Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Đạo Gia Và Ngôn Ngữ Học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.84 KB, 20 trang )

Đạo Gia Và Ngôn Ngữ Học - Triết Học Hiện Đại (a)

Trước lúc bàn đến Trang tử, chúng tôi đề cập một chút đến thầy của ông - Lão tử.
b
Nghe nói ở phương
Tây, ảnh hưởng của Lão tử vượt xa Khổng tử. Hegel trong các Bài giảng triết học từng đánh giá rất cao
Lão tử. Khổng tử, ngược lại dường như không được ông xem là triết gia. Hegel phán định Khổng tử:
"Khổng tử chỉ là một con người minh triết của thế giới thực tiễn. Trong những ý kiến của ông không có
lấy một giọt triết học tư biện nào, chỉ có một thứ học thuyết đạo đức tinh vi, song từ đó ta không rút ra
được cái gì đặc biệt cả".
c
Theo chỗ chúng tôi biết, ở Việt Nam, từng có người vận dụng chính bản thân
triết học Đức để phản bác lại nhận định của Hegel về Khổng tử. Ông theo dùng triết học Đức, đem tất cả
quy thành quan hệ, trên đà đó, ông tiến lên chứng minh: có cả một hệ thống triết học tư biện trình độ cao
ẩn tàng đằng sau một nội dung thoạt trông thuần tuý là phân tích thực tiễn của Luận ngữ. Học tập Hiện
tượng luận của Husserl, ông dùng cách mà Husserl đã dùng khi nghiên cứu Decarter để nghiên cứu nhận
thức luận của học thuyết Khổng tử, trả lời câu hỏi "Khổng tử tại sao lại nói như vậy?", tức là lí giải cái
nguyên do phát ngôn ở Khổng tử chứ không quá chú ý trước hết vào phân tích nội dung trực tiếp của
ngôn từ Khổng tử. Mặt khác, ông cũng đã dùng ngôn ngữ học để đọc giải cổ triết Trung Hoa. Chẳng hạn,
khi đọc Đạo đức kinh, ông phát hiện thấy Lão tử là triết gia Trung Hoa đầu tiên dám dùng một ngôn ngữ
đơn âm tiết để tiến hành các tư biện triết học. Ta biết, Hán ngữ trong thời đại Lão tử từ đơn giữ tác dụng
chủ đạo, lúc đó nó hãy còn thiếu vốn kinh nghiệm có được nhờ tiếp xúc với ngôn ngữ biến hình như sau
này. Chẳng hạn cuộc tiếp xúc với Phạn ngữ khiến cho Trung Hoa đã có được những bản dịch Kinh Phật
nổi tiếng. Nhà nghiên cứu nhân tiện cũng chỉ ra những giao tiếp ngôn ngữ như vậy thậm chí can hệ đến
cả văn phong của Tống Nho. Từ nhận thức trên, ông nêu câu hỏi: Lão tử đã dùng những thủ pháp nào để
có thể biểu đạt được những tư tưởng triết học khúc triết trong lòng một ngôn ngữ phi tư biện tính như
Hán ngữ? Ông tóm lược một số thủ pháp của nhà triết học. Thứ nhất, cùng một khái niệm Đạo, nhưng để
nhấn mạnh một mặt nào đó trong nội hàm khái niệm, Lão tử đã dùng rất nhiều từ khác nhau. Dùng hình
thức một thuật ngữ biểu đạt nhiều khái niệm triết học khác nhau là một hiện tượng thường thấy trong cổ
triết Trung Hoa. Thứ hai, Lão tử sáng tạo một lối hành văn mới, đem câu văn chia thành nhiều vế đẳng
lập, đối ngẫu. Sự trùng lặp một số chữ cũng như sự thay đổi của một số chữ giữa các phân câu đó, bản


thân chúng cũng là một cách biểu đạt tư tưởng tương ứng. Lão tử muốn chuyển hoá ngôn ngữ Đạo đức
kinh thành cách ngôn, thành ngữ, khiến cho các ý kiến triết học trở thành chân lí vĩnh cửu, phù hợp với
hình thức một cuốn Kinh. Thứ ba, các đoạn trong tác phẩm đều hiệp vần, hình thức đó đem lại cho ngôn
ngữ tác phẩm một ý vị cao siêu, khoác lên cho tác phẩm một sắc thái siêu thời gian. Thứ tư, cú pháp rất
mới mẻ. Câu văn Đạo đức kinh khiến cho người ta khó chịu mà cũng khiến cho người ta thích thú, đem
đến mĩ cảm của sự vững chắc và gân guốc. Điều này đã bắt đầu từ Tả truyện, chỉ có điều Tả truyện thực
hiện một cách kín đáo, còn Đạo đức kinh thì làm một cách công nhiên. Có thể đọc thấy những điều đó
trong phần tự giới thiệu cho bản dịch Đạo đức kinh ra tiếng Việt.
d

Chúng tôi tạm dùng những kinh nghiệm nghiên cứu trên vào việc học tập, nghiên cứu Trang tử - môn đệ
của Lão tử. Trước tiên, xin nói vài lời về ấn tượng chung của cá nhân chúng tôi đối với Trang tử. Ở
Trang tử có mấy điểm hấp dẫn độc giả các thời đại, mà mấy điểm đó cũng chính là những giá trị văn hoá
nhân loại. Bài học lịch sử cận hiện đại càng khiến chúng ta chú ý hơn tới điều này. Thứ nhất, ở Trang tử,
dân chủ gần như là một ý thức tiên thiên. Ông luôn giữ một thái độ đối thoại thường trực. Triết gia Trung
Hoa cổ đại này thấu hiểu từ bản chất tinh thần chân chính của dân chủ và giá trị thực sự của đối thoại.
Trang tử chính là nhà đối thoại vĩ đại mà cũng là một bậc hoạt kê tài giỏi. Học giả Mĩ Mierdon nhận xét:
"Trang tử đã vượt lên trên thái độ bè phái, ông là một nhà phê bình xã hội, nhưng sự phê bình của ông là
khôi hài chứ không phải là ác độc. Công cụ phê bình của ông là đả kích và ngụ ngôn, tiêu điểm của tác
phẩm Trang tử không nghiêng về bên này mà cũng không ngả về bên kia, hoàn toàn không có giọng
thuyết giáo. Đối với những ý niệm mà đến các triết gia còn cảm thấy khó hiểu, ông thừa nhận độc đoán là
vô ích. Ông không vuốt ve hành động ngu ngốc của con người, mà cũng không đường đột chỉ trích.
Trang tử biết khuyết điểm của con người mà cũng vui lòng chấp nhận thực tế đó. Ông thấy được phẩm
đức căn bản khiến thánh nhân đáng là thánh nhân chính là ở chỗ thừa nhận bản thân mình không khác với
mọi người. Trang tử chưa từng tách mình ra khỏi quần thể, cũng không muốn vượt lên trên bọn họ",
"Trong trường hợp tranh luận, do chỗ tính hiếu thắng quá mạnh của các môn đệ của Trang tử (người đời
thường xem họ là đại biểu cho Trang tử) khiến cho Trang tử ra tuồng đối lập chan chát với Huệ Thi, kì
thực Trang tử từng vận dụng rất nhiều các khái niệm triết học của Huệ Thi. Trang tử hiểu rõ rằng: dựa
vào nguyên tắc bổ sung lẫn nhau, nếu như không có sự "đối lập" từ Huệ tử, tư tưởng của ông làm sao có
thể tiến đến sự hoàn thiện?" (Nghiên cứu Trang tử, Lí Thiệu Côn dịch sang tiếng Trung).

Trang tử cổ xuý tự do, bình đẳng, nhấn mạnh giải phóng cá tính cùng với ngôn luận cởi mở. Ông nêu
thuyết "soi sáng từ nhiều nguồn" (nguyên văn: "thập nhật bính xuất") chống lại luận điệu "thiên vô nhị
nhật" (trời không có hai mặt trời), "công hồ dị đoan" (chống lại đa nguyên).
Thứ hai, Trang tử luôn nhấn mạnh cần phải từ bỏ cái dục vọng "phải thắng". Kẻ nào tự cho không có gì
là không biết, mọi sự đều có đáp án, kẻ đó là kém vậy. Trang tử cũng giống như Lão tử bao giờ cũng
khuyên người ta khiêm nhường, không phải là lối khiêm nhường tự mình nhún gối một vâng hai dạ, mà
là đức tự nhận mình chỉ là hạt cát trong sa mạc, quên đi cái tự ngã cao ngạo, là tự xem mình chỉ là một
"mẩu gỗ mục", "một nhúm tro tàn".
e
Sau khi tiếp xúc với Trang tử, người ta cảm thấy trong cuộc đời này
nếu chưa có được cơ hội "thau rửa lòng mình" (trai tâm) "yên tĩnh lãng quên" (toạ vong) hướng tới một
tầng cao - tầng tiếp cận với Đạo, thì cũng không ngại ngay trong cuộc sống phổ thông dưới mặt đất của
kiếp phàm phu tục tử cũng học được một chút tinh thần Trang sinh: "sống một cuộc sống giữ an hoà với
mọi người và muôn vật, sống sao cho cuộc sống trở nên nhẹ nhõm vô tư lự một chút, hà tất phải bậc
thông kim bác cổ, đường đường phẩm tiết mới học nổi Trang tử" (Mierdon, chuyển dẫn từ Nghiên cứu
Trang tử, Lí Thiệu Côn dịch sang tiếng Hán).
Đạo của Trang tử đương nhiên không giống với ý niệm tuyệt đối của Hegel, cũng không giống với lí
niệm của Platon. Có điều, nếu cho phép ví von, chúng tôi sẵn lòng so triết học Lão tử với biện chứng
pháp của Hegel. Có thể nói Lão - Trang chính là những Hegel của Trung Hoa. Chúng tôi đồng ý quan
điểm "triết học Trang tử là khách quan duy tâm chủ nghĩa", nhưng không dám tán đồng nhận định "đặc
sắc chủ yếu của triết học Trang tử là tìm kiếm tự do tinh thần" (quan điểm của tác giả cuốn Triết học
Trang tử và diễn biến của nó - Lưu Tiếu Cảm).
f
Theo ý chúng tôi, đặc sắc chủ yếu của triết học Trang tử
là tinh thần "vô vi". Quan niệm "Đạo" và "vô vi" đó chính là đặc hữu của triết học Trung Quốc. Mierdon
hiểu "vô vi" như sau: "Tinh thần thực sự của vô vi không phải là ở chỗ không làm việc gì cả, mà là giỏi
trong việc ta làm - "vô vi" ấy chính là không cần làm cái mà ta không cần làm, không làm cái vốn không
cần làm, là hợp với nhân tính, tham gia vào vận hành đúng đắn của vạn vật. "Vô vi" là hoàn toàn tự do,
bởi vì nói đã vừa không chuộng võ lực mà cũng không thích bạo lực. "Vô vi" vừa không bị hạn chế bởi
yêu cầu cá nhân, thậm chí cũng không chịu sự chi phối của ý kiến hay bất kì học thuyết nào" (Nghiên

cứu Trang tử, tr. 69, Lí Thiệu Côn dịch sang tiếng Hán).
Kế theo đây, trung thành với sự vận dụng ngôn ngữ học và ấn tượng chung về Trang tử, chúng tôi đi vào
phân tích một đoạn nhỏ trong tác phẩm nổi tiếng của Trang tử - Tề vật luận: Dĩ "chỉ" dụ chỉ chi phi chỉ,
bất nhược dĩ "phi chỉ" dụ chỉ chi phi chỉ dã; dĩ "mã" dụ mã chi phi mã, bất nhược dĩ "phi mã" dụ mã
chi phi mã dã. Thiên hạ nhất chỉ dã, vạn vật nhất mã dã.
Đoạn nhỏ hai câu trên là một nút thắt khó gỡ bậc nhất trong tác phẩm triết học tiêu biểu này của Trang
tử. Để tránh khỏi ngộp thở giữa "rừng chú giải", chúng tôi cố gắng xuất phát từ góc độ triết học ngôn ngữ
hiện đại đề xuất một cách giải thích riêng. Cách ngắt câu, đánh dấu ngoặc kép đối với câu văn Trang tử là
của học giả Văn Nhất Đa. Tôn trọng cách đọc của ông, chúng tôi đồng thời cũng chấp nhận sự xác định
từ loại của ông đối với các từ trong hai câu này (Văn Nhất Đa - Trang tử di cảo). Văn Nhất Đa viết:
Dĩ "chỉ" dụ chỉ chi phi chỉ: chữ "chỉ" thứ hai là nói chỉ trong "sự chỉ rõ" (danh từ trừu tượng), chữ "chỉ"
thứ ba là chữ chỉ trong "thủ chỉ" (ngón tay - danh từ chỉ vật thực), còn từ "chỉ" thứ nhất (tức từ "chỉ" in
đậm, được nhà chú giải hiện đại đặt trong dấu ngoặc kép – LTT) thì gồm cả hai nghĩa đó.
Văn Nhất Đa không giải thích phân câu tiếp theo, chỉ chép nó ra, nhưng đem hai chữ "phi chỉ" đặt vào
trong dấu ngoặc kép. Chúng tôi phán đoán chỉ như vậy thì ông cũng đã có một sự chú giải đối với câu
này, ý ông rất có thể là: "dùng cái mệnh danh của ngôn ngữ
g
(Dĩ "chỉ" ) để nói
h
(dụ) khái niệm, một hoạt
động tư tưởng (chữ "chỉ" thứ hai), không phải là một sự vật thực (chữ "chỉ" thứ ba trong từ "thủ chỉ") thì
nhược bằng không dùng "không phải là ngôn ngữ" - "phi chỉ", để thuyết minh, nói rõ ngôn ngữ không
phải là chính bản thân sự vật" (Chúng tôi hiểu " dĩ "phi chỉ" ngụ…" nghĩa là "dùng cái không phải là
ngôn ngữ để nói..."). Văn Nhất Đa giải thích câu tiếp theo:
dĩ "mã" dụ mã chi phi mã, chữ mã thứ hai là nói chữ "mã" trong "trù mã" (thẻ để tính toán, ghi số), ngày
nay viết là:码 (danh từ trừu tượng), chữ "mã"sau cùng là chỉ ngựa trong chữ "trâu ngựa" (danh từ chỉ vật
thực), chữ "mã" có dấu ngoặc kép thì kiêm cả hai nghĩa trên.
Văn Nhất Đa viết tiếp:
Bất nhược dĩ "phi mã" dụ mã chi phi mã dã - Vạn vật nhất mã dã. Nhất do giai dã.
Chúng tôi hiểu rộng ra ý của ông có thể là: cái thế giới khách quan được diễn đạt trong ngôn ngữ gọi là

vạn vật này đều là kí hiệu. Chúng tôi mạnh dạn suy diễn rộng ra ý của Văn Nhất Đa trong đoạn chú giải
trên:
Dùng ngôn ngữ (nói một cách khái quát, dùng một hệ thống kí hiệu gồm hai mặt của một chỉnh thể ngữ
âm - ngữ nghĩa) hoặc nói cụ thể ở đây, dùng một danh từ (vốn là một kí hiệu bao gồm cái sở chỉ chỉ sự
vật và cái năng chỉ hình thành nên ngữ nghĩa) để giải thích, cắt nghĩa một khái niệm, một danh xưng
không phải chính là bản thân sự vật (chú ý quan hệ giữa ngôn ngữ và thế giới khách quan; quan hệ giữa
từ và vật) - làm một việc như thế chẳng thà dùng không phải là ngôn ngữ (hoặc là nói không dùng ngôn
ngữ - tuy nhiên có thể không dùng ngôn ngữ mà nhận thức được tồn tại hay không - đó là vấn đề tiếp
theo trong nhận thức luận Trang tử, và cũng là một vấn đề lớn của triết học hiện đại) khiến người ta hiểu
ra một tên gọi, một danh từ không phải là bản thân sự vật.
Chú ý: trong câu "dĩ "phi chỉ"..." và "dĩ "phi mã" ....", phi mã và phi chỉ đều được đặt trong dấu ngoặc
kép, chúng tôi xem hai chữ phi chỉ cũng như hai chữ phi mã là liền thành một khối, tức đều là bổ ngữ đối
tượng trực tiếp của "dĩ"; phi mã, phi chỉ trong câu văn Trang Tử đều tương đương với một nhóm danh từ.
Chữ chỉ trong khối "phi chỉ" ở đây, theo chúng tôi nên được hiểu là đề cập đến vấn đề ngôn ngữ: nó vừa
là một danh từ chỉ vật thực (ngón tay), vừa là cái sở chỉ (signifie, signified hoặc significatum) cũng trỏ
cái năng chỉ (signifiant hoặc signiifer, signifians), cũng là chỉ xưng, chỉ xuất, chỉ thị, lại cũng có thể
thông với chữ chỉ trong từ "chỉ dụ"; còn chữ mã trong "phi mã" theo chúng tôi nên được lí giải là vừa
chỉ một loài động vật mà cũng là mã hiệu, mật mã - tóm lại đều đề cập đến chuyện sử dụng ngôn ngữ.
Nhân tiện cũng lưu ý rằng, thuật ngữ năng chỉ, sở chỉ trong ngôn ngữ học vừa dẫn trên, trong tiếng Anh
hoặc tiếng Pháp đều có gốc từ sign. Mà sign là chỉ kí hiệu, kí hiệu ngôn ngữ, ngoài ra cũng chỉ động tác
làm hiệu, động tác "nói" bằng tay, ví dụ nói sign language - ngôn ngữ cử chỉ (Xem Từ điển ngôn ngữ
học hiện đại, Thương vụ ấn thư quán, 2000, hoặc Từ vựng ngôn ngữ Anh Hán - An English-Chinese
lexicon of linguistics, Thương vụ ấn thư quán, 2000).
Chúng ta nên biết rằng một danh xưng chẳng qua chỉ là một kí hiệu gọi thành lời, bản thân nó tồn tại
trong một ngôn ngữ cụ thể - nó có được ý nghĩa (ngữ nghĩa) trong một ngôn ngữ nhất định; còn vật thực
thì tồn tại trong thế giới khách quan cũng với những ý nghĩa của chính nó; bản thân danh xưng, danh từ
không phải là bản thân sự vật; cũng vậy, ngữ nghĩa của một từ không đồng đẳng với ý nghĩa của sự vật
mà từ đó phản ánh. Ngữ nghĩa là tồn tại trong một ngôn ngữ cụ thể, còn ý nghĩa của bản thân sự vật là
tồn tại trong hiện thực khách quan, không vì chúng ta dùng thứ tiếng nào gọi nó lên thành từ mà bị thay
đổi. Đương nhiên ở đây (Tề vật luận), có thể Trang tử còn có ý nói đến hiện tượng "đồng danh dị thực"

của tiếng Hán đương thời. Văn Nhất Đa ít nhất cũng bộc lộ một ý thức như vậy trong giải thích tiếp theo
– "Vạn vật nhất mã dã. Nhất do giai dã". Trang tử tiếp tục nhắc nhở mọi người nên biết là "thiên hạ"
"vạn vật" những cái đó đều là danh xưng, là vấn đề mệnh danh, tên gọi hoặc khái niệm - tức là vấn đề
ngôn ngữ, hoặc nói theo cách nói của Trang tử - đó chỉ là "nhất chỉ" "nhất mã" mà thôi. Văn Nhất Đa chú
giải: "nhất" ở đây là "giai" - đều là. Ông còn nói thêm hai chữ chỉ và mã ở đây đều là danh từ trừu
tượng.
Ngôn ngữ một khi được hiểu là công cụ của tư duy, hệ thống kí hiệu, là sự chỉ, là hành động lập mã thì
việc dùng chính bản thân nó để phân biệt danh xưng, khái niệm với vật thực - việc đó suy cho cùng đã trở
nên thừa mà cũng không giúp ích gì cho một nhận thức luận triệt để. Vật thực tồn tại trong thế giới khách
quan, tính hiện thực của nó không phụ thuộc vào ý thức ngôn ngữ. Khi con người tư biện trong lòng ngôn
ngữ (không thể nào khác được) về vấn đề từ không phải là bản thân vật, vật không phải là bản thân từ
thì, con người dường như bắt đầu cảm thấy một nỗi bế tắc tuyệt vọng, cảm thấy một tình trạng dường
như là đang "chạy quanh chạy quẩn".
Theo Trang tử, phải vượt lên trên ngôn ngữ đạt tới nhận thức trạng thái tồn tại bản-chân-bản-dạng-chưa-
từng-bị-phân-cắt-bởi-ý-thức logic – "dĩ vi hữu vật hĩ, nhi vị thuỷ hữu phong dã" (tạm dịch: thừa nhận tồn
tại vạn vật bởi ngôn ngữ, mà biết bản thân tồn tại vật chưa từng bị cầm cố trong ngôn ngữ). Trang yêu
cầu siêu việt ngôn ngữ để tiếp cận với Đạo (Đạo vừa không thể mô tả bằng ngôn ngữ lại vừa không thể lí
giải được bằng ngôn ngữ. Trang tử, chương XXV, tiết 11). Đầu tiên, từ chỗ biết được "chỉ chi phi chỉ"
"mã chi phi mã" (thừa nhận giới hạn nhận thức thế giới quan do mù mịt trong lòng ngôn ngữ) đi đến chỗ
nhận thức trở lại được chính bản thân nhận thức - tức là trả lời câu hỏi "chúng ta tại sao lại suy nghĩ/ nói
như vậy?". Ví dụ, trên thực tế chúng ta (chúng ta ở đây trước hết chỉ chẳng hạn những người cùng chung
một thứ ngôn ngữ đơn tiết không biến hình) thường vẫn có thói quen dùng một danh từ giải thích một
khái niệm. Nếu bị hỏi dồn danh từ đó nghĩa là gì, chúng ta thường không do dự chỉ ngay vào vật thực -
một cách giản tiện lấy sự vật được biểu đạt bằng cái sở chỉ của danh từ đó đi giải thích bản thân danh từ.
Ví dụ bị hỏi "thực vật" là gì, chúng ta đem "cỏ cây" ra trả lời; nếu bị hỏi tiếp "cây là gì", chúng ta chỉ
ngay vào một cây bất kì trong vườn. Thế nhưng cho đến nay, ngôn ngữ học dường như không phải lúc
nào cũng chú ý phân biệt một cách rạch ròi nghĩa và ngữ nghĩa (theo Phan Ngọc, Mẹo giải nghĩa từ Hán
Việt và chữa lỗi chính tả, Nxb. Thanh niên, 2000, tr. 48, 49). Ngữ nghĩa hoặc nói nghĩa của từ của chữ,
cái quan hệ biểu chỉ (signification) và nghĩa, ý nghĩa (sense) là hai chuyện khác nhau. Ngữ nghĩa học
phải xác định rõ đối tượng của mình. Ý nghĩa, nghĩa thuộc về vật thực. Nghĩa của ngựa, cỏ, ngón tay

chẳng hạn được xác định do các nhà sinh vật học, nghĩa của chúng là nhận thức chung của tất cả các
ngôn ngữ. Còn việc người Hán gọi "thảo", người Anh gọi "grass" - theo Phan Ngọc đó là chuyện hình
thức. Còn như ngữ nghĩa của từ tiếng Hán "thảo" thì lại được xác định thông qua một loạt thao tác chọn
lựa và kết hợp diễn ra trong lòng tiếng Hán. Tức là thông qua đối lập với "thảo mộc" (cây cỏ), "đạo thảo"
(rơm)… mà có được xác lập về nghĩa cho từ "thảo". Nói một cách khái quát, ngữ nghĩa của một từ ngôn
ngữ cụ thể là đặt nó trong trục chọn lựa và kết hợp (lịch đại và đương đại)
j
mới có thể phân biệt ra được.
Mã với tư cách là một con vật - nghĩa đó đối với người Anh hay người Hán đều như nhau, nhưng người
Hán gọi "mã" mà người Anh thì lại định danh thành từ "horse". Ngữ nghĩa của từ "mã" thì hình thành
trong sự đối lập với hàng loạt từ khác trong tiếng Hán cũng giống như ngữ nghĩa của từ "horse" là hình
thành trong lòng tiếng Anh vậy. Nhà nghiên cứu tiếng Hán khi muốn định nghĩa nghĩa của từ mã đương
nhiên sẽ không dắt ra một con ngựa thật (trong từ điển việc có thể minh hoạ bằng hình vẽ con ngựa, đó là
chuyện khác). Nhà nghiên cứu tiếng Hán sẽ thông qua đối lập "mã" với một loạt từ "mã đao" "mã tấu"
"mã giác" (vết tích để lại) "tuấn mã" (ngựa đẹp) để xác định ngữ nghĩa một từ mã cụ thể nào đó. Hiểu
như vậy, chúng ta chính là đang tiến gần đến câu chuyện "mã chi phi mã".
Trên đây, chúng tôi đã cố gắng xác định nội dung đoạn văn của Trang tử. Bây giờ chúng tôi sẽ tiến thêm
một bước thảo luận vì sao Trang tử lại nói như vậy, cố gắng miêu tả cái bối cảnh phát ngôn của Trang tử.
Tức là xuất phát từ một góc độ khác, tìm hiểu sâu hơn tại sao Trang tử lại nói đến vấn đề "chỉ/mã".
Người Trung Quốc, ví dụ nhìn thấy ngựa, nhìn thấy cái sở chỉ trong thực tế của từ "mã" đồng thời tức
khắc trong óc anh ta vang lên cái kí hiệu ngữ âm (/ma/) (chữ Hán viết

) cũng như khi anh ta nghe đến
âm /ma/, lập tức trong đầu sẽ xuất hiện hình ảnh con ngựa - cái hình tượng gắn chặt với cái sở chỉ của từ
mã. Trong tiếng mẹ đẻ của anh ta, quan hệ giữa cái sở chỉ - cho dù là một vật thực (con ngựa), một hành
động (phi) hay một tính chất (béo) và cái vỏ ngữ âm năng chỉ của từ tương ứng dường như là tức thời,
trực tiếp. Bởi vì, mỗi một từ trong tiếng Hán luôn chỉ mang một diện mạo ngữ âm duy nhất. Khác với
trong ngôn ngữ biến hình, lăng kính ngữ pháp của ngôn ngữ châu Âu - như giáo sư Phan Ngọc từng đề
cập, là đa tầng, mỗi một tầng phạm trù ngữ pháp (số, cách, thời, thức, thêm vào đó là vấn đề chức năng
ngữ pháp trong câu cụ thể) sẽ phân cắt mối quan hệ giữa cái sở chỉ và cái vỏ ngữ âm năng chỉ tương ứng

trong một từ, khiến cho cái sở chỉ xuất hiện trong óc một người châu Âu là không rõ ràng trực tiếp như
trong óc người Trung Quốc, nói rộng hơn là trong óc những người nói thứ tiếng không biến hình. Tình
hình đại thể là như vậy. Đối với một người Trung Quốc có học, đặc biệt là những người học/đọc chữ
phồn thể, thực trạng đó có lẽ còn nổi bật hơn. Khác với ngôn ngữ phiên âm của châu Âu, Hán ngữ là một
thứ tiếng dùng văn tự tượng hình, do vậy, nó càng giúp ta nhận thức sâu sắc hơn tình hình trên đây. Có
thể nói, từ trong ngôn ngữ châu Âu không phải là hình tượng trực tiếp của cái sở chỉ mà chỉ là cái hình
tượng vỏ ngữ âm của nó mà thôi. Ngôn ngữ châu Âu căn bản là ngôn ngữ để nghe. Bởi vì, dường như trừ
cái gốc từ dường như không biến đối, còn nữa đi vào trong trạng thái lời nói (luôn luôn như thế) từ bao
giờ cũng biến đổi phần vĩ tố, đánh dấu tư tưởng chủ quan của người nói. Ví dụ, đối với một người Nga
mà nói, sau khi khái niệm ngựa xuất hiện trong đầu, anh ta còn phải tính đến tình hình số ít hay dùng số
nhiều, đặt làm chủ ngữ hay làm tân ngữ, cuối cùng mới lựa chọn một hình thức ngữ âm thích đáng cho từ
ngựa (tất nhiên trong thực tế, đó là một hành vi phản xạ nhanh chóng, chúng tôi chỉ phân tích thành các
trình tự mà thôi - Giáo sư Phan Ngọc đã phân tích tình hình đó trong Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt, chúng
tôi vận dụng ý của ông vào Hán ngữ). Nhưng đối với người Trung Quốc, cái hình tượng mã khách quan
xuất hiện trong óc và hình tượng ngữ âm /ma/ dường như là quan hệ trực tiếp 1 đối 1, giữa chúng không
có một môi giới trung gian nào. Mỗi một người Trung Quốc thường vẫn cảm thấy một từ đơn dường như
luôn có một sắc thái hình tượng cụ thể nhất định. Có thể thấy một điều là tuy đều đồng thời đề cập đến
cùng một cái sở chỉ khách quan, nhưng ấn tượng gợi lên trong lúc nói/viết ở người châu Âu và người
Trung Quốc vẫn có những khác biệt nhất định. Có lẽ đây mới là trở ngại đáng kể nhất trong quá trình
phiên dịch giữa hai ngôn ngữ.
Vì thế khi chúng ta vận dụng lí luận châu Âu "ngôn ngữ là kí hiệu của kí hiệu" vào trong văn hoá Trung
Quốc thì cũng cần có những thận trọng nhất định. Liên quan đến đề tài này chúng tôi chọn dẫn ra đây ý
kiến một của học giả Mỹ và một của học giả Trung Hoa. Học giả người Mỹ J. Claude Evans viết trong
Sách lược của Giải cấu trúc luận: Derida và thần thoại của tiếng nói: "Do chỗ ý niệm trong cái hệ thống
mà tri thức thông qua tự mình lắng nghe chính tiếng nói của mình vốn có cái khởi nguyên tự thân, nên
lĩnh vực của ngôn ngữ học sẽ là ở trong khu vực ngôn thuyết kết hợp thanh âm với ý nghĩa của tiếng nói
ngôn ngữ. Viết chỉ là sự phát sinh tiếp diễn, là cái sở chỉ ngẫu nhiên, đặc thù và ngoại tại và không chân
thực. Nói theo lời của Aristote hoặc Hegel thì đó là kí hiệu của kí hiệu" (J.Claude Evans, Strategies of
Deconstruction Derrida and the Myth of the Voice, Universty of Minnersota Press, Minneapolis Oxford
1991. p. xx~xxi). Liên quan đến việc viết trong ngôn ngữ phương Tây Trương Long Khê trong cuốn Đạo

và Logos: giải thích học văn học cũng nhận xét: "Viết luôn là một thứ sở chỉ nhiều ý, ngoại tại, đặc thù,
ngẫu nhiên và không có tính sáng tạo, tức cũng là một thứ sở chỉ mà giữa ghép viết con chữ và phát âm
có sự tương tự – loại sở chỉ này chính là ký hiệu của ký hiệu" (Zhang longxi, The Tao and The Logos
Literary Hermeneutics, East and West Duke University Press Durham & London 1992, p. 23). Có thể
thấy quan điểm về văn tự và việc viết chữ trên đây chính là xuất phát từ ngôn ngữ ghi âm của châu Âu.
Vận dụng thuyết đó vào trong nền văn hoá của chữ tượng hình thì quan điểm "kí hiệu của kí hiệu" đó cần
có một sự điều chỉnh thích ứng. Việc chú giải của Văn Nhất Đa đối với câu văn Trang tử ít nhiều cũng
khiến chúng ta ý thức được điều đó.
Quay về với Trang tử. Chúng ta cần biết rằng trong tiếng Hán một từ đơn - tức một đơn âm tiết viết ra
bằng một chữ Hán - nói chung dường như là một hình tượng tức khắc trực tiếp của một sự vật, hành động
khách quan. Chỉ dừng lại trên bản thân từ đơn mà tiến hành thao tác tư duy trừu tượng hoá là một việc
khó, muốn dang rộng đôi cánh tư duy tư biện thì phải bay lên tầng cao của lĩnh vực từ phức. Trang tử
chính là đã thể hiện một năng lực tư duy tư biện triết học nhuần nhuyễn trong điều kiện mà vốn từ đơn
hãy còn chiếm địa vị chủ đạo trong tiếng Hán. Một điểm nữa, thông qua sự chú giải của Văn Nhất Đa đối
với Tề vật luận, trên một mức độ nào đó, chúng ta còn có được một ý thức so sánh ngữ pháp giữa hai
truyền thống ngôn ngữ. Tức là nói, lúc đọc một câu văn tiếng Hán, ngoài việc phải lí giải luật tương hợp
ngữ pháp nói chung (trong các thứ tiếng châu Âu, điều này thể hiện trên biến hoá hình thức của các từ
trong câu), chúng ta còn phải chú ý tới luật tương hợp ngữ nghĩa (accord) tức cái gọi là ngữ pháp ngữ
nghĩa. Theo chúng tôi truyền thống chú giải kinh sách của Trung Hoa trên thực tế chính là bỏ công sức
rất nhiều trên phương diện này. Trang tử chắc chưa có một ý thức tự giác hoàn toàn về ngôn ngữ như
vậy, nhưng ông tỏ ra đã ý thức được ít nhiều bản chất của ngôn ngữ nói chung và những đặc điểm của
tiếng mẹ đẻ nói riêng. Ông đã tính toán tới việc những đặc điểm đó sẽ đem đến những điều kiện như thế
nào cho sự tư biện triết học đương thời. Hoàn toàn có thể đặt vấn đề Trang tử đã thực sự đối diện với câu
hỏi: ngôn ngữ rốt cuộc có thể giúp chúng ta tiến gần tới Đạo được hay không? Ngôn ngữ có giúp chúng
ta thống nhất được với vũ trụ bản nguyên hay ngược lại, nó khiến cho con người chia cắt với tự nhiên,
con người chia cắt với con người? Cho đến nay đó vẫn là câu hỏi chung cho cả nền triết học hiện đại.
Chúng tôi mạo muội cho rằng Dĩ "mã" dụ mã chi phi mã đằng sau lối biểu đạt này có lẽ ẩn tàng một ý
thức độc đáo của nhà triết học cổ đại Trung Hoa về mối quan hệ giữa ngữ nghĩa và vật thực khách quan.
Còn mệnh đề tiếp theo bất nhược dĩ "phi mã" dụ mã chi phi mã thì chính là đã tiến thêm một bước ý
thức về tình trạng "lực bất tòng tâm" của ngôn ngữ trong tư cách là một công cụ của nhận thức. Cái công

cụ của tư duy con người, cái công cụ của đối thoại tranh luận này, rốt cuộc có thể đưa con người huyên
thuyên nhập mình vào đại Đạo được hay không? Đối với vấn đề đó, Trang tử dường như đã biểu hiện
một thái độ cực chẳng đã. Chính điều này - ý thức về ngôn ngữ của Trang tử mới chính là điểm căn bản
trong hoài nghi luận đặc sắc của ông. Hiểu được điều đó chúng ta mối thấy được mức độ sâu sắc, sự triệt
để cũng như tính hiện đại của nhận thức luận Trang tử.
Trong quá trình nhận thức thế giới bằng ngôn ngữ, Trang tử cũng đã thấy được biện chứng pháp của
nhận thực luận khách quan. Nói một cách đơn giản, có sự tồn tại của hai thế giới: một thế giới của vật
thực khách quan (ngón tay trên bàn tay - thủ chỉ, con ngựa - mã mà chúng ta nuôi... chính là thuộc về thế
giới này, bao gồm cả hành động chỉ vào con ngựa của chúng ta cũng là ở trong thế giới khách quan này)
và lại còn một thế giới nữa - thế giới của ""/zhi/,

"/ma/ viết/nói - tức là thế giới của ngôn ngữ. Thế giới
của ngôn ngữ muốn và cũng tự cho mình là có thể bao trùm và chứa đựng được tất thảy, giống như Trang
tử mô tả "thiên hạ nhất chỉ dã, vạn vật nhất mã dã". Tại đây, chúng ta có thể suy diễn thêm một bước:
thiên hạ/vạn vật hoặc nói cách khác cái thế giới được nhận thức này - bao gồm tất cả mọi thứ mà con
người gọi lên bằng từ ngữ, trừu tượng thành khái niệm - chính là được hình thành và cố định lại trong
quá trình ý thức đến, gọi tên lên, nói/ viết ra. "thiên hạ", "chỉ" chính là nghiêng về chỉ mặt chủ thể con
người, còn "vạn vật", "mã" thì nghiêng về nhấn mạnh mặt đối tượng sự vật, "nhất" ở trong câu văn Trang
tử thì ngụ ý quan hệ mật thiết thống nhất giữa hai mặt trên.
k
Nói tóm lại đây chính là một sự mô tả mối
quan hệ giữa con người - ngôn ngữ - vạn vật, một mối quan hệ đặt trong bối cảnh vũ trụ, hoặc như cách
nói của Lão-Trang, đặt trong sự biểu hiện cụ thể sinh động của Đại Đạo.
Chúng tôi tin rằng không phải ngẫu nhiên mà Trang tử khi biểu đạt tư biện triết học của mình về mối
quan hệ giữa ngôn ngữ và hiện thực khách quan, lại cố tình chọn đúng các chữ "chỉ", "mã", "thiên địa",
"vạn vật", "nhất". Đây hoàn toàn là xuất phát từ một dụng ý triết học sâu sắc chứ không phải là câu
chuyện chơi chữ hay đơn giản chỉ là đùa bỡn độc giả hoặc chỉ nhắm vào một cuộc tranh luận ngôn luận
cụ thể nào đó, ví dụ cuộc tranh luận "hắc mã bạch mã" với phái Duy danh đương thời.
Thế giới ngôn ngữ một khi đã hình thành (chúng ta sinh ra nó đã tồn tại), đối với bản thân con người mà
nói, nó là khách quan. Nhưng với tư cách là một công cụ tư duy của con người, đối với thế giới khách

×