Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Đề cương ôn tập môn đảng lãnh đạo đời sống xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.77 KB, 71 trang )

ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÁC LĨNH VỰC ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Câu 1: Phân tích nội dung và phương thức lãnh đạo kinh tế của Đảng trong thời kỳ hiện nay.
TCCS - Có thể nói, gần 30 năm đổi mới vừa qua, thành tựu lý luận kinh tế quan trọng nhất của
Đảng là lý luận và tổ chức thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Xét trên phương diện lãnh đạo kinh tế, có thể nói, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
được thể hiện:
Thứ nhất, Đảng đề ra đường lối, chủ trương phát triển kinh tế đúng đắn và lãnh đạo thực
hiện thành công đường lối, chủ trương đó.
Để lãnh đạo cách mạng nói chung, lãnh đạo kinh tế nói riêng, trước hết Đảng trau dồi và không
ngừng phát triển tư duy lý luận khoa học, đủ sức thuyết phục không chỉ trong nội bộ Đảng mà còn
với quần chúng nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Tư duy lý luận khoa học là tiền đề,
cơ sở để xây dựng đường lối, chính sách đúng. Đường lối và chiến lược kinh tế của Đảng được
hình thành trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn
cách mạng Việt Nam, tiếp thu tinh hoa trí tuệ và kinh nghiệm quý báu của các nước trên thế giới,
nhất là những nước phát triển. Tại Đại hội VI, Đảng ta xác định: “Đảng phải đổi mới về nhiều mặt:
đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế”(1). Do đó, với vai trò lãnh đạo kinh tế của đảng cầm
quyền, sứ mệnh chính trị đầu tiên của Đảng phải là xây dựng tư duy lý luận khoa học về chủ nghĩa
xã hội, mà trung tâm là phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới.
Tuy vậy, qua gần 30 năm đổi mới, Đảng tiếp tục làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận trọng yếu về thể
chế chính trị trước yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường, thời kỳ hội nhập quốc tế. Đảng
không ngừng đổi mới tư duy, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
phát huy mọi nguồn lực, đặc biệt là năng lực sáng tạo của tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân
Việt Nam sinh sống trong và ngoài nước vì mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Đảng xác định giải
pháp đúng và lộ trình phù hợp nhằm đoạn tuyệt dứt khoát với nền kinh tế bao cấp trên từng lĩnh
vực của cuộc sống và trong từng chính sách. Đã đến lúc không thể tiếp tục chấp nhận sự bao cấp
của Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế. Và, đến lúc phải có biện pháp đủ mạnh để giải quyết một cách
căn bản cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp, mà trước hết là doanh nghiệp nhà nước...
Do yêu cầu đổi mới, phát triển tư duy lý luận về kinh tế, Đảng không ngừng nâng cao trình độ mọi
mặt, đáp ứng với yêu cầu, đòi hỏi của tình hình mới. Để có chủ trương, quyết sách lãnh đạo đúng,
xây dựng đường lối chính sách khách quan, khoa học, Đảng hoàn thiện hệ thống các cơ quan tư
vấn khoa học, với đội ngũ chuyên gia giỏi, am hiểu sâu sắc các lĩnh vực, giúp các cơ quan lãnh đạo


của Đảng và Nhà nước ban hành quyết sách kinh tế đúng đắn. Đồng thời, xây dựng hệ thống thông
tin kinh tế - xã hội trong và ngoài nước phục vụ các cấp lãnh đạo, nhất là cấp vĩ mô, bảo đảm kịp
thời, chính xác, toàn diện, thiết thực và an toàn.
Đường lối kinh tế là sự cụ thể hóa đường lối chung của Đảng, xác định mục tiêu chiến lược, mục
tiêu cụ thể, nhiệm vụ và chỉ tiêu phát triển kinh tế, định hướng các chính sách kinh tế, trên cơ sở
đó, các cơ quan nhà nước xây dựng luật pháp, chính sách, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế
của đất nước. Quyết định của Đảng về đường lối kinh tế thể hiện bằng văn bản, như Cương lĩnh,
Chiến lược, nghị quyết, chỉ thị, kết luận... của Trung ương Đảng (Đại hội đại biểu toàn quốc, Ban
1


Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư). Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thường
được xác định trong một thời kỳ dài và từng giai đoạn 5 năm, 10 năm.
Để quyết định đường lối, chính sách và những chủ trương lớn về kinh tế một cách đúng đắn, Đảng
tiếp tục phát huy dân chủ trong toàn xã hội, xuất phát từ lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân,
phát huy trí tuệ của toàn dân trong việc xây dựng chủ trương, chính sách của Đảng, tránh chủ quan,
duy ý chí, bảo thủ, độc đoán, thậm chí là lợi ích nhóm ngay trong từng quyết sách.
Khi có đường lối, chủ trương đúng, vấn đề có tính quyết định là tổ chức thực hiện, đưa nghị quyết
của Đảng vào cuộc sống. Trong điều kiện cầm quyền, Đảng dồn sức để lãnh đạo bộ máy nhà nước,
thông qua Nhà nước mà thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng.
Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm làm tốt chức năng quản lý
và tổ chức xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, dưới sự
lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng cầm quyền.
Lãnh đạo kinh tế thông qua bộ máy nhà nước là phương thức lãnh đạo chủ yếu, hiệu quả nhất trong
điều kiện Đảng cầm quyền. Các cơ quan nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách,
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, các quyết định... và kế
hoạch của Nhà nước - căn cứ pháp lý quan trọng nhất để quản lý, điều hành toàn bộ nền kinh tế và
để toàn dân thực hiện. Đảng lãnh đạo Nhà nước, nhưng không quyết định những vấn đề cụ thể

thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước. Tuy Đảng không trực tiếp điều hành các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, không quyết định các vấn đề kinh tế thuộc thẩm quyền của bộ máy nhà nước
nhưng Đảng phải lãnh đạo các hoạt động đó theo đúng quan điểm, tư tưởng của Đảng.
Đồng thời, Đảng lãnh đạo xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước, xây dựng bộ máy nhà nước trong
sạch, vững mạnh; phối hợp hoạt động của các cơ quan nhà nước, bảo đảm sự vận hành thông suốt
của bộ máy đó.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện, tăng cường kiểm tra,
giám sát, nhằm thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng về kinh tế.
Công tác tuyên truyền của Đảng có tầm quan trọng to lớn trong lãnh đạo xây dựng, phát triển nền
kinh tế quốc gia. Một mặt, Đảng lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng đường lối, chủ trương của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội trực tiếp hoặc gián tiếp qua các
tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, làm cho đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước thực sự
xuất phát từ nhân dân, phục vụ lợi ích chính đáng của nhân dân. Mặt khác, thông qua công tác
tuyên truyền, Đảng vận động, thuyết phục để nhân dân hiểu rõ lợi ích của việc thực hiện chủ
trương của Đảng và tích cực hưởng ứng thực hiện thắng lợi chủ trương đó.
Đảng lãnh đạo các tổ chức quần chúng nhân dân, các cơ quan báo chí, văn học nghệ thuật hướng
vào việc biểu dương, khích lệ những người tốt, việc tốt trong các hoạt động kinh tế, những doanh
nhân giỏi, có nhiều đóng góp cho xã hội. Đồng thời phát hiện, phê phán những tiêu cực phát sinh,
nhất là tệ tham nhũng, lãng phí, những hành vi phi nhân tính trong sản xuất, kinh doanh, những
lệch lạc trong hội nhập kinh tế quốc tế.
2


Công tác tư tưởng còn có nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu và phát triển lý luận, góp phần
xây dựng và hoàn thiện đường lối, chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế trước mắt cũng như lâu
dài. Trong quá trình ấy, chính nhân dân trong các thành phần kinh tế là người phát hiện những bất
cập của cơ chế, chính sách, đề xuất với Đảng để nghiên cứu, bổ sung và ngày càng hoàn thiện.
Đảng coi trọng công tác kiểm tra, giám sát. Đây là một trong những phương thức lãnh đạo cơ bản
của Đảng. Đảng ta chỉ rõ: lãnh đạo phải kiểm tra, giám sát; lãnh đạo mà không kiểm tra, giám sát
coi như không lãnh đạo. Đảng trực tiếp tiến hành công tác kiểm tra, giám sát đối với các tổ chức

đảng và đảng viên hoạt động trong các thành phần kinh tế chấp hành quan điểm, đường lối của
Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thông qua công tác này, Đảng nắm vững tình hình mọi mặt của các
tổ chức đảng, nắm chắc đội ngũ cán bộ, đảng viên chấp hành quan điểm, đường lối của Đảng, để
có giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp.
Để công tác kiểm tra, giám sát thực sự đạt hiệu quả thiết thực, các cấp chính quyền, các cơ quan,
ban, ngành và từng đơn vị cần thể chế hóa các chủ trương phòng, chống tham nhũng của Đảng,
bằng các quy định cụ thể, như quy định về kê khai tài sản của cán bộ có chức vụ; cải cách thủ tục
hành chính; thẩm quyền và trách nhiệm công vụ của từng chức danh cán bộ, công chức; chế độ,
chính sách không có đặc quyền, đặc lợi; quy định về thu, chi tài chính của các cơ quan, tổ chức...
công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đó là những việc làm thực tâm nhất nhằm phát
huy dân chủ, công khai, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các tổ chức đảng, các tổ chức quần chúng
và đông đảo nhân dân phát hiện, báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền để xác minh, xử lý những
hành vi tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Đảng thường xuyên tổng kết thực tiễn, xây dựng và ngày càng hoàn thiện hệ thống lý luận vững
chắc trên lĩnh vực kinh tế. Đảng chú trọng lãnh đạo toàn diện, nhưng những chủ trương lớn, quan
trọng cần phải qua thí điểm, tổng kết thành những bài học kinh nghiệm có tính lý luận để chỉ đạo
trên diện rộng.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp kinh tế mới mẻ. Bởi thế,
việc tổng kết thực tiễn, hoàn thiện lý luận về lãnh đạo kinh tế là một đòi hỏi tất yếu và bức thiết
trong công tác lý luận của Đảng.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo kinh tế thông qua các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các
cơ quan nhà nước và các tổ chức kinh tế.
Để lãnh đạo kinh tế, Đảng tiến hành xây dựng các tổ chức đảng và phát triển đội ngũ đảng viên
hoạt động trong các cơ quan nhà nước, các đơn vị sản xuất và các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế. Tùy theo tính chất của các thành phần kinh tế, Đảng quy định chức năng, nhiệm vụ
của các tổ chức cơ sở đảng hoạt động trong thành phần kinh tế đó. Các tổ chức đảng và đảng viên
trực tiếp quán triệt và triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, tiến hành công tác
chính trị, tư tưởng đối với quần chúng trong doanh nghiệp và cơ quan. Bằng trí tuệ, sức mạnh đoàn
kết của tổ chức đảng, sự gương mẫu của đội ngũ đảng viên, các tổ chức đảng lãnh đạo các tổ chức
quần chúng chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước,

chống tham nhũng, lãng phí và vi phạm các quy định của Đảng.
Chống tham nhũng, trước hết là tham nhũng trên lĩnh vực kinh tế là trách nhiệm của toàn Đảng,
Nhà nước và nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Khó khăn lớn nhất của nhiệm vụ quan trọng
3


này là việc đấu tranh chống lại những đảng viên giữ trọng trách lãnh đạo, quản lý chủ chốt trên các
lĩnh vực, các ngành, các cấp... sa vào những tệ nạn đó.
Thứ tư, Đảng lãnh đạo bằng công tác cán bộ trên lĩnh vực lãnh đạo, quản lý nền kinh tế.
Đảng lãnh đạo bằng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước và đào tạo
nguồn nhân lực có chất lượng cho cả nền kinh tế, đặc biệt là phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
lãnh đạo chủ chốt trên lĩnh vực kinh tế. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có năng lực và
phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị, tăng cường trách
nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Điều đó cũng có nghĩa là Đảng phải có biện pháp xử lý, đề
xuất bãi nhiệm những đảng viên là cán bộ giữ trọng trách của cơ quan nhà nước nếu không thực
hiện đúng đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham nhũng, lãng phí.
Các tổ chức đảng giới thiệu cán bộ để đề bạt giữ chức vụ quản lý của các đơn vị kinh tế thuộc
thành phần kinh tế nhà nước và các đơn vị kinh tế có cổ phần của Nhà nước theo thẩm quyền được
phân cấp quản lý.
Bên cạnh việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói trên, Đảng có trách nhiệm xây dựng
đội ngũ chuyên gia, tham mưu, giúp việc cho các cơ quan lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước
trong các hoạt động kinh tế; đồng thời có chủ trương, kế hoạch phát triển giáo dục, đào tạo chuẩn
bị nguồn nhân lực cho tất cả các thành phần kinh tế.
Cơ chế tập thể lãnh đạo trong mỗi đảng bộ (đại hội, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp
ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng) và cá nhân phụ trách (đảng viên, cấp ủy viên, bí thư, phó bí thư
cấp ủy, bí thư đảng đoàn, ban cán sự đảng) cần tiếp tục cụ thể hoá cho từng cấp ủy viên, từng đảng
viên hoạt động trong các tổ chức chính quyền, các tổ chức kinh tế của Nhà nước. Việc xác định rõ
quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp ủy viên, đảng viên, nhất là các chức danh lãnh đạo, quản lý
kinh tế thì mới có căn cứ để cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia nhận xét, đánh giá cán bộ lãnh
đạo, quản lý trên lĩnh vực kinh tế một cách thường xuyên, có hiệu quả.

Tất cả các nội dung và phương thức mà Đảng sử dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình
trên lĩnh vực kinh tế nêu trên dù có vị trí, vai trò quan trọng khác nhau, nhưng là một chỉnh thể
thống nhất. Mỗi tổ chức đảng cần thực sự sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện,
của mỗi địa phương, đơn vị. Và, qua thực tiễn lãnh đạo kinh tế, vấn đề trung tâm này đòi hỏi cần
được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trong điều kiện mới ./.

4


Câu 2: Phân tích nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Văn hóa không phải là toàn bộ đời sống con người - xã hội, nhưng là phần cốt tủy, là tinh hoa
được chưng cất, kết tụ nên bản chất, bản sắc, linh hồn của dân tộc, của thời đại; nó được thăng
hoa từ hơi thở cuộc sống, từ năng lực và trình độ của mỗi cá nhân, cộng đồng; và đến lượt mình,
nó lại có mặt trong mọi hoạt động từ suy tư đến hành động, từ hoạt động cá nhân đến hoạt động
xã hội, từ hoạt động vật chất đến hoạt động tinh thần. Trong thành tựu chung của công cuộc đổi
mới có sự đóng góp rất lớn của sự nghiệp văn hóa. Đảng ta luôn quan tâm và đánh giá cao vai
trò, vị trí của văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa, trong đó nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong
thời kỳ mới là một nhiệm vụ quan trọng.
1. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa:
Đảng lãnh đạo VH một cách toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và chuyên môn.
Về chính trị: Đảng nắm quyền lãnh đạo chính trị, vạch ra dường lối, chủ trương xây dựng nền VH
phục vụ cho dân tộc, cho nhân dân phù hợp với mục đích chính trị của Đảng và của giai cấp công
nhân.
Về tư tưởng: Đảng xác lập thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, lý tưởng thẩm mỹ,
lý tưởng nghệ thuật cao đẹp.
Về tổ chức: Đảng giới thiệu, bố trí các đảng viên ưu tú nắm giữ những vị trí lãnh đạo, quản lý chủ
chốt trên lĩnh vực VH; thu hút những cán bộ hoạt động trên lĩnh vực VH nói chung, lực lượng văn
nghệ sĩ nói riêng vào các hội chính trị-xã hội-nghề nghiệp đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Về chuyên môn: Đảng đưa ra các chủ trương, biện pháp nâng cao trình độ VH, tư tương chính trị
và chuvên môn, nghiệp vụ, phương pháp công tác cho những cán bộ hoạt động trên lĩnh vực VH.
2. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với văn hoá:
Đảng lãnh đạo VH theo các phương thức cơ bản dưới đây:
Thông qua định hướng phát triển văn hóa thể hiện ở đường lối, quan điểm, giải pháp…trong các
chỉ thị, nghị quyết và văn kiện của Đảng.
Đường lối và các quan điểm đó là kết quả tổng hợp của sự nhận thức những đòi hỏi, mục tiêu của
cách mạng, của sự phát hiện, vận dụng những quy luật khách quan của đời sống xã hội, của lĩnh
vực VH, văn nghệ và của sự tổng kết thực tiễn bản chất, đặc trưng của VH, văn nghệ dân tộc trong
tiến trình lịch sử. Để xây dựng đường lối, quan điếm chỉ đạo nền VH, văn nghệ nước ta qua từng
thời kì cách mạng, Đảng ta bao giờ cũng xuất phát từ ba cơ sở sau đây: Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về VH, văn nghệ; thực tiễn cách mạng Việt Nam và truyền thống, đặc điểm
của VH dân tộc. Vì thế, trong đường lối đó bao giờ cũng là sự thống nhất của tính nguyên tắc
chung, tính sáng tạo và tính đặc thù, hay nói cách khác, nó là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và
phát triển đường lối, quan điểm mác xít về VH, văn nghệ vào thực tiễn nước nhà.
5


Thông qua thể chế, thiết chế của bộ máy nhà nước.
Đảng lãnh đạo bằng việc xác định những nhiệm vụ lớn và các giải pháp cơ bản mang tính chỉ đạo
giúp cho những người quản lý VH triển khai chương trình, kế hoạch, thể chế hóa đường lối, quan
điểm bằng pháp luật, chính sách của Nhà nước và bố trí, phân công cán bộ, đảng viên nắm giữ bộ
máy nhà nước quản lý VH các cấp.
Thông qua hệ thống các tổ chức của Đảng, thông qua các cơ quan tham mưu của Đảng ở các cấp.
Thông qua các tổ chức của Đảng trong các hội chính trị-xã hội-nghề nghiệp, các tổ chức chuyên
môn, các cơ quan đoàn thể chính trị-xã hội để tác động vào đội ngũ văn nghệ sĩ, tác động vào đời
sống VH. Đảng lãnh đạo thông qua việc phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng và thông qua
toàn bộ đảng viên của Đảng công tác, hoạt động trong hệ thống chính trị và các tổ chức khác. Cơ
quan tham mưu của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng-VH luôn luôn giữ vai trò nòng cốt, có nhiệm vụ
liên kết, phối hợp chặt chẽ các lực lượng tham mưu giúp Đảng chỉ đạo, kiểm tra hoạt động VH,

văn nghệ.
Thông qua sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
Nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng hoạt động trên lĩnh vực VH, văn nghệ trở nên cực kỳ
quan trọng. Thực tiễn đang đòi hỏi nâng cao trình độ, tiêu chuẩn, phẩm chất toàn diện của đội ngũ
này, trước hết là bản lĩnh chính trị, sự hiểu biết thực sự về VH, văn nghệ, sự gắn bó mật thiết với
đời sống, đạo đức trong sáng, sự am hiểu, đồng cảm với người hoạt động VH, biết coi trọng tài
năng, nhân cách, biết cách làm việc thích hợp, linh hoạt, chân tình với văn nghệ sĩ. Trong NQ Hội
nghị TW5 (khóa VIII) của Đảng có nhấn mạnh và chỉ ra một nội dung mới của sự lãnh đạo của
Đảng, đó là: “Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng về VH, phải xây dựng VH từ trong Đảng, trong bộ
máy nhà nước như Bác Hồ đã dạy “Đảng ta là đạo đức là văn minh”, từ đó NQ cho rằng: “Gương
mẫu là một nội dung, một phương thức trọng yếu trong công việc lãnh đạo của Đảng”.
Thông qua các hoạt động lý luận, phê bình văn hóa.
Động viên các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu và văn nghệ sĩ tham gia trao đổi, thảo luận tìm tòi
cái hay, góp ý sửa chữa cái chưa hay hoặc yếu kém trong các sản phẩm VH nói chung, tác phẩm
văn học, nghệ thuật nói riêng. Từ đó rút kinh nghiệm, động viên, khuyến khích văn nghệ sĩ sáng
tạo ra những sản phẩm tốt hơn cho XH.
Thông qua khuyến khích sáng tạo các sản phẩm văn hóa có giá trị.
Tổ chức những hoạt động sáng tạo có định hướng (các chương trình, các cuộc thi, các giải thưởng)
tổ chức cho văn nghệ sĩ đi thực tế thâm nhập cuộc sống; mở các trại sáng tác, tổ chức trao đổi thảo
luận về các vấn đề VH, XH các tác phẩm văn học nghệ thuật...
Thông qua nắm bắt và định hướng dư luận quần chúng về văn hóa.
Đánh giá của nhân dân về các tác phẩm, các hiện tượng VH thường công bằng, chính xác và thực
tế. Vì vậy cần giúp cho nhân dân có điều kiện bộc lộ ý kiến của họ, từ đó Đảng và các cơ quan
tham mưu của Đảng trong lĩnh vực VH nắm bắt được dư luận XH để kịp thời có chủ trương, biện
pháp điều chỉnh hoạt động lãnh đạo của mình cho phù hợp.
Thông qua công tác kiểm tra, giám sát hoạt động văn hóa.
6


Chú trọng thường xuyên và nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra, thực hiện đường lối, quan

điểm của Đảng trong thực tiễn xây dựng và phát triển VH cũng là một cách thức quan trọng của sự
lãnh đạo của Đảng. Kiểm tra để nắm chắc thực chất của tình hình, đánh giá chính xác mức độ đi
vào đời sống của các đường lối, quan điểm và đặc biệt để chỉ đạo kịp thời, sắc bén, giải quyết
những vấn đề đặt ra trong quá trình thực tiễn, đồng thời khi cần thiết, tiến hành uốn nắn, đấu tranh
với những lệch lạc, sai lầm trong quan điểm xây dựng VH. Kiểm tra là một trong những con đường
hiệu quả nhất thực hiện sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực VH, văn nghệ.
Nhìn tổng thể, việc phát triển văn hóa ở nước ta cho đến nay về cơ bản chưa thích ứng với phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần thúc đẩy cải cách thể chế văn hóa để
giải quyết mâu thuẫn và độ vênh giữa kinh tế và văn hóa. Vừa qua, Trung ương đã có nghị quyết
về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”, trong đó có quan điểm chủ động phát huy
mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
trong phát triển giáo dục và đào tạo. Tương tự như vậy, các hoạt động khác trên lĩnh vực văn hóa
cũng cần vận dụng quan điểm ấy, phân định rõ ràng việc gì phải bao cấp, việc gì phải xã hội hóa
các nguồn tài chính, xây dựng thị trường các ấn phẩm văn hóa, có cạnh tranh về chất lượng với
giá cả hợp lý, phát triển ngành công nghiệp văn hóa trên lĩnh vực và sản phẩm phù hợp.

7


Câu 3: Phân tích những yêu cầu khách quan đòi hỏi phải đổi mới và nâng cao trình độ lãnh
đạo của Đảng đối với Văn hóa
Để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan
trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, trước yêu cầu của quá trình hội nhập, thì vấn đề bức thiết
đang được đặt ra hiện nay là đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa.
1- Trong Đề cương Văn hóa Việt Nam (năm 1943), Đảng ta đã xác định phát triển văn hóa Việt
Nam dựa vào nguyên tắc dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa. Ý thức được văn hóa là một
lực lượng giúp dân tộc đoàn kết, tạo sức mạnh để vượt qua mọi thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù,
Đảng ta đã nhấn mạnh đến vai trò dẫn dắt của văn hóa là “soi đường cho quốc dân đi”.
Rõ ràng, trong những giai đoạn lịch sử cụ thể, Đảng ta đã có những chính sách văn hóa phù hợp để

văn hóa thực sự trở thành sức mạnh của dân tộc. Chính nhờ những chỉ đạo và đường lối sáng suốt
đó, cách mạng Việt Nam đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Trong đó, văn hóa đóng một vai trò
quan trọng trong việc tạo ra sức mạnh chung, niềm tin của toàn dân đối với Đảng và tương lai của
dân tộc.
Năm 1998, Nghị quyết hội nghị Trung ương 5, khóa VIII ra đời đã đánh dấu bước tiến quan trọng
trong sự nghiệp phát triển văn hóa nước nhà. Nghị quyết xác định đường lối phát triển văn hóa ở
Việt Nam, đó là xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thực hiện Nghị quyết,
sau 15 năm, hàng loạt các văn bản chỉ đạo của Đảng, văn bản pháp quy của Nhà nước, Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch đã ra đời để hoàn thiện công tác quản lý văn hóa. Các thiết chế văn hóa,
như: nhà hát, rạp chiếu phim, triển lãm, các nhà văn hóa cơ sở được xây dựng mới ở khắp nơi trên
đất nước, từ thành thị đến nông thôn. Cơ chế, chính sách văn hóa ngày càng linh hoạt, nhạy bén,
phù hợp với nhu cầu của thị trường. Văn hóa - nghệ thuật ngày càng đến gần với nhân dân. Hoạt
động văn hóa - nghệ thuật phát triển theo hướng phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân. Và trên
thực tế, văn hóa - nghệ thuật đã có tác động lớn đến đời sống tinh thần, tư tưởng đạo đức, lối sống
của người dân.
Thời gian qua, quá trình triển khai thực hiện đường lối, chính sách văn hóa của Đảng và Nhà nước
đã được thực hiện khá nghiêm túc ở nhiều cấp, các ngành. Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin,
thể dục, thể thao ngày càng mở rộng, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây đựng đời sống văn hóa” từng bước đi vào chiều sâu. Chỉ số
phát triển con người không ngừng được tăng lên, Việt Nam đã hoàn thành phần lớn Mục tiêu phát
triển Thiên niên kỷ. Tính tích cực, chủ động sáng tạo trong nhân dân được phát huy, dân chủ xã hội
được mở rộng. Hệ thống các di sản văn hóa của dân tộc được đầu tư, tôn tạo và phát huy vai trò
trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều di tích văn hóa được cộng đồng quốc tế công nhận là Di sản
văn hóa thế giới. Những giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam
được giữ gìn, kế thừa và phát huy, làm phong phú cho nền văn hóa dân tộc.
Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm chỉ đạo xây dựng và phát triển hệ thống thiết chế văn hóa
cơ sở. Với sự nỗ lực, cố gắng của các địa phương, đến nay hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở đạt
được kết quả to lớn. Đã xuất hiện nhiều điển hình, nhiều bài học kinh nghiệm về tổ chức xây dựng
8



hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở thông qua việc huy động các nguồn vốn xã hội hóa, huy động
công sức, trí tuệ của nhân dân trong đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở.
2- Tuy nhiên, dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, hoạt động văn hóa
cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn. Trước những biến đổi nhanh chóng, đa dạng, phức tạp của
đời sống trong nền kinh tế thị trường và bối cảnh toàn cầu hóa, hoạt động quản lý văn hóa còn bộc
lộ sự bất cập, hạn chế; phương thức lãnh đạo còn chậm được đổi mới; chúng ta chưa lường hết tính
phức tạp và những tác động của mặt trái kinh tế thị trường đối với đời sống văn hóa. Có biểu hiện
suy thoái trong lối sống của một bộ phận không nhỏ đảng viên và nhân dân. Vì thế, ngày 09-62014, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước. Từ nghị quyết
đến việc triển khai trong thực tiễn còn nhiều khó khăn, đòi hỏi cần triển khai các giải pháp thực sự
hiệu quả.
Bên cạnh đó, cùng với việc nâng cao mức sống vật chất và phát triển toàn diện kinh tế - xã hội
nước ta, nhu cầu văn hóa tinh thần của quần chúng không ngừng tăng lên. Chính điều này đã tạo
động lực mới cho phát triển văn hóa, đồng thời đặt ra những yêu cầu mới, cao hơn đối với sự
nghiệp xây dựng văn hóa. Một mặt, quần chúng nhân dân yêu cầu phát triển mạnh mẽ hơn nữa sự
nghiệp văn hóa công ích, như: đẩy mạnh việc xây dựng kết cấu hạ tầng văn hóa công cộng, dịch vụ
văn hóa công cộng, bảo đảm quyền hưởng thụ văn hóa cơ bản của nhân dân, phát triển mạnh mẽ
ngành, nghề văn hóa, làm phồn vinh thị trường văn hóa, cung cấp nhiều sản phẩm văn hóa mới, đa
dạng và phù hợp với thị hiếu của nhân dân. Mặt khác, sự phát triển tự thân văn hóa trong bối cảnh
mới cũng đòi hỏi phải phá bỏ sự trói buộc của thể chế quản lý truyền thống để cho tài nguyên văn
hóa được sử dụng hiệu quả, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của đội ngũ làm công tác văn hóa
được phát huy đầy đủ. Hiện nay, ở một số địa phương, nhất là những nơi kết cấu hạ tầng văn hóa
công cộng thiếu thốn nghiêm trọng, thiết bị cũ kỹ, cơ sở sản xuất văn hóa thiếu sức sống, các sản
phẩm văn hóa nước ngoài ồ ạt tràn vào chiếm lĩnh thị trường, làm cho đời sống văn hóa hỗn loạn,
mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân bị hạn chế, nhiều sản phẩm văn hóa độc hại xuất hiện làm
ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh thần xã hội. Rõ ràng, cần giải phóng mạnh hơn, hiệu quả
hơn nữa sức sản xuất văn hóa. Muốn vậy, nhất thiết phải đổi mới thể chế văn hóa, xây dựng thể chế
mới vận hành theo nguyên tắc hướng tới quần chúng, hướng ra thị trường. Theo đó, những người
làm công tác văn hóa sẽ mang hết tài năng của mình để cống hiến và được trả công xứng đáng,

người dân sẽ được hưởng thụ những sản phẩm văn hóa ưu tú, đa dạng, phù hợp với nhu cầu của cá
nhân và cộng đồng.
Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển văn hóa, còn tồn tại một số bất cập. Trước tiên là sự
không thống nhất về nhận thức và hành động trong các cấp ủy đảng, lãnh đạo các cấp trong việc đề
cao vị trí, vai trò của văn hóa trong phát triển đất nước. Về nhận thức, các nghị quyết của Đảng về
văn hóa chỉ rõ vai trò quan trọng của văn hóa là soi đường cho quốc dân đi, là nền tảng tinh thần
của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hệ điều tiết của xã
hội. Trong các hội nghị bàn về văn hóa, các cấp ủy đảng, lãnh đạo địa phương đều đề cao vai trò
của văn hóa. Nhưng đáng tiếc là những nhận thức này chưa được thể hiện thành hành động trong
thực tiễn. Ở nhiều địa phương, không ít mục tiêu kinh tế trước mắt đã được đặt lên trên các giá trị
văn hóa lâu dài. Thứ hai, các cấp ủy đảng, chính quyền chưa nhận thấy mối liên hệ hữu cơ giữa
phát triển văn hóa và các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội; chưa thấy sự phát triển văn hóa phục
9


vụ sự phát triển bền vững của địa phương và của đất nước; dẫn đến việc phát triển văn hóa chưa
thực sự được kết hợp với các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch, dự án phát triển địa
phương, không có mặt trong các đánh giá hiệu quả tác động đến các dự án mới của các địa
phương. Thứ ba, công tác cán bộ cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng với vị trí, vai trò của văn
hóa trong xã hội, chưa được quan tâm đúng mức. Công tác quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ trong
lĩnh vực văn hóa thời gian qua đã tồn tại nhiều bất cập; dẫn đến tình trạng việc triển khai các hoạt
động văn hóa ở các địa phương không được thực hiện tốt. Thứ tư, cơ chế quản lý văn hóa chưa
theo kịp cơ chế thị trường dẫn đến việc lúng túng, bị động trong việc giải quyết những vấn đề về
văn hóa. Trong khi nền kinh tế của chúng ta đã thử thách qua gần 30 năm đổi mới thì quản lý văn
hóa (trong cả tư duy lý luận và thực tiễn) đều vẫn còn đang lúng túng chưa thoát khỏi tư duy bao
cấp. Các đơn vị văn hóa luôn bị động, trông chờ vào Nhà nước, chưa năng động tìm kiếm cơ hội
kinh doanh ở thị trường; vai trò của các doanh nghiệp văn hóa nhỏ, đơn vị văn hóa tư nhân và các
cá nhân nghệ sĩ, những người làm hoạt động sáng tạo chưa được chú ý. Vì thế, chưa tạo ra một thị
trường văn hóa năng động và phát triển tương ứng với tiềm năng dồi dào của văn hóa.
3- Chính vì thế, để phát triển văn hóa, giải pháp quan trọng nhất, trước nhất là cải cách thể chế văn

hóa; từ đổi mới về tư tưởng, quan niệm về phát triển văn hóa mà nhận thức của các cấp ủy đảng,
lãnh đạo là yếu tố vô cùng quan trọng, đến sự kết hợp giữa phát triển sự nghiệp văn hóa công ích
với phát triển các ngành kinh doanh văn hóa, đổi mới các thể chế văn hóa với đổi mới chính bản
thân văn hóa.
Trên cơ sở nắm chắc xu thế phát triển văn hóa thế giới ngày nay, nhận thức về quy luật xây dựng
văn hóa dưới điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách thể chế văn hóa là
sự tiếp tục cải cách thể chế kinh tế, chính trị, giáo dục, khoa học - kỹ thuật, y tế, thể thao... Phát
triển văn hóa - xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong
từng bước và từng chính sách phát triển, thể hiện rõ nhất tính ưu việt của chế độ ta. Điều đó đã đặt
ra một loạt yêu cầu mới cho việc xây dựng văn hóa và cải cách thể chế văn hóa.
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đòi hỏi chúng ta phải cùng lúc đưa xây dựng văn hóa và xây
dựng kinh tế, chính trị, xã hội vào toàn cục phát triển. Nguyên lý phát triển kinh tế, xã hội hài hòa
đòi hỏi chúng ta phải phát huy sức mạnh tổng lực, hình thành tinh thần dân tộc mới, lấy chủ nghĩa
yêu nước làm cốt lõi của tinh thần thời đại mới, lấy quan điểm đổi mới toàn diện, triệt để làm hạt
nhân tư tưởng, nhằm tạo ra sự đoàn kết rộng rãi và phát huy tối đa trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân.
Do vậy, cần phải cải cách thể chế văn hóa một cách mạnh mẽ và khoa học, tiến hành giải phóng
sức sản xuất văn hóa nhằm tạo động lực to lớn cho sự phát triển của nền văn hóa tiên tiến xã hội
chủ nghĩa, thực hiện sự phát triển hài hòa giữa xây dựng văn hóa với xây dựng kinh tế, chính trị, xã
hội.
Thứ hai, cần tăng cường nhận thức, biến nhận thức thành thực tiễn thông qua các chương trình
hành động của các cấp ủy, chính quyền từ trung ương đến địa phương. Cụ thể hóa các chiến lược
văn hóa, đưa mục tiêu văn hóa vào tất cả các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và
từng địa phương, đưa yếu tố văn hóa vào tất cả các đơn vị xã hội; để văn hóa trở thành bản chất
của mọi hoạt động xã hội, từ đó, tạo ra sức đề kháng của xã hội đối với cái xấu, cái ác. Các chương
trình hành động chấn hưng văn hóa cần có sự thống nhất từ Trung ương đến địa phương và có sự
kiểm tra, đôn đốc thường xuyên, liên tục. Đây phải được xem là nhiệm vụ trọng tâm của các cấp
ủy đảng.
10



Thứ ba, các luật tạo điều kiện vận hành văn hóa trong nền kinh tế thị trường như các luật về bảo
trợ, hiến tặng... cần được ban hành, bổ sung, hoàn thiện, làm cơ sở để phát triển văn hóa, đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Thứ tư, công tác đào tạo, quy hoạch cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa cần phải được quan
tâm hơn, trong đó chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ và quy hoạch
những cán bộ có năng lực và phẩm chất tốt, là tấm gương tốt trong cộng đồng, xã hội.
Thứ năm, đầu tư cho văn hóa cần tương xứng với vị trí, vai trò của văn hóa trong xã hội; không thể
đặt hiệu quả kinh tế làm thước đo cho các đầu tư văn hóa. Xác định việc phát triển văn hóa là
nhiệm vụ, trách nhiệm của toàn xã hội, không phải chỉ riêng ngành văn hóa, thể thao và du lịch. Vì
vậy, các ngành, các cấp cần cơ sự phối hợp với nhau và với ngành văn hóa để việc phát triển văn
hóa được thuận lợi nhất.
Thứ sáu, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng
văn hóa Việt Nam; cân đối giữa lợi ích kinh doanh với các mục đích chính trị, văn hóa, giáo dục
của văn hóa; hướng văn hóa theo sát sự chuyển đổi của thực tế đời sống, nhu cầu của quần chúng
nhân dân; khơi dậy sức sáng tạo văn hóa của mọi thành viên trong xã hội. Thúc đẩy sự kết hợp
giữa việc bảo tồn và phát huy những tinh hoa văn hóa dân tộc với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại. Cần khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa mang thương hiệu Việt Nam ra các thị
trường nước ngoài, đưa thông điệp văn hóa Việt Nam đến với bạn bè năm châu, góp phần quảng bá
văn hóa quốc gia, phục vụ hiệu quả cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước./.

11


Câu 4 (COPY mạng): Bằng thực tiễn lãnh đạo giáo dục đào tạo của Đảng, hãy phân tích, làm
rõ quan điểm “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu.”
Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính trị của mỗi nước, là
biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nước. Vì vậy, ngay từ khi giành được chính quyền, Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Do đó xác định Giáo dục và đào tạo là một
nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam.
Bắt đầu từ Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng (1979) đã ra quyết định số 14-NQTƯ về

cải cách giáo dục với tư tưởng: Xem giáo dục là bộ phận quan trong của cuộc cách mạng tư tưởng;
thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng thành; thực hiện tốt
nguyên lý giáo dục học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn
liền với xã hội.
Tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu thực tế qua các
kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đặc biệt, sự nghiệp Giáo dục và Giáo dục lý luận chính trị được Đại hội toàn quốc lần thứ X đặc
biệt quan tâm và nhấn mạnh hơn nữa nhằm giáo dục con người phát triển toàn diện, nhất là thế hệ
trẻ.
Đại hội X đã xác định mục tiêu giáo dục là nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, lòng tự
tôn dân tộc, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học,
ý chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo nàn, đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ
bản, làm chủ năng lực nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với chính trị, có ý chí
vươn lên về khoa học - công nghệ.
Để cụ thể chủ trương đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển giáo dục một cách tổng thể
và toàn diện, bắt đầu từ chủ trương phát triển giáo dục mầm non, thực hiện xoá mù chữ và phổ cập
giáo dục tiểu học và trung học cơ sở trên phạm vi cả nước, tạo môi trường thuận lơi để cho mọi
người học tập và học tập suốtđời. Điều hành hợp lý cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu
vùng trong hệ thống Giáo dục và đào tạo, quan tâm đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuât lành nghề,
hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế, thực hiện tốt chính sách giáo dục gắn với phát triển kinh tế
xã hội.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta lại càng phải quan tâm hơn nũa đến sự nghiệp Giáo dục và đào tạo
nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ và nhân dân lao động để họ tham gia hội nhập mà vẫn
giữ vững truyền thống văn hoá dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm chủ
khoa học tiên tiến.
I. Tính tất yếu khách quan và sự lãnh đạo của Đảng đối với GD-ĐT
1. Vị trí, vai trò của GD-ĐT
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển ngày càng nhanh. Kinh tế tri thức có vai
trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh đó, giáo dục đã
trở thành nhân tố quyết định đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Các nước trên thế giới kể cả

12


những nước đang phát triển đều coi giáo dục là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển nhanh và
bền vững của mỗi quốc gia.
Đảng và Nhà nước ta đã đặt giáo dục ở vị trí cao. Nghị quyết Trung ương 2 khoá IIX đã xác định
phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng động lực thúc đẩy phát triển kinh
tế xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đánh giá thực trạng giáo dục đào tạo sau 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã
khẳng định sự nghiệp giáo dục đào tạo nước ta tiếp tục phát triển và được đầu tư nhiều hơn. Cơ sở
vật chất được tăng cường, quy mô đào tạo mở rộng, nhất là bậc trung học và dạy nghề. Trình độ
dân trí được năng cao. Điều đó được thể hiện :
Phổ cập giáo dục tiểu học tiếp tục được củng cố, phổ cập giáo dục bậc trung học cơ sở được triển
khai tích cực. Đến hết năm 2005 có 31 tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỷ
lệ học sinh trong độ tuổi đi học ở bậc tiểu học đạt 97,5%.
Quy mô giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng và trình độ dân trí được năng lên rõ rệt. Số học
sinh trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, sinh viên các trường đại học và cao đẳng đều tăng. Các
trường sư phạm tiếp tục được củng cố và phát triên. bước đầu đã hình thành mạng lưới dạy nghề
cho lao động nông thôn, thanh niên dân tộc thiểu số, tàn tật, gắn dạy nghề với tạo việc làm, xoá đói
giảm nghèo. Chất lượng dạy nghề có chuyển biến tích cực.
Đổi mới giáo dục đang được triển khai từ giáo dục mầm non phổ thông, dạy nghề đến cao dẳng,
đại học. Việc xã hội hoá giáo dục và đào tạo đã đạt được những kết quả bước đầu. Nhiều trường
dân lập, tư thục bậc đại học, trung học chuyên nghiệp được thành lập.
Đầu tư cho sự nghiệp giáo dục đào tạo tăng lên đáng kể. Năm 2005 chi cho giáo dục đào tạo chiếm
gần 18% tổng chi ngân sách nhà nước. Ngoài ra, Nhà nước đã huy động được nhiều nguồn vốn
khác để phát triển giáo dục, như thông qua phát hành công trái, huy động đóng góp của nhân dân,
của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cơ sở vật chất trong các cơ sở giáo dục và đào tạo các cấp được tăng cường, đặc biệt là vùng núi,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số. nhiều tỉnh đã xây dựng được các trường chuẩn quốc gia.
Cùng với kết quả quan trọng nêu trên, trong thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo còn

nhiều yếu kém thể hiện ở các điểm sau :
Giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao về nguồn nhân lực trong giai đoạn
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Nhiều vấn đề hạn
chế, yếu kém chậm được khắc phục.
Chất lượng giáo dục còn nhiều yếu kém, khả năng chủ động sáng tạo của học sinh, sinh viên còn
yếu. Chương trình, phương pháp dạy và học còn lạc hậu, nặng nề chưa thật phù hợp, phát triển
giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học chưa cân đối với giáo dục phổ thông. Đào tạo nghề còn
thiếu về số lượng và yếu về chất lượng.
Việc xã hội hoá giáo dục được thực hiện chậm, thiếu đồng bộ. Công tác giáo dục đào tạo ở vùng
sâu vùng xa còn nhiều khó khăn, chất lượng thấp, chưa quan tâm đúng mức phát triển giáo dục đào
13


tạo ở đồng bằng sông Cửu Long, để giáo dục và đào tạo ở vùng này tụt hậu dài so với các vùng
khác trong cả nước.
Công tác quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo chậm đổi mới và còn nhiều bất cập. Công tác thanh
tra giáo dục còn yếu kém. Những hiện tượng tiêu cực như bệnh thành tích, thiếu trung thực trong
đánh giá kết quả giáo dục trong học tập, tuyển sinh, thi cử cấp bằng và tình trạng dạy thêm, học
thêm tràn lan, kéo dài chậm được khắc phục.
2. Sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục
Giáo dục và đào tạo là một lĩnh vực rất quan trọng của đời sống xã hội, nó liên quan đến nhiều lĩnh
vực khác, cho nên Đảng ta rất chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo. Những năm qua quan điểm
của Đảng về đường lối phát triển giáo dục và đào tạo chủ yếu tập trung ở nghị quyết trung ương 2
khoá IIX ( nghị quyết chuyên đề về giáo dục và đào tạo); kết luận của hội nghị lần 6 Ban chấp
hành trung ương Đảng khóa 9; nghị quyết hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành trung ườn Đảng khoá
IX; Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X.
Qua các văn kiện này thể hiện một số quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục đào tạo như sau:
- Giáo dục và đào tạo nhằm xây dựng con người có đầy đủ phẩm chất để xây dựng và bảo vệ đất
nước.
- Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong giáo dục và đào tạo, nhát là chính sách công bằng xã

hội.
- Thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu cùng với khoa học và công nghệ là yếu tố quyết định
góp phần tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
- Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân; mọi người, mọi cấp chăm lo cho giáo
dục và đào tạo.
- Giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, với khoa học công nghệ và
củng cố quốc phòng an ninh.
- Giữ vững nòng cốt của các trường công lập song song với đa dạng hoá các loại hình giáo dục đào
tạo.
- Chăm lo giáo dục đào tạo là chăm lo cho con người và xã hội phát triển với các yêu cầu và tiêu
chí được xác lập.
- Phát triển giáo dục và đào tạo phải theo nguyên lý: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao
động sản xuất, lý luận gắn lion với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và
giáo dục xã hội.
3. Yêu cầu của thời kì đổi mới
Đảng lãnh đạo giáo dục đào tạo là một tất yếu khách quan để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới.
Xuất phát từ nhu cầu phát triển nhân cách của con người mới xã hội chủ nghĩa. Nhân cách con
người là do nhiều yếu tố tạo nên nhưng giáo dục đào tạo là yếu tố quan trọng giữ vai trò quyết định
trong sự phát triển trí tuệ và nhân cách con người. Mà công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
14


nước ta rất cần thiết có những con người mới xã hội chủ nghĩa do đó phải chăm lo đến việc phát
triển giáo dục đào tạo. Chính vì vậy cần có Đảng lãnh đạo để đảm bảo yêu cầu về xây dựng con
người xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ nhu cầu phát triển nền kinh tế tri thức, trong nền kinh tế tri thức các sản phẩm được
sản xuất với công nghệ cao có hàm lượng chất xám cao từ 70% trở lên. sản xuất hàng hóa sử dụng
ít tài nguyên thiên nhiên hơn, ít ô nhiễm môi trường hơn, giá thành hạ, chất lượng cao hơn. ngày
nay những phát minh mới về khoa học công nghệ được ứng dụng nhanh vào sản xuất và hiệu quả
sản xuất. Những phát minh mới, những tiến bộ mới về khoa học công nghệ tồn tại không lâu nhanh

chóng bị lạc hậu. Yêu cầu tất yếu đặt ra là lãnh đạo phải được đào tạo và đào tạo đạt trình độ cao
để tham gia sản xuất, để sử dụng sản phẩm có hàm lượng tri thức cao.
Xuất phát từ nhu cầu được học tập và không ngừng nâng cao tri thức của nhân dân.
Xuất phát từ nhu cầu về sự bình đẳng của xã hội đòi hỏi phải đảm bảo quyền con người. Để kinh tế
phát triển, xã hội ổn định thì quyền con người phải được đảm bảo như : quyền học hành, quyền lao
động, quyền làm chủ xã hội...Trong rất nhiều quyền con người ấy thì quyền cao nhất là quyền làm
chủ. Muốn làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân thì điểm đầu tiên là phải có tri thức.
Muốn có tri thức thì phải học, nhưng không phải ai cũng có điều kiện để học, vì vậy cần có Đảng
lãnh đạo để đảm bảo thực hiện quyền đó.
Nhận thức rõ điều đó Đảng đã có nghị quyết trung ương 2 khoá IIX. Nghị quyết chuyên đề về giáo
dục đào tạo khẳng định: Giáo dục đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu. Là
động lực và điều kiện để thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội. Là chìa khóa để mở cửa để mở
cửa tiến vào tương lai. Là một trong những động lực quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Phải có đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư phát triển phải tạo điều kiện cho giáo dục đi trước để
phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.
Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính trị của mỗi nước, là
biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nước. Vì vậy, ngay từ khi giành được chính quyền, Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Do đó xác định Giáo dục và đào tạo là một
nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam.
Bắt đầu từ Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng (1979) đã ra quyết định số 14-NQTƯ về
cải cách giáo dục với tư tưởng: Xem giáo dục là bộ phận quan trong của cuộc cách mạng tư tưởng;
thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng thành; thực hiện tốt
nguyên lý giáo dục học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn
liền với xã hội.
Tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu thực tế qua các
kỳ Đại hội VII, VIII, IX, X của Đảng cộng sản Việt Nam.
Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo đã được Đại hội VII xem là quốc sách hàng
đầu. Đó là một động lực thúc đẩy và là một điều kiện cơ bản bảo đảm việc thực hiện những mục

tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước. Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những
15


hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực sự phát
triển kinh tế - xã hội. Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân giúp
sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước. Phát triển giáo dục nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hoá,
khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, sống lành mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước những năm 90 và
chuẩn bị cho tương lai. Phải mở rộng quy mô, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả
giáo dục, gắn học với hành, tài với đức. Giáo dục phải vừa gắn chặt với yêu cầu phát triển đất
nước, vừa phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Thực hiện một nền giáo dục thường xuyên cho
mọi người, xác định học tập suốt đời là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi công dân. Đa dạng hóa
các hình thức đào tạo. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục: Người đi học phải đóng học phí,
người sử dụng lao động qua đào tạo phải đóng góp chi phí đào tạo. Nhà nước có chính sách bảo
đảm cho người nghèo và các đối tượng chính sách đều được đi học.
Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định một lần nữa vai trò quan trọng của khoa học công nghệ và
giáo dục đào tạo "Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu" .
Coi trọng cả 3 mặt của giáo dục: mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả để
phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đổi mới hệ thống giáo
dục chuyên nghiệp và đại học, kết hợp đào tạo với nghiên cứu, tạo nguồn nhân lực đủ khả năng
tiếp cận với công nghệ tiên tiến.Sau khi Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ,
Đảng ta đã có những chuyển hướng về hợp tác quốc tế trong đào tạo cán bộ. Nghị quyết 02NQ/HNTW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đó nhấn mạnh quan điểm hợp tác đào
tạo với các nước như sau:
- Dành ngân sách nhà nước thỏa đáng để cử những người giỏi và có phẩm chất tốt đi đào tạo và bồi
dưỡng về những ngành nghề và lĩnh vực then chốt ở những nước có nền khoa học, công nghệ phát
triển.
- Khuyến khích đi học nước ngoài bằng con đường tự túc, hướng vào những ngành mà đất nước
đang cần, theo quy định của Nhà nước.

Thực hiện Nghị quyết này, Chính phủ đã dành 100 tỉ đồng đầu tư cho việc đào tạo ở nước ngoài
vào năm 2000 (tương đương với 7,12 triệu USD tại thời điểm đó). Vấn đề nhân tài ngày càng trở
nên bức thiết, đến Đại hội IX, Trung ương Đảng một lần nữa nhấn mạnh rằng: "Có chính sách hỗ
trợ đặc biệt những học sinh có năng khiếu, hoàn cảnh sống khó khăn được theo học ở các bậc học
cao. Có quy hoạch và chính sách tuyển chọn người giỏi, đặc biệt chú ý đến con em công nhân và
nông dân để đào tạo ở các bậc đại học và sau đại học. Tăng ngân sách nhà nước cho việc cử người
đi học ở các nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến. Khuyến khích việc du học tự túc"
Đại hội Đảng lần thứ IX nêu rõ: "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội
dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện chuẩn
hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá" . Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục.
Tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, trước hết nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo,
thực hiện giáo dục toàn diện, đặc biệt chú trọng giáo dục tư tưởng - chính trị, nhân cách, đạo đức,
lối sống cho người học.
16


Tăng cường phối hợp nhà trường và gia đình, phát huy vai trò giáo dục gia đình.
Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, tăng
cường giáo dục tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự tu dưỡng, tự tạo việc làm. Tăng cường giáo
dục hướng nghiệp, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của đất nước và các địa phương, vùng, miền.
Nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học xã hội, nhân văn, nhất là các môn học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Một số trường đại học phải sớm đạt chất lượng ở trình độ quốc
tế.Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sớm xây dựng chính sách sử dụng và tôn vinh các nhà
giáo, cán bộ quản lý giỏi, có công lao lớn trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Nâng cao chất lượng
đào tạo sau đại học, chấn chỉnh việc phong chức danh, học vị, cấp văn bằng. Phát triển quy mô
giáo dục cả đại trà và mũi nhọn, trên cơ sở bảo đảm chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn
đào tạo với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đào tạo với sử dụng.
Mở rộng hệ thống trường lớp giáo dục mầm non trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt ở miền núi, vùng
dân tộc thiểu số, nông thôn.
Hoàn thành cơ bản phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010, củng cố kết quả phổ cập tiểu học, đặc

biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục xóa mù chữ, ngăn ngừa tái mù chữ, giáo dục cho
người lớn. Thực hiện phổ cập trung học ở những nơi đó phổ cập xong trung học cơ sở.
Điều chỉnh cơ cấu đào tạo, tăng nhanh dạy nghề và trung học chuyên nghiệp. Hiện đại hóa một số
trường dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân bậc cao có trình độ tiếp thu và sử dụng công
nghệ mới và công nghệ cao.
Phát triển giáo dục không chính quy, các hình thức học tập cộng đồng ở các xã, phường gắn với
nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người có thể học tập
suốt đời, hướng tới xã hội học tập.
- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Có chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên thuộc các
gia đình nghèo và các đối tượng chính sách xã hội. Ưu tiên phát triển giáo dục ở vùng sâu, vùng
xa, vùng dân tộc thiểu số. Chú trọng đào tạo cỏn bộ vựng dõn tộc (cỏn bộ đảng, chớnh quyền, đoàn
thể từ bản, ấp trở lờn và cỏn bộ khoa học kỹ thuật). Củng cố và tăng cường hệ thống trường nội
trỳ, bỏn trỳ cho học sinh dõn tộc thiểu số ; từng bước mở rộng quy mụ tuyển sinh, đáp ứng yờu cầu
đào tạo toàn diện đi đôi với cải tiến chớnh sỏch học bổng cho học sinh các trường này. Thực hiện
chế độ miễn phớ học tập, cung cấp sỏch giỏo khoa cho học sinh vựng cao, vựng sõu, vựng xa, học
sinh người dõn tộc thiểu số. Thực hiện tốt chớnh sỏch cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ đối với vựng
dõn tộc thiểu số, vựng sõu, vựng xa cú nhiều khó khăn. Có chớnh sỏch bổ tỳc kiến thức cần thiết
cho số học sinh dõn tộc thiểu số đó tốt nghiệp trung học phổ thụng hoặc trung học cơ sở mà không
có điều kiện học tiếp để cỏc em trở về địa phương tham gia công tác ở cơ sở
Hội nghị Trung ương 6, khóa IX đó đề ra 3 nhiệm vụ để tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương
2, khóa VIII: Một là, nõng cao chất lượng, hiệu quả giỏo dục và đào tạo nhõn tài. Trong nhiệm vụ
này, trọng tâm là đổi mới nội dung, chương trỡnh, phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn húa,
hiện đại húa, ứng dụng cụng nghệ thụng tin vào cỏc cấp học, bậc học. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống
cơ chế, chớnh sỏch tổ chức phỏt hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhõn tài. Hai là, phỏt triển hợp
lý quy mụ giỏo dục cả đại trà và mũi nhọn phục vụ quỏ trỡnh chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, cơ
17


cấu trỡnh độ, cơ cấu xú hội; vấn đề bổ tỳc trờn tiểu học cho người lớn và phỏt triển giỏo dục khụng
chớnh quy; xõy dựng hệ thống trung tõm học tập cộng đồng. Ba là, thực hiện cụng bằng xú hội

trong giỏo dục, tạo cơ hội học tập cho mọi tầng lớp nhõn dõn, nhất là cơ hội học cao đẳng và đại
học cho con em nông dân và các gia đỡnh diện chớnh sỏch.
Nhỡn lại tỡnh hỡnh đất nước, trải qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhân dân ta đó đạt
được những thành tựu to lớn cú ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, cho đến nay, nước ta vẫn chưa thoát ra
khỏi tỡnh trạng kộm phỏt triển.
Trong khi Việt Nam bước vào quỏ trỡnh cụng nghiệp hỳa, hiện đại húa thỡ nhiều nước đó vượt qua
thời đại cỏch mạng cụng nghiệp đi vào thời đại cỏch mạng thụng tin, xõy dựng nền kinh tế tri thức
và xú hội tri thức. Khoảng cỏch về trỡnh độ kinh tế, khoa học và cụng nghệ giữa nước ta với các
nước phỏt triển trờn thế giới, kể cả một số nước trong khu vực, có xu hướng ngày càng mở rộng
thờm, mà một nguyờn nhõn quan trọng là do chất lượng trớ tuệ, năng lực sỏng tạo và kỹ năng
chuyên môn cũn bất cập của nguồn nhừn lực.
Trước những thỏch thức của thời đại cỏch mạng tri thức gắn liền với quỏ trỡnh toàn cầu hỳa và hội
nhập quốc tế, khi mà nước ta đó trở thành thành viờn thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), trong cuộc đua tranh quyết liệt về mọi mặt, mà chủ yếu là đua tranh về trớ tuệ của cỏc
quốc gia trờn toàn cầu, sự yếu kộm, bất cập và tụt hậu của giỏo dục và đào tạo đang trở thành lực
cản đối với sự phỏt triển nhanh và bền vững của đất nước.
Đặc biệt, sự nghiệp Giáo dục và Giáo dục lý luận chính trị được Đại hội toàn quốc lần thứ X đặc
biệt quan tâm và nhấn mạnh hơn nữa nhằm giáo dục con người phát triển toàn diện, nhất là thế hệ
trẻ.
Đại hội X đã xác định mục tiêu giáo dục là nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, lòng tự
tôn dân tộc, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học,
ý chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo nàn, đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ
bản, làm chủ năng lực nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhảy cảm với chính trị, có ý chí
vươn lên về khoa học - công nghệ.
Để cụ thể chủ trương đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển giáo dục một cách tổng thể
và toàn diện, bắt đầu từ chủ trương phát triển giáo dục mầm non, thực hiện xoá mù chữ và phổ cập
giáo dục tiểu học và trung học cơ sở trên phạm vi cả nước, tạo môi trường thuận lơi dể cho mội
người học tập và học tập suốtđời. Điều hành hợp lý cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu
vùng trong hệ thống Giáo dục và đào tạo, quan tâm đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuât lành nghề,
hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế, thực hiện tốt chính sách giáo dục gắn với phát triển kinh tế

xã hội.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta lại càng phải quan tâm hơn nũa đến sự nghiệp Giáo dục và đào tạo
nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ và nhân dân lao động để họ tham gia hội nhập mà vẫn
giữ vững truyền thống văn hoá dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm chủ
khoa học tiên tiến. Đại hội Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định: "Giỏo dục và đào tạo cựng với
khoa học và cụng nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy cụng nghiệp hoỏ,
hiện đại hoá đất nước" ; Nõng cao chất lượng giỏo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế
quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện "chuẩn hoỏ, hiện đại hoỏ, xú hội hoỏ", chấn
18


hưng nền giỏo dục Việt Nam; Chuyển dần mụ hỡnh giỏo dục hiện nay sang mụ hỡnh giỏo dục mở
- mụ hỡnh xú hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liờn tục, liờn thụng giữa cỏc bậc
học, ngành học; xõy dựng và phỏt triển hệ thống học tập cho mọi người và những hỡnh thức học
tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác
nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục.
Câu 4 (Tự làm): Bằng thực tiễn lãnh đạo giáo dục đào tạo của Đảng, hãy phân tích, làm rõ
quan điểm “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” (Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo)
Trả lời
1. Một số khái niệm
Giáo dục-đào tạo: không có một định nghĩa về giáo dục nhưng ai cũng có thể hiểu một cách
đơn giản nhất giáo dục nghĩa là dạy và học. Xét trên góc độ lý luận, giáo dục là một bộ phận thuộc
một chế định của Hiến pháp: “Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ”. Giáo dục vừa là một lĩnh
vực điều chỉnh gồm nhiều quan hệ xã hội của pháp luật, vừa là một nhóm các mục tiêu, yêu cầu mà
nhà nước đặt ra để thực hiện
Tóm lại GD là hoạt động cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng nhằm hình thành những
năng lực và phẩm chất cho người học theo những tiêu chuẩn nhất định của bậc học, ngành học.
Chính sách giáo dục: Là các chính sách do nhà nước đặt ra nhằm điều chỉnh lĩnh vực giáo
dục và thực hiện những mục tiêu yêu cầu của giáo dục.

Quốc sách hàng đầu: Là những chính sách trọng tâm có vai trò chính yếu của nhà nước, luôn
dành dược sự ưu tiên hàng đầu, quan tâm đặc biệt của nhà nước, được thể hiện qua một loạt các
chính sách,các biện pháp và phạm vi thực hiện và nguồn ngân sách chi cho chính sách đó.
Giáo dục là quốc sách hàng đầu, điều đó có nghĩa là sự nghiệp giáo dục và chính sách giáo
dục của Đảng và Nhà nước ta có tầm quan trọng hàng đầu, các cơ quan có thẩm quyền và mọi
người, mọi tầng lớp nhân dân trong cả nước đều phải coi trọng như vậy và phải làm đúng như vậy
2. Phân tích làm rõ quan điểm “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”
Trong nghị quyết Trung ương 8 khóa XI Đảng đã đề ra các quan điểm về đổi mới cẳn bản, tòa
diện giáo dục và đào tạo trong đó có quan điểm “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. cụ
thể:
“Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn
dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế – xã hội”
*Phân tích quan điểm
Trải qua bao thập kỷ, Đảng và Nhà nước ta luôn xem giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Điều đó có nghĩa là sự nghiệp giáo dục và chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước ta có
tầm quan trọng hàng đầu, các cơ quan có thẩm quyền và mọi người, mọi tầng lớp nhân dân
trong cả nước đều phải coi trọng như vậy và phải làm đúng như vậy.
19


Đổi mới giáo dục, hay coi giáo dục là quốc sách hàng đầu luôn được Đảng và Nhà nước quan
tâm. Sau Hội nghị Trung ương 8, Khóa XI vào tháng 10/2013, vấn đề đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo được coi như là một trong những nội dung vừa chiến lược, vừa cấp thiết. Trước
yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước, Việt Nam đang cần một quyết sách toàn diện,
căn bản, xứng tầm với lĩnh vực quan trọng hàng đầu này. Đây là sứ mệnh thiêng liêng, đồng thời
cũng vô cùng nặng nề để Việt Nam bước vào hàng ngũ các nước phát triển. Xem GD là quốc sách
hàng đầu vì:
Giáo dục- đào tạo không chỉ có vai trò quan trọng trên lĩnh vực sản xuất vật chất mà còn là cơ
sở để hình thành nền văn hoá tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Giáo dục có tác động vô cùng to lớn

trong việc truyền bá hệ tư tưởng chính trị xã hội chủ nghĩa, xây dựng ý thức pháp quyền và ý thức
đạo đức, xây dựng nền văn hoá, văn học nghệ thuật, góp phần cơ bản vào việc hình thành lối sống
mới, nhân cách mới của toàn bộ xã hội.
Bản chất của GD là sự nối tiếp kinh nghiêm XH của các thế hệ nên GD là chức năng của XH,
là nhân tố duy trì và phát triển XH.
Thông qua chức năng của mình, GD tác động sâu sắc và toàn diện đến các lĩnh vực khác
nhau của đời sống XH, nó là nhân tố quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội.
Trong những chính sách ưu tiên phát trển quốc gia thì GD-ĐT là một trong những chính sách
ưu tiên hàng đầu cần được quan tâm, được đầu tư, được ưu tiên và phát triển, được coi là mục tiêu,
động lực của sự phát triển.
Xét về bối cảnh thế giới thì các nước có nền kinh tế mạnh đều là những nước coi trọng giáo
dục. Đặc biệt, ngày nay các quốc gia muốn đứng ở bị trí tiên tiến thì đều phải coi trọng tính tích
cực học tập và chất lượng học tập của mỗi người dân. Do vậy, Việt Nam cũng muốn phát triển thì
vấn đề đầu tiên cũng phải quan tâm đầu tư cho giáo dục.
Con người được GD và kết hợp với GD thì mới có khả năng giải quyết một cách sáng tạo và
có hiệu quả mọi hoạt động, mọi vấn đề do sự phát triển của xã hội đặt ra.
GD là động lực, là mục tiêu cho sự phát triển bền vững của toàn xã hội, là tiền đề quan trọng
cho sự phát triển các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh; là bộ phận hữu cơ
quan trọng nhất trong chiến lược quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Chính vì vậy, GD được coi là
một nhân tố quan trọng nhất, là quốc sách hàng đầu.
GD&ĐT là quốc sách hàng đầu được Đảng và Nhà nước VN coi đó là một chiến lược GD mà
mục tiêu của nó là xây dựng một hệ thống GD phát triển đi trước một bước so với phát triển kinh
tế, mà nét đặc trưng của nó được thể hiện ở những mặt sau đây:
+Tính phổ cấp rộng rãi với chất lượng cao về đạo đức, phẩm chất, trình độ văn hóa, KH-CN.
+Khả năng đáp ứng đầy đủ, kịp thời những nhu cầu nhân lực cho sự phát triển kinh tế.
+Phát triển toàn diện nhân cách, với trình độ về đạo đức, phẩm chất, về kiến thức, kỹ năng
KH&CNngang tầm tiên tiến của các quốc gia trong khu vực.
Coi GD là quốc sách hàng đầu là một sự đổi mới về nhận thức của Nhà nước và lần đầu tiên
được quy định tại điều 35 HP1992. Từ thực tế xã hội của Vn cũng như các nước khác, Đảng và
Nhà nước ta phải có cách nhìn nhận mới, phải coi Gd là một hoạt động đặc biệt, nhờ đó hình thành

và bồi dưỡng nhân cách công nhân, đào tạo những người lao động có tay nghề cao, năng động,
sáng tạo.. vì vậy không có sự đầu tư nào mang lại lợi ích như đầu tư giáo dục và khuyến khích các
20


nguồn đầu tư khác, đồng thời phải ban hành những chính sách phù hợp để điều chỉnh trong lĩnh
vực giáo dục.
Luật giáo dục 2005 cũng một lần nữa khẳng đình phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nhà nước thống nhất uản lý hệ thống
giáo dục uốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch GD, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế
thi cử và hệ thống văn bằng.
Ngân sách đầu tư cho giáo dục được uy định cụ thể trong mục 2 chương VII luật giáo dục
2005. Nghị uyết số 37/2004/qh11 về GD cũng đã định ra mức đầu tư ngân sách cho giáo dục như
sau:
“Đầu tư ngân sách cho giáo dục-đào tạo đảm bảo tỉ lệ 20% tổng chi ngân sách NN trước
năm 2010 từ 2 đến 3 năm. Đảm bảo tỷ lệ hợp lý giữa chi lương và chi cho các hoạt động GD của
cơ sở giáo dục của cơ sở giáo dục để thực hiện tốt nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục”
Nghị quyết số 14/2005Nq-CP bổ sung thêm: “bố trí tối thiểu 1% ngân sách Nhà nước hàng
để các cơ sở giáo dục đại học thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công quy định trong Luật Khoa
học và công nghệ”.
Con số 1,7 tỷ USD chi cho du học tự túc trong năm 2013, tương đương 1% GDP, rõ ràng rất
có ý nghĩa.

21


Câu 5: Phân tích cơ sở khoa học của phương thức lãnh đạo “ tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng đối với quân đội nhân dân và công an nhân dân” (Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc của Đảng lần thứ XI, Nxb.CTQG, HN.2011, tr235)? Liên hệ thực tiễn.
Quốc phòng là công việc giữ nước của một quốc gia gồm tổng thể hoạt động đối nội và đối

ngoại về quân sự, chính trị, văn hóa, khoa học của Nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước
tạo nên sức mạnh toàn diện. trong đó, sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân
làm nòng cốt nhằm giữ vững hòa bình đẩy lùi ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù, sẵn
sàng đánh thắng xâm lược dưới mọi hình thức và quy mô.
An ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ XHCN và NN CHXHCNVN,
sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quuyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. bảo vệ an
ninh quốc gia là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm
của an ninh quốc gia.
QĐND và CAND Việt Nam là một lực lượng nòng cốt của cách mạng, lực lượng chính trị tin
cậy, lực lượng vũ trang chiến đấu sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Điều đó cũng có nghĩa
là, Đảng phải nắm quyền lãnh đạo quân đội và công an, không thể và không bao giờ chia sẻ quyền
đó cho giai cấp khác. Đó là vấn đề có tính nguyên tắc đảm bảo cho quân đội và công an ta đứng
vững trên lập trường giai cấp công nhân, có phương hướng chính trị đúng, hoạt động quân sự hiệu
quả, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình.
Đảng lãnh đạo tuyệt đối là nhân tố quyết định sự trưởng thành và sự chiến thắng của quân đội
và công an, là vấn đề có tính quy luật, vừa là một nguyên tắc bất di, bất dịch trong quá trình xây
dựng QĐ và CA.
Quyền lãnh đạo là thuộc về Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo
QĐ và CAND. Bởi vì đây công cụ của Đảng để tiến hành đấu tranh giai cấp bằng hình thức vũ
trang, cho nên QĐ và CA chỉ có thể tồn tại và hoàn thành nhiệm vụ dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của
Đảng... Đảng phải nắm chặt quyền lãnh đạo, không thể chia sẻ cho giai cấp nào khác
Đảng lãnh đạo tuyệt đối QĐ và CA là nhân tố quyết định sự trưởng thành và sự chiến thắng
- vấn đề chiến lược trọng yếu , trở thành nguyên tắc, quy luật cơ bản trong xây dựng QĐ và CA
kiểu mới của dân, do dân, vì dân theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vấn đề then chốt để đảm bảo thực hiện thắng lợi nguyên tắc trên là phải tiếp tục đổi mạnh mẽ
và toàn diện, tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ Quân đội và CA,
tăng cường sức mạnh an ninh-quốc phòng, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các
thế lực thù địch, ứng phó thắng lợi mọi tình huống, góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội của
đất nước và môi trường hoà bình, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Ðảng là nhân tố quyết định sự vững mạnh, trưởng thành,

chiến đấu và chiến thắng của QĐ và CA Việt Nam. Ðảng ta luôn trung thành và nắm vững bản chất
khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo các
quy luật vận động, phát triển của xã hội, các quy luật của chiến tranh để đề ra đường lối chính trị,
đường lối quân sự, quốc phòng, đường lối chiến tranh nhân dân, xây dựng LLVT nhân dân và
QÐND.
22


Ðảng trực tiếp lãnh đạo công tác cán bộ và tiến hành công tác đảng, công tác chính trị trong
QĐ và CA Việt Nam; lãnh đạo việc xây dựng và phát triển nền khoa học, công nghệ, nghệ thuật
quân sự Việt Nam; xây dựng tổ chức biên chế, trang bị vũ khí, kỹ thuật và công tác hậu cần.
Ðảng trực tiếp giáo dục, rèn luyện, xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách
mạng; bảo đảm cho mọi cán bộ, nhân viên, chiến sĩ Quân đội và CA luôn kiên định, tuyệt đối trung
thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Ðảng.
Thông qua cơ chế, phương thức lãnh đạo của Ðảng và tiến hành công tác đảng, công tác
chính trị, Ðảng giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của mình đối với QĐ và CA, bảo đảm cho hai
lực lượng này luôn quán triệt và thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng,
Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì
chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.
Nhờ đó, trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, QĐ và CA cũng đều tuyệt đối phục tùng sự
lãnh đạo của Ðảng, quyết tâm chiến đấu hy sinh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Ðảng, Nhà
nước và nhân dân giao phó.
Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ðảng đối với QĐ và CA luôn gắn liền với
hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, giữ vững định hướng và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt
đối, trực tiếp về mọi mặt của Ðảng; xây dựng lực lượng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức; xây dựng và phát huy nhân tố chính trị - tinh thần. bảo đảm cho cán bộ, chiến sĩ luôn trung
thành tuyệt đối với Ðảng, với Tổ quốc, với nhân dân; không ngại hy sinh, khó khăn, gian khổ,
quyết chiến quyết thắng mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố cơ bản quyết định bản chất giai cấp công nhân, quyết định
sự ra đời, trưởng thành và chiến thắng của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Đảng Cộng sản

Việt Nam là chính Đảng duy nhất nắm quyền lãnh đạo trong lực lượng vũ trang nhân dân. Có Đảng
lãnh đạo, lực lượng vũ trang trở thành “của dân, do dân, vì dân”, có lý tưởng mục tiêu rõ ràng đúng
đắn, phát huy sức mạnh tổng hợp, chiến thắng mọi kẻ thù.
Đảng lãnh đạo có hệ thống tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, trực tiếp lãnh đạo mọi hoạt
động: chính trị, quân sự, hậu cần, kỹ thuật, tài chính, xây dựng, chiến đấu, công tác tổ chức, chính
trị, tư tưởng của mọi quân, binh chủng.
Nguyên tắc trên là thống nhất, hoàn chỉnh, bất di bất dịch. Trong hoàn cảnh mới, không chỉ
lực lượng vũ trang và toàn dân tuân thủ mà Đảng, phải luôn phấn đấu, trưởng thành, trong sạch,
vững mạnh… để đề ra những chủ trương đúng đắn, khoa học, sáng tạo xứng đáng với niềm tin yêu
của toàn dân tộc. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội tập trung
vào những nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, Đảng xác định đường lối, quan điểm quân sự, đường lối xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính
quy, tính nhuệ, từng bước hiện đại.
Hai là, Đảng chăm lo xây dựng bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc
của quân đội.
Ba là, Đảng lãnh đạo tổ chức lực lượng, xây dựng cơ cấu biên chế của quân đội ngày càng
phù hợp, tính hiệu quả cao.
23


Bốn là, Đảng lãnh đạo việc xây dựng và phát triển nền khoa học và nghệ thuật quân sự Việt
Nam, làm cơ sở để huấn luyện, chiến đấu và chiến thắng trong mọi tình huống.
Năm là, Đảng lãnh đạo đảm bảo vũ khí, trang bị và không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ.
Sáu là, Đảng lãnh đạo tiến hành đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công
tác chính trị, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị.
*Kết luận

24



Câu 6: Phân tích quan điểm chỉ đạo hoạt động đối ngoại thời kỳ hội nhập quốc tế của
ĐCSVN?
Trả lời:
Những quan điểm chỉ đạo trong quá trình hội nhập KT quốc tế của VN được cụ thể hóa trong
Nghị quyết 07/ NQ-TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị. Trong đó, những quan điểm chủ yếu,
quan trong nhất là:
- Một là, chủ động hội nhập KT quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích
dân tộc, ANQGia, giữu gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường.
- Hai là, hội nhập KT quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; trong quá trình hội nhập cần phát
huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
- Ba là, hội nhập KT quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có
nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý
tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; vừa phải đề
phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng.
- Bốn là, nhận thức đầy đủ đặc điểm nền KT nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý,
vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức KT
quốc tế mà nước ta tham gia.
- Năm là, kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập KT quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc
phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ
quyền và an ninh đất nước, cảnh các với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ
“diễn biến hoà bình” đối với nước ta.
Tiếp theo là Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế,
đã nêu rõ: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; quán triệt và vận dụng sáng tạo các bài học kinh
nghiệm và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn được tổng kết trong Cương lĩnh; đồng thời chú trọng
một số quan điểm sau:

- Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn của Đảng nhằm thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Mọi cơ chế, chính sách phải phát huy tính chủ động, tích
cực và khả năng sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá nhân, khai thác hiệu quả các tiềm năng của toàn
xã hội, của các tầng lớp nhân dân, bao gồm cả cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống và làm
việc ở nước ngoài vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực; gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình
hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, nâng cao sức
mạng tổng hợp và năng lực cạnh tranh quốc gia; gắn kết chặt chẽ với việc tăng cường mức độ liên
kết giữa các vùng, miền, khu vực trong nước.
25


×