DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Chủ nghĩa tư bản
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đầu tư nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chữ viết tắt
CNTB
CNH, HĐH
ĐTNN
FDI
(Foreign Direct Investment)
Hỗ trợ phát triển chính thức
ODA
(Official Development Assistance)
Kinh tế - xã hội
Khu công nghiệp
Nguồn nhân lực
Sản xuất - kinh doanh
Tổng sản phẩm trên địa bàn
KT - XH
KCN
NNL
SX - KD
GRDP
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1.
VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
Trang
3
13
1
ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở THÀNH
PHỐ HÀ NỘI - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM
1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và đặc điểm của đầu tư trực
tiếp nước ngoài
1.2. Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến vai
trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh
tế - xã hội ở thành phố Hà Nội
1.3. Kinh nghiệm phát huy vai trò của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đối với phát triển kinh tế - xã hội ở một số tỉnh,
thành phố trong cả nước và bài học kinh nghiệm cho
thành phố Hà Nội
Chương 2. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở thành phố
Hà Nội
2.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển
kinh tế - xã hội ở thành phố Hà Nội, nguyên nhân và
những vấn đề đặt ra
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Quan điểm cơ bản phát huy vai trò của đầu tư trực tiếp
nước ngoài đối với phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố
Hà Nội
3.2. Giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của đầu tư trực tiếp
nước ngoài đối với phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố
Hà Nội
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
13
21
37
45
45
50
73
73
78
99
100
105
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, kết hợp hữu hiệu hai loại nguồn
lực này phục vụ công cuộc phát triển đất nước là chủ trương nhất quán và
xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. Nội dung có tính xuyên suốt là Đảng và
Nhà nước ta là luôn coi các nguồn lực trong nước đóng vai trò quyết định, các
nguồn lực bên ngoài đóng vai trò quan trọng và sự kết hợp giữa hai loại
nguồn lực này có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự phát triển đất nước. Trong
điều kiện hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới
hiện nay, các nguồn ngoại lực đầu tư vào nước ta ngày càng nhiều và theo các
kênh rất đa dạng, phong phú. Trong đó, phải kể đến nguồn vốn đầu tư có ý
nghĩa quan trọng, đã và đang có những đóng góp to lớn cho quá trình phát
triển đất nước là nguồn vốn FDI.
Ở phạm vi của một quốc gia hay một địa phương tiếp nhận vốn, FDI có
vai trò to lớn trong việc thúc đẩy phát triển KT - XH. Thực tiễn phát triển KT
- XH ở nước ta cho thấy, FDI được nhìn nhận như là một trong những “trụ
cột” của tăng trưởng kinh tế, góp phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH, HĐH, làm tăng nguồn thu ngân sách và đẩy mạnh xuất khẩu, thúc đẩy
kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật phát triển, chuyển giao công nghệ hiện đại,
giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng NNL... Nhờ có những đóng góp
quan trọng của khu vực FDI mà nước ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao trong nhiều năm và được biết đến như một quốc gia năng động, đổi
mới, thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế.
Với vị thế “là trái tim của cả nước”, Hà Nội có nhiều tiềm năng phát
triển và được coi là địa bàn năng động, hấp dẫn, đem lại nhiều cơ hội cho các
nhà đầu tư trong và ngoài nước. Qua hơn 25 năm thu hút ĐTNN, hoạt động
thu hút và sử dụng FDI ở thành phố Hà Nội đã đạt được nhiều kết quả tích
3
cực, góp phần tạo sự chuyển biến căn bản trong đời sống KT - XH và thúc
đẩy quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Thông qua việc thu hút và
sử dụng FDI, nhu cầu vốn đầu tư phát triển của Hà Nội được bổ sung đáng kể;
đồng thời, FDI đã có những đóng góp như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng
nguồn thu ngân sách, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo việc làm, tăng thu nhập, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH... Ngoài ra, việc thu
hút và sử dụng FDI còn tạo nguồn lực bổ sung về công nghệ, thị trường, kinh
nghiệm quản lý và lao động trình độ cao với phong cách công nghiệp, góp
phần nâng cao trình độ phát triển nhiều mặt của Thành phố. Tuy nhiên, cùng
với nhiều kết quả đáng ghi nhận, cũng còn có những vấn đề nảy sinh như vấn
đề chuyển giao công nghệ chưa được đúng cam kết, vấn đề “chuyển giá” ra
nước ngoài, hiệu quả của FDI còn thấp và chưa tạo được tác động lan tỏa tới
các khu vực kinh tế khác, tình hình trì hoãn và rút vốn đầu tư gia tăng, những
ảnh hưởng tiêu cực của FDI đến môi trường...
Thực hiện Nghị quyết số 15/2008/QH12 ngày 29/ 5/ 2008 “Về việc
điều chỉnh địa giới hành chính tại thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên
quan” của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thành phố Hà
Nội đã được mở rộng (bao gồm Hà Nội cũ, toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê
Linh (Vĩnh Phúc) và 4 xã của huyện Lương Sơn (Hòa Bình)). Những đặc thù
riêng của từng địa phương về tự nhiên và KT - XH khác nhau đã tạo nên sự
đa dạng, phong phú về nguồn lực cho Hà Nội sau mở rộng, đồng thời, cũng
kéo theo là sự cồng kềnh hơn của bộ máy quản lý nhà nước. Thực tiễn đó đặt
ra yêu cầu đánh giá hoạt động FDI một cách toàn diện. Theo đó, cần có
nghiên cứu, đánh giá chi tiết những kết quả đã đạt được của FDI đối với phát
triển KT - XH ở thành phố Hà Nội kể từ khi điều chỉnh địa giới hành chính.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Vai trò của FDI đối
với phát triển KT - XH ở thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ, chuyên
ngành kinh tế chính trị.
4
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Các công trình nghiên cứu có liên quan đến vai trò của FDI
Nguyễn Tấn Vinh (2012), Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản
Chính trị - Hành chính, Hà Nội. Công trình đã khái quát các vấn đề lý luận về
FDI (khái niệm, đặc trưng, loại hình), khái niệm cơ cấu kinh tế, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và các kênh ảnh hưởng của FDI tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành (chuyển giao công nghệ góp phần vào tăng trưởng kinh tế ngành, vai
trò của FDI đối với NNL và lao động, sự tương tác giữa FDI với vốn trong
nước trong phát triển kinh tế ngành...). Phân tích, làm rõ thực trạng ảnh hưởng
của FDI đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch nội ngành
công nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2001 - 2010, rút ra đánh
giá về ảnh hưởng không đều của FDI tới tăng trưởng của các ngành trong cơ
cấu kinh tế ngành nói chung và cơ cấu ngành công nghiệp trên địa bàn Thành
phố nói riêng. Từ đó, công trình đã chỉ rõ một số vấn đề đặt ra đối với FDI
trong chuyển dịch cơ cấu ngành của thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất một
số giải pháp như nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về FDI, cải
thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện quy hoạch, thực hiện đa dạng hóa và nâng
cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư FDI trên địa bàn Thành phố.
Nguyễn Thị Tuệ Anh (2006), Tác động của đầu tư trực tiếp nước
ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Dự án SIDA, Hà Nội. Công trình đã
nghiên cứu, trình bày rõ những vấn đề về diễn biến thu hút và thực hiện FDI
tại Việt Nam giai đoạn 1988 - 2003, vai trò của khu vực FDI với nền kinh tế
Việt Nam trên các vấn đề như FDI đối với vốn đầu tư xã hội và tăng trưởng
kinh tế, với việc nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp và xuất khẩu, với
việc làm và cải thiện NNL... và tổng quan về chính sách thu hút FDI ở Việt
Nam. Đồng thời, công trình đã đưa ra cơ sở lý thuyết về tác động của FDI tới
tăng trưởng kinh tế, cũng như điểm qua một số nghiên cứu định lượng về tác
5
động của FDI tới tăng trưởng kinh tế. Trên cơ sở phân tích, đánh giá vai trò,
tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế qua các kênh đầu tư và đặc biệt là tác
động tràn của FDI, công trình đã rút ra một số kết luận và kiến nghị chính
sách nhằm tăng cường thu hút và phát huy vai trò, tác động tích cực của FDI
đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam, đồng thời tạo cơ hội cho xuất hiện tác động
tràn và tăng khả năng hấp thụ các tác động tràn tích cực của FDI cho các
doanh nghiệp trong nước.
Nguyễn Hải Hà (2014), Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với
việc làm tại thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn Thạc sĩ kinh tế,
Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Thái Nguyên. Công trình đã trình
bày có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của FDI đối với việc làm.
Phân tích, làm rõ sự ảnh hưởng của các nhân tố tự nhiên và nhân tố KT - XH
tới vấn đề việc làm, thực trạng thu hút FDI và việc làm tại thành phố Vĩnh
Yên, đánh giá những kết quả đạt được, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân.
Trên cơ sở đó, công trình đã đề xuất quan điểm, định hướng và mục tiêu đề ra
đối với hoạt động thu hút FDI; đồng thời kiến nghị một số giải pháp nhằm
tăng cường thu hút FDI vào thành phố Vĩnh Yên như chú trọng phát triển
NNL, tăng cường đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật đối với các KCN đã hình
thành tạo sự hấp dẫn các nhà đầu tư, phát triển công nghiệp phụ trợ, cải cách
thủ tục hành chính.
Nguyễn Tiến Long (2011), Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Thái Nguyên, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Đại
học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Công trình đã trình bày, làm rõ những vấn đề
lý luận cơ bản như quan niệm về FDI, tác động của FDI, vai trò của FDI đối
với phát triển KT - XH và khái lược một số lý thuyết về thu hút FDI nhằm
chuyển dịch cơ cấu, đồng thời làm rõ những vấn đề về cơ cấu kinh tế, cơ cấu
kinh tế hợp lý, các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chủ yếu của địa
phương... Trên cơ sở phân tích thuận lợi, khó khăn và thực trạng thu hút FDI
6
nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Thái Nguyên, cũng như phân tích
thực trạng tác động của FDI đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Thái
Nguyên giai đoạn 1993 - 2009, công trình đã đề xuất quan điểm và một số
giải pháp chủ yếu thu hút FDI nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tiến bộ của tỉnh Thái Nguyên đến năm 2015, tầm nhìn 2030.
Nguyễn Thị Cành và Trần Hùng Sơn (2009), Vai trò của đầu tư trực
tiếp nước ngoài đối với phát triển và tăng trưởng kinh tế Việt Nam, Tạp chí
Phát triển kinh tế, số 225. Công trình đã giới thiệu tổng quan về tình hình FDI
tại Việt Nam (bao gồm quá trình hoàn thiện khung pháp luật và thu hút FDI).
Đồng thời, trình bày vai trò của FDI đối với phát triển và tăng trưởng kinh tế
trong giai đoạn 1988 - 2008, thông qua các nội dung như FDI đối với vốn đầu
tư xã hội, FDI đối với tăng sản lượng công nghiệp và xuất khẩu, FDI với tạo
việc làm, tăng nguồn thu ngân sách nhà nước và các cân đối vĩ mô, FDI với
tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế Viêt Nam và mô hình định lượng tác
động của FDI đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Trên cơ sở phân tích, đánh
giá toàn diện vai trò của FDI đối với phát triển và tăng trưởng kinh tế Việt
Nam và chỉ rõ những hạn chế trong thu hút FDI (như tỷ lệ vốn giải ngân còn
thấp, mức đóng góp cho ngân sách nhà nước của khu vực FDI còn khiêm tốn,
đầu tư mất cân đối theo ngành nghề và vùng, chưa chú trọng đến môi trường
đầu tư...), công trình đã đề xuất các giải pháp tăng cường thu hút FDI.
Nguyễn Anh Tuấn (2007), Chuyển giao công nghệ qua FDI: Thực tiễn
ở một số nước đang phát triển và Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số
344. Công trình đã trình bày các vấn đề về công nghệ, chuyển giao công nghệ,
chuyển giao công nghệ qua FDI và các lý thuyết về tác động của FDI tới
chuyển giao công nghệ. Phân tích thực tiễn chuyển giao công nghệ ở các nước
đang phát triển dưới góc độ chi phí và lợi ích, phân tích chuyển giao công
nghệ cả phần cứng và phần mềm, cũng như các điểm cần lưu ý trong quá trình
tiếp nhận chuyển giao công nghệ qua FDI tại các nước đang phát triển. Đánh
7
giá, phân tích chuyển giao công nghệ qua FDI tại Việt Nam và từ đó, kiến
nghị một số giải pháp thúc đẩy hơn nữa hiệu quả quá trình chuyển giao công
nghệ qua FDI.
* Các công trình nghiên cứu có liên quan đến vai trò của FDI đối với
phát triển KT - XH ở thành phố Hà Nội
Nguyễn Thị Ngọc Mai (2010), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội,
Luận văn Thạc sĩ kinh tế chính trị, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội. Công trình đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về FDI,
phân tích và đánh giá vai trò, cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến FDI. Phân
tích thực trạng thu hút và sử dụng FDI, đồng thời phân tích, đánh giá những
đóng góp của FDI đối với phát triển KT - XH ở thành phố Hà Nội, chỉ rõ
những vấn đề còn tồn tại cần khắc phục. Trên cơ sở đó, đề ra những giải pháp
đẩy mạnh thu hút và sử dụng hiệu quả FDI nhằm phát huy hơn nữa những
đóng góp của FDI cho phát triển KT - XH ở thành phố Hà Nội.
Trần Thanh Tùng (2011), Thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ kinh tế chính trị, Trung tâm Đào tạo và
Bồi dưỡng Giảng viên lý luận chính trị - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Công trình đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về thu hút và sử dụng FDI,
phân tích kinh nghiệm thực tiễn về thu hút và sử dụng FDI ở một số thành
phố trên thế giới cũng như trong nước, đồng thời rút ra một số bài học kinh
nghiệm đối với Hà Nội. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng thu hút và
những đóng góp có hiệu quả của FDI trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2000 2009, công trình đã đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới việc thu hút và
phát huy hơn nữa những đóng góp của FDI đối với phát triển KT - XH ở Thủ
đô Hà Nội giai đoạn 2010 - 2020.
Phạm Trung Hiếu (2015), Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài của thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh
tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Công trình đã làm sáng tỏ và trình bày
8
có hệ thống các vấn đề như cơ sở lý luận về chính sách thu hút FDI, vai trò
của FDI đối với sự phát triển KT - XH ở thành phố Hà Nội, kinh nghiệm về
chính sách thu hút FDI nhằm phát huy những đóng góp của FDI ở một số địa
phương trong nước và một số nước trong khu vực, từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm. Trên cơ sở phân tích rõ những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách thu
hút FDI và thực trạng chính sách thu hút FDI của thành phố Hà Nội giai đoạn
2001 - 2013, công trình đã đề ra phương hướng và những giải pháp hoàn thiện
chính sách thu hút FDI nhằm phát huy hơn nữa những đóng góp của FDI đối
với sự phát triển KT - XH ở thành phố Hà Nội.
Nguyễn Thị Thúy Hằng (2012), Môi trường đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Thủ đô Hà Nội: Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ kinh
tế, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Công trình
đã trình bày cơ sở lý luận chung về khái niệm, yếu tố cấu thành, các tiêu chí
đánh giá môi trường FDI; vai trò của FDI đối với tăng trưởng và phát triển
kinh tế và kinh nghiệm cải thiện môi trường FDI. Nghiên cứu thực trạng của
môi trường FDI của Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2001 - 2011 trên các vấn đề
như lợi thế và khó khăn của môi trường FDI, những hiệu ứng của môi
trường FDI đối với sự phát triển KT - XH và đánh giá toàn diện môi trường
FDI của Thủ đô Hà Nội qua các tiêu chí. Trên cơ sở đó, công trình đã đưa ra
một số khuyến nghị chính sách và giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường
FDI theo hướng phát huy vai trò của FDI đối với quá trình phát triển KT XH Thủ đô Hà Nội.
Phùng Xuân Nhạ và Vũ Thanh Hương (2010), Đầu tư trực tiếp nước
ngoài với sự phát triển của tại thành phố Hà Nội trong thời kỳ đổi mới và hội
nhập quốc tế, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 1000 năm Thăng
Long - Hà Nội: “Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì
hòa bình”, Hà Nội. Công trình đã đánh giá toàn diện những đóng góp của
FDI (đóng góp vào tổng vốn đầu tư xã hội, tăng trưởng kinh tế và ngân sách
9
nhà nước, xuất khẩu, chuyển giao công nghệ, tạo việc làm và thu nhập) và
những tác động tiêu cực của FDI đối với sự phát triển của Hà Nội. Trên cơ sở
phân tích toàn diện những đóng góp và tác động tiêu cực, công trình đã kiến
nghị các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò tích cực của FDI đối với sự
phát triển của thành phố Hà Nội.
Từ tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, có thể thấy, các công
trình nghiên cứu có liên quan đến vai trò của FDI nói chung và vai trò của
FDI đối với phát triển KT - XH ở thành phố Hà Nội nói riêng đã làm rõ được
các vấn đề về quan niệm, đặc điểm, các hình thức và những nhân tố ảnh
hưởng đến vai trò của FDI, những đóng góp và cả những hạn chế của FDI
trong phát triển KT - XH, từ đó các công trình đề xuất các giải pháp phát huy
vai trò của FDI đối với phát triển KT - XH dưới những góc độ nghiên cứu,
tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ dừng lại ở nghiên
cứu theo những lát cắt riêng về vai trò của FDI trong quá trình phát triển KT XH. Đặc biệt, chưa có công trình nào đánh giá một cách có hệ thống, toàn
diện về vai trò của FDI đối với phát triển KT - XH ở thành phố Hà Nội.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của FDI đối với phát triển
KT - XH ở thành phố Hà Nội. Từ đó, đề xuất những quan điểm cơ bản và giải
pháp chủ yếu phát huy vai trò của FDI đối với phát triển KT - XH ở thành
phố Hà Nội trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải cơ sở lý luận về vai trò của FDI đối với phát triển KT - XH
ở thành phố Hà Nội và kinh nghiệm phát huy vai trò của FDI đối với phát
triển KT - XH ở một số tỉnh, thành phố trong cả nước, từ đó rút ra bài học
kinh nghiệm cho thành phố Hà Nội trong việc phát huy vai trò của FDI đối
với phát triển KT - XH.
10
- Đánh giá thực trạng vai trò của FDI đối với phát triển KT - XH ở
thành phố Hà Nội.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp phát huy vai trò của FDI đối với phát
triển KT - XH ở thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của FDI đối với phát triển KT - XH dưới góc độ kinh tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung
Nghiên cứu về vai trò của FDI đối với phát triển KT - XH ở thành phố
Hà Nội trên các nội dung như FDI góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
tăng nguồn thu cho ngân sách, đẩy mạnh xuất khẩu, đẩy nhanh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng
kinh tế - kỹ thuật, chuyển giao công nghệ theo hướng hiện đại, giải quyết việc
làm, tăng thu nhập, nâng cao chất lượng NNL và bảo vệ môi trường.
- Về không gian
Nghiên cứu ở thành phố Hà Nội.
- Về thời gian
Nghiên cứu từ ngày 01/ 8/ 2008.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử. Tác giả đứng trên lập trường duy vật đề luận giải cơ sở lý
luận và xem xét, đánh giá các hiện tượng, các vấn đề thực tiễn về vai trò của
FDI đối với phát triển KT - XH ở thành phố Hà Nội
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học; đồng thời,
kết hợp vận dụng các phương pháp nghiên cứu khác như thống kê, so sánh,
11
phân tích tổng hợp và phương pháp chuyên gia để thực hiện mục đích, nhiệm
vụ của đề tài.
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn được nghiên cứu thành công là góp phần vào việc xem xét,
đánh giá vai trò của FDI đối với phát triển KT - XH, đồng thời, là gợi ý trong
công tác hoạch định chủ trương, chính sách nâng cao vai trò của FDI đối với
phát triển KT - XH ở thành phố Hà Nội. Thông qua nghiên cứu, kết quả của
luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về FDI nói chung và
về vai trò của FDI đối với phát triển KT - XH ở thành phố Hà Nội nói riêng.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.
12
Chương 1
VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
- CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM
1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và đặc điểm của đầu tư trực tiếp
nước ngoài
1.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và các hình thức đầu tư trực tiếp
nước ngoài
* Quan niệm về FDI
Nếu như trước chiến tranh thế giới thứ hai, xu hướng vận động chủ yếu
của dòng vốn FDI là từ các nước tư bản phát triển sang các nước kém phát
triển và thuộc địa, thì sau chiến tranh thế giới thứ hai, xu hướng này đã có sự
thay đổi, đã xuất hiện sự đầu tư lẫn nhau giữa các nước tư bản phát triển, xuất
hiện những nước vừa là nơi cung cấp nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài và vừa
là địa điểm tiếp nhận FDI. Đến nay, sự vận động và phát triển của FDI đã thu
hút được rất nhiều sự quan tâm, nghiên cứu của các học giả, cũng như các tổ
chức quốc tế.
- Quan niệm về FDI của các tổ chức, định chế kinh tế quốc tế
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): “FDI nhằm đạt được những lợi ích lâu
dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác
nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý
thực sự doanh nghiệp” [28, tr. 112].
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD): “Đầu tư trực tiếp
được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh
nghiệp, đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối
với việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách: (i) Thành lập hoặc mở rộng
một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu
13
tư; (ii) mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có; (iii) tham gia vào một doanh
nghiệp mới; (iv) cung cấp tín dụng dài hạn (trên 5 năm)” [28, tr. 112].
Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO): “FDI xảy ra khi một nhà
đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác
(nước nhận đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó” [28, tr. 113].
Nhìn chung, cách tiếp cận vấn đề FDI của các tổ chức, định chế kinh tế
quốc tế nhấn mạnh đến mục tiêu thực hiện các lợi ích dài hạn của một chủ thể
cư trú tại một nước (nhà đầu tư trực tiếp) thông qua một chủ thể khác cư trú ở
nước khác (doanh nghiệp nhận đầu tư trực tiếp). Mục tiêu lợi ích dài hạn đòi
hỏi phải có một quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp
nhận đầu tư trực tiếp, đồng thời, nhà đầu tư có một mức độ ảnh hưởng đáng
kể đối với việc quản lý doanh nghiệp này.
- Quan niệm về FDI trong các văn bản luật của Việt Nam
Chủ trương hợp tác đầu tư với nước ngoài nhằm tranh thủ vốn, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường xuất khẩu phục vụ sự nghiệp CNH,
HĐH đã được xác định và cụ thể hoá trong các văn kiện của Đảng trong thời
kỳ đổi mới. Luật ĐTNN tại Việt Nam được ban hành từ cuối năm 1987 đã thể
chế hóa đường lối của Đảng, mở đầu cho việc thu hút và sử dụng nguồn vốn
FDI, theo phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối
ngoại; góp phần thực hiện chủ trương phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp
tác quốc tế.
Trải qua gần 30 năm, Luật ĐTNN tại Việt Nam đã qua nhiều lần được
sửa đổi, bổ sung, những thời điểm đó đánh dấu những mốc phát triển và hoàn
thiện của Luật ĐTNN tại Việt Nam. Luật ĐTNN tại Việt Nam được sửa đổi,
bổ sung lần thứ nhất vào năm 1990 (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật ĐTNN tại Việt Nam 1990), lần thứ hai vào năm 1992 (Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật ĐTNN tại Việt Nam 1992) và đến năm 1996 được
thay mới bằng Luật ĐTNN tại Việt Nam 1996 (luật này cũng đã tiếp tục được
14
sửa đổi, bổ sung năm 2000 - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
ĐTNN tại Việt Nam 2000). Năm 2005, nhằm cải thiện môi trường đầu tư
kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về
đầu tư, tạo “một sân chơi” bình đẳng... Quốc hội nước ta đã ban hành Luật
Đầu tư và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/ 7/ 2006, Luật Đầu tư 2005 ra đời
thay thế Luật ĐTNN và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Năm 2014,
nhằm tiếp tục tháo gỡ những rào cản của hoạt động đầu tư, đồng thời tạo động
lực mới cho sự phát triển, Luật Đầu tư 2014 được ban hành, thay thế cho Luật
Đầu tư 2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/ 7/ 2015.
Nhìn lại quá trình phát triển và hoàn thiện của Luật ĐTNN tại Việt
Nam có thể thấy, quan niệm “FDI” đã được đề cập đến theo những mức độ
khác nhau. Cụ thể:
Theo quy định của Luật ĐTNN tại Việt Nam ban hành năm 1996, “FDI
là việc nhà ĐTNN đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để
tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này” [28, tr. 113].
Theo Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam, luật này không đưa ra khái niệm
“FDI” mà chỉ đưa ra các khái niệm “đầu tư”, “đầu tư trực tiếp”, “ĐTNN” và
“đầu tư ra nước ngoài”.
“Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc
vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định
của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan” [36, tr. 1].
“Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và
tham gia quản lý hoạt động đầu tư” [36, tr. 1].
“ĐTNN là việc nhà ĐTNN đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài
sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư” [36, tr. 2].
“Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài
sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu
tư” [36, tr. 2].
15
Cũng như Luật Đầu tư 2005, Luật Đầu tư năm 2014 của Việt Nam
không đưa ra khái niệm “FDI” mà chỉ đưa ra các khái niệm “đầu tư kinh
doanh” (dùng thay thế cho hai khái niệm trước đây là đầu tư trực tiếp và đầu
tư gián tiếp), “nhà ĐTNN” và “tổ chức kinh tế có vốn ĐTNN”.
“Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt
động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn,
mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp
đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư” [37, tr. 1].
“Nhà ĐTNN là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập
theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt
Nam” [37, tr. 2].
“Tổ chức kinh tế có vốn ĐTNN là tổ chức kinh tế có nhà ĐTNN là
thành viên hoặc cổ đông” [37, tr. 2].
Như vậy, mặc dù Luật Đầu tư 2014 không đưa ra khái niệm về FDI, tuy
nhiên, theo tinh thần của Luật này và các Luật Đầu tư trước đó (đã hết hiệu
lực), có thể hiểu, “FDI là hình thức đầu tư do nhà ĐTNN bỏ vốn đầu tư và
tham gia kiểm soát hoạt động đầu tư ở Việt Nam theo quy định của luật và
các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
* Các hình thức FDI
Có nhiều hình thức FDI, căn cứ theo các tiêu chức phân loại khác nhau
thì FDI có thể được phân chia thành các hình thức khác nhau. Cụ thể:
- Theo “cách thức xâm nhập”, FDI được chia thành hai hình thức
Đầu tư mới (GI - Greenfield Investment): Là việc các chủ đầu tư thực
hiện đầu tư ở nước ngoài thông qua việc xây dựng các DN mới. Đây là hình
thức đầu tư truyền thống của FDI và cũng là hình thức chủ yếu để các nhà đầu
tư ở các nước phát triển đầu tư vào các nước đang phát triển.
Mua lại và sáp nhập (M&A - Merger & Acquisition): Là các chủ
ĐTNN mua lại hoặc sáp nhập hoặc mua lại và sáp nhập một sơ sở SX - KD
16
sẵn có ở nước nhận đầu tư. Hình thức đầu tư này chủ yếu được thực hiện ở
các nước phát triển, các nước công nghiệp mới và rất phổ biến trong những
năm gần đây.
- Theo “quan hệ về ngành nghề, lĩnh vực giữa chủ đầu tư và đối tượng
tiếp nhận đầu tư”, FDI được chia thành 3 hình thức
FDI theo chiều ngang (Horizontal FDI): Là chủ đầu tư tiến hành sản
xuất ở nước nhận đầu tư sản phẩm cùng loại hoặc các sản phẩm tương tự như
sản phẩm mà chủ đẩu tư đã sản xuất ở nước chủ đầu tư. Hình thức này phù
hợp với các chủ đầu tư có lợi thế cạnh tranh (công nghệ, kỹ năng quản lý,... )
trong sản xuất một loại sản phẩm nào đó. Mục đích của hình thức đầu tư này
là mở rộng và thôn tính thị trường ở nước ngoài đối với cùng loại sản phẩm
có lợi thế cạnh tranh ở nước ngoài, do đó thường dẫn đến cạnh tranh độc
quyền. Đây là hình thức đầu tư ra nước ngoài điển hình của Mỹ và được thực
hiện chủ yếu giữa các nước phát triển.
FDI theo chiều dọc (Vertical FDI): Là hình thức đầu tư mà doanh
nghiệp chủ đầu tư và doanh nghiệp nhận đầu tư nằm trong cùng một dây truyền
sản xuất và phân phối một sản phẩm cuối cùng. Hình thức đầu tư này nhằm
khai thác nguyên, nhiên vật liệu hoặc để gần gũi người tiêu dùng hơn thông qua
việc mua lại các kênh phân phối ở các nước nhận đầu tư. Trong quá trình đầu
tư ra nước ngoài, các chủ đầu tư thường chú ý khai thác các lợi thế cạnh tranh
của các yếu tố đầu vào giữa các khâu sản xuất ra một loại sản phẩm trong phân
công lao động quốc tế. Do đó, các sản phẩm thường được hoàn thiện qua các
khâu lắp ráp ở nước nhận đầu tư. Sau đó, các sản phẩm này có thể được nhập
khẩu lại nước chủ đầu tư hoặc xuất khẩu sang nước khác. Đây là hình thức đầu
tư ra nước ngoài điển hình của Nhật Bản (theo mô hình đàn nhạn bay) và được
thực hiện khá phổ biến ở các nước đang phát triển.
FDI hỗn hợp: Là sự kếp hợp giữa FDI theo chiều ngang và FDI theo
chiều dọc.
17
- Theo “định hướng của nước nhận đầu tư”, FDI được chia thành 3
hình thức
FDI thay thế nhập khẩu: Là hoạt động FDI được tiến hành nhằm sản
xuất và cung ứng cho thị trường nước nhận đầu tư các sản phẩm mà trước đây
nước này phải nhập khẩu. Các yếu tố ảnh hưởng nhiều đến hình thức FDI này
là dung lượng thị trường, các rào cản thương mại của nước nhận đầu tư và chi
phí vận tải.
FDI tăng cường xuất khẩu: Thị trường mà hoạt động đầu tư này nhắm
tới không phải hoặc không chỉ dừng lại ở nước nhận đầu tư mà là các thị
trường rộng lớn hơn trên toàn thế giới. Các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
dòng vốn FDI theo hình thức này là khả năng cung ứng các yếu tố đầu vào với
giá rẻ của các nước nhận đầu tư như nguyên, nhiên vật liệu, bán thành phẩm.
FDI theo các định hướng khác của Chính phủ: Chính phủ nước nhận
đầu tư có thể áp dụng các biện pháp khuyến khích đầu tư để điều chỉnh dòng
vốn FDI theo đúng ý định của mình.
- Theo định hướng của chủ đầu tư, FDI được chia thành hai hình thức
FDI phát triển (Expansionary FDI): Là hình thức đầu tư nhằm khai
thác các lợi thế về quyền sở hữu của doanh nghiệp ở nước nhận đầu tư. Hình
thức đầu tư này giúp chủ đầu tư tăng lợi nhuận bằng cách tăng doanh thu nhờ
mở rộng thị trường nước ngoài.
FDI phòng ngự (Defensive FDI): Là hình thức đầu tư nhằm khai thác
nguồn lao động rẻ ở các nước nhận đầu tư với mục đích giảm chi phí sản xuất
và như vậy lợi nhuận của các chủ đầu tư cũng sẽ tăng lên.
- Theo “hình thức pháp lý”, FDI thường có các hình thức sau
Tùy theo qui định của luật pháp nước nhận đầu tư, FDI có thể được tiến
hành dưới nhiều hình thức pháp lý khác nhau. Ở Việt Nam, FDI được thực
hiện dưới các hình thức pháp lý chủ yếu như:
18
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Là doanh nghiệp thuộc sở hữu
của nhà ĐTNN, do nhà ĐTNN thành lập tai Việt Nam, tự quản lý và tự chịu
trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Đây là hình thức FDI không có sự tham
gia của chủ đầu tư Việt Nam.
Doanh nghiệp liên doanh: Là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam
trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa hai hoặc nhiều bên, trường hợp đặc biệt
có thể được thành lập trên cơ sở hiệp định ký kết giữa chính phủ Việt Nam với
chính phủ nước ngoài, để tiến hành đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Đây là
hình thức FDI có sự tham gia của cả chủ đầu tư Việt Nam và chủ ĐTNN.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (gọi tắt là hợp đồng BCC): Là hợp đồng
đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi
nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập tổ chức kinh tế.
Bên cạnh ba hình thức trên, ở Việt Nam, FDI còn được thực hiện dưới
các hình thức pháp lý khác như: xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT),
xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO), xây dựng - chuyển giao (BT)
hoặc hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư - hợp đồng PPP (theo
Luật Đầu tư 2014).
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nghiên cứu về FDI có thể thấy, FDI mang đặc điểm chung của hoạt
động đầu tư - đó là hoạt động tìm kiếm lợi nhuận, song nó cũng có những nét
đặc thù. Cụ thể:
- So với các hình thức đầu tư gián tiếp, FDI có đặc điểm
Một là, FDI gắn với hoạt động SX - KD trực tiếp. Nếu như đầu tư gián
tiếp, đặc biệt là đầu tư tài chính, có thể cho phép nhà đầu tư nhanh chóng
thâm nhập cũng như rút vốn khỏi thị trường, từ đó có thể gây bất ổn về kinh
tế - tài chính của nước tiếp nhận đầu tư, thì các chủ FDI khó có khả năng làm
được việc đó (do vốn, công nghệ của nước ngoài đem đến để xây dựng nhà
máy, xí nghiệp bị “chôn chặt” và không dễ dịch chuyển). Vì vậy, FDI thường
19
được đánh giá là nguồn vốn tương đối ổn định, ít gây ảnh hưởng xấu tới tình
hình kinh tế vĩ mô của các nước tiếp nhận và thường được các nước đang phát
triển chú trọng quan tâm thu hút và sử dụng.
Hai là, chủ thể của FDI thường là các công ty xuyên quốc gia và đa
quốc gia. Dòng vốn FDI chủ yếu bắt nguồn từ các nước tư bản phát triển
(chiếm 93% tổng lượng FDI của thế giới) và các tập đoàn xuyên quốc gia có
nguồn gốc từ các nước này cũng chính là những đầu tàu của FDI toàn cầu
(chiếm tới 84% dòng vốn FDI) [23, tr. 13]. Mục tiêu đầu tư là lợi nhuận cao,
do đó FDI thường xuất hiện tại các nước tiếp nhận sau các hình thức đầu tư
gián tiếp của chính phủ các nước xuất khẩu, tức là khi các điều kiện SX - KD
đã được xác lập tương đối đồng bộ. Đồng thời, FDI luôn tập trung vào các
ngành, lĩnh vực, địa bàn có môi trường kinh doanh thuận lợi.
Để thu hút và sử dụng hiệu quả FDI, các nước tiếp nhận đầu tư cần khai
thông, củng cố, phát triển quan hệ đối ngoại với các quốc gia đầu tư, đồng
thời phải tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Đặc điểm
này cũng đòi hỏi việc cải thiện môi trường đầu tư để thu hút và sử dụng hiệu
quả FDI không phải chỉ quan tâm ở phạm vi toàn quốc, mà phải được chú
trọng tại từng địa phương.
- So với hình thức đầu tư trực tiếp trong nước, FDI có đặc điểm
Thứ nhất, FDI thường sử dụng công nghệ khác biệt nhằm tận dụng lợi
thế trong phân công lao động quốc tế để giảm chi phí, giảm sức ép cạnh tranh
từ phía các doanh nghiệp của nước tiếp nhận FDI. Đối với các nước đang phát
triển, FDI thường sử dụng công nghệ với trình độ cao hơn so với cùng ngành
của nước tiếp nhận, do đó, để thu hút và sử dụng hiệu quả FDI, các nước cũng
như từng địa phương tiếp nhận phải chuẩn bị được NNL phù hợp, đặc biệt là
NNL chất lượng cao.
Xu hướng hiện nay của FDI chủ yếu tập trung vào công nghệ chế biến
và dịch vụ, do đây là những ngành có nhiều phân ngành thuộc các lĩnh vực
20
quan trọng nhất của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Hơn nữa, đây là lại
là hai ngành dễ thực hiện hợp tác quốc tế.
Thứ hai, trong hệ thống phân công lao động, FDI thường tập trung vào
những khâu then chốt, công nghệ nguồn để chế tạo sản phẩm. Do đó, để thu
hút và sử dụng có hiệu quả FDI, gia tăng thu nhập trong chuỗi giá trị gia tăng
toàn cầu đối với từng sản phẩm có sự tham gia của FDI, các nước đang phát
triển phải có chính sách phát triển các ngành kinh tế phụ trợ.
1.2. Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến vai trò của
đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh tế - xã hội ở thành
phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm về vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với
phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Hà Nội
* Cơ sở lý luận nghiên cứu vai trò của FDI đối với phát triển KT - XH
ở thành phố Hà Nội
- Xuất phát từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
Kế thừa và phát triển lý luận của C.Mác và bằng những cứ liệu lịch sử
về sự phát triển của độc quyền đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã chỉ rõ bản chất
kinh tế của CNTB độc quyền là sự thống trị của các tổ chức độc quyền và
“xuất khẩu tư bản” là một trong những đặc điểm kinh tế điển hình. Mở đầu
nội dung “xuất khẩu tư bản”, V.I.Lênin viết: “Điểm điển hình của CNTB cũ,
trong đó sự cạnh tranh tự do còn hoàn toàn thống trị, là việc xuất khẩu hàng
hoá. Điểm điển hình của CNTB mới nhất, trong đó các tổ chức độc quyền
thống trị, là việc xuất khẩu tư bản” [26, tr. 455].
Thực tế cho thấy, quá trình tích tụ và tập trung tư bản diễn ra mạnh mẽ
ở một số nước tư bản phát triển đã tạo ra một khối lượng tư bản kếch xù, dẫn
tới hiện tượng “tư bản thừa”. “Tư bản thừa” ở đây là có tính chất tương đối,
nghĩa là thừa so với nơi đầu tư có lợi nhuận thấp ở trong nước và nếu đầu tư
21
ra nước ngoài sẽ thu được lợi nhuận cao hơn. Số “tư bản thừa” này ở các nước
tư bản phát triển sẽ được vận động tìm nơi đầu tư có lợi nhất.
Trong khi đó, các nước đang phát triển có lợi thế về nguồn nguyên liệu,
tài nguyên dồi dào chưa được khai thác, giá nhân công rẻ, giá thuê đất thấp
nhưng thiếu vốn và công nghệ để phát triển kinh tế. Đầu tư vào những nước
này có tỷ suất lợi nhuận cao, sẽ thu được lợi nhuận cao. Như vậy, một bên có
nhu cầu xuất khẩu tư bản, còn một bên có nhu cầu nhập khẩu đã tạo nên sự
vận động của các luồng tư bản, trong đó có FDI giữa các quốc gia. Sự vận
động này có vai trò nhất định đối với quá trình phát triển KT - XH của các
nước tham gia.
- Xuất phát từ chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về mối
quan hệ giữa nội lực và ngoại lực trong xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
Phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực là chủ trương lớn của Đảng ta
trong công cuộc CNH, HĐH đất nước. Nội dung có tính xuyên suốt là Đảng
và nhà nước ta là luôn coi các nguồn lực trong nước đóng vai trò quyết định,
các nguồn lực bên ngoài đóng vai trò quan trọng và sự kết hợp hai loại nguồn
lực này có ý nghĩa hết to lớn đối với sự phát triển đất nước.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII đã nêu rõ “Giữ vững độc lập tự chủ
đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối
ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa
nguồn lực bên ngoài” [14, tr. 84].
Đại hội Đảng IX tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục cải thiện môi trường
đầu tư để thu hút tốt hơn và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Nội
lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau thành nguồn lực
tổng hợp để phát triển đất nước” [15, tr. 166].
Tại Đại hội Đảng lần thứ X (2006), Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá IX, khi kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội IX của Đảng và nhìn lại 20 năm đổi mới, đã rút ra một trong những
22
bài học lớn là “Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát
huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi
trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế,
tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra
sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ
vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa” [16, tr. 71].
Chiến lược Phát triển KT - XH giai đoạn 2011 - 2020, được thông qua
tại Đại hội Đảng lần thứ XI (2011), đã đề ra quan điểm phát triển “Xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng”. Quan điểm này nêu rõ: “Phát huy nội lực và sức mạnh
dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời
đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh
tế độc lập, tự chủ” [17, tr. 102].
Trên cơ sở quan điểm phát triển đã được đề ra trong Chiến lược phát
triển KT - XH 2011 - 2020, qua thực tiễn 5 năm 2011 - 2016 và yêu cầu của
bối cảnh tình hình mới, Đảng ta đã đề ra quan điểm phát triển KT - XH cho
giai đoạn 2016 - 2020. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát
triển KT - XH 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển KT XH 5 năm 2016 - 2020, được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ XII (2016),
đã xác định quan điểm phát triển KT - XH giai đoạn 2016 - 2020, quan điểm
này chỉ rõ: “Phát huy cao nhất các nguồn lực trong nước, đồng thời chủ động
hội nhập quốc tế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để phát
triển nhanh, bền vững” [18, tr. 270 - 271].
Cụ thể hóa những chủ trương nêu trên, trong những năm qua Nhà nước
ta đã ban hành và thực hiện nhiều văn bản pháp luật và chính sách nhằm khơi
dậy các nguồn lực trong nước, đồng thời chú trọng thu hút mạnh các nguồn
lực từ bên ngoài (gồm nguồn lực của các nhà ĐTNN và nguồn vốn ODA).
23
Trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã thực hiện chính sách chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế
quốc tế, hội nhập ngày càng toàn diện và sâu rộng, góp phần huy động các
nguồn ngoại lực và kết hợp có hiệu quả giữa các nguồn nội lực và ngoại lực
phục vụ mục tiêu phát triển đất nước.
Bên cạnh những đóng góp to lớn của các dòng vốn ngoại, những năm
qua, Việt Nam cũng nhận thức rõ những ảnh hưởng tiêu cực, nhất là các dòng
vốn này có thể gây ra những lo ngại đối với ổn định kinh tế vĩ mô. Vì vậy,
trong thời gian gần đây nhiều chính sách của Nhà nước chứa đựng một thông
điệp khá rõ ràng là không tiếp nhận các dòng vốn đầu tư từ bên ngoài bằng
mọi giá, mà cần có chọn lọc căn cứ vào nhiều tiêu chí cụ thể. Điều này sẽ góp
phần nâng cao chất lượng của các dòng vốn nước ngoài, vì vậy, sẽ bổ sung
hữu hiệu hơn cho các nguồn vốn trong nước.
* Quan niệm về vai trò của FDI đối với phát triển KT - XH ở thành phố
Hà Nội
“Phát triển nền kinh tế, đó là quá trình tăng tiến, toàn diện và về mọi
mặt kinh tế, chính trị, xã hội của một quốc gia” [29, tr. 29]. Xét theo khía
cạnh các bộ phận cấu thành, phát triển kinh tế là sự kết hợp một cách chặt chẽ
quá trình phát triển cả hai lĩnh vực của nền kinh tế là lĩnh vực kinh tế và lĩnh
vực xã hội. Trong đó, phát triển lĩnh vực kinh tế của nền kinh tế bao gồm 2
quá trình, đó là sự lớn lên của nền kinh tế (tăng trưởng kinh tế) và quá trình
thay đổi cấu trúc của nền kinh tế (chuyển dịch cơ cấu kinh tế). Sự phát triển
lĩnh vực xã hội là một bộ phận cấu thành trong phát triển nền kinh tế, nó song
hành với phát triển lĩnh vực kinh tế. Phát triển lĩnh vực xã hội của nền kinh tế
thể hiện trên nhiều phương diện, nhưng nhìn tổng quát, đó là việc đảm bảo
tiến bộ xã hội cho con người.
Quá trình phát triển KT - XH luôn chịu ảnh hưởng của các nhân tố kinh
tế và các nhân tố phi kinh tế. FDI là một nhân tố kinh tế, ảnh hưởng cả trực
24
tiếp và gián tiếp đến quá trình phát triển KT - XH của mỗi quốc gia, cũng như
địa phương tiếp nhận đầu tư. Cũng như ở phạm vi quốc gia, những đóng góp
hay ảnh hưởng tiêu cực của FDI đến phát triển KT - XH trên địa bàn địa
phương tiếp nhận đầu tư là những hệ quả của hoạt động FDI, tạo nên những
thay đổi cả theo chiều hướng tích cực và tiêu cực đối với sự phát triển KT XH tại địa phương đó.
“Vai trò” là thuật ngữ thường được dùng để nói về vị trí, chức năng,
nhiệm vụ của sự vật, hiện tượng trong một hoàn cảnh, một mối quan hệ nào
đó. Theo Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê): “Vai trò là chức năng, tác dụng
trong sự phát triển của cái gì đó” [35, tr. 1057]. Vai trò của FDI đối với phát
triển KT - XH ở thành phố Hà Nội ở đây được hiểu là vai trò của một hoạt
động kinh tế, của một khu vực kinh tế trong sự phát triển KT - XH trên địa
bàn Thành phố. Với cách tiếp cận đó, trong phạm vi luận văn, tác giả quan
niệm, “Vai trò của FDI đối với phát triển KT - XH ở thành phố Hà Nội là
những hệ quả, tác dụng của FDI đối với quá trình phát triển KT - XH ở thành
phố Hà Nội”.
Như vậy, theo quan niệm trên, vai trò của FDI đối với phát triển KT XH ở thành phố Hà Nội được thể hiện trong những hoạt động KT - XH có sự
tham gia của FDI như trong quá trình phát triển các ngành kinh tế trong nền
kinh tế, trong hoạt động xuất nhập khẩu, trong phát triển kết cấu hạ tầng kinh
tế - kỹ thuật... của Thành phố. Đồng thời, vai trò đó còn được biểu hiện cả ở
những hoạt động nhằm thúc đẩy, tạo điều kiện cho quá trình phát triển KT XH trên địa bàn Thành phố như thúc đẩy quá trình hoàn thiện hệ thống pháp
luật, cơ chế chính sách, phát triển khoa học công nghệ, đào tạo NNL, mở rộng
và hợp tác quốc tế... Việc phân tích những nội dung vai trò của FDI đối với
phát triển KT - XH ở thành phố Hà Nội sẽ làm rõ hơn quan niệm về vai trò
của FDI đối với phát triển KT - XH ở thành phố Hà Nội.
25