Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

báo cáo hồ sơ hình sự số 07

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.34 KB, 10 trang )

I.

TÓM TẮT VỤ ÁN

Ngày 16/8/2013 Phòng cảnh sát kinh tế - công an thành phố Hà Nội đã thực hiện
lệnh khám phương tiện vận tải theo thủ tục hành chính số 118, 119 đối với các
phương tiện, quá trình điều tra như sau:
Thứ nhất, Xe ôtô 29K-1676 chủ phương tiện là Nguyễn Hùng Chinh, trú tại: tập
thể Đại học Ngoại thương phường Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội thu giữ 10
thùng dầu gội đầu gói nhỏ nhãn hiệu Clear 7ml (5.760 gói), trên bao bì ghi “sản
xuất tại Lever Haso Việt Nam 233 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội”; 10 thùng
dầu gội đầu gói nhỏ, nhãn hiệu Sunsilk 6ml (5.654 gói) ghi “sản xuất tại LeverViso 672-673 cư xá Kiến Thiết, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh”. Anh Chinh khai
số dầu gội đầu trên không có hóa đơn hàng hóa, nguồn gốc chở thuê từ Lạng Sơn
về giao cho anh Huy trú tại số 1 Bảo Linh (số 2 tổ 8) phường Phúc Tân, Hoàn
Kiếm, Hà Nội.
Thứ hai, Xe ôtô 29K 1206 chủ phương tiện là Cao Thị Sơn, trú tại số nhà 17 phố
Phạm Hồng Thái, phường Trúc Bạch, Ba Đình, Hà Nội thu giữ 42 thùng dầu gội
đầu gói nhỏ nhãn hiệu Clear ghi “sản xuất tại Lever Haso Việt Nam 233 Nguyễn
Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội”, số hàng này của bà Bùi Kiều Linh trú tại 58 phố Muối,
thị xã Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn có 38 thùng = 28.608 gói, còn lại 4 thùng = 9.060
gói của chị Vũ Thị Hòa trú tại số nhà 19 xóm Bến Bắc, phường Tam Thanh, thị xã
Lạng Sơn đem về Hà Nội tiêu thụ.
Thứ ba, Khám xét khẩn cấp đối với Trịnh Văn Huy, trú tại số 2 tổ 8 phường Phúc
Tân, Hoàn Kiếm, Hà Nội thu giữ 18 thùng dầu gội đầu các loại trong đó có 3.348
gói dầu gội đầu nhãn hiệu Clear 7ml ghi “sản xuất tại Lever Haso Việt Nam 233
Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội”; 3.588 gói dầu gội đầu nhãn hiệu Sunsilk 6ml
ghi “sản xuất tại Lever-Viso 672-673 cư xá Kiến Thiết, quận 9, thành phố Hồ Chí
Minh”. Ngoài ra còn có một số dầu gội đầu khác như Pantene, Head&Shoulder,
Rejoice ghi trên bao bì bằng tiếng Anh, tiếng nước ngoàikhác…sản phẩm của công
ty Procte&Gamble.
Trong khi thi hành lệnh khám xét đối với Trịnh Văn Huy, phát hiện anh Ngô


Tạo Lợi (là cháu gọi anh Huy bằng cậu), trú tại 20B tổ 32 La Văn Cầu, Hà Nội
đang tẩu tán 21 thùng dầu gội đầu các loại từ nhà Huy mang đi cất giấu, trong đó
có 9.024 gói 6ml dầu Sunsilk và các loại dầu khác.


Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định số dầu gội đầu Sunsilk và Clear thu
giữ được của các đối tượng với mẫu do công ty Lever Việt Nam cung cấp. Kết quả
trả lời số 11364/PC21 ngày 22/8/2013 của tổ chức giám định kỹ thuật hình sự công
an thành phố Hà Nội trả lời đều là dầu gội đầu giả.
Còn một số hàng hóa khác trên hai xe ôtô 29K 1676 và 29K 1206 như: gạch ốp lát
các loại, vải, quạt điện, bút chì,… phòng cảnh sát kinh tế đã chuyển giao cho đội
quản lý thị trường số 13 – chi cục quản lý thị trường thành phố Hà Nội xử lý theo
thẩm quyền.
Căn cứ vào hành vi phạm tội của các đối tượng, ngày 17/8/2013 cơ quan
điều tra đã ra lệnh bắt giữ và khởi tố đối với hai bị can Bùi Kiều Linh và Trịnh Văn
Huy.
Tuy nhiên Cả bà Bùi Kiều Linh và anh Trịnh Văn Huy chỉ nhận thức đó là
hàng giả khi bị khám xét và bị bắt.Cả 2 đều khai thấy hàng này bày bán công khai
trên Lạng Sơn và thị trường HN, chỉ nghĩ là hàng nhái nhưng vẫn dùng được và giá
rẻ do TQ sản xuất và là hàng lậu trốn thuế, không có giấy tờ, nếu có bị bắt thì chỉ
bị tịch thu hàng. CQ chức năng còn tổ chức bán phát mại hàng tuần loại hàng này
nên không biết là hàng giả hàng liên doanh và vi phạm PL.
Cáo trạng ngày 29/11/2013 xác định cả hai đều bị VKS ND TP HN truy tố
với tội danh: “Buôn bán hàng giả” tại Điểm C, K2 Điều 156 BLHS.


II- KẾ HOẠCH XÉT HỎI
1.

Kế hoạch xét hỏi đối với bị cáo Huy


1.1 Bị cáo cho biết quê quán, trình độ học vấn, ngày tháng năm sinh?
1.2 Bị cáo có biết số hàng hóa bị bắt giữ là hàng giả không, hay chỉ biết là hàng
Trung Quốc giá rẻ thôi?
1.3 Theo biên bản hỏi cung bị can ngày 5 tháng 9 năm 2013, bị cáo khai nhận với
cơ quan điều tra rằng bản thân bị cáo và gia đình cũng dùng dầu gội này trong sinh
hoạt gia đình và thấy tốt. Điều đó có đúng không?
1.4 Bị cáo có mua hàng hoá được thanh lý từ các cơ quan chức năng không? Kể cả
trực tiếp hoặc gián tiếp, bao nhiêu lần và số lượng là khoảng bao nhiêu?
1.5 Khi mua thanh lý từ các cơ quan chức năng thì bị cáo có được các cơ quan
chức năng giải thích lý do thanh lý và nguồn gốc xuất xứ và chất lượng của hàng
hoá đó không?
1.6 Sau khi bị bắt và được biết mình mặt hàng mình đang buôn bán là hàng giả, gia
đình bị cáo đã nộp số tiền thu lời bất chính cho cơ quan nhà nước có đúng không?
Tại sao bị cáo lại chủ động nộp số tiền đó?
1.7 Bị cáo đã từng bị xử phạt về tội buôn bán hàng giả hay chưa? Bị cáo có tiền án,
tiền sự không?
1.8 Bị cáo nhận thức như thế nào về hành vi của mình?
2.

Hỏi bị cáo Bùi Kiều Linh:

2.1 Bị cáo cho biết tình hình buôn bán dầu gội đầu ở thị xã Lạng Sơn diễn ra như
thế nào?
2.2 Trong biên bản lời khai của bị cáo có nói là do đã có vài lần mua được hàng
dầu gội đầu từ các cơ quan chức năng thanh lý nên đã không nhận thức được việc
buôn bán dầu gội đầu là hàng giả có đúng không?
3.

Hỏi bà Dung – người làm chứng



Theo biên bản ghi lời khai ngày 2 và 25 tháng 2013, bà đã khai với cơ quan điều
tra rằng trong số dầu gội đầu mà bà mua gom cho bị cáo Trịnh Văn Huy, có rất
nhiều dầu gội đầu do đội 1138 ( đội liên ngành của tỉnh lạng Sơn) bán phát mại.
Điều đó có đúng không?
4.

Hỏi anh Chinh – người làm chứng

Dầu gội đầu mà anh chở cho bà Dung và bị cáo Huy có nguồn gốc xuất xứ từ đâu
anh có biết không?
Anh có thấy loại dầu gội này được bày bán phổ biến ở thị xã Lạng Sơn không?


III.

BẢN LUẬN CỨ BÀO CHỮA CHO BỊ CÁO TRỊNH VĂN HUY

Kính thưa : - Hội đồng xét xử;
- Thưa vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà nội;
- Cùng toàn thể quý vị tham gia phiên tòa ngày hôm nay!
Tôi : luật sư Trương Thị Dung – đoàn luật sư thành phố Hà Nội, thuộc văn phòng
luật sư Lan Dung Law . Tôi tham gia phiên tòa ngày hôm nay với tư cách là luật sư
bào chữa cho bị cáo Trịnh Văn Huy để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo
trong vụ án “Bùi Thị Kiều Linh, Trịnh Văn Huy buôn bán hàng giả”.
Thưa HĐXX, theo bản cáo trạng số… /KSĐT-KT ngày 29 tháng 11 năm 2013
cũng như các ý kiến được vị đại diện VKS trình bày tại phiên tòa, vị đại diện VKS
cho rằng từ tháng 4/2013 bị cáo Trịnh Văn Huy đã buôn bán các loại dầu gội đầu
giả nhãn mác của các công ty liên doanh Lever Việt Nam và công ty trách nhiệm

hữu hạn Procter & Gamble Việt Nam với giá trị số dầu gội đầu tính theo giá hàng
thật là 345.936.000đ, và buộc bị cáo Huy với tội danh buôn bán hàng giả theo quy
định tại Điều 156 khoản 2 điểm e BLHS.
Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu hồ sơ, tham dự phần hỏi , nghe lời trình bày
của bị cáo Huy và những người có liên quan khác trong vụ án; nghe cáo buộc của
Viện kiểm sát, tôi cho rằng việc truy tố bị cáo Trịnh Văn Huy theo quy định tại
Điều 156 khoản 2 điểm e BLHS với tình tiết định khung là “hàng giả tương đương
với số lượng hàng thật có giá trị từ một trăm năm mươi triệu đồng đến dưới năm
trăm triệu đồng” là không có cơ sở, bởi lẽ:
Thứ nhất, Không có đầy đủ chứng cứ thuyết phục và khách quan để cáo buộc
thân chủ tôi (bị cáo Trịnh Văn Huy) đã buôn bán 1.057 thùng dầu gội đầu giả với
giá trị tính theo giá hàng thật là 345.936.000đ, bởi lẽ:
- Theo bản yêu cầu giám định số 385/PC15 ngày 17 tháng 8 năm 2013, liên quan
đến hành vi của bị cáo Trịnh Văn Huy, cơ quan điều tra chỉ yêu cầu giám định đối
với một số mẫu tang vật thuộc 10 thùng gội đầu Clear và 10 thùng gội đầu Sunsilk
phát hiện trên xe ô tô 29K-1676 của Nguyễn Hùng Chinh vào ngày 16 tháng 8 năm
2013, 18 thùng dầu gội đầu các loại Clear, Sunsilk, Pantene, Head&Shoulders,
Rejoice khi khám xét khẩn cấp nhà bị cáo Huy vào ngày 16 tháng 8 năm 2013, và
21 thùng dầu gội đầu các loại Pantene, Head&Shoulders, Rejoice, Sunsilk do Ngô


Tạo Lợi tẩu tán giúp cho bị cáo Huy vào ngày 16 tháng 8 năm 2013. Cũng theo
bản kết luận giám định số 113611/PC215 ngày 22 tháng 8 năm 2013, cơ quan giám
định cũng chỉ đưa ra kết luận giám định rằng “48 gói dầu gội đầu Clear (loại 7ml)
và 48 gói dầu gội đầu Sunsilk (loại 6ml) của Nguyễn Hùng Chinh đều là dầu gội
đầu giả; 48 gói dầu gội đầu Sunsilk (loại 6ml) của Ngô Tạo Lợi đều là dầu gội đầu
giả; 2 gói dầu gội đầu Sunsilk (loại 6ml) và 3 gói dầu gội đầu Clear (loại 7ml) của
Trịnh Văn Huy đều là dầu gội đầu giả”, chứ không hề đưa ra bất kỳ kết luận giám
định nào đối với bất kỳ mẫu vật nào khác ngoài số hàng hóa nêu trên. Nói cách
khác, cơ quan điều tra và VKS chỉ có thể nhận định rằng 20 thùng dầu gội Clear và

Sunsilk phát hiện trên xe ô tô 29K-1676 của Nguyễn Hùng Chinh vào ngày 16
tháng 8 năm 2013, 18 thùng dầu gội đầu các loại thu giữ được khi khám xét khẩn
cấp nhà bị cáo Huy vào ngày 16 tháng 8 năm 2013, và 21 thùng dầu gội đầu các
loại do Ngô Tạo Lợi tẩu tán giúp bị cáo Huy vào ngày 16 tháng 8 năm 2013 là giả,
và bị cáo Trịnh Văn Huy đã buôn bán tổng cộng 59 thùng dầu gội đầu giả các loại,
chứ không phải 1.057 thùng dầu gội đầu giả như đã nêu trong cáo trạng.
Nếu áp dụng mức giá tương đương hàng thật đối với mỗi loại thùng dầu gội
đầu giả theo cáo trạng /KSĐT-KT ngày 29 tháng 11 năm 2013 (BL 119) thì giá trị
tương đương hàng thật của 59 thùng dầu gội nói trên sẽ chỉ là 15.984.000đ, trong
đó:
• 10 thùng dầu gội Clear: 4.320.000đ
• 10 thùng dầu gội Sunsilk: 2.304.000đ
• 39 thùng dầu gội Pantene, Head&Shoulders, Rejoice: 9.360.000đ
- Việc vị đại diện VKS cáo buộc thân chủ tôi đã buôn bán 1.057 thùng dầu gội đầu
giả từ tháng 4/2013 cho đến khi bị bắt chỉ dựa vào sổ sách theo dõi việc bán hàng
của bị cáo Huy và lời khai của bị cáo Huy về số lượng hàng hóa là dầu gội đầu mà
bị cáo Huy đã mua qua bán lại trong khoảng thời gian đó. Tuy nhiên, những thông
tin và tài liệu trên không thể được coi là chứng cứ thỏa đáng, thuyết phục và khách
quan để quy kết rằng toàn bộ số dầu gội đầu mà bị cáo Huy đã từng buôn bán đều
là hàng giả vì:
• Điều 72.2 của BLTTHS quy định “Không được dùng lời nhận tội của bị
can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội.” Điều 10 của BLTTHS cũng quy định


việc xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, cũng
như trách nhiệm chứng minh tội phạm là nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố
tụng. Theo tinh thần của Điều 72.2 và Điều 10 của BLTTHS, cơ quan tiến hành tố
tụng không thể chỉ dựa vào lời khai và những cuốn sổ ghi chép sơ sài của bị cáo
Huy, một người không được đi học do hoàn cảnh nghèo khó, không phân biệt được
hàng nào là của hãng Lever và P&G Việt

• Sổ sách và lời khai của bị cáo Huy chỉ khẳng định số lượng dầu gội đầu mà
bị cáo đã mua qua bán lại là 1057 thùng chứ không khẳng định toàn bộ số dầu gội
đầutrên đều là giả. Hoàn toàn chưa hề có bất kỳ kết luận giám định nào liên quan
đến số dầu gội đầu mà bị cáo Huy đã từng buôn bán, ngoài 59 thùng hàng nêu trên
đã được xác định chính xác là hàng giả theo kết luận giám định số 113611/PC215
ngày 22 tháng 8 năm 2013;
• Theo lời khai của bị cáo Huy cũng như những người làm chứng khác như
bà Dung và anh Chinh được lưu trong hồ sơ và trình bày tại phiên tòa ngày hôm
nay, nguồn gốc hàng hóa của 1.057 thùng dầu gội đầu mà bị cáo Huy buôn bán
cũng rất đa dạng, đến từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó có rất nhiều thùng được
mua lại từ việc bán phát mại của đội 1138 (đội liên ngành của tỉnh Lạng Sơn). Do
đó, không có bằng chứng để khẳng định tất cả các thùng dầu gội đầu do bị cáo Huy
buôn bán là cùng một nguồn gốc, xuất xứ và đều là hàng giả.
Thứ hai, Bên cạnh đó, căn cứ vào hồ sơ vụ án và những lời khai của bị cáo Huy và
những người làm chứng tại phiên tòa ngày hôm nay, tôi cho rằng bị cáo Huy hoàn
toàn không có mục đích phạm tội mua bán hàng giả bởi lẽ:
Dựa vào hiểu biết có phần hạn chế do hoàn cảnh nghèo khó, không được học hành,
bị cáo Huy chỉ nhận thức được rằng hàng hóa mà bị cáo buôn bán là hàng Trung
Quốc sản xuất, được buôn bán nhiều ở Lạng Sơn và Hà Nội, được người tiêu dùng
ưa chuộng do giá cả phải chăng, chứ hoàn toàn không nhận thức được mình đã
buôn bán hàng hóa giả mạo nhãn hiệu và kiểu dáng của LEVER và P&G Việt
Nam. Bản thân bị cáo và gia đình cũng sử dụng chính dầu gội đầu giả mà bị cáo
buôn bán trong sinh hoạt gia đình. Điều này hoàn toàn có thể hiểu được khi mà bị
cáo đã mua một số lượng dầu gội phát mại từ cơ quan nhà nước và mang trong
mình ý nghĩ răng «nếu là hàng giả thì cơ quan nhà nước không bán ». Biên bản hỏi
cung bị can ngày 6 tháng 11 năm 2013 (BL79), biên bản ghi lời khai của người làm


chứng ngày 25 tháng 10 năm 2013 (BL 86) và những lời khai của bị cáo và những
người làm chứng tại phiên tòa ngày hôm nay đã cho thấy rõ bị cáo Huy hoàn toàn

không có mục đích phạm tội mua bán hàng giả. Ngay khi bị bắt và hiểu ra hành vi
của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo đã chủ động giao nộp toàn bộ số tiền
2.114.000đ thu được từ hoạt động buôn bán của mình cho cơ quan điều tra như
được ghi nhận tại Biên bản tạm giữ đồ vật, tài sản số 65 ngày 8 tháng 11 năm 2013
(BL 37). Đối với một gia đình nghèo khó như gia đình của bị cáo Huy thì số tiền
này thật sự là cả một gia tài, và nó cho thấy sự ăn năn của bị cáo về những hành vi
do mình gây ra.
Từ những phân tích và lập luận nêu trên, tôi cho rằng hoàn toàn không có cơ
sở để truy tố thân chủ tôi về tội buôn bán hàng giả theo điều 156 của BLHS, kể cả
theo khung hình phạt nhẹ nhất. Giá trị tương đương hàng thật của 59 thùng dầu gội
đầu giả mà thân chủ tôi buôn bán và cơ quan tiến hành tố tụng đã chứng minh được
là hàng giả chưa vượt quá mức giá trị “ba mươi triệu đồng” để truy tố bị cáo theo
điều 156 của BLHS. Hành vi của bị cáo hoàn toàn xuất phát từ việc nhận thức hạn
chế, chứ không phải cố ý phạm tội, và cũng không cấu thành tội mua bán hàng giả,
hành vi của bị cáo có chăng chỉ vi phạm hành chính. Mặt khác, cơ quan tiến hành
tố tụng hoàn toàn không đưa ra bất cứ bằng chứng thuyết phục, khách quan nào để
chứng tỏ rằng hậu quả của những hành vi mà bị cáo gây ra là nghiêm trọng và đáng
phải truy cứu trách nhiệm hình sự.
Do đó, tôi kính đề nghị HĐXX kiểm tra, xem xét đánh giá chứng cứ một
khách quan toàn diện, có lý có tình để từ đó vận dụng khoản 2 điều 107 Bộ luật
TTHS “hành vi không cấu thành tội phạm” tuyên bị cáo Trịnh Văn Huy vô tội.
Tôi tin tưởng vào phán quyết công minh của HĐXX
Trân trọng cảm ơn HĐXX, cảm ơn các quý vị trong phiên tòa đã lắng nghe.
Luật sư: Trương Thị Dung.


………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………


………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………...... .



×