Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tiểu luận cao học, tác phẩm kinh điển ,lý luận của c mác – ph ăngghen về chuyên chính vô sản trong tác phẩm tuyên ngôn của đảng cộng sản và ý nghĩa của nó đối với cách mạng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.98 KB, 36 trang )

MỤC LỤC
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................................................4
4 .Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu........................................................................................4
5. Kết cấu tiểu luận..................................................................................................................................4

PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................5
CHƯƠNG 1:........................................................................................................5
LÝ LUẬN CỦA C.MÁC – PH. ĂNGGHEN VỀ CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN
TRONG TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”.............5
1.1 Khái quát về tác giả và tác phẩm......................................................................................................5
1.1.1 Tiểu sử C. Mác – Ph.Ăngghen....................................................................................................5
1.1.2.2.. Những tư tưởng cơ bản của tác phẩm“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”........................11
1.2. Quan điểm của C. Mác – Ph.Ăngghen về chuyên chính vô sản trong tác phẩm "Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản”.....................................................................................................................................16
1.2.2 Tính tất yếu và bản chất của chuyên chính vô sản..................................................................17

Nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam bao
gồm xây dựng một Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Theo đó, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến,
lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối
cao toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Phương thức hoạt động của
Quốc hội về tổng thể phải dựa trên hai trụ cột chính là các cơ quan của
Quốc hội và các đại biểu Quốc hội, những người được nhân dân bầu ra và
hoạt động vì nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân............................34
KẾT LUẬN........................................................................................................34
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................35

1



PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” – do C. Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo
và ra đời là một sự kiện trọng đại trong lịch sử – là bản cương lĩnh cách mạng
đầu tiên của phong trào cộng sản và công nhân thế giới – là tác phẩm lý luận
tổng kết toàn bộ quá trình hình thành chủ nghĩa Mác, trình bày những quan điểm
cơ bản của chủ nghĩa Mác, thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản.
Với tuyên ngôn của Đảng cộng sản, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã hoàn
thành về cơ bản quá trình chuyển biến từ không tưởng thành khoa học. Từ đó,
phong trào cách mạng vô sản có lý luận tiền phong và cương lĩnh cách mạng soi
đường, chuyển từ tự phát sang tự giác. Đúng như C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng
định trong Tuyên ngôn: “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp
vô sản đều là tất yếu như nhau”.
Mặc dù trãi qua nhiều thay đổi về kinh tế, chính trị của tiến trình lịch sử,
các thế lực thù địch, phản động, chủ nghĩa cơ hội và xét lại luôn cấu kết nhau
tìm mọi cách chống phá phủ nhận, nhưng tính đúng đắn và khoa học của các
nguyên lý cơ bản trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” vẫn còn nguyên giá
trị, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Khi bàn về gía trị của “Tuyên ngôn
Đảng cộng sản”, Lênin có viết: “Cuốn sách nhỏ ấy, có giá trị bằng hàng bộ sách;
tinh thần của nó, đến bây giờ, vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô sản có
tổ chức và đang chiến đấu của thế giới văn minh”.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản xuất hiện đánh dấu mốc ra đời của chủ
nghĩa cộng sản khoa học. Tuyên ngôn là tiếng chuông thức tỉnh giai cấp vô sản,
quần chúng cần lao bị đọa đày đau khổ vùng dậy đấu tranh để giành quyền sống,
quyền được làm người, là ngọn đèn pha soi sáng con đường đấu tranh cách
mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, là tiếng kèn xung trận của giai
cấp vô sản tấn công vào thành trì của chủ nghĩa tư bản.

Vai trò lịch sử của chuyên chính vô sản, quyền lực chính trị của giai cấp
công nhân dân là bộ phận quan trọng nhất của vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai
2


cấp công nhân, vấn đề vai trò lịch sử của giai cấp đó với tư cách là người cải tạo
xã hội theo nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản. Bởi vì, không thiết lập được
chính quyền của mình, giai cấp công nhân không thể bảo đảm được việc chuyển
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản nhằm đạt mục tiêu giải phóng triệt để
con người.
Có thể nói, những luận điểm trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã soi
sáng cho con đường cách mạng của giai cấp vô sản và đảng tiên phong của nó
trong sự nghiệp lãnh đạo quần chúng nhân dân ở nhiều nước trên thế giới thực
hiện cuộc cách mạng vô sản lật đổ giai cấp tư sản và thiết lập nền chuyên chính
vô sản, xây dựng xã hội chủ nghĩa, xóa tan áp bức, bóc lột và bất công trong xã
hội. Thành tựu của Cách mạng Tháng Mười Nga, Cách mạng Tháng Tám của
Việt Nam và những thành công của các cuộc cách mạng vô sản cách mạng khác
đã minh chứng tính đúng đắn, tính khoa học của Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản.
Hơn 80 năm qua, cách mạng Việt Nam luôn trung thành với những tư tưởng
vĩ đại của Tuyên ngôn. Cách mạng Việt Nam càng phát triển đi lên càng khẳng
định những nguyên lý cơ bản của Tuyên ngôn. Tư tưởng cách mạng của chủ
nghĩa Mác – Lênin nói chung, của Tuyên ngôn nói riêng, luôn là ánh sáng soi
đường cho cách mạng Việt Nam.
Xuất phát từ các vấn đề trên nên em đã chọn đề tài “Lý luận của C.Mác –
Ph. Ăngghen về chuyên chính vô sản trong tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản" và ý nghĩa của nó đối với cách mạng Việt Nam”, làm nội dung tiểu
luận kết thúc học phần môn Các tác phẩm kinh điển I.
Trong quá trình nghiên cứu em đã cố gắng rất nhiều nhưng không tránh
khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em mong được sự đóng góp ý kiến của cô để bài

tiểu luận hoàn chỉnh hơn. Qua đây, cho em gửi lời cảm ơn đến Ban chủ nhiệm
khoa và các thầy cô trong khoa đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn em trong quá
trình nghiên cứu.

3


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận của các nhà kinh điển về vấn đề
chuyên chính vô sản trong tác phẩm. Từ đó, đề tài đi sâu vào phân tích quá trình
vận dụng của cách mạng Việt Nam qua từng giai đoạn của lịch sử.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài xin được trình bày sơ lược về tiểu sử, sự
nghiệp của Mác – Ăngghen và làm rõ vấn đề chuyên chính vô sản trong tác
phẩm “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”. Từ đó chỉ ra nghiên cứu tác phẩm có ý
nghĩa gì với cách mạng Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Lý luận của C.Mác và Ăngghen về chuyên chính vô
sản trong tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” và ý nghĩa của nó đối với cách
mạng Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Quan điểm của C. Mác – Ph. Ăngghen về chuyên
chính vô sản trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” của C.Mác và
Ăngghen. Sự vận dụng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
4 .Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng chủ yếu các phương pháp: phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn, phương pháp
nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp.
5. Kết cấu tiểu luận

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung tiểu luận gồm: 2 chương
Chương 1: Lý luận của C. Mác – Ph.Ăngghen về chuyên chính vô sản
trong tác

phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”

Chương 2: Ý nghĩa lý luận Chuyên chính vô sản của C. Mác –
Ph.Ăngghen

trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đối với cách

mạng Việt Nam.
4


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CỦA C.MÁC – PH. ĂNGGHEN VỀ CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN
TRONG TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”
1.1 Khái quát về tác giả và tác phẩm
1.1.1 Tiểu sử C. Mác – Ph.Ăngghen
1.1.1.1 Các Mác (5/5/1818 – 14/3/1883)
C. Mác sinh ngày mồng 5 tháng 5 năm 1818 ở Tơ-ri-vơ thuộc nước Phổ.
Cha của C. Mác là luật sư. Năm 12 tuổi C. Mác nổi bật trong các lĩnh vực đòi
hỏi tính sáng tạo cao, Ông cũng tỏ ra là người có năng lực về toán học. Năm
1835 Ông tốt nghiệp trung học, đến tháng 10 năm 1835 Ông vào học luật tại đại
học tổng hợp Born. Hai tháng sau nghe theo lời khuyên của Bố Mác tiếp tục học
ở trường đại học tổng hợp Berlin. Năm 1836, ngoài luật học, sử học, ngoại ngữ,
C. Mác bắt đầu nghiên cứu chuyên sâu về Triết học. Mùa xuân 1837, Mác bắt

đầu nghiên cứu kỹ những tác phẩm của Hêghen, đến năm 1839, ông đã vùi đầu
vào nghiên cứu triết học, suốt cả năm 1839 và một phần của năm 1840 Mác tâp
trung nghiên cứu những vấn đề lịch sử triết học cổ đại. Tháng 4/ 1841, khi mới
23 tuổi Mác nhận được bằng tiến sĩ triết học với luận án “Về sự khác nhau giữa
triết học tự nhiên của Democrit và triết học tự nhiên của Epicure tại trường
Iêna”.
Tháng 10 năm 1842, Mác trở thành chủ bút của Báo Rê-na-ri của giai cấp
tư sản cấp tiến ở Đức hồi ấy. Trong các bài báo, Mác đã phê phán các chính phủ
đương thời ở Đức, Anh, Pháp và bênh vực quyền lợi của nông dân, phát biểu
những tư tưởng triết học của mình.Thời kỳ này, Mác đang chuyển từ chủ nghĩa
duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập
trường cộng sản.
Tháng 6-1843, Mác kết hôn với Gienni Phôn Vextơphalen, người bạn gái
hồi nhỏ của mình. Tháng 10-1843, Mác đến ở Pa-ri, thủ đô nước Pháp, tiếp tục
viết báo. Tháng 9 – 1844 , Mác gặp Ăngghen ở Pari. Tình bạn vĩ đại và cuộc đấu
5


tranh chung của hai người cho sự nghiệp của giai cấp công nhân bắt đầu từ đấy.
C. Mác và Ăngghen tích cực tham gia sinh hoạt với các nhóm cách mạng ở Pari,
hai ông đấu tranh quyết liệt chống mọi thứ học thuyết của chủ nghĩa xã hội tư
sản và tiểu tư sản và đã sáng lập ra lý luận và sách lược của chủ nghĩa xã hội vô
sản cách mạng, hay là chủ nghĩa cộng sản. Năm 1845, Mác bị trục xuất khỏi Pari vì bị coi là một nhà cách mạng nguy hiểm. Mác sang ở Bruy-xen, thủ đô nước
Bỉ.
Ít lâu sau Ăngghen cũng đến đây và hai người lại tiếp tục cộng tác chặt chẽ
với nhau. Sau khi cách mạng ở Pháp nổ ra 1848 Ông lại bị chính phủ Bỉ trục
xuất. Ông lại đến Pari, tháng 8 năm 1848 C. Mác và Ăngghen đến Kioln, tại đây
C. Mác trở thành tổng biên tập tờ Nhật báo tỉnh Ranh, cơ quan của phái dân chủ.
Công tác thực tiễn ở báo Rheinische Zeitung đã làm thay đổi cơ bản thế giới
quan của ông – chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật và từ chủ

nghĩa dân chủ – cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản.
Một số bài viết của C. Mác trong thời gian đầu: Phê phán triết học pháp
quyền của Hêghen (2/ 1844); Bản thảo kinh tế - triết học (8/1844); Gia đình thần
thánh (2/1845) được ông và Ăngghen cộng tác viết nhằm phê phán chủ nghĩa
duy tâm chủ quan của phái Hêghen trẻ, thực chất là phê phán toàn bộ chủ nghĩa
duy tâm của Hêghen đồng thời nêu ra vai trò quyết định của quần chúng nhân
dân trong lịch sử; Hệ tư tưởng Đức (1845 - 1846), tiếp tục phê phán chủ nghĩa
duy tâm của Hêghen; Trong quyển Sự bần cùng của triết học (1847) C. Mác đã
chống lại triết học tiểu tư sản của P. J. Prudong và trình bày những cơ sở của chủ
nghĩa duy vật lịch sử và chính trị kinh tế vô sản. Năm 1848 được sự ủy nhiệm
của Đại hội II liên đoàn của những người cộng sản C. Mác và Ăngghen viết
“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” – một văn kiện mang tính cương lĩnh của chủ
nghĩa Mác và Đảng vô sản. Tháng 6 năm 1859, công trình thiên tài của C. Mác
“Góp phần phê phán môn chính trị kinh tế học” ra đời viết về tiền tệ và lưu
thông tiền tệ.

6


C. Mác là người tổ chức và lãnh đạo của Quốc tế cộng sản I. Năm 1867 Bộ
tư bản (tập 1) – tác phẩm chủ yếu của Ông ra đời. Tập II và III Ông không kịp
hoàn tất, Ăngghen đảm nhận việc xuất bản hai tập này.
Trong cuốn “Phê phán cương lĩnh Gôta” (1875) C. Mác đã kịch liệt phê
phán những sai lầm cơ hội chủ nghĩa của những người lãnh đạo Đảng xã hội dân
chủ Đức. Năm 1876 sau khi Quốc tế cộng sản đệ nhất giải tán, C. Mác lên ý kiến
thành lập các đảng vô sản ở các nước là nhiệm vụ chính trị hàng đầu trong
phong trào công nhân,…
Tháng 8 năm 1849, từ Pari C. Mác đi Luân Đôn và sống đến cuối đời
(1883). Ông qua đời ngày 14 tháng 3 năm 1883 ở Luân Đôn.
1.1.1.2. Ph. Ăngghen (28/11/1820 – 5/8/1895)

Ph. Ăngghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 tại Barmen, tỉnh Ranh,
vương quốc Phổ trong một gia đình chủ xưởng dệt. Từ nhỏ Ông đã bộ lộ tính
cách độc lập. Những lời dạy nghiêm khắc của cha và những đe dọa trừng phạt
không khiến ông đi đến chổ phục tùng mù quáng. Cho đến năm 14 tuổi, Ph.
Ăngghen học ở ngôi trường của thành phố Barmen, tại đây ông sớm bộc lộ năng
khiếu về ngoại ngữ. Tháng 10 năm 1834, Ông chuyển sang học ở trường trung
học Elberfelder, ngôi trường được xem là tốt nhất ở Phổ lúc bấy giờ. Năm 1837
theo yêu cầu của bố, ông buộc phải rời bỏ trường học khi chưa tốt nghiệp để bắt
đầu công việc buôn bán tại văn phòng của bố. Trong thời gian này ông tự học
các ngành sử, triết học, văn học ngôn ngữ và thơ ca.
Tháng 6/1838 Ph. Ăngghen đến làm việc ở văn phòng thương mại ở thành
phố cảng Barmen. Cuối năm 1939 ông bắt đầu nghiên cứu các tác phẩm của
Hêghen. Tháng 9/1941 Ph. Ăngghen, đến Berlin và gia nhập binh đoàn pháo
binh ở đây Ông được huấn luyện quân sự, mà trong những năm sau Ông rất cần
đến nó, nhưng Ông vẫn lui tới trường đại học tổng hợp Berlin nghe các bài
giảng triết học, tham gia hội thảo về tôn giáo. Mùa xuân 1842, Ph. Ăngghen bắt
đầu cộng tác với tờ Rheinishe Zuiting (Nhật báo tỉnh Ranh). Trong những bài
báo in 1842, trên tờ báo Ph. Ăngghen đã lên tiếng phản đối chế độ kiểm duyệt
của chính phủ vương quốc Phổ, trật tự phong kiến ở Đức. Ngày 8/10/1842 Ông
7


đã mãn hạn phục vụ trong quân đội. Từ Berlin Ông trở về Barmen, một tháng
sau, Ông đã sang Anh thực tập buôn bán. Trên đườn sang Anh, Ph. Ăngghen đã
thăm trụ sở tờ báo Rheinishe Zuiting ở Kioln và Ông đã gặp được C. Mác, tổng
biên tập tờ báo. Ông đã ở lại Anh 2 năm. Tháng 2 năm 1845 cuốn sách “Gia
đình thần thánh” của C. Mác và Ăngghen ra đời đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa
duy tâm và phương pháp luận của nó. Hai ông cùng hợp sức viết công trình nổi
tiếng “Hệ tư tưởng Đức” (1845 – 1846), tiếp đó năm 1848 Đại hội II Liên đoàn
những người Cộng sản đã ủy nhiệm C. Mác và Ph. Ăngghen cùng viết “Tuyên

ngôn của Đảng Cộng sản”.
Trong thời gian sống ở Pari, Ph. Ăngghen quan tâm đến hoạt động của Ban
chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản và trở thành Ủy viên
ban lãnh đạo, là một trong những người lãnh đạo câu lạc bộ công nhân Đức
(tháng 3/1848) do Ban chấp hành Trung ương Liên đoàn những người Cộng sản
lập ra.
Tháng 4/1848, ông cùng với C. Mác trở về Đức tham gia cuộc cách mạng
Đức. Tháng 10/1848 ông đã đi Bỉ để tránh lệnh truy nã của chính quyền Phổ
nhưng không được phép cư trú chính trị, ông đã đến Pari sau đó sang Thụy Sĩ
tham gia Đại hội các Liên đoàn công nhân Đức, ông được bầu vào Ủy ban Trung
ương của tổ chức này. Tháng 1/1849, ông trở vể Đức và tiếp tục hoạt động cách
mạng. Khi cuộc đấu tranh bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức (5/1849), Ph.
Ăngghen đã vạch ra một kế hoạch hoạt động quân sự, thành lập quân đội cách
mạng tiến hành cuộc khởi nghĩa. Ngày 10/5/1849, ông đến Elberfeld và được bổ
sung vào Ban quân sự. Trong thời kỳ này ông đã tham gia trực tiếp 4 trận đánh
lớn, trong đó có trận Rastatt.
Tháng 11 năm 1850, Ph. Ăngghen buộc phải chuyển đến Manchester và lại
bắt đầu làm việc ở văn phòng thương mại. Tháng 09 năm 1870, Ph. Ăngghen
đến London và được đưa vào Tổng Hội đồng của Quốc tế Cộng sản I. Năm
1871, Ph. Ăngghen tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ Công xã Pari.
Trong thời gian này, Ph. Ăngghen đã viết một số tác phẩm có giá trị lý luận, đặc

8


biệt là cuốn Chống Duyrinh (1878) góp phần to lớn cho việc hoàn thiện chủ
nghĩa Mác.
Sau khi C. Mác qua đời (1883), Ph. Ăngghen là người lãnh đạo Tổ chức
những người theo chủ nghĩa xã hội ở Châu Âu, chuẩn bị cho tập 2 và 3 của Bộ
Tư bản mà C.Mác chưa kịp hoàn thành.

Ngày 14/7/1889 ở Pari Quốc tế cộng sản II ra đời là liên minh quốc tế các
đảng công nhân. Dưới sự lãnh đạo của ông, Quốc tế cộng sản II có nhiều đóng
góp quan trọng vào việc phát triển phong trào công nhân thế giới. Năm 1895 khi
ông mất những người theo chủ thuyết chống lại học thuyết Mác như K.Kautsky,
E.Bernstein dần chiếm ưu thế trong Quốc tế II. Do không thống nhất về chiến
lược, chia rẽ về tổ chức nên Quốc tế cộng sản II tan rã khi chiến tranh thế giới I
bùng nổ.
Ph. Ăngghen còn viết nhiều tác phẩm nổi tiếng vào những năm cuối
đời: Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước ( 1884); Biện chứng của tự
nhiên (1884); Lútvít Phoiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức ( 1886
– 1888); Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894)...
1.1.2. Khái quát tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”
1.1.2.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản”
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản ra đời được chế định bởi một hoàn cảnh lịch
sử cụ thể, nó đáp ứng yêu cầu của lịch sử lúc bấy giờ.
“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” là bản cương lĩnh cách mạng đầu tiên
của phong trào cộng sản và công nhân thế giới, là tác phẩm lý luận tổng kết
toàn bộ quá trình hình thành chủ nghĩa Mác, trình bày những quan điểm cơ bản
của chủ nghĩa Mác, thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản. Tác phẩm này
do Các Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo vào cuối năm 1847, được công bố vào
đầu năm 1848 và xuất bản vào tháng 3/1848.
Mục đích của tác phẩm như C.Mác và Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ: “Hiện
nay đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình bày trước toàn thế
giới những quan điểm, ý đồ của mình và phải có một Tuyên ngôn về Đảng của
9


mình để đập lại một câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản”1 (đoạn 4
trang 539).

Vào đầu thế kỷ XIX cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành ở nước
Anh, được đẩy mạnh ở Pháp và các nước Tây Âu khác. Lực lượng sản xuất đã
phát triển hơn giai đoạn trước rất nhiều. Vào những năm 40 của thế kỷ XIX,
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN) đã thống trị ở Anh, Pháp và
trong một chừng mực nào đó ở Đức. Ở nhiều nước Tây Âu, quá trình phát triển
của chủ nghĩa tư bản (CNTB) diễn ra khá mạnh mẽ. Những mâu thuẫn vốn có
của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt. Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản
xuất TBCN đã trở nên không thể điều hòa được. Những mâu thuẫn giai cấp vốn
có của CNTB mà trước hết là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản
ngày càng gay gắt.
Do đó, ở thời kỳ này, phong trào vô sản đã phát triển mạnh mẽ và giai
cấp vô sản ngày càng chứng tỏ là một lực lượng xã hội to lớn, đóng một vai trò
quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội của quốc gia. Giữa những năm 40
của thế kỷ XIX, trung tâm của phong trào cách mạng chuyển sang nước Đức.
Giai cấp vô sản Đức tiến hành cuộc đấu tranh của mình nhưng sự giác ngộ của
họ còn yếu kém.
Giữa lúc đó, Mác và Ăng-ghen nhận thức sâu sắc rằng: cần phải làm cho
giai cấp vô sản trở thành một lực lượng độc lập và làm cho họ tiến gần tới việc
thực hiện những mục đích của cộng sản chủ nghĩa. Tại Luân Đôn (thủ đô nước
Anh) tổ chức “Liên minh những người chính nghĩa” ra đời năm 1836 và cuối
năm 1847 họp Đại hội lần thứ hai. Mác và Ăng-ghen được ủy nhiệm soạn thảo
Cương lĩnh dưới hình thức một bản tuyên ngôn.
Mác và Ăngghen đã tập trung sức lực, trí tuệ để hoàn thành “Tuyên
ngôn Đảng cộng sản” trong một thời gian rất ngắn và lần đầu tiên được xuất bản
tại Luân Đôn. Ít lâu sau, Tuyên ngôn được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng ở nhiều
nước khác nhau và mỗi lần tái bản được dịch sang một thứ tiếng khác đều được
tác giả viết lời tựa mới.
1

C. Mac và Ph. Ăngghen. Tuyển tập, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.539, đ.4


10


Trong Tuyên ngôn Mác – Ăngghen các nguồn gốc sản sinh ra các quan
niệm xã hội chủ nghĩa đối lập và tiến hành phê phán các quan niệm ấy.
1.1.2.2.. Những tư tưởng cơ bản của tác phẩm“Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản”
Những tư tưởng chủ đạo trong tác phẩm tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
được Ăngghen nêu rõ trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức được xuất bản 1883,
chúng ta có thể khái quát các tư tưởng chủ đạo trong tác phẩm như sau:
Một là, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” khẳng định hai nguyên lý của
chủ nghĩa Mác: Phương thức sản xuất và trao đổi kinh tế cùng với cơ cấu xã hội
của phương thức đó quyết định sự sự hợp thành nền tảng của xã hội; Lịch sử
phát triển của xã hội có giai cấp là lịch sử của đấu tranh giai cấp.
Hai là, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” khẳng định giai cấp vô sản chỉ có
thể tự giải phóng khỏi tình trạng bị áp bức bóc lột, nếu đồng thời và vĩnh viễn
giải phóng toàn bộ xã hội khỏi tình trạng bị áp bức bóc lột, phân chia giai cấp và
đấu tranh giai cấp.
Ba là, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” công khai trình bày trước toàn bộ
thế giới về chiến lược, sách lược của Đảng Cộng sản và đập tan những hư truyền
về “bóng ma cộng sản” mà các thế lực chính trị phản động đang loan truyền ở
châu Âu lúc bấy giờ.
Bốn là, Từ khi ra đời cho đến nay, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” luôn
là nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho hành động của phong trào cộng sản
và công nhân thế giới, nó soi sáng con đường tiến lên của cách mạng thế giới.
Đồng thời, mỗi thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động thế giới lại càng khẳng định tính chất khoa học và cách mạng,
và làm phong phú thêm những tư tưởng thiên tài của C.Mác và Ph.Ăngghen đã
nêu trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”.


1.1.2.3. Nội dung cơ bản của tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”

11


Nội dung cơ bản của tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” được C. Mác
và Ăngghen trình bày thành 4 chương. Ngoài ra mỗi lần xuất bản hai ông còn
viết lời tựa để thuyết minh và làm rõ thêm nội dung tư tưởng của Tuyên ngôn.
Chương I: Tư sản và vô sản
Ở chương này, C. Mác và Ăngghen đã bàn đến các vấn đề chủ yếu sau:
Sự phát triển của lịch sử loài người. Lịch sử phát triển của xã hội loài người
từ khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã cho tới nay là lịch sử đấu tranh giai
cấp, đấu tranh giữa các giai cấp bị áp bức với các giai cấp bóc lột.
Đến xã hội tư bản hiện đại cũng phân chia thành hai giai cấp lớn thù địch
với nhau, đó là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Cuộc đấu tranh giữa hai giai
cấp này đưa tới sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ
nghĩa cộng sản.
Vị trí lịch sử của giai cấp tư sản. Khi mới ra đời giai cấp tư sản là lực lượng
cách mạng có vai trò hết sức to lớn, đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến lật
đổ giai cấp phong kiến quý tộc, giành địa vị thống trị, thiết lập nền dân chủ tư
sản, tuy là nền dân chủ cắt xén nhưng so với nền quân chủ chuyên chế thì đó là
một tiến bộ trong lịch sử. Giai cấp tư sản đã tạo điều kiện cho sự phát triển của
khoa học – kỹ thuật, đồng thời sẽ xóa bỏ tất cả những gì không phù hợp với bản
thân giai cấp đó. Chính giai cấp tư sản là giai cấp đầu tiên chỉ cho chúng ta thấy
rõ loài người có khả năng làm được những gì.
Vốn có bản chất là tư hữu và bóc lột nên vai trò cách mạng của giai cấp tư
sản bị hạn chế ngay từ đầu. Giai cấp tư sản chỉ làm đơn giản hóa giai cấp và đối
kháng giai cấp mà thôi. Nó phân chia xã hội thành hai phe thù địch, hai giai cấp
hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản nhưng “Giai cấp tư sản

không những đã rèn vũ khí để giết mình, nó còn tạo ra những người sử dụng vũ
khí ấy – công nhân hiện đại, những người vô sản”2 (đ3, tr549).
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và sự ra đời của Đảng Cộng sản
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản do vị trí kinh tế xã hội của giai cấp vô
sản trong lịch sử quy định. Giai cấp vô sản là sản phẩm của nền đại công nghiệp
2

C. Mac và Ph. Ăngghen. Tuyển tập, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.549, đ.3

12


và lớn lên cùng sự phát triển của công nghiệp. Đây là giai cấp cách mạng triệt để
nhất, mang trong mình sứ mạng lịch sử là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư
bản và sáng tạo ra một xã hội mới tốt đẹp hơn. Song, giai cấp vô sản phải có
những điều kiện để có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, đó là sự ra đời
của Đảng Cộng sản là một tất yếu của lịch sử.
Trong cuộc đấu tranh, Đảng cộng sản không chỉ tập hợp trong hàng ngũ của
mình giai cấp vô sản mà cả các tầng lớp trung gian, những nhà tiểu công nghiệp,
tiểu thương, thợ thủ công, nông dân,… đã tự nguyện từ bỏ quan điểm của chính
họ để đứng trên quan điểm của giai cấp vô sản, bảo vệ lơi ích tương lai của họ.
Chương II: Những người vô sản và những người cộng sản
Ở chương này, C. Mác và Ăngghen đã chỉ ra tính tiên phong của Đảng
Cộng sản, mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và giai cấp, những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa xã hội khoa học và một số nguyên lý chiến lược, sách lược cách
mạng.
Tính tiên phong của Đảng thể hiện trên cả hai mặt hành động thực tiễn và lý
luận. Đảng là một bộ phận của giai cấp, có lợi ích thống nhất với lơi ích của giai
cấp. Vai trò tiên phong của Đảng đảm bảo cho Đảng tập hợp được giai cấp vô
sản và lãnh đạo giai cấp vô sản đi đến thắng lợi.

Để đập tan luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản của giai cấp tư sản,
Tuyên ngôn khẳng định và bảo vệ những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa
học. Đó là những nguyên lý về vấn đề sở hữu; vấn đề tự do cá nhân; chế độ gia
đình; vấn đề giáo dục; vấn đề dân tộc, tổ quốc và quốc tế; vấn đề tôn giáo,…
Những nguyên lý chiến lược và sách lược cũng đã được trình bày trong
Tuyên ngôn. Đó là hai giai đoạn của cuộc cách mạng vô sản.
Giai đoạn 1: xây dựng giai cấp vô sản thành giai cấp thống trị, giành lấy
dân chủ, giành lấy chính quyền. Con đường đường giành lấy chính quyền bằng
bạo lực;
Giai đoạn 2: giai cấp vô sản sử dụng quyền lực chính trị của mình để cải tạo
xã hội củ, xây dựng xã hội mới, tước đoạt kẻ đi tước đoạt. Vấn đề chính quyền
nhà nước là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng cũng đã được đề cập tới.
13


Trong bản Tuyên ngôn, tuy C. Mác và Ăngghen chưa dùng đến thuật ngữ
chuyên chính vô sản nhưng tư tưởng về chuyên chính vô sản đã được hai ông
diễn đạt một cách rõ ràng qua các thuật ngữ “Giai cấp vô sản nắm chính quyền”,
“giai cấp vô sản tự xây dựng thành giai cấp thống trị”. Sau này, trong thư gửi
Vây-ơ-đờ-mây-e ngày 5/3/1852 C.Mác đã sử dụng khái niệm “chuyên chính vô
sản” - một trong những nguyên lý cơ bản nhất của chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Chương III: Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đòi là bản cáo chung đối với tát cả các
trào lưu xã hội chủ nghĩa phi vô sản trước đó. Tuyên ngôn xác định thái độ cụ
thể đối với từng trào lưu: phê phán các trò lưu xã hội chủ nghĩa phản động của
phong kiến tiểu tư sản, phân tích sâu sắc chủ ngĩa xã hội bảo thủ tiểu tư sản.
Tuyên ngôn giành sự đánh giá thích đáng chủ nghĩa xã hội không tưởng. Tuyên
ngôn phê phán những trào lưu đó nhằm đảm bảo cho việc truyền bá học thuyết
của chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân.
Chương IV: Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập

Trong chương này C. Mác và Ăngghen đã chỉ rõ phải kết hợp lợi ích trước
mắt và lợi ích lâu dài của giai cấp vô sản, khẳng định chiến lược của người cộng
sản là: “Những người cộng sản chiến đấu cho lợi ích và những mục đích trước
mắt cảu giai cấp công nhân, nhưng đồng thời trong phong trào hiện tại, họ cũng
bảo vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào”3. (đoạn 4, trang 584).
C. Mác và Ăngghen cũng chỉ ra mục tiêu trước mắt và lâu dài trong từng
giai đoạn cách mạng mà chính Đảng giai cấp vô sản cần xác định rõ ràng để từ
đó xác định rõ nhiệm vụ, kẻ thù lực lượng chủ yếu cũng như những đảng phái
cần liên hiệp để chống lại các thế lực phản động và thống trị: “Nhưng không giờ
phút nào, Đảng cộng sản lại quên gây cho công nhân một ý thức sáng suốt và rõ
rệt về sự đối kháng kịch liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, để khi có
thời cơ thì bao nhiêu điều kiện chính trị và xã hội do chế độ tư sản tạo ra, công
nhân Đức biết đổi thành bấy nhiêu vũ khí chống lại giai cấp tư sản, để ngay sau
khi tiêu diệt ngay những giai cấp phản động ở Đức, là có thể tiến hành đấu tranh
3

C. Mac và Ph. Ăngghen. Tuyển tập, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.584, đ.4

14


chống lại chính ngay giai cấp tư sản”4. Trong khi liên hiệp với các đảng phái để
chống lại thế lực phản động đang thống trị, Đảng cộng sản xác định rằng: giành
độc lập, liên minh nhưng phải có đấu tranh, có thõa hiệp. Tất nhiên bao giờ
cũng giữ vững lập trường quan điểm của giai cấp công nhân.
Tư tưởng cách mạng không ngừng được các Ông làm sáng tỏ hơn khi nói
về tình hình nước Đức lúc đó: “Những người cộng sản chú ý nhiều nhất đến
nước Đức, vì nước Đức hiện đang ở vào đêm hôm trước của một cuộc cách
mạng tư sản, vì nước Đức sẽ hoàn thành cuộc cách mạng ấy trong những điều
kiện tiên tiến hơn của nền văn minh châu Âu và với một giai cấp vô sản vô cùng

phát triển hơn so với nước Anh trong thế kỷ XVII và nước Pháp trong thế kỷ
XVIII, và do đấy, cách mạng tư sản Đức chỉ có thể là màn đầu trực tiếp cho một
cuộc cách mạng vô sản”5. (đoạn 6, trang 585). Đảng cộng sản tuyên bố quan
điểm cách mạng không ngừng, mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách
dùng bạo lực lật đổ hoàn toàn trật tự xã hội hiện có. Trong cuộc cách mạng ấy,
những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buột họ; và
trong cuộc cách mạng ấy, họ giành cả thế giới cho mình “Vô sản tất cả các nước
đoàn kết lại”6 là khẩu hiệu chiến đấu công khai tuyên bố quá trình quốc tế của
phong trào vô sản.
1.1.2.4. Ý nghĩa của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”
“Tuyên ngôn” với những lý luận sắc bén, đầy sức thuyết phục để biến chủ
nghĩa xã hội từ không tưởng thành khoa học, thành thực tiễn đấu tranh cách
mạng. Đó là cống hiến vô giá của C. Mác và Ăngghen.
Tuyên ngôn là một văn kiện có tính chất cương lĩnh: cả lý luận và thực tiễn
đầu tiên của Đảng cộng sản, soi đường cho giai cấp công nhân ỏ tất cả các nước
– con đường đấu trnh thoát khỏi ách nô lệ tư bản chủ nghĩa tiên tới một xã hội
Cộng sản chủ nghĩa văn minh và tốt đẹp hơn. Năm 1888 Ăngghen đã chỉ ra
rằng: Tuyên ngôn là tác phẩm phổ biến hơn cả, có tính chất quốc tế hơn cả trong
tất cả các văn phẩm xã hội chủ nghĩa, đó là cương lĩnh chung của hàng triệu
4

C. Mac và Ph. Ăngghen. Tuyển tập, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.585, đ.5
C. Mac và Ph. Ăngghen. Tuyển tập, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.585, đ.6
6
C. Mac và Ph. Ăngghen. Tuyển tập, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.586, đ.5
5

15



công nhân từ Si – bê – ri – a (lãnh thổ rộng lớn của Nga) đến Ca – li – phót – ni
– a (thành phố của Mỹ).
Sự ra đời của Tuyên ngôn Đảng cộng sản đánh dấu sự chín muồi của Chủ
nghĩa Mác. Giá trị sức sống bền vững của bản tuyên ngôn phản ánh giá trị khoa
học và cách mạng của chủ nghĩa Mác. Giá trị, sức sống đó đã được thực tiễn
cách mạng thế giới kiểm chứng qua nhiều lần thử thách nghiệt ngã. Công cuộc
đổi mới, cải cách với nhiều thành tựu của Trung Quốc, Việt Nam, sự đứng vững
của nước Cu - Ba xã hội chủ nghĩa trước sự bao vây cấm vận của đế quốc Mỹ,…
là những minh chứng về tác động và ý nghĩa thực tiễn của Tuyên ngôn Đảng
cộng sản.
Tuyên ngôn Đảng cộng sản luôn đồng hành với Đảng và cách mạng Việt
Nam. Tư tưởng khoa học và phương pháp cách mạng của tuyên ngôn đã được
Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo trong những năm đấu tranh giải
phóng dân tộc cũng như trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Giá trị khoa học của Tuyên ngôn trước hết
giúp Đảng có được cơ sở lý luận và phương pháp luận đúng đắn trong phát triển
lý luận, tổng kết thực tiễn nhằm làm sáng tỏ hơn về Chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.Vượt qua thời gian của lịch sử, những
giá trị của Tuyên ngôn Đảng cộng sản là bất diệt, là mặt trời, là ngọn đèn soi
sáng con đường cách mạng Việt Nam đi tới tương lai.
1.2. Quan điểm của C. Mác – Ph.Ăngghen về chuyên chính vô sản trong tác
phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
1.2.1 Khái niệm chuyên chính vô sản
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C.Mác và Ph.Ăngghen
chưa dùng đến khái niệm chuyên chính vô sản nhưng tư tưởng của các ông đã
toát lên định hướng đó khi các ông nói: "tổ chức những người vô sản thành giai
cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính
quyền"7. [2;558]

7


C. Mac và Ph. Ăngghen. Tuyển tập, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.558, đ.2

16


C.Mác và Ph. Ăng-ghen chưa dùng thuật ngữ chuyên chính vô sản, song đã
khẳng định thực chất của chuyên chính vô sản là việc giai cấp vô sản được tổ
chức thành giai cấp thống trị, khẳng định tính tất yếu khách quan của việc giai
cấp vô sản lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản và thiết lập quyền thống trị về
kinh tế và xã hội của mình. Nhiệm vụ của chuyên chính vô sản được xác định là:
Thủ tiêu bằng bạo lực chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và thiết lập chế độ sở
hữu toàn dân.
Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất: "tăng thật nhanh số lượng những
lực lượng sản xuất lên".
Chính quyền cách mạng của công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo liền
chuyển sang nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản: tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chuyên chính vô sản là chính
quyền của đa số nhân dân lao động chống lại thiểu số đi bóc lột; bản chất của nó
không phải là bạo lực, trấn áp, mà là xây dựng và tổ chức. Vì vậy, chuyên chính
vô sản là chế độ dân chủ cao nhất, đầy đủ nhất, “dân chủ gấp triệu lần” so với
dân chủ tư sản.
1.2.2 Tính tất yếu và bản chất của chuyên chính vô sản
Một trong những quan điểm chính trị cơ bản của toàn bộ Tuyên ngôn là đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản tất yếu dẫn tới chuyên chính vô sản và bản
thân nền chuyên chính này cũng chỉ là hình thức chính trị quá độ để đi tới xã hội
không còn giai cấp và nhà nước.
Cùng với việc dự báo sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, Tuyên
ngôn đã đưa ra lời tuyên bố về sự tất yếu của chủ nghĩa cộng sản thay cho xã hội
tư bản. Nếu như ở cuối Chương I, Tuyên ngôn đã khẳng định thắng lợ của giai

cấp vô sản là tất yếu, thì đến cuối Chương II, Tuyên ngôn đã đưa ra luận điểm:
“Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ
xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện
cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”8. [4;569]

8

C. Mac và Ph. Ăngghen. Tuyển tập, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.569, đ.4

17


Để chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, Tuyên ngôn cho rằng,
giai cấp vô sản phải thông qua con đường cách mạng vô sản, lật đổ sự thống trị
của giai cấp tư sản, xây dựng xã hội mới. Tuyên ngôn đã chỉ rõ: Bước thứ nhất
trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị,
là giành lấy dân chủ. Sau đó, giai cấp công nhân sẽ dùng sự thống trị chính trị
của mình để xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới, phát
triển lực lượng sản xuất, cải tạo xã hội.
Luận điểm đó, luận điểm về sự thiết lập nền chuyên chính vô sản, thiết lập
chính quyền vô sản – một chính quyền dân chủ do chính ngay bản chất của nó,
thể hiện lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân và dựa vào sự ủng hộ của họ - là
một trong những luận điểm nền tảng của Tuyên ngôn. Song, nói cho đúng trong
tuyên ngôn C.Mác và Ph.Ăngghen chưa sử dụng thuật ngữ “chuyên chính của
giai cấp vô sản”. Chỉ sau này, với kinh nghiệm thực tiễn của Cách mạng 1848 –
1849, các ông mới đưa ra thuật ngữ đó vào tư tưởng thiết lập sự thống trị chính
trị của giai cấp vô sản. Mặc dù vậy, ngay trong Tuyên ngôn, khi luận chứng khoa
học cho tư tưởng này, các ông đã khẳng định giai cấp vô sản hoàn toàn không
chủ trương làm cho chính quyền của mình tồn tại vĩnh cửu, và về mặt này, nó là
giai cấp duy nhất trong lịch sử làm như vậy. “Nếu giai cấp vô sản trong cuộc đấu

tranh chống giai cấp tư sản, nhất định phải tự tổ chức thành giai cấp, nếu giai
cấp vô sản thông qua con đường cách mạng mà trở thành giai cấp thống trị và
với tư cách là giai cấp thống trị, nó dùng bạo lực tiêu diệt chế độ sản xuất cũ, thì
đồng thời với việc tiêu diệt chế độ sản xuất ấy, nó cũng tiêu diệt luôn cả những
điều kiện của sự đối kháng giai cấp, nó tiêu diệt các giai cấp nói chung và cũng
do đấy, tiêu diệt cả sự thống trị của chính ngay giai cấp mình”9. [3;569]
Tư tưởng xuyên suốt trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, là tư tưởng
khoa học về sự giải phóng toàn xã hội, giải phóng nhân loại, giải phóng con
người khỏi mọi ách áp bức bóc lột, khỏi mọi sự tha hóa, đây là nhiệm vụ lịch sử
đăt lên vai giai cấp công nhân. “Giai cấp vô sản nắm chính quyền sẽ càng làm
cho những cách biệt và những sự đối lập ấy mất đi nhanh hơn. Hành động chung
9

C. Mac và Ph. Ăngghen. Tuyển tập, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.569, đ.3

18


của giai cấp vô sản, là một trong những điều kiện đầu tiên cho sự giải phóng của
họ”10.[4;565] Đây là quan điểm giai cấp của giai cấp vô sản, là chủ nghĩa nhân
đạo hiện thực. Chiều hướng lịch sử khách quan là nhân loại sẽ đi lên một xã hội
công bằng, nhân đạo phù hợp với bản chất con người. Nhưng lịch sử không
bằng phẳng, trơn tru. Con đường cách mạng diễn ra quanh co, khi cao trào, lúc
thoái trào, có lúc nơi này nơi khác cách mạng đứng trước những trở lực tưởng
như không vượt qua nổi.
Thích ứng với thời kỳ quá độ - thời kỳ đau đẻ kéo dài, để loại bỏ dần những
cái cũ, xây dựng và củng cố dần những cái mới, tạo ra những tiền đề vật chất
cho việc hình thành một xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa – là thời kỳ thực
hành nền chuyên chính vô sản. Chuyên chính vô sản không phải là để duy trì sự
áp bức bóc lột, sự thống trị của giai cấp mà là để thủ tiêu hoàn toàn sự áp bức

bóc lột, sự thống trị của giai cấp nói chung, trong đó có giai cấp vô sản.
Với những nhận thức lý luận và am hiểu thực tiễn của mình khi đó, trong
Tuyên ngôn, C. Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra một phác thảo về xã hội mới trên
những nét chủ yếu và đồng thời chỉ rõ, xã hội mới đó không phải được xác định
ngay lập tức, mà được xác lập trong tiến trình cải tạo dần dần xã hội cũ. Và, khi
vạch ra những biện pháp mà nhà nước vô sản phải thực hiện để chuẩn bị cơ sở
cho sự cải tạo cách mạng đó, các ông không coi biện pháp đó là tuyệt đối đầy đủ
mà cho rằng bản thân thực tiễn xây dựng xã hội mới, những điều kiện cụ thể của
thực tiễn ấy sẽ mang lại những sửa đổi tương ứng cho những biện pháp ấy. Cuộc
cách mạng xã hội do giai cấp vô sản thực hiện, như các ông nhận xét, sẽ vĩnh
viễn chấm dứt tình trạng người bóc lột người, mọi hình thức nô dịch xã hội và
tình trạng “những người lao động thì không được hưởng, mà những kẻ được
hưởng lại không lao động”. Nó thủ tiêu hoàn toàn ách áp bức dân tộc, nô dịch
thuộc địa và những cuộc chiến đẫm máu. Xã hội mới do giai cấp vô sản xây
dựng sẽ tạo ra sự phồn vinh thực sự của nền sản xuất vật chất, sự phát triển
không ngừng của lực lượng sản xuất, có khả năng đáp ứng đầy đủ và toàn diện
những nhu cầu vật chất và tinh thần cho mọi thành viên trong xã hội. Nó làm
10

C. Mac và Ph. Ăngghen. Tuyển tập, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.565, đ.4

19


cho lao động tích lũy chỉ còn là “một phương tiện để mở rộng, làm phong phú
và làm giảm nhẹ cho quá trình sống của những người lao động”, thủ tiêu sự đối
lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay bằng cách “kết hợp giáo dục với
sản xuất vật chất”, “làm mất dần sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn”. Nó
thiết lập quyền bình đẳng và sự tự do thực sự của cá nhân, sự hài hòa giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích xã hội, vv…

Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về sự thống trị của giai cấp vô sản
như vậy hoàn toàn cho thấy rõ mục đích của giai cấp vô sản giành quyền lực
chính trị về tay mình không phải là tiếp tục duy trì sự thống trị, thay thế sự áp
bức này bằng một áp bức khác, mà sự thống trị ấy chỉ là một phương tiện, một
điều kiện cần thiết để đi tới hủy bỏ mọi sự thống trị, đi tới giải phóng con người.
1.2.3..Biện pháp và cách thức thực hiện chuyên chính vô sản
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển
và đề ra luận điểm chứng minh các điều kiện khách quan về sự diệt vong của
chủ nghĩa tư bản và sự hình thành các tiền đề chủ quan của cách mạng xã hôi
chủ nghĩa. “Giai cấp vô sản thiết lập sự thống trị của mình bằng cách lật đổ giai
cấp tư sản bằng bạo lực”11.[5;555] C.Mác và Ph.Ăng ghen khẳng định giai cấp
công nhân là giai cấp thực sự cách mạng có khả năng thực hiện cách mạng vô
sản, thủ tiêu chế độ cũ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ mới – cộng sản chủ
nghĩa.
Vai trò của nhà nước vô sản được C. Mác và Ph.Ăng ghen rất quan tâm:
“Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn
bộ tư sản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả các công cụ sản xuất vào
trong tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai
cấp thống trị, để tăng thật nhanh lực lượng sản xuất” 12[6;567]. Nhà nước là công
cụ quan trọng để tổ chức nền kinh tế từ nền kinh tế Tư bản chủ nghĩa thành nền
kinh tế Cộng sản chủ nghĩa.
C.Mác và Ph.Ăng ghen cho thấy, việc thủ tiêu chế độ sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, và cùng với nó là thủ tiêu toàn bộ chế độ tư bản
11
12

C. Mac và Ph. Ăngghen. Tuyển tập, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.555, đ.5
C. Mac và Ph. Ăngghen. Tuyển tập, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.567, đ.6

20



chủ nghĩa, đã được chuẩn bị một cách khách quan bởi sự tác động của chính
ngay các quy luật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Có điều đáng lưu ý, khi
khẳng định tính tất yếu khách quan của việc thủ tiêu chế độ sở hữu tư sản, khẳng
định “những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận
điểm duy nhất là: xóa bỏ chế độ tư hữu”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, “việc
xóa bỏ những quan hệ sở hữu đã tồn tại trước kia không phải là một cái gì đặc
trưng vốn có của chủ nghĩa cộng sản”. Rằng “đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản
không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư
sản” – “ biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của phuơng thức sản xuất và chiếm
hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này
bóc lột những người kia”. Rằng những người cộng sản “tuyệt đối không muốn
xóa bỏ sự chiếm hữu cá nhân…về những sản phẩm của lao động, cần thiết để tái
sản xuất ra đời sống, vì sự chiếm hữu ấy không đẻ ra một khoản dư nào có thể
đem lại một quyền lực chi phối lao động của người khác”. Điều họ muốn là “xóa
bỏ tính chất bi thảm” của phương thức chiếm hữu sản phẩm “khiến cho người
công nhân chỉ sống để làm tăng thêm tư bản, và chỉ sống trong chừng mực mà
những lợi ích của giai cấp thống trị đòi hỏi”. “Chủ nghĩa Cộng sản không tước
bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả mà chỉ muốn tước
bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”13 [2;562].
Các nhà kinh điển cũng rất thận trọng khi nêu các biện pháp giải quyết vấn
đề sở hữu ngay sau khi những người cộng sản nắm được chính quyền: “Cố
nhiên, điều đó lúc đầu chỉ có thể thực hiện được bằng cách xâm phạm một cách
chuyên chế vào quyền sở hữu và chế độ sản xuất tư sản, nghĩa là bằng những
biện pháp, về mặt kinh tế thì hình như không được đầy đủ và không có hiệu lực,
những trong tiến trình cuộc vận động, những biện pháp ấy sẽ vượt quá bản thân
chúng và là thủ đoạn không thể thiếu để đảo lộn toàn bộ phương thức sản
xuất”14.[7;567,568]
Khi chứng minh sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản và khẳng định “

sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như
13
14

C. Mac và Ph. Ăngghen. Tuyển tập, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.562, đ.2
C. Mac và Ph. Ăngghen. Tuyển tập, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.567&568, đ.7

21


nhau”. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đồng thời nhấn mạnh rằng, điều đó sẽ không
tự động diễn ra. Rằng, vai trò kẻ đào huyệt chôn chế độ tư bản đã trở nên lỗi thời
đó sẽ phải do một giai cấp nhất định thực hiện – giai cấp vô sản, giai cấp do
chính xã hội tư bản sinh ra: “Nhưng giai cấp tư sản không những đã rèn những
vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy, - những người
công nhân hiện đại, những người vô sản”15 [3;549]. Các ông khẳng định không
một giai cấp thống trị đã lỗi thời nào lại tự nguyện rút lui khỏi vũ đài lịch sử,
“vấn đề đặt ra là phải xóa bỏ buôn bán, xóa bỏ chế độ sản xuất tư sản và xóa
ngay cả giai cấp tư sản nữa”16[3;561]. Việc lật đổ giai cấp tư sản chỉ có thể diễn
ra do một kết quả của một cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt, của cuộc cách
mạng vô sản do chính giai cấp vô sản cách mạng và chính đảng của nó thực
hiện.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác và Ph.Ăng ghen
chưa dùng thuật ngữ chuyên chính vô sản, song đã khẳng định thực chất của
chuyên chính vô sản được tổ chức thành giai cấp thống trị, khẳng định tính tất
yếu khách quan của việc giai cấp vô sản lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản
và thiết lập quyền thống trị về kinh tế và xã hội của mình. Nhiệm vụ của chuyên
chính vô sản được xác định là :
Thủ tiêu bằng bạo lực chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và thiết lập chế độ sở
hữu toàn dân.

Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất: “tăng thật nhanh số lượng những
lực lượng sản xuất lên”.
Các nhà kinh điển cũng khẳng định tùy vào điều kiện lịch sử cụ thể của các
nước khác nhau mà những biện pháp áp dụng sẽ cũng phải, không có khuôn mẫu
chung cho mọi quốc gia khác nhau: “ Trong những nước khác nhau, những biện
pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều”17.[2;568].
Bên cạnh đó, các nhà kinh điển cũng đưa ra một số biện pháp phổ biến mà
có thể áp dụng ở các nước tiên tiến 18[2;568]
15

C. Mac và Ph. Ăngghen. Tuyển tập, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.549, đ.3
C. Mac và Ph. Ăngghen. Tuyển tập, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.561, đ.3
17
C. Mac và Ph. Ăngghen. Tuyển tập, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.568, đ.2
18
C. Mac và Ph. Ăngghen. Tuyển tập, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr.568&569, đ.3
16

22


Tuyên ngôn cũng chỉ ra rằng: Nhà nước của xã hội cộng sản tương lai (tức
là xã hội xã hội chủ nghĩa – một giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản – chính là
hình thức mà giai cấp vô sản tự tổ chức thành giai cấp thống trị, nắm quyền
thống trị trong xã hội thông qua nhà nước.
Cần phải khẳng định, những tư tưởng về chuyên chính vô sản của Tuyên
ngôn vẫn đang sống và ngày càng sống động hơn theo nhịp tiến lên của nhân
loại tiến bộ, của xã hội loài người đang vững bước đi vào thế kỷ XXI. Sức mạnh
tư duy vạch thời đại của C. Mác và Ph.Ăngghen trong tác phẩm này vẫn được
thực tiễn lịch sử toàn thế giới khảo nghiệm và minh chứng rực rỡ trong thời đại

ngày nay.

CHƯƠNG II
Ý NGHĨA LÝ LUẬN VỀ CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN CỦA C. MÁC
VÀ ĂNGGHEN ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
2.1.Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam làm thay đổi tình hình chính
trị của Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa
nửa phong kiến.
23


Sang đầu thế kỉ XX đời sống nhân dân càng bị bần cùng hóa. Mâu thuẫn
giữa nhân dân với thực dân Pháp và chế độ thuộc địa ngày càng gay gắt trở
thành mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu. Bên cạnh đó mâu thuẫn giữa nông
dân và địa chủ ngày càng gay gắt. Đây là trở lực lớn kìm hãm sự phát triển của
xã hội Việt Nam. Vì vậy, chỉ có giải quyết thành công những mâu thuẫn trên –
đồng nghĩa với việc tìm ra con đường cứu nước, giành lại độc lập thì xã hội Việt
Nam mới tiếp tục phát triển. Đó là đòi hỏi khách quan, cấp bách của cách mạng
Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Các phong trào đấu tranh diễn ra đầu thế kỷ XX sôi nổi như: Phong trào
Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục,… do các sĩ phu yêu nước chịu ảnh hưởng của
tư tưởng dân chủ tư sản: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh lãnh đạo; hay các
cuộc khởi nghĩa Yên Bái, rồi khởi nghĩa nông dân Yên Thế,… nhưng tất cả đều
đi đến thất bại.
Trước tình hình đó người thanh niên yêu nước tiên tiến, Nguyễn Tất Thành
đã ra đi tìm con đường cứu nước cho dân tộc. Người đã đi đến nhiều nước ở
châu Âu, Á, Phi,… tìm hiểu các cuộc cách mạng trên thế giới và đi đến khẳng
định con đường cách mạng tư sản không thể đem lại độc lập và hạnh phúc thực
sự cho nhân dân Việt Nam nói riêng và các nước trên thế giới nói chung. Tháng

7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc “Bản sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin trên báo Nhân đạo. Người tìm thấy
trong luận cương của Lênin lời giải đáp về con đường giải phóng cho nhân dân
Việt Nam; về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế
giới.
Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cách mạng thế
giới. Người đã xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, vạch ra phương hướng
chiến lược cho cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Mùa xuân năm 1930, tại Hương Cảng (Trung Quốc), đã diễn ra Hội nghi
thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc – đại biểu của Quốc tế Cộng sản. Đi đến thống nhất các tổ chức cộng
24


sản thành một chính đảng lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Thông qua chính
cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam và
lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dự thảo. Lời
kêu gọi khẳng định: “sự áp bức bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm
cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì
chết”19 [Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, trang 19]. Mặt khác, Đảng đã đưa ra cương
lĩnh chính trị đầu tiên của mình. Tháng 10 năm 1930, Hội nghị Trung ương
Đảng lần thứ nhất họp đề ra luận cương chính trị và bầu đồng chí Trần Phú làm
Tổng bí thư đầu tiên của Đảng. Giữa lúc phong trào cách mạng của quần chúng
đang dâng cao, đế quốc Pháp và tay sai thẳng tay đàn áp, khủng bố hòng dập tắt
phong trào cách mạng Việt Nam và tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tuy bị khủng bố ác liệt, Đảng và quần chúng cách mạng bị tổn thất nặng
nề, song thành quả lớn nhất của phong trào cách mạng 1930 – 1931 mà quân thù
không thể xóa được là: Đã khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo và năng lực
lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân qua Đảng tiền phong của mình; đã

đem lại cho nông dân niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng. Nhờ tinh
thần và nghị lực phi thường được rèn luyện qua thực tiễn đấu tranh cách mạng
đã vượt qua thử thách khó khăn, từng bước khôi phục tổ chức đảng và phong
trào cách mạng.
Trong những năm 1936 – 1939, chủ trương đổi mới của Đảng đã giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt
của cách mạng, các mối liên hệ giữa liên minh công – nông và mặt trận đoàn
kết dân tộc rộng rãi, giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa phong trào
cách mạng Đông Dương và phong trào cách mạng Pháp và trên thế giới; đề ra
các hình thức tổ chức và đấu tranh giành quyền lợi hàng ngày, chuẩn bị cho
những cuộc đấu tranh đỉnh cao hơn vì độc lập dân tộc và tự do.
Các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương thời kỳ này đánh dấu bước
trưởng thành của Đảng về chính trị và tư tưởng thể hiện bản lĩnh và tinh thần
độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng, mở ra một cao trào mới trong cả nước.
19

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000, t.3, tr.9

25


×