Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Bài tập môn KHOA HOC QUAN LY đề 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.85 KB, 11 trang )

lời nói đầu
Trong thế giới ngày nay chắc không ai phủ nhận vai trò
quan trọng và to lớn của quản lý nhằm bảo đảm sự tồn tại
và hoạt động bình thờng của đời sống kinh tế xã hội nói
chung và với các doanh nghiệp nói riêng. Đối với sự phát triển
của từng đơn vị hay cộng đồng và cao hơn nữa của cả
một quốc gia,thì quản lý càng có vai trò quan trọng. Sự
nhận thức của tuyệt đại đa số trong dân c về vai trò của
quản lý cho tới nay hầu hết đều thông qua cảm nhận về
thực tế. Muốn nâng cao nhận thức về vai trò cua quản lý,
một mặt cần nâng cao nhận thức thực tế, mặt khác cần
nâng cao nhận thức lí luận. Có nh vậy ta mới có thể nhận
thức đầy đủ và sâu sắc hơn về vai trò của quản lý, làm
cơ sở để hiểu biết về quản lý, thực hành quản lý và
nâng cao trình độ quản lý.
Qua phân tích về những nguyên nhân thất bại trong
hoạt động kinh doanh của cá nhân và doanh nghiệp, cũng
nh thất bại trong hoạt động của các tổ chức Kinh tế Chính trị - Xã hội nhiều năm, chúng ta thấy đợc nguyên
nhân cơ bản vẫn là do quản lý kém hoặc là thiếu kinh
nghiệm trong quản lý. Một tờ tạp chí nổi tiếng, qua nghiên
cứu các công ty kinh doanh của Mỹ trong nhiều năm đã
phát hiện ra rằng các công ty luôn thành đạt chừng nào
chúng đợc quản lý tốt. Ngân hàng châu Mỹ đã phát biểu ,
trong bản công bố Báo cáo về kinh doanh nhỏ rằng: Theo
kết quả phân tích cuối cùng, hơn 90% các thất bại trong


kinh doanh là do thiếu năng lực và thiếu kinh nghiệm trong
quản lý.
Về tầm quan trọng của quản lý, không đâu có thể thể
hiện rõ hơn so với trờng hợp của các nớc đang phát triển.


Qua báo cáo tổng quát về vấn đề này trong những năm
gần đây của các chuyên gia về phát triển kinh tế,có thể
thấy cung cấp tiền bạc hoặc kĩ thuật công nghệ không
đem lại sự phát triển. Yếu tố hạn chế trong hầu hết mọi trờng hợp chính là thiếu thốn về chất lợng và sức mạnh của
các nhà quản lý.
Trong khi nền văn minh của chúng ta đợc đặc trng bởi
những cải tiến có tính chất cách mạng trong khoa học vật
lý, sinh học, điện tử, viễn thông, tin học, tự động hoá...
thì các ngành khoa học xã hội bị tụt hậu rất xa. Tuy nhiên,
nếu chúng ta không biết cách khai thác các nguồn nhân
lực và phối hợp sự hoạt động của con ngời, thì sự phi hiệu
quả và lãng phí trong khi áp dụng những phát minh kĩ
thuật vẫn sẽ tiếp tục. Chúng ta chỉ cần nhìn vào sự lãng
phí không thể tởng tợng đợc về các nguồn nhân lực và vật
lực, chúng ta sẽ thấy rằng các ngành khoa học xã hội còn
cách quá xa với việc thực hiện chức năng hớng dẫn chính
sách và hoạt động xã hội của bản thân chúng.
Ngày nay,các doanh nghiệp phải hoạt động trong một
môi trờng cạnh tranh quyết liệt với những biến đổi nhanh
chóng về khoa học công nghệ, xuất hiện những đạo luật
mới, những chính sách quản lý thơng mại mới và sự trung
thành của khách hàng ngày càng giảm.


Hoạt động sản xuất kinh doanh trong những điều kiện
bất định nh vậy đòi hỏi những ngời quản lý ở các doanh
nghiệp phải hiểu biết về các vấn đề kinh tế và quản lý
doanh nghiệp.



néi dung
I. Kh¸i niÖm vµ vai trß cña qu¶n lý
1. Kh¸i niÖm
- Đây là hoạt động xuất phát từ chức năng lao động xã hội của quản lí
Chức năng lao động xã hội là một trong những chức năng quan trọng của hđ
quản lí bắt nguồn từ tính chất xã hội của lao động. Con người từ xa xưa đã được
tổ chức thành xã hội, mọi hoạt động lao động đều có mục đích cuối cùng là vì xã
hội và những hoạt động đó đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các cá nhân và do
đó cần mang tính tổ chức. Ví dụ như chức năng của nhà nước có biểu hiện là
chức năng đối nội và c/n đối ngoại. Theo đó, chức năng đối nội cụ thể của NN
được biểu hiện cụ thể qua việc tổ chức phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đs vật
chất tinh thần cho nhân dân. Chức năng đối ngoại là quản lí những vấn đề quan
hệ của quốc gia dân tộc với những chủ thể bên ngoài.
- Theo nghĩa rộng, quản lí được hiểu là một hoạt động có mục đích vì:
+ Quản lí luôn luôn là sự tác động của con người đến đối tượng tác động. Đối
tượng đó là con người khi cùng tham gia hoạt động với nhau, cần đến sự thống
nhất, tập trung bởi con người luôn là đối tượng mang tính động, biến đổi, có ý
chí nhưng rất khó kiểm soát. Đối tượng tác động còn là những vật vô tri vô giác
như máy móc, những vật hữu sinh như động vật, thực vật… bởi bản thân những
đối tượng này là vô thức, cần sự điều khiển, quản lí để phục vụ tốt nhất cho con
người.
+ Con người với tư cách là chủ thể quản lí có lý trí và ý chí. Con người nhận
thức được ý nghĩa và mục đích của hoạt động quản lí của mình.
+ Trong quá trình quản lý, đối tượng tác động phải có khả năng thực hiện hóa
những thông tin hay mệnh lệnh của chủ thể quản lí. VD: đối tượng tác động là
con người thì người đó phải có khả năng nhận thức, có đủ điều kiện sức khỏe,
năng lực để có thể hành động theo yêu cầu.


Quản lý là quá trình thực hiện các tác động của chủ thể

quản lý lên đối tợng quản lý để phối hợp hoạt động của
các cá nhân và tập thể nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra
của tổ chức.
Quản lí là quá trình làm việc với ngời khác và thông qua
ngời khác để thực hiện các mục tiêu của tổ chức trong
môi trờng luôn biến động.
Ngay từ khi con ngời bắt đầu hình thành các nhóm ngời để thực hiện những mục tiêu mà họ không thể đạt đợc
với t cách cá nhân riêng lẻ,thì quản lý đã trở thành yếu tố
cần thiết để đảm bảo aphối hợp các hoạt động của các cá
nhân.
Ta biết rằng để tạo ra sản phẩm,đáp ứng nhu cầu của
đời sống và phát triển kinh tế,nhất thiết phải tiến hành
phân công lao động và hiệp tác sản xuất.Sự xuất hiện của
quản lý nh là kết quả tất nhiên của việc chuyển các quá
trình lao động cá biệt,tản mạn,độc lập với nhau thành các
quá trình lao động phải có sự phối hợp.Sản xuất và tiêu thụ
mang tính tự cấp,tự túc do một cá nhân thực hiện không
đòi hỏi quản lý.Ơ một trình độ cao hơn,khi sản xuất và
kinh doanh mang tính xã hội rõ nét và ngày càng sâu rộng
hơn,khi đó quản lý là điều không thể thiếu.
Theo C. Mác, Bất cứ lao động xã hội hay lao động
chung nào mà tiến hành trên một quy mô khá lớn đều yêu
cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt
động cá nhân.Sự chỉ đạo đó phải làm chức năng
chung,tức là chức năng phát sinh từ sự khác nhau giữa sự
vận động chung của cơ thể sản xuất với sự vận động cá


nhân của những khí quan độc lập hợp thành cơ sở sản
suất đó. Một nhạc sĩ độc tấu tự điều khiển lấy mình nhng một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trởng.

Do đó, quản lý là thuộc tính tự nhiên,tất yếu khách
quan của mọi quá trình lao động xã hội,bất kể trong hình
thái kinh tế xã hội nào,nếu không thực hiện các chức năng
và nhiệm vụ quản lý, không thể thực hiện đợc các quá
trình hợp tác lao động, sản xuất, không khai thác sử dụng
đợc các yếu tố của lao động sản xuất có hiệu quả.
Quản lý có khả năng sáng tạo to lớn. Điều đó có nghĩa là
cùng với các điều kiện về con ngời và về vật chất kĩ thuật
nh nhau nhng tổ chức quản lý có thể khai thác khác
nhau,đem lại hiệu quả kinh tế khác nhau.
Có thể nói quản lý tốt suy cho cùng là do biết sử dụng có
hiệu quả những cái đã có để tạo nên những cái cha có
trong xã hội.Vì vậy quản lý chính là yếu tố quyết định
nhất cho sự phát triển của một quốc gia và các tổ chức
trong đó.
Thực tế, có những nớc rất khan hiếm về tài nguyên
thiên nhiên,nhng với những chính sách kinh tế và quản
lý ,đã gặt hái đợc thành công lớn trong phát triển kinh tế
nh Nhật Bản, Đức, Hàn Quốc.Quản lý ngày nay đã trở thành
yếu tố cơ bản hàng đầu của một nền sản xuất và kinh tế
hiện đại.
Đối với sản xuất và kinh tế hiện đại,quản lý có vai trò
ngày càng tăng.Có những yếu tố sau đây làm tăng vai trò
của quản lý đòi hỏi quản lý và thích ứng trong các nền sản
xuất và kinh tế hiện đại,đó là :


_Đặc điểm và quy mô sản xuất hiện đại đòi hỏi quản lý
phải đợc nâng cao tơng ứng với nền kinh tế.
_Trình độ xã hội và các quan hệ xá hội ngày càng cao

đòi hỏi quản lý phải thích hợp.
_Ngoài các yếu tố nêu trên cần phải kể tới nhiều yếu tố
khác về kinh tế và xã hội cũng đặt ra những yêu cầu ngày
càng cao đối với quản lý.Đó là sự phát triển dân số và
nguồn lao động cả về quy mô và cơ cấu;Sự biến động
của thị trờng trong nớc và quốc tế;Yêu cầu bảo vệ và năng
cao chất lợng của môi trờng sinh thái và môi trờng trong xã
hội trong phát triển.
Với Việt nam mặc dù bị nhiều năm chiến tranh và mắc
phải một số khuyết điểm trong quản lý kinh tế,từ đầu
những năm 80 tới nay việt Nam đã đạt đợc những thành
tịu đáng kể trong quá trình thực hiện đổi mới.Từ năm
1985,Việt Nam bớc vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá
và hiện đại hoá, hớng tới những mục tiêu chiến lợc tới năm
2020,nhằm đa đất nớc thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc
hậu về kinh tế.Sự nghiệp to lớn và có ý nghĩa lịch sử đó
đặt ra những yêu cầu rất cao đối với quản lý.Ngoài ra,với
số dân đông và tốc độ tăng khá cao,mật độ dân trên
diện tích đất đai nói chung và đất canh tác nói riêng là
cao,tài nguyên thiên nhiên tơng đối phong phú nhng so với
số dân thì không nhiều ...Tất cả các vấn đề đó đặt ra
những thách thức khá gay gắt cho việc thực hiện các
nhiệm vụ và mục tiêu phát triển.Điều đó cũng nói nên rằng
để hoàn thành đợc sứ mệnh đặt ra,vai trò của công tác


quản lý càng to lớn và nhiệm vụ của công tác quản lý càng
nặng nề.
II.Quản lý là khoa học.
Một cách khái quát,có thể nói khoa học là tập hợp các tri

thức đợc hệ thống hoá nhằm phản ánh một cách khách
quan các sự vật và hiện tợng trong thiên nhiên,trong xã hội
và con ngời,giải thích các mối liên hệ giữa các sự vật và
hiện tợng đó cùng với sự vận động của chúng,giải thích
nguyên nhân hay nguồn gốc của các sự vận động đó và
dự báo xu thế vận động và phát triển.Quản lý là một
lĩnh vực hoạt động khoa học kinh tế xã hội phức tạp và
có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế xã hội.Những công trình nghiên cứu ban đầu có tính
khoa học về quản lý còn khá non trẻ so với nhiều ngành
khác,mới chỉ có độ tuổi gần 100 năm nay.Điều này nói
nên quản lý đã trở nên một đối tợng nghiên cứu khoa học
đựơc quan tâm xem xét.Và chắc chắn sẽ còn tiếp tục
đợc đẩy mạnh.
Việc tiến hành các hoạt động quản lý trong thực tế ,
trong những điều kiện cụ thể đợc xem vừa là khoa học
vừa là nghệ thuật.Trong bối cảch kinh tế xã hội của thế giới
hiện đại ngày nay,công tác quản lý trên hầu hết các lĩnh
vực không thể không vận dụng các nguyên tắc,phơng pháp
quản lý,đòi hỏi cán bộ quản lý phải có đợc một trình độ
đào tạo nhất định.
Trong khoa học và trong thực tế ngời ta thờng đề cập
đến chức năng của một cơ cấu hoặc bộ phận máy,của
một thiết bị trong hệ thống thiết bị,chức năng của một


doanh nghiệp và chức năng của một phòng ban trong
doanh nghiệp.Một cách khái quát nhất,chúng ta có thể hiểu
chức năng là tập hợp những hoạt động hay hành động cùng
loại của một hệ thống hoặc một bộ phận trong hệ thống.

Nh vậy,khi nghiên cứu cơ cấu của bất kì hệ thống
nào,chúng ta không thể không đề cập đến phân loại các
chức năng của hệ thống đó.Nói cách khác, phân loại chức
năng là điều kiện tiền đề để tạo ra một cơ cấu có hiệu
quả của hệ thống.Việc phân loại các chức năng quản lý
doanh nghiệp dựa vào những căn cứ sau:
Căn cứ vào các lĩnh vực hoạt động quản lý:
_Chức năng Marketing .
_Chức năng hậu cần cho sản xuất.
_Chức năng sản xuất.
_Chức năng tài chính kế toán.
_Chức năng tổ chức lao động tiền lơng.
_Chức năng hành chính bảo vệ.
Căn cứ vào quá trình quản lý:
_Chức năng kế hoạch hoá.
_Chức năng tổ chức.
_Chức năng lãnh đạo.
_Chức năng kiểm tra.
III.Tổ chức.
Tổ chức có nghĩa là quá trình sắp xếp và bố trí các
công việc , giao quyền hạn và phân phối các nguồn lực của
tổ chức sao cho chúng đóng góp một cách tích cực và có
hiệu quả vào mục tiêu chung của doanh nghiệp.
Công tác tổ chức gồm có hai nội dung cơ bản:


Tổ chức cơ cấu quản lý: tổ chức cơ cấu quản lý và tổ
chức cơ cấu sản xuất kinh doanh.
Tổ chức quá trình: Tổ chức quá trình quản lý và tổ
chức quá trình sản xuất kinh doanh.

Tổ chức có nội dung rất rộng lớn liên quan đến công tác
xây dựng một doanh nghiệp nh xây dựng và tổ chức
bộ máy quản lý doanh nghiệp(có bao nhiêu cấp quản
lý,tổ chức các phòng ban chức năng,phân công trách
nhiệm và quyền hạn của phòng ban cũng nh của mỗi cá
nhân),xây dựng hệ thống sản xuất và kinh doanh(có
những bộ phận sản xuất kinh doanh nào,phân công
chức năng và nhiệm vụ của từng bộ phận).
Tổ chức về cơ cấu bộ máy là việc phân chia hệ thống
quản lý thành các bộ phận thành phần và xác định các
mối quan hệ giữa chúng với nhau tức là chúng ta xác
định chức năng,quyền hạn,nhiệm vụ của các bộ phận
trong bộ máy và lựa chọn,bố trí cán bộ vào cơng vị phụ
trách các bộ phận đó.
Tổ chức cơ cấu bộ máy gồm các nội dung:
_Xác định những hoạt động cần thiết để đạt đợc các
mục tiêu chung của tổ chức.
_Nhóm gộp cá hoạt động này thành các phòng ban hoặc
các bộ phận.
_Giao cho một ngời quản lý một phòng ban hoặc một bộ
phận.
_Giao quyền hạn trách nhiệm để thực hiện các hoạt động.
_Quy định các mối quan hệ theo chiều dọc và ngang bên
trong tổ chức.


Công tác tổ chức đòi hỏi đội ngũ cán bộ có đủ trình độ
kinh nghiệm và những phẩm chất cần thiết để hoàn
thành tốt nhiệm vụ đợc giao.
Một trong những nhiệm vụ của các tôt chức là xác định

biên chế.Xác định biên chế bao gồm việc bổ nhiệm và
duy trì các chức vụ đã bổ nhiệm theo yêu cầu đặt ra bởi
cơ cấu tổ chức,nó gắn liền với việc đặt ra những yêu cầu
cần làm cho một công việc hoặc nghề nghiệp,và nó bao
gồm cả việc tuyển chọn những ngời đảm nhận các chức
vụ.
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp là tổng hợp
các bộ phận cấu thành nên bộ máy quản lý và mối quan hệ
qua lại giữa các bộ phận đó.Bộ máy quản lý doanh nghiệp
đợc thiết lập ra không phải do mục đích tự thân mà để
thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuát kinh doanh
của doanh nghiệp.Khi xây dựng cơ cấu tơ chức bộ máy
quản lý doanh nghiệp,cần tính đến nhân tố ảnh hởng
sau:
_Môi trờng hoạt động sản xuất kinh doanh.
_Mục đích,chức năng hoạt động của doanh nghiệp.
_Quy mô của doanh nghiệp.
_Các yếu tố về kĩ thuật công nghệ sản xuất.
_Trình độ của ngời quản lý và trang thiết bị quản lý.
_Một số yếu tố khác:các quy định của pháp luật,phạm vi
hoạt động của doanh nghiệp,thị trờng của doang nghiệp.
Một số kiểu cơ cấu quản lý.
Cơ cấu quản lý theo trực tuyến.


Cơ cấu quản lý theo trực tuyến là một kiểu tổ chức bộ
máy mà một cấp quản lý chỉ nhận mệnh lệnh từ một cấp
trên trực tiếp.Hệ thống trực tuyến hình thành một đờng
thẳng rõ ràng về quyền ra lệnh và trách nhiệm từ lãnh
đạo cấp cao đến cuối cùng.Cơ cấu kiểu này đòi hỏi ngời

quản lý ở mỗi cấp phải có những hiểu biết tơng đối toàn
diện về các lĩnh vực.
Hệ thống quản lý theo trực tuyến phù hợp với các doanh
nghiệp vì một ngời quản lý cấp trên có thể hiểu rõ đợc
những hoạt động của cấp dới và ra những mệnh lệnh
trực tiếp một cách đúng đắn cho cấp dới không cần
thông qua một cơ quan giúp việc theo chức năng nào.
Cơ cấu quản lý theo chức năng.
Trong cơ cấu tổ chức quản lý theo chức năng,các bộ
phận quản lý cấp dới nhận mệnh lệnh từ nhiều phòng
ban chức năng khác nhau.Đôi khi các mệnh lệnh này có
thể trái ngợc nhau,gây khó khăn cho cấp thừa hành.Có
thể phân chia các bộ phận theo chức năng cơ bản nh:
_Chức năng sản xuất.
_Chức năng kĩ thuật.
_Chức năng Marketing.
_ Chức năng tài chính.
_Chức năng nhân sự.
Ưu điểm của cơ cấu tổ chức theo chức năng:
_Phản ánh logic các chức năng.
_Nhiệm vụ đợc phân định rõ ràng.
_Tuân theo nguyên tắc chuyên môn hoá ngành nghề.


_Phát huy đợc sức mạnh và khả năng của đội ngũ cán bộ
theo từng chức năng.
_Giảm chi phí và rút ngắn thời gian đào tạo.
_Tạo ra các biện phấp kiểp tra chặt chẽ của cấp cao
nhất.
Nhợc điểm của cơ cấu tổ chức theo chức năng:

_Chỉ có cấp quản lý cao nhất có trách nhiệm về hiệu
quả cuối cùng của toàn thể công ty.
_Quá chuyên môn hoá và tạo ra cách nhìn quá hẹp với các
cán bộ chủ chốt.
_Hạn chế sự phát triển của ngời quản lý chung.
_Gặp nhiều khó khăn khi cần có sự phối hợp giữa các
chức năng.
Cơ cấu tổ chức theo kiểu ma trận.
Trong cơ cấu quản lý theo ma trận ,cấp quản ký cấp dới vừa chịu sự quản lý theo chiều dọc từ trên xuống dới,đồng thời chịu sự quản lý theo chiều ngang.
Ưu điểm
_Định hớng theo kết quả cuối cùng rõ ràng.
_Phát huy đợc sức mạnh của các chuyên gia ở trong các
lĩnh vực chuyên môn.
_Xác định rõ quyền hạn trách nhiệm và lợi ích.
Nhợc điểm
_Có sự mâu thuẫn về quyền hạn trong tổ chức.
_Có nguy cơ không thống nhất về mệnh lệnh theo
chiều dọc và chiều ngang


Liên hệ:


.
kết luận
Qua nghiên cứu đề tài này ta thấy đợc một cách rõ
nét về tầm quan trọng của quản lý và tính khoa học của
nó trong hoạt động của các doanh nghiệp .Nó là một yếu
tố quyết định sự thành bại trong kinh doanh vì khi hiểu
rõ về bản chất và áp dụng nó một cách khoa học thì sẽ đạt

đợc những hiệu quả trong kinh doanh.
Trong quá trình nghiên cứu chắc chắn vẫn còn
những thiếu xót,vì vậy
mong có sự đóng góp ý kiến của các bạn.



×