội công việc thấp, đặc biệt đối với phụ
nữ (Bảng 1). Do đời sống thủy diện1, gần như
mọi nhân khẩu có khả năng đều tham gia các
hoạt động sinh kế. Tuy nhiên, kết quả khảo sát
cũng cho thấy rất khó đánh giá tỷ lệ số nhân
khẩu tham gia vào một loại hình hoạt động tạo

thu nhập cụ thể. Trong thực tế, hai hoạt động
1
Đời sống “thủy diện” trong bài viết này đề cập đến
tập quán cư trú và sinh hoạt trôi nổi trên mặt nước,
khai thác nguồn lợi thủy sản và/hoặc diện tích mặt
nước để nuôi trồng thủy sản nhằm tạo thu nhập.

NHA TRANG UNIVERSITY • 21


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 4/2016

tạo thu nhập phổ biến tại vùng hồ thủy điện Đồng
Nai 3 là nuôi cá lồng bè (chủ yếu là cá lóc đen)
với sự tham gia của 22/48 hộ (45,8% tổng số
hộ) và khai thác thủy sản với 20/48 hộ (41,7%).
Hai hoạt động sinh kế này có mối liên hệ qua
lại rất chặt chẽ với 86,4% số hộ nuôi cá bè

(19 hộ) có sinh kế phụ là khai thác thủy sản và
35% số hộ khai thác thủy sản (7 hộ) có sinh kế
phụ là nuôi cá bè dựa vào nguồn cá tạp khai
thác được bằng vó đèn. Số hộ có hoạt đông

sinh kế chính khác chiếm tỷ lệ rất thấp.
Bảng 1. Các hoạt động tạo thu nhập và số nhân lực tham gia (% tổng dân số)
ở cộng đồng cư dân vùng hồ Đồng Nai 3
Nguồn thu

thập chính

Nguồn thu thập
phụ thứ nhất

Nguồn thu thập
phụ thứ hai

Nuôi cá lồng bè

31 (19,3)

8 (5)

0

Khai thác cá

28 (17,4)

33 (20,5)

0

Đốt than

6 (3,7)

0


0

Buôn bán tạp hóa

6 (3,7)

0

0

Buôn bán/khai thác lồ ô

3 (1,9)

0

1 (0,6)

Buôn bán cá

1 (0,6)

1 (0,6)

0

Lái máy xúc

1 (0,6)


0

0

Làm rẫy

0

1 (0,6)

0

Cho thuê rẫy

0

1 (0,6)

0

Làm thuê

0

6 (3,7)

Nghề mộc

0


0

1 (0,6)

41 (25,5)

-

-

117 (72,7)

50 (31,1)

2 (1,2)

Hoạt động

Nội trợ/phụ việc nhà*

Tổng

Ghi chú

Làm công theo giờ
hoặc theo ngày
Không có việc làm
chính thức và đã nghỉ
học (39 nữ và 2 nam,
thấp nhất nam 13 tuổi

và cao nhất nữ 58 tuổi)

* Phụ việc nhà trong các hoạt động sinh kế được xem là hoạt động tạo thu nhập

Trong khảo sát này, có 5 hộ (10,4%) không
cung cấp thông tin về tài chính, 26 hộ (54,2%)
xác nhận có tích lũy hàng năm nhưng không
cung cấp thông tin chi tiết và 1 hộ (2,1%)
không xác định được vấn đề tích lũy tài chính.
Với 40 hộ (83,3%) cung cấp thông tin, kết quả
khảo sát khía cạnh tài chính cho thấy mức thu
nhập phổ biến và chi phí thường xuyên hàng
tháng của hộ lần lượt dao động từ 2,5 triệu
cho đến 8 triệu và 1,5 đến 6 triệu với tỷ lệ sai
khác không lớn (Bảng 2). Điều đáng lưu ý là là
phạm vi biến động của những dữ liệu này rất
lớn, theo đó là độ lệch so với giá trị trung bình,

22 • NHA TRANG UNIVERSITY

cho thấy sự phân hóa thu nhập rất cao giữa
các hộ trong cộng đồng. Tuy nhiên, do điều kiện
sống vùng lòng hồ nên chi phí bất thường không
đáng kể, tối đa chỉ từ 1 đến 2 triệu trong một
năm. Có đến 13 hộ (27,1%) xác nhận không có
tích lũy, thậm chí có 2 hộ (4,2%) cho biết thu
nhập không đáp ứng đủ các chi phí. Dựa trên
các kết quả điều tra, có thể ước tính trung bình
thu nhập theo đầu người ở cộng đồng vùng hồ
Đồng Nai 3 khoảng 2 triệu/tháng, thay đổi từ

0,3 đến 8 triệu/người/tháng. Kết quả này chỉ ra
rằng, nhiều hộ của cộng đồng dân cư vùng hồ
Đồng Nai 3 có đời sống rất khó khăn.


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 4/2016

Bảng 2. Tình hình tài chính gia đình của cộng đồng vùng hồ thủy diện Đồng Nai 3
STT

Tham số

Trung bình
(± độ lệch chuẩn)

Khoảng dao động

1

Tổng thu nhập hộ (triệu/tháng) (no=40)

6,0 (± 3,2)

1,5 – 18

2

Chi phí thường xuyên của hộ (triệu/tháng) (no=41)


4,1 (± 1,7)

1,5 – 9

3

Chi phí bất thường của hộ (triệu/năm) (no=48)

Không đáng kể

1–2

4

Tích lũy tài chính của hộ (triệu/năm) (no=26)

19,6 (± 25)

0 – 120

no – số hộ phản hồi khảo sát
Số liệu trung bình được trình bày dưới dạng giá trị trung bình (± độ lệch chuẩn)

Mặc dù không hoàn toàn chính xác do
nhiều hộ đã không cung cấp thông tin, phạm
vi thay đổi khá rộng của thu nhập bình quân/
người/tháng đã phản ảnh thực tế khác biệt về
nguồn lực sinh kế của các hộ trong cộng đồng.
Đối với cộng động dân cư vùng hồ Đồng Nai 3,

79,2% tổng số hộ (38 hộ) đạt mức sống trung
bình so với Thông tư này 22/2014 của Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội về Hướng dẫn
quy trình xác định hộ làm nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức
sống trung bình giai đoạn 2014 - 2015 và 4,2%
tổng số hộ khảo sát (2 hộ chiếm 4,9% số hộ
cung cấp thông tin) thuộc diện nghèo (có thu
nhập trên đầu người dưới 400.000 đồng tháng
theo chuẩn hộ nghèo giai đoạn 2014 - 2015).
Theo khía cạnh tổn thương, các kết quả
khảo sát về chiến lược sinh kế (tỷ lệ hộ không
có nguồn thu ổn định, tỷ lệ hộ không có khả
năng tích lũy, tỷ lệ hộ làm thuê,...), sức khỏe
(khả năng tiếp cận các trung tâm y tế), mạng
lưới xã hội (tỷ lệ số hộ có nhu cầu được hỗ trợ
ở bất kì hình thức nào, tỷ lệ hộ không tiếp cận
nguồn thông tin), nguồn nước (phần trăm số
hộ sử dụng nguồn nước tự nhiên, phần trăm số
hộ không có nguồn cung ứng nước phù hợp)
[13]…. chỉ ra rằng cộng đồng dân cư vùng hồ
Đồng Nai 3 có khả năng chịu tổn thương về
sinh kế rất cao.
4. Nguồn lợi thủy sản và tình hình khai thác
- nuôi trồng thủy sản khu vực hồ Đồng Nai 3
Theo ý kiến của cộng đồng địa phương,
hồ Đồng Nai 3 có nhiều loài thủy sản có giá trị
kinh tế đã được khai thác như cá lăng, lóc, trê,
trắm, mè, chép, thác lác, rô-phi, bống tượng,


ba ba,...Theo thông tin từ những người am hiểu,
nguồn lợi thủy sản hồ Đồng Nai 3 có nguồn
gốc từ sông Đồng Nai. Thêm vào đó, huyện
Đăk G’Long đã cho thả 1 tạ cá giống (bao gồm
các loài cá lăng, lóc, trôi, trắm, mè,…) vào năm
2013 để phát triển nguồn lợi cá kinh tế cho hồ.
Nhờ đó, nhiều hoạt động khai thác đã được tiến
hành với tính chất là một trong hai hoạt động
sinh kế chính của cộng đồng cư dân vùng hồ.
Kết quả khảo sát cho thấy 85,4% tổng số hộ
của cộng đồng (41 hộ) tham gia khai thác thủy
sản. Trong số đó, 48,8% số hộ khai thác (20
hộ) hoạt động với tính chất là sinh kế chính và
51,2% (21 hộ) với tính chất là sinh kế phụ. Tùy
theo điều kiện riêng về vốn đầu tư, nhân lực,
kinh nghiệm hoạt động,... một hộ có thể thực
hiện nhiều phương thức khai thác khác nhau
như vó đèn (kích thước mắt lưới 2a < 1 cm),
thả lờ (bao gồm cả lờ dây với kích thước mắt
lưới 2a < 1 cm), đánh lưới, câu giăng, câu
cắm,... Trong thực tế, hai hình thức khai thác
bắt gặp nhiều nhất là vó đèn và đánh lưới, lần
lượt chiếm tỷ lệ 26/41 và 24/41 số hộ đang
hoạt động khai thác. Kết quả khảo sát cũng
chỉ ra rằng khu vực hồ thủy điện Đồng Nai 3
hiện có trên 176 vó đèn (hộ ít nhất là 4 và cao
nhất là 20 vó với diện tích trung bình 10 m2/vó)
và hơn 645 lờ dây (hộ sử dụng ít nhất là 25 và
cao nhất là 200 lờ với chiều dài từ 8 đến 12 m).
Xem xét về tính ổn định, khảo sát cho thấy sản

lượng khai thác rất biến động theo mỗi trường
hợp, cao nhất có thể lên đến 30 kg/ngày đêm.
Đối với vó đèn khai thác cá sơn (được sử dụng
làm thức ăn nuôi cá lóc), kết quả khảo sát cho
thấy sản lượng trung bình khoảng 4 – 5 kg/
vó/đêm. Theo đó, 25 trường hợp (xấp xỉ 61%
NHA TRANG UNIVERSITY • 23


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
tổng số hộ tham gia khai thác) đánh giá rằng
hoạt động khai thác thủy sản vùng hồ không ổn
định do nguồn lợi đã giảm sút đáng kể, từ 50%
đến 80% tùy theo nhận xét của mỗi hộ. Tuy
nhiên, cũng có 12 hộ (29,3%) cho rằng hoạt
động này mang tính ổn định, 1 ý kiến (2,4%)
nhận định thu nhập từ hoạt động này ổn định
hơn so với khi sống trên đất liền và 1 trường
hợp khác (2,4%) đánh giá tạm ổn định. Các
trường hợp khác không có ý kiến. Theo khía
cạnh tài chính, rất khó đánh giá chính xác hiệu
quả của từng loại hình hoạt động khai thác. Do
điều kiện vùng hồ, thông thường chi phí đầu tư
thuyền bè và chi phí đi lại khá cao nên mỗi hộ
có thể kết hợp nhiều phương thức khai thác
và cả hoạt động sinh kế khác trong đời sống
thường nhật. Nhìn chung, tùy theo điều kiện
riêng của mỗi hộ, hoạt động khai thác thường
được thực hiện quanh năm (lên đến 300 ngày/
năm, thậm chí cao hơn) với thu nhập thay đổi

từ 100.000 - 400.000 đồng/ngày đêm sau khi
trừ chi phí.
Một hoạt động sinh kế quan trọng khác của
các hộ vùng lòng hồ Đồng Nai 3 là nuôi cá bè
để tận dụng mặt nước và nguồn cá tạp (chủ
yếu là cá sơn) khai thác được. Theo kết quả
điều tra, có 34 trường hợp (70,1% tổng số hộ
khảo sát) cung cấp thông tin về nuôi cá bè,
trong đó 22 hộ (45,8% số hộ) xác nhận nuôi
cá bè là sinh kế chính và 7 hộ (14,6%) là sinh
kế phụ. Bên cạnh đó, 2 hộ (4,2% tổng số hộ)
đã tạm ngưng hoạt động và 3 hộ (6,3%) đang
thử nghiệm. Các đối tượng nuôi phổ biến nhất
là cá lóc đen, ngoài ra còn có cá lóc bông và
cá bống tượng. Hiện có 1 hộ (2,1%) đang thử
nghiệm nuôi cá diêu hồng, chép và mè vinh.
Cho đến nay, hoạt động nuôi bè của cộng đồng
địa phương chỉ mang tính tự phát dựa vào kinh
nghiệm. Xem xét về khía cạnh kinh tế của hoạt
động nuôi cá bè, chi phí hoạt động chủ yếu là
tiền cá giống và tiền thuốc phòng trị bệnh. Tuy
nhiên, do điều kiện khai thác thức ăn tự nhiên
gần đây trở nên khó khăn, nhiều hộ phải tăng
thêm chi phí đối với thức ăn công nghiệp. Do
vậy, tương tự trường hợp quy cách lồng bè,

24 • NHA TRANG UNIVERSITY

Số 4/2016
chi phí hoạt động thay đổi rất lớn theo mỗi

trường hợp riêng. Kết quả điều tra cho thấy
chi phí trung bình cho 1 bè cá lóc đen 18 m2
có thể bao gồm 5 triệu tiền cá giống, 2 - 4 triệu
tiền thuốc phòng trừ dịch bệnh và 60 triệu
tiền thức ăn cho vụ nuôi 8 tháng. Theo đó, lợi
nhuận thu được thay đổi từ 40 đến 240 triệu/
vụ nuôi (6 đến 10 tháng) tùy theo mức độ đầu
tư. Vào thời điểm khảo sát, tại vùng hồ, bệnh
đối với cá nuôi đã xuất hiện tương đối phổ biến
với 19/34 trường hợp cung cấp thông tin xác
định thường gặp các loại bệnh ký sinh trùng
gây tuột nhớt, lỏ loét, trắng thân,... Theo đó,
15 hộ (51,8% tổng số hộ nuôi) đánh giá hoạt
động nuôi không ổn định do nguồn thức ăn tự
nhiên khai thác được giảm sút nghiêm trọng
(60 – 80%) và thị trường đầu ra không ổn định.
Bên cạnh đó một số hộ còn nhận định rằng
môi trường nuôi bắt đầu bị ô nhiễm. Chỉ có
một trường hợp đánh giá rằng hoạt động nuôi
trong khu vực mang tính ổn định. Từ những kết
quả khảo sát, tập huấn kỹ thuật và xây dựng
các mô hình nuôi thủy sản cho cộng đông cư
dân địa phương là việc làm cần thiết. Điều này
không chỉ góp phần ổn định đời sống mà còn
giảm áp lực đối với hoạt động khai thác nguồn
lợi thủy sản.
Như đã trình bày trên đây, cho đến nay vẫn
chưa có bất kỳ văn bản nào đề cập đến việc
kết hợp giữa hai tỉnh Lâm Đồng và Đăk Nông
trong vấn đề bảo tồn và phát triển nguồn lợi

thủy sản hồ Đồng Nai 3. Do đó, vấn đề này nên
được đặt ra. Riêng đối với huyện Đăk G’Long,
chỉ có thể tập trung cho vấn đề quản lý các hộ
sống trong vùng lòng hồ thuộc phạm vi quản
lý hành chính. Do vậy, Phòng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn huyện Đăk G’Long không
thể đánh giá vấn đề khai thác nguồn lợi thủy
sản tự nhiên của hồ Đồng Nai 3. Riêng về nuôi
trồng thủy sản, hồ Đồng Nai 3 được đánh giá
có tiềm năng phát triển nuôi lồng bè, thậm chí
đối với các đối tượng cá nước lạnh. Tuy hiện
tại chưa có mô hình nuôi nào được triển khai
nhưng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn huyện đang lập kế hoạch kết hợp với


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 4/2016

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh
Đăk Nông thí điểm các mô hình nhằm phát triển
sinh kế cho cộng đồng vùng hồ Đồng Nai 3.
Các vấn đề được trình bày trên đây cho
thấy tình hình khai thác thủy sản tại hồ Đồng
Nai 3 tương tự tình hình khai thác tại một số
hồ chứa không nuôi cá và không được quản lý
thuộc tỉnh Bình Phước trong những năm trước
đây với nhiều loại ngư cụ thô sơ bao gồm cả
các ngư cụ mang tính hủy diệt nguồn lợi [1].

Đối với hồ Đồng Nai 3, các ngư cụ khai thác
mang tính hủy diệt nguồn lợi là vó đèn và lờ
dây (kích thước mắt lưới 2a thấp hơn nhiều
so với quy định là 1,8 - 2 cm tùy theo loại ngư
cụ). Bên cạnh đó, thời gian khai thác gần như
quanh năm càng thúc đẩy sự suy giảm nguồn
lợi. Khảo sát thường xuyên bắt gặp cá con và
cá mang trứng trong sản phẩm khai thác đã lý
giải phần nào hiện trạng nêu trên. Kết quả này
cho thấy vấn đề bảo vệ nguồn lợi theo Công
văn số 291/SNN-TS của Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn tỉnh Đăk Nông tại vùng hồ
không được thực hiện triệt để. Khảo sát chỉ ra
rằng người tham gia khai thác không nắm rõ về
các ngư cụ, thời gian khai thác và kích thước tối
thiểu đối với các đối tượng được cho phép đánh
bắt theo phụ lục kèm theo Công văn nêu trên.
Để ngăn chặn tình trạng suy thoái nguồn lợi, có
thể kết hợp việc thả giống bổ sung hàng năm
với bảo vệ và khai thác hợp lý các loài cá có khả
năng tự sinh sản trong môi trường hồ chứa [4].
Theo đó, chính quyền địa phương và các cơ
quan chức năng cần chú ý đến công tác quản
lý, tăng cường tuyên truyền kết hợp với việc
thả giống hàng năm nhằm bảo tồn và phát triển
nguồn lợi thủy sản hồ thủy điện Đồng Nai 3.

86,1% dân số dưới 45 tuổi và tỷ lệ nam cao

IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


quản lý, phát triển nguồn lợi thủy sản hồ chứa

1. Kết luận
- Cộng đồng dân cư vùng hồ Đồng Nai 3
là cộng đồng dân cư “thủy diện”, được
hình thành gần đây với cấu dân số trẻ với

hơn nữ.
- Cộng đồng dân cư vùng hồ có nguồn lực
hạn chế và sinh kế kém đa dạng với 2 hoạt động
chính là khai thác và nuôi trồng thủy sản lần
lượt chiếm tỷ lệ 48,8% và 45,8% tổng số hộ.
- Cộng đồng nghiên cứu có khả năng chịu
tổn thương về mặt sinh kế cao.
- Hoạt động nuôi cá lồng tại vùng hồ chỉ
mang tính tự phát dựa trên kinh nghiệm của
mỗi hộ.
- Nguồn lợi thủy sản đang giảm sút đáng
kế do thiếu cơ chế quản lý chặt chẽ. Hoạt động
khai thác bằng các công cụ bị cấm và khai thác
vào mùa vụ sinh sản thường xuyên xảy ra ở
hồ Đồng Nai 3.
2. Kiến nghị
- Thiết lập cơ chế quản lý dựa vào cộng
đồng và tuyên truyền cho người dân địa
phương về việc bảo vệ môi trường và khai thác
hợp lý nguồn lợi thủy sản kết hợp thả giống bổ
sung hàng năm để ngăn chặn suy giảm nguồn
lợi thủy sản vùng hồ.

- Đặt vấn đề ký kết văn bản hợp tác giữa
hai tỉnh Lâm Đồng và Đăk Nông về bảo tồn và
phát triển nguồn lợi thủy sản hồ Đồng Nai 3.
- Tập huấn và phát triển các mô hình nuôi
thủy sản để tận dụng mặt nước và giảm áp lực
đối với hoạt động khai thác nguồn lợi.
- Tăng cường quản lý hành chính, lập kế
hoạch phát triển dài hạn chú trọng đến vấn đề
cải thiện nguồn lực xã hội cho cộng đồng dân
cư vùng hồ Đồng Nai 3 nhằm ổn định sinh kế.
LỜI CẢM ƠN
Các tác giả xin chân thành cảm ơn đề tài
“Nghiên cứu đánh giá và đề xuất các giải pháp
tỉnh Đắk Nông” đã cung cấp tài chính để tiến
hành khảo sát. Xin cảm ơn Kỹ sư Nguyễn Đình
Trung và Kỹ sư Võ Văn Quí đã hỗ trợ thực hiện
điều tra.
NHA TRANG UNIVERSITY • 25


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 4/2016

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1.

Lê Ngọc Châu, Nguyễn Phú Hòa, Lê Thanh Hùng, Vũ Cẩm Lương, 2011. Hiện trạng khai thác cá ở một số hồ
chứa nhỏ thuộc tỉnh Đồng Nai và Bình Phước. Trường Đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh (uaf.

edu.vn/data/file/40; truy cập ngày 27/04/2013).

2.

Trần Tiến Khai và Nguyễn Ngọc Danh, 2012. Quan hệ giữa sinh kế và tình trạng nghèo ở nông thôn Việt Nam.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường (Mã số: CS-2012-02). Khoa Kinh tế Phát triển - Trường Đại học Kinh tế
Tp. Hồ Chí Minh.

3.

Mạng lưới các trung tâm nuôi trồng thủy sản châu Á (NACA), 2006. Cẩm nang phương pháp đánh giá nông
thôn và phân tích sinh kế bền vững (bản dịch của Dự án Quản lý tổng hợp các hoạt động đầm phá - IMOLA),
FAO - Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên – Huế.

4.

Phan Đình Phúc, John Sollows, Nguyễn Quốc Ân, Đỗ Tịnh Lợi, Nguyễn Ngọc Vĩnh, Trương Hà Phương, Võ
Thế Dũng, Nguyễn Quốc Nghị, Nguyễn Lương Nho, Phan Thương Huy, Thái Ngọc Chiến, 2004. Hiện trạng
nghề cá hồ Eakao tỉnh Daklak. Tuyển tập các công trình nghiên cứu công nghệ (1984 - 2004). Bộ Thủy sản Trung tâm nghiên cứu thủy sản III. NXB Nông nghiệp Tp. Hồ Chí Minh.

5.

Phan Đinh Phúc, Lý Ngọc Tuyên, Lê Văn Diệu, và Dương Tuấn Phương, 2009. Đánh giá mô hình đồng quản
lý nghề cá hồ chứa Easoup và hồ Lăk - Daklak. Hội nghị đồng quản lý nghề cá quy mô nhỏ tại Việt Nam - Hội
nghề cá tỉnh Khánh Hòa.

6.

Nghị định số 112/2008/NĐ – CP về quản lý, bảo vệ, khai thác tổng hợp tài nguyên và môi trường các hồ chứa
thuỷ điện, thuỷ lợi.


7.

Niên giám thống kê năm 2013 (05-2014). Chi cục thống kê huyện Đăk G’Long.

8.

Quyết định số 9/2011/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ: Về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp
dụng cho giai đoạn 2011 - 2015

9.

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đăk Nông, 2013. Phụ lục 2, 3, 4 và 5 (Công văn số 291/SNN-TS),
27/03/2013.

10. Thông tư số 22/2014 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về Hướng dẫn quy trình xác định hộ làm nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung bình giai đoạn 2014 – 2015.
Tiếng Anh
11. De Silva, S.S. and Amarasinghe, U.S. (eds.). Status of reservoir fi sheries in five Asian countries. NACA
Monograph No. 2. Network of Aquaculture Centres in Asia-Pacific, Bangkok, Thailand, 2009.
12. Ho Manh Tuan, Harvey Demain and Amararatne Yakupitiyage. Strategies to improveove livelihood of the rural
poor: A case study in two small reservoirs in Binh Phuoc province, Viet Nam. Aquaculture sia Asia Magazine
Vol. XIII, No. 1 January-March 2008.
13. Micah B. Hahn, Anne M. Riederer, Stanley O. Foster. The Livelihood Vulnerability Index: A pragmatic
approach to assessing risks from climate variability and change-A case study in Mozambique. Global Environ.
Change, 2009. (in press - doi:10.1016/j.gloenvcha.2008.11.002)
14. Sommano Phounsavath. Community-based fisheries management as an approach to participatory management
of reservoir fisheries – A case study of two fishing villages at the Nam Ngum reservoir, Lao P.D.R.
A thesis submitted in partial fulfillment of the requirements for the degree of Master of Science. Asian Institute of
Technology, 1998.


26 • NHA TRANG UNIVERSITY


Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 4/2016

THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC

ẢNH HƯỞNG CỦA CHITOSAN, OLIGOCHITOSAN VÀ OLIGOCHITIN
ĐẾN CHẤT LƯỢNG TÔM BẠC (Metapenaeus brevicornis)
THEO THỜI GIAN BẢO QUẢN
EFFECT OF CHITOSAN, CHITOSAN OLIGOSACCHARIDE AND CHITIN
OLIGOSACCHARIDE ON THE QUALITY OF SHRIMP (Metapenaeus brevicornis)
ACCORDING TO THE STORAGE TIME
Vũ Ngọc Bội1, Vũ Thị Hoan2
Ngày nhận bài: 05/10/2016; Ngày phản biện thông qua: 13/10/2016; Ngày duyệt đăng: 15/12/2016

TÓM TẮT
Tác động của chitosan, oligochitosan và oligochitin tới sự biến đổi chất lượng cảm quan, tổng bazơ
nitơ bay hơi (TVB-N), hàm lượng Trimetylamin (TMA-N), NH3, sự oxy hóa lipid và vi sinh vật ở tôm bạc
(Metapenaeus brevicornis H. Milne Edwards, 1837) theo thời gian bảo quản đã được nghiên cứu. Kết quả
nghiên cứu cho thấy tôm bạc xử lý bằng chitosan oligosaccharid 1,25%, sau 5 ngày bảo quản ở nhiệt độ 80C
vẫn có chất lượng cảm quan, hàm lượng TVB-N, TMA-N, NH3, chỉ số peroxyd, chỉ tiêu vi sinh vật đạt tiêu
chuẩn. Chitosan, chitosan oligosaccharid và chitin oligosaccharid đều có tác động lên chất lượng tôm bạc
bảo quản. Tuy nhiên, chitosan oligosaccharid có tác động tới chất lượng của tôm bạc tốt hơn chitosan, chitin
oligosaccharid. Kết quả cũng cho thấy, chitosan oligosaccharid có khả năng kháng khuẩn và chống oxy hóa
tốt hơn so với chitosan và chitin oligosaccharid..
Từ khóa: chitin, chitosan, chitosan oligosaccharid, Metapenaeus brevicornis, tôm bạc

ABSTRACT
The effect of chitosan, oligochitosan and oligochitin on the change of sensory quality, the content of
TVB-N, TMA-N, NH3, lipid peroxidation and bacteria of the raw shrimp (Metapenaeus brevicornis H. Milne
Edwards, 1837) according to the storage time was studied. The results showed that raw yellow shrimp treated
with oligochitosan 1,25% had the quality of sensory, the content of TVB-N, TMA-N, NH3, the ratio of lipid
peroxidation, and the amuont of bacteria which adapted to the VN codex standards after 5 preservation days
at the temperature of 80C. All object functions were evaluated to be effected by chitosan, oligochitosan and
oligochitin. However, the effect of oligochitosan on all target functions was stronger than that of chitosan and
oligochitin on all target functions. The results also showed that the antibacterial and antioxidant activity of
oligochitosan was better than that of chitosan and oligochitin.
Keywords: chitin, chitosan, oligochitosan, oligochitin, Metapenaeus brevicornis, shrimp

1
2

Khoa Công nghệ Thực phẩm – Trường Đại học Nha Trang
Viện Công nghệ Sinh học Thực phẩm - Trường Đại học Công nghiệp Tp. Hồ Chí Minh

NHA TRANG UNIVERSITY • 27


×