Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Quan điểm của c mác, ph ăngghen về nhà nước và việc vận dụng để xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân ở việt nam hiện nay tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.04 KB, 21 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Nhà nước là một trong những vân đề có tầm quan trọng đặc biệt của lý
luận chủ nghĩa Mác, Lênin nói chung và chính trị học nói riêng. Hệ thống
quan điểm về nhà nước của các nhà kinh điển mácxit đã trở thành một trong
những cơ sở lý luận khoa học quan trọng cho thực tiễn xây dựng nhà nước xã
hội chủ nghĩa ở các quốc gia lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tiến trình xây dựng nhà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sư vận dụng lý luận về
nhà nước và nhà nước xã hội chủ nghĩa của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác
vào điều kiện và hòan cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Công cuộc đổi mới
đất nước do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng từ năm 1986 cho đến nay
đã được hơn 20 năm, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đã có những thay đổi
to lớn, ngày càng chứng tỏ vai trò của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
không thể thay thế. Để đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phấn đấu đến năm 2020,
về cơ bản nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, chúng
ta không thể không tiếp tục đổi mới nhà nước. Đại hội XI, Đảng ta xem tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là nhiệm vụ trọng điểm trong đổi mới trên lĩnh vực chính trị. Thực hiện nhiệm
vụ này, đòi hỏi phải xuất phát từ thực tiễn xây dựng nhà nước ở Việt Nam nói
riêng, kinh nghiệm xây dựng nhà nước trên thê giới nói chung. Nhưng trước
hết đó là vấn đề làm thế nào để quán triệt được những quan điểm kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước xã hội chủ nghĩa trong điều kiện của
xã hội Việt Nam trước những thách thức thời đại về phát triển. Do đó, việc trở
lại với những quan điểm của C. Mác, F. Ăngghen về nhà nước nói chung và
nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng thông qua các tác phẩm kinh điển vẫn
đang là nhu cầu bức xúc cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn.
Từ những lý do trên, tôi chọn: “Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về
nhà nước và việc vận dụng để xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân
ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.

1



Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA MÁC, ĂNGGHEN, VỀ NHÀ NƯỚC
VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1 Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về nhà nước
Về nguồn gốc nhà nước
Vấn đề nguồn gốc nhà nước đã được đề cập trong lịch sử từ thời cổ đại.
Xã hội càng phát triển thì vấn đề nguồn gốc nhà nước cũng càng được quan
tâm nghiên cứu và loài người ngày càng có được những tri thức đầy đủ, chính
xác hơn. Đặc biệt từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời, các nhà tư tưởng tư sản tiến
bộ đã hướng việc tìm nguồn gốc nhà nước vào trong xã hội.
Nhà nước chỉ xuất hiện khi loài người đã phát triển đến một trình độ
nhất định, trước hết là sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến xã hội
phân chia thành các giai cấp đối kháng và mâu thuẫn giữa các giai cấp ấy là
không thể điều hòa được.
Xuất phát từ quan điểm duy vật lịch sử, khi nghiên cứu vấn đề nhà
nước, Mác và Ăngghen đã phân tích toàn bộ sự tíến triển của lịch sử loài
người trong mối quan hệ hữu cơ của con người, xã hội và tự nhiên ở từng giai
đoạn lịch sử để làm rõ quá trình hình thành và phát triển của nhà nước cũng
như chỉ rõ bản chất và ý nghĩa của nhà nước ở mỗi chế độ xã hội.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, thông qua việc bàn về mối liên hệ
giữa cơ cấu xã hội và chính trị với sản xuất, trên cơ sở nắm được mối quan hệ
thực chất của nhà nước và tính chất của những mối liên hệ xã hội, các ông đã
nêu tư tưởng về vai trò quyết định của chế độ tư hữu trong kinh tế đối với
chính trị.
Trong “Bản thảo kinh tế 1857-1859 và góp phần phê phán khoa học
kinh tế-chính trị năm 1859” Mác đã phân tích vai trò của xã hội công dân và
cho rằng, xã hội công dân là lĩnh vực sinh hoạt và hoạt động vật chất kinh tế
của con người. Chính xã hội công dân là cơ sở đầu tiên của tòa nhà đời sống
chung của loài người, hoạt động sống của xã hội công dân là động lực chính

2


của sự phát triển lịch sử “không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền
cũng như những hình thái nhà nước hay lấy cái gọi là sự phát triển chung
của tinh thần của con người để giải thích những quan hệ và hình thái đó, mà
trái lại phải lấy những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện
sinh hoạt vật chất mà toàn bộ đã được Hêghen, theo cách của người Anh và
người Pháp thế kỷ XVIII gọi gộp chung lại là “xã hội công dân”[64,tr.14]
Sau khi Mác qua đời, Ăngghen đã viết tác phẩm “Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” vừa để trình bày những quan điểm
của hai ông, vừa bổ sung thêm những tư liệu mới. Trong tác phẩm Ăngghen
cho rằng, chính sự chênh lệch về tài sản cộng với việc con người ta có thể để
lại tài sản cho con cháu mình đã tạo ra những mầm mống đầu tiên của giới
quý tộc thế tập và vương quyền thế tập. Chế độ nô lệ từ chỗ chỉ áp dụng đối
với các tù binh trong chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc thì nay ngày càng mở
rộng phạm vi đối với mọi đối tượng trong xã hội.
1.2 Quan điểm của Mác, Ăngghen, về nhà nước xã hội chủ nghĩa
1.2.1 Về bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác luôn khẳng định bản chất giai cấp của
nhà nước vô sản thể hiện ở chỗ nhà nước đó do đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, thực hiện dân chủ thực sự với
nhân dân lao động, bảo vệ quyền lợi, lợi ích của nhân dân, chuyên chính với
kẻ thù của nhân dân. Bản chất này là sơ sở kinh tế và chế độ chính trị xã hội
của chủ nghĩa xã hội quyết định.
Từ bài học Công xã Pari, Mác cho rằng, để thiết lập xã hội mới, giai
cấp công nhân phải đập tan bộ máy nhà nước cũ và thay thế nó bằng bộ máy
nhà nước của bản thân họ.
Trong tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”, Mác đã chỉ ra rằng công xã Pari
thực chất là “Chính phủ của giai cấp công nhân”. Việc thành lập công xã có

nghĩa là quần chúng nhân dân, tức là xã hội đoạt lại quyền lực nhà nước, biến
nó từ chỗ là lực lượng thống trị xã hội, áp bức xã hội thành sức sống của bản
3


thân xã hội. Đó chính là hình thức chính trị mà quần chúng nhân dân giành
được để giải phóng cho xã hội. Mác viết “bí quyết thực sự của công xã Pari
là ở chỗ: về thực chất nó là một chính phủ của giai cấp công nhân, là kết quả
của cuộc đấu tranh của giai cấp những người sản xuất chống lại giai cấp
chiếm đoạt, là hình thức chính trị rốt cuộc đã tìm ra được khiến cho chủ thể
thực hiện được việc giải phóng lao động về mặt kinh tế” [66, tr. 454].
Nhà nước là công cụ chuyên chính của một giai cấp, điều này cũng
hòan toàn phù hợp với nhà nước vô sản, nhưng như thế không có nghĩa là nhà
nước vô sản là tổ chức riêng của giai cấp công nhân mà thực chất nó là tổ
chức của toàn thể nhân dân lao động thực hiên quyền làm chủ của mình. Nhân
dân là người bầu ra và giám sát những người trong bộ máy nhà nước để thay
thế quan lại của chế độ cũ và những người đó có thể bị bãi miễn bất cứ lúc
nào, căn cứ vào quyết nghị của những cử tri đã bầu ra họ. Và “thay cho xã hội
tư sản cũ với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó thì một thể lien
hợp xuất hiện, trong đó sự tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển
tự do của mọi người” [63, tr. 628].
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” nói về sự khác biệt
bản chất của nhà nước vô sản với nhà nước tư sản, Mác, Ăgnghen viết: “Giai
cấp vô sản sẽ dùng ưu thế chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn
bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản
xuất vào trong tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã có tổ chức
thành giai cấp thống trị và để tăng số lượng những lực lượng sản xuất lên hết
sức nhanh” [63, tr. 626].
Bàn về bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa, cả Mác, Ăngghen còn có
những luận điểm quan trọng về nguy cơ quan liêu hóa của nhà nước ấy và

biện pháp ngăn ngừa, khắc phục nó.
Về chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Vấn đề tính tất yếu của nhà nước chuyên chính vô sản đã được Mác
khẳng định trong tác phẩm: “Phê phán cương lĩnh Gôta”. Sau đó trong những
4


năm đầu cách mạng tháng Mười, nhấn mạnh tính chất và chức năng trấn áp
bằng bạo lực của nhà nước vô sản, Lênin viết: “Chuyên chính là một chính
quyền dựa trực tiếp vào bạo lực và không bị một luật pháp nào hạn chế cả…
chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản là một chính quyền do giai cấp
vô sản giành được và duy trì bằng bạo lực đối với giai cấp tư sản, chính
quyền không bị một luật pháp nào hạn chế cả” [49, tr.296-297]. Tuy nhiên
ông cũng khẳng định rằng chuyên chính vô sản không hề đối lập với dân chủ,
mà là phần bổ sung, là một hình thức thể hiện của dân chủ, nó chỉ đối lập với
chuyên chính của các giai cấp áp bức, bóc lột nhân dân:
Chuyên chính vô sản nghĩa là tổ chức đội tiên phong của những người
bị áp bức thành giai cấp thống trị để trấn áp bọn áp bức thì không thể giản
đơn đóng khung trong việc mở rộng chế độ dân chủ được. Đồng thời với việc
mở rộng rất nhiều chế độ dân chủ - lần đầu tiên bíến thành chế độ dân chủ cho
người nghèo, chế độ dân chủ cho nhân dân chứ không phải cho bọn nhà giàu.
Chuyên chính vô sản còn thực hành một loạt biện pháp hạn chế quyền tự do
đối với bọn áp bức, bọn bóc lột, bọn tư bản [48, tr. 109].
Thực ra trong lịch sử đã có những nhà nước thực hiện sự chuyên chính
như vậy và nhà nước vô sản cũng đã có lúc cần phải “rắn như thép”. Tuy nhiên
đôi với các nhà nước hiên đại, ngay cả nhà nước tư sản khi đã tồn tại dưới hình
thức nhà nước pháp quyền thì về nguyên tắc, pháp luật phải là tối cao mặc dù
pháp luật chẳng qua cũng chỉ là biểu hiện ý chí của giai cấp thống trị.
Nhà nước trong các chế độ xã hội có đối kháng giai cấp luôn củng cố
và bảo vệ các quan hệ xã hội, các lợi ích xã hội có lợi cho giai cấp thống trị.

Trong các nhà nước đó, phần lớn nhân dân lao động bị gạt ra ngoài sự quản lý
của nhà nước. Ngược lại nhà nước vô sản là nhà nước của chính nhân dân lao
động để thực hiện quyền lực của mình trong việc bảo vệ thành quả cách mạng
và xây dựng xã hội mới. Điều đó được thể hiện cụ thể ở những điểm sau:
Một là, tất cả các nhà nước kiểu cũ đều dựa trên cơ sở là chế độ sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất - đó là cơ sở kinh tế đẻ ra chế độ người bóc lột
5


người. Còn cơ sở kinh tế của nhà nước vô sản là chế độ sở hữu công cộng về
các tư liệu sản xuất chủ yếu - đó là điều kiện tiên quyết để xóa bỏ chế độ
người bóc lột người.
Hai là, khác với nhà nước của các giai cấp bóc lột, nhà nước vô sản
mặc dù cũng là bộ máy trấn áp nhưng nó chỉ thực hiện trấn áp với một thiểu
số dân cư, phục vụ quyền lợi của đa số nhân dân. Chức năng trấn áp ở đây chỉ
được coi là phương tiện để thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể trên tất cả các
lĩnh vực của công cuộc xây dựng xã hội mới, đặc biệt là xây dựng và phát
triển lĩnh vực kinh tế - nền tảng của mọi chế độ xã hội và nhà nước. Chỉ trên
cơ sở xây dựng được một xã hội có năng suất lao động cao đáp ứng ngày càng
đầy đủ nhu cầu vật chất, tinh thần của nhân dân thì mới giữ vững, duy trì và
đảm bảo được vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, thắng lợi cuối cùng
của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Ba là, khác với nhà nước bóc lột, nhà nước vô sản thực hiện quyền lực
của mình dựa trên một nền tảng xã hội rộng rãi. Trước đây việc thực hiện
quyền lực của nhà nước bóc lột chỉ được thông qua một nhóm nhỏ của xã hội
- giai cấp bóc lột. Việc thực hiện quyền lực đó chỉ bảo vệ và phục vụ chủ yếu
quyền lợi và lợi ích của giai cấp bóc lột. Ngược lại, trong nhà nước vô sản,
ngay từ khi xuất hiện việc thực hiện quyền lực đã thuộc về nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của đảng tiên phong của giai cấp công nhân.


Chương 2
SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA MÁC, ĂNGGHEN, VỀ NHÀ
6


NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
2.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân
Ngay từ khi còn đang trong quá trình tìm tòi con đường giải phóng dân
tộc, Hồ Chí Minh đã có những nhận thức sâu sắc về vai trò, ý nghĩa của nhà
nước pháp quyền đối với việc tổ chức và quản lý xã hội. Người chủ trương
sau khi Việt Nam giành được độc lập, chúng ta phải xây dựng một nhà nước
kiểu mới - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tính nhất quán trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân thể hiện ở cả mục đích, nguyên tắc tổ chức lẫn
phương thức hoạt động của nhà nước. Nhà nước đó phải được tổ chức một
cách hợp hiến, hợp pháp; hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và quản lý xã
hội bằng pháp luật, thể hiện sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị… Nó phải
thực sự là công cụ quyền lực của nhân dân lao động; phản ánh, thực hiện và
bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, pháp luật, xét
đến cùng, đều là do con người và vì con người. Người luôn đề cao vai trò và
tầm quan trọng của pháp luật, song không vì thế mà tuyệt đối hoá pháp luật
hoặc coi đó là biện pháp duy nhất để tổ chức và quản lý xã hội. Khác với
thuyết “Pháp trị” trong các xã hội phong kiến coi pháp luật là công cụ bảo vệ
lợi ích của thiểu số cầm quyền, hệ thống quan điểm pháp luật theo tư tưởng
Hồ Chí Minh luôn xoay quanh một “trục” là xây dựng nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân, đồng thời hình thành pháp luật phục vụ cho
quyền lợi của nhân dân. Đó thực sự là một giá trị thấm đượm tính nhân văn
sâu sắc. Ý nghĩa nhân văn trong triết lý pháp luật của Hồ Chí Minh là ở chỗ,

đối với Người, tất cả mọi quyền lực nhà nước đều phải thuộc về nhân dân;
nhân dân vừa là mục đích mà nhà nước hướng tới phục vụ, vừa là chủ thể của
nhà nước. Có thể khẳng định rằng, sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa các yếu tố
“lý” và “tình”, giữa đạo đức và pháp luật là nét độc đáo, sáng tạo trong tư
7


tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật. Không
phải ngẫu nhiên mà Người nhấn mạnh rằng, trong vấn đề ở đời và làm người,
điều căn bản, cốt lõi nhất là con người ta cần phải sống với nhau sao cho có
tình, có nghĩa. Ở đây, cùng với việc đề ra những chuẩn mực đạo đức cách
mạng, Người đã xây dựng được một hệ thống quan điểm pháp luật phù hợp
với quan điểm đạo đức mới, đảm bảo cho việc thực thi những hành vi đạo đức
cách mạng. Pháp luật là công cụ quản lý xã hội, điều chỉnh và định hướng
hành vi của mỗi người theo hướng ngày càng tốt hơn, ngày càng vươn tới các
giá trị chân, thiện, mỹ nhằm đáp ứng những yêu cầu, những tiêu chí mới về
đạo đức của xã hội. Giá trị to lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp
giữa các yếu tố đó chính là ở chỗ, nó chỉ ra triết lý phát triển xã hội hiện đại
không phải chỉ dựa vào một yếu tố thuần tuý - hoặc đạo đức, hoặc pháp luật,
mà chính là ở mối quan hệ mật thiết và biện chứng giữa đạo đức và pháp luật.
Do đó, thấm nhuần và vận dụng sáng tạo quan điểm về sự kết hợp đạo đức
cách mạng với pháp luật theo tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở đảm bảo cho
việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân và vì nhândân mà chúng ta đang tiến hành hiện
nay.
2.2 Tíến trình nhận thức và triển khai xây dựng nhà nước của dân,
do dân, vì dân ở Việt Nam theo hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa
2.2.1 Nhận thức về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Quan niệm chung về nhà nước pháp quyền

Lý luận về nhà nước pháp quyền đã được phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ
XVII - XVIII với các đại biểu điển hình như: Giôn Lốccơ, Sáclơ,
Môngtetxkiơ, Rutxô…Tiếp theo nó được làm rõ thêm bởi các nhà triết học cổ
điển Đức như: I. Cantơ, Hêghen…
Lý thuyết về nhà nước pháp quyền được tiếp tục phát triển trong thế
giới hiện đại và càng ngày càng được sử dụng rộng rãi. Nhà nước pháp quyền
8


nói chung, được hiển không những là phương thức tổ chức, vận hành quyền
lực công cộng mà còn là các nguyên tắc quản lý xã hội mang tính hợp lý mà
nhân loại đã đạt được trong lịch sử cho nên nó có những giá trị mang tính
nhân loại.
Những nội dung cơ bản của vấn đề nhà nước đã có sự kế thừa và phát
triển các giá trị phổ biến mang tính nhân loại của lý luận về nhà nước pháp
quyền. Tuy nhiên do điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của thời đại mình,
các ông chưa có được một lý luận hoàn chỉnh về nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
Nhận thức về tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên đã vận dụng tư tưởng về nhà
nước pháp quyền cùng với tư tưởng về nhà nước xã hội chủ nghĩa vào tổ chức
xây dựng nhà nước Việt Nam mới (sau năm 1945). Cùng với thực tiễn của
quá tình xây dựng nhà nước Việt Nam độc lập, nhận thức về nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dần hình thành và định hình trên cơ sở
những lý luận và học thuyết về nhà nước pháp quyền mà nhân loại đã từng có
trong lịch sử.
Trong các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam trước thời kỳ đổi mới
vẫn thường khẳng định: nắm vững chuyên chính vô sản, khi nói về đường lối
cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam và xem làm chủ tập thể xã hội chủ

nghĩa là thực chất của chuyên chính vô sản. Chuyên chính vô sản ở đây được
sử dụng với tư cách hình thức nhà nước xuyên suốt tiến trình cách mạng. Đại
hội VI (12/1986) mở đầu sự nghiệp đổi mới đã khẳng định: “Nhà nước ta là
công cụ của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ đó
là nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội VII Đảng công sản Việt Nam (6/1991) đã thật sự có bước ngoặt lý
luận, trong đó có sự cải thiện rất đáng kể các quan điểm về nhà nước. Thuật
ngữ “chuyên chính vô sản” hầu như không được sử dụng trong các văn kiện
9


chính thức, khái niệm chuyên chính vô sản với tư cách là bản chất của nhà
nước vô sản - nhà nước xã hội chủ nghĩa đã được vận dụng một cách phù hợp
trong điều kiện Việt Nam ở giai đoạn lịch sử này: “xây dựng nhà nước xã hội
chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Mặc dù không sử dụng chính
thức thuật ngữ chuyên chính vô sản, nhưng vẫn luôn xác định chuyên chính
vô sản là thuộc về bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Lúc này nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa được xem là mục tiêu của toàn bộ tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị chư không phải là “quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động” như trước đây nữa. Nhà nước ta lúc này phải “có đủ quyền lực và
đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội
bằng luật pháp. Sửa đổi hệ thống chính trị nhà nước, cải cách bộ máy hành
chính, kiện toàn các cơ quan luât pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng
quản lý của nhà nước”. Trong quá trình đổi mới tư duy lý luân, thuật ngữ
“nhà nước pháp quyền” dần dần được làm rõ. Ở hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng cộng sản Việt Nam (1/1994), lần đầu tiên
thuật ngữ đó được nêu rõ trong văn kiện: Tiếp tục xây dựng và từng bước
hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam. Tiếp theo, các văn kiện Đại hội
Đảng cộng sản Việt Nam (các khóa VIII, IX, X) và các nghị quyết hội nghị
Trung ương 8 khóa VII (1/1995), Nghị quyết hội nghị Trung ương 3 khóa

VIII( 6/1997), Nghị quyết hội nghị Trung ương 7 khóa VIII (8/1999) đều có
những phần đáng kể thể hiện sự phát triển của việc nhận thức và xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với những luận điểm căn
bản: Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân (Đại hội X); xây dựng
cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên
tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là
thống nhất.
Như vậy nhận thức về nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một quá
trình lâu dài, phức tạp. Bắt đầu chỉ là nhận thức ngày càng rõ ràng hơn về vai
10


trò của pháp luật trong quản lý xã hội, xây dựng nhà nước…rồi cao hơn là
chính thức thừa nhận khái niệm nhà nước pháp quyền với những thuật ngữ
khác nhau: “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, “nhà nước pháp quyền
Việt Nam”, “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”.
2.2.2 Thành tựu và một số hạn chế của tiến trình xây dựng nhà nước
của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam theo hướng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa
* Một số thành tựu đã đạt được
Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các cơ quan nhà
nước. Từng bước hoàn thiện chức năng lập pháp của Quốc hội. Hoạt động của
quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp ngày càng phát huy dân chủ, khắc phục
dần bệnh hình thức. Đổi mới phương thức hoạt động của cơ quan hành pháp,
tổ chức và hoạt động của chính phủ từng bước được đổi mới, tập trung vào
công việc quản lý vĩ mô nhưng vẫn chỉ đạo thực hiện rất sâu sát, kịp thời.
Nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan tư pháp. Hệ thống các cơ quan tư
pháp cũng có bước cải tiến mạnh mẽ theo yêu cầu dân chủ, pháp quyền.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. Nội dung

và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước có bước đổi mới và cải
tiến, có chất lượng và hiệu quả hơn, tạo điều kiện cho việc củng cố và phát
huy vai trò hiệu lực quản lý của nhà nước. Đảm bảo vai trò lãnh đạo tuyệt đối
của Đảng đối với toàn bộ hệ thống chính trị. Phát huy tính chủ động sáng tạo,
chế độ trách nhiệm rõ ràng của các cơ quan nhà nước.
* Những hạn chế cơ bản:
Tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề, cồng kềnh, việc phân công và
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp còn nhiều điểm chưa rõ về chức năng, nhiệm vụ, còn tình trạng
vừa lỏng lẻo, vừa buông lỏng. Quan hệ phân cấp giữa trung ương và địa
phương còn chưa cụ thể và rõ rang ở nhiều mặt.
Tình trạng quan liêu và tham nhũng của các cán bộ nhà nước và các cơ
11


quan nhà nước ta thực sự là một nguy cơ, thách thức rất lớn. Nó ảnh hưởng
không nhỏ tới việc đầu tư xây dựng, tốc độ phát triển kinh tế, gây ra những
rối ren kinh tế và bất ổn chính trị.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước còn có tình trạng vừa buông
lỏng vừa bao biện, chồng chéo. Do đó chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của
Đảng, hiệu lực điều hành của bộ máy nhà nước không cao.
Đội ngũ cán bộ công chức nhà nước vừa thiếu vừa yếu, thừa số lượng
nhưng lại thiếu những người có chuyên môn cao và thạo việc. Biên chế cán
bộ nhà nước và cán bộ thuộc khối cơ quan đoàn thể số lượng rất đông nhưng
năng suất lao động thấp, trình độ và năng lực yếu không đáp ứng được yêu
cầu công việc trong giai đoạn cách mạng mới.
Bên cạnh đó việc xây dựng nhà nước ta theo hướng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay cũng còn nhiều hạn chế. Phương thức hoạt
động của các cơ quan quyền lực nhà nước theo nguyên tắc thống nhất có sự
phân công phối hợp trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước còn chưa

được nhận thức một cách thấu đáo hoặc chỉ mang tính hình thức, sự vận dụng
cũng chưa có hiệu quả làm cho tính độc lập của từng cơ quan chưa cao. Sự
phối hợp không chặt chẽ và do đó chưa tạo ra được những biến đổi mang tính
đột phá cho cả xã hội.
* Nguyên nhân của những hạn chế:
Nguyên nhân khách quan
Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta có nhiều đặc
điểm, nhưng đặc điểm lớn nhất là: Nước ta vẫn đang ở trong quá trình từ một
xã hội mà nề kinh tế còn phổ biến là nền sản xuất nhỏ, quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này gây ra không ít khó
khăn cho công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân ở nước ta, những khó khăn đó bao gồm:
- Sự không ổn định của thị trường, cùng với thói quen được tạo lập
trong thời gian chiến tranh đã tạo ra tâm lý không tôn trọng và tuân thủ pháp
12


luật của đa số người dân, giới doanh nghiệp và thậm chí cả phần nhiều các cơ
quan nhà nước.
- Cơ chế tập trung bao cấp tồn tại quá lâu, biến thành cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp trong kinh tế đã lây lan cả sang lĩnh vực chính trị. Tham
nhũng và bộ máy quan liêu của giới quan chức biến chất đã trở thành vật cản
rất lớn đến phát triển kinh tế - xã hội.
- Chúng ta chưa trải qua chế độ dân chủ tư sản, chưa trải qua nhà nước
pháp quyển tư sản, cũng chưa có đầy đủ điều kiện để xây dựng một nhà nước
pháp quyền và nền dân chủ theo đúng nghĩa của nó.
Nguyên nhân chủ quan
- Chưa nhận thức đầy đủ và sâu sắc về tính tất yếu của việc xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhận thức về mô hình nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn giản đơn. Mặt khác vì quan điểm xem

nhà nước tư sản là quyền lực chính trị của giai cấp tư sản nên gần như toàn bộ
những nhân tố hợp lý của nhà nước tư sản đều bị bỏ qua, đặc biệt là cơ cấu tổ
chức hợp lý và phương thức tổ chức hoạt động có hiệu quả của nhà nước này.
- Chưa xác định rõ mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Trong quan niệm về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn tồn tại
nhiều điểm chưa thống nhất về lý luận.
- Chưa cụ thể hóa được cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và
nhân dân làm chủ một cách hợp lý, khoa học. Có thể nói cơ chế này ở nước ta
đã có, đã rõ về mặt “công thức”. Tuy nhiên cơ chế này ở nhiều nơi, nhiều lúc
mới chỉ dừng ở mức như một khẩu hiệu.
- Thiếu kiên quyết trong công tác đổi mới tổ chức và xây dựng nhà
nước, nhất là cải cách hành chính nhà nước - mặc dù bộ máy hành chính rất
cồng kềnh, nhiều tầng nấc, kém hiệu lực, tham nhũng…nhưng nhà nước chưa
có nhiều giải pháp tích cực để đổi mới.
Hạn chế trong công tác tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức nhà nước.
13


2.3 Một số giải pháp xây dựng nhà nước Việt Nam hiện nay theo
hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
2.3.1 Thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, đa dạng hóa các hình
thức dân chủ trong tổ chức, xây dựng và hoạt động của nhà nước.
Việc phát huy, bảo đảm dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân phải
được tếp cận từ hai góc độ: xây dựng nhà nước và quản lý xã hội. Ở nước ta
hiện nay, phải nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện, đồng thời thực
hiện chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết thực, đúng hướng, có hiệu quả.
Các nhiệm vụ cụ thể của giải pháp này là:
- Tiếp tục cải tiến chế độ bầu cử của các cơ quan dân cử. Nâng cao chất
lượng hoạt động của các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) để

các cơ quan này là những cơ quan thực sự của nhân dân.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính nhất là trong các lĩnh vực liên quan
trực tiếp đến đời sống nhân dân. Xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ
quan nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại tố cáo của nhân dân.
- Các cơ quan có thẩm quyền lập pháp, lập quy cần rà soát, sửa đổi bổ sung và
xây dựng mới các văn bản pháp luật. Tăng cường pháp chế, giữ vững trật tự,
kỷ cương để nhà nước làm tốt chức năng là thiết chế bảo đảm quyền dân chủ
của nhân dân. Đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện dân chủ trực tiếp, trước hết ở
cấp cơ sở. Thực hiện tốt pháp lệnh dân chủ cơ sở.
2.3.2 Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong lãnh đạo nhà nước, Đảng không được phép tự bíến mình thành
nhà nước hoặc tự cho phép mình đứng trên nhà nước. Xây dựng và thực hiện
một cơ chế thích hợp theo nguyên tắc vừa đảm bảo vai trò lãnh đạo tuyệt đối,
toàn diện của Đảng đối với nhà nước, vừa phát huy tối đa tính tự chịu trách
nhiệm (độc lập tương đối) của nhà nước khi xử lý các công việc cụ thể thuộc
phạm vi, quyền hạn và chức trách của mình.
Phân định rõ chức năng giữa Đảng với nhà nước và cùng với đó là xác
14


định rõ nội dung, phạm vi, mức độ quan hệ giữa lãnh đạo của Đảng với sự
quản lý của nhà nước. Phải có các biện pháp để củng cố, chỉnh đốn Đảng,
nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng thông qua việc:
Một là, tri thức hóa đội ngũ cán bộ đảng viên, tăng cường thành phần
trí thức trong Đảng, phải thực sự xác định Đảng là đội tiên phong, là thành
phần ưu tú nhất của giai cấp công nhân.
Hai là, khắc phục tình trạng mở rộng Đảng đến mức biến Đảng thành
tổ chức quần chúng. Tư tưởng chạy theo số lượng vẫn còn là một xu hướng
còn tồn tại từ thời bao cấp đã dẫn tới việc hạ thấp tiêu chuẩn đảng viên ở các

đơn vị cơ sở.
Ba là, đấu tranh khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong nội bộ Đảng,
khắc phục những bất cập trong tổ chức và hoạt động của Đảng, làm cho Đảng
thực sự trong sạch, vững mạnh về bộ máy, ngang tầm với thời đại về trí thức
và đạo đức.
2.3.3 Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các cơ quan
nhà nước.
Một là, nâng cao chất lượng hoạt động, kiện toàn tổ chức Quốc hội.
Chức năng quan trọng hàng đầu của quốc hội là lập pháp, vì thế đối với Quốc
hội phải tiết tục đổi mới cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động, bảo đảm
quốc hôi có thực quyền, không hình thức để có thể xây dựng các đạo luật
ngày càng có chất lượng. Đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập
quốc tế.
Hai là, tiếp tục cải cách nền hành chính nhà nước, đặc biệt là đẩy mạnh
cải cách thể chế và thủ tục hành chính trong các lĩnh vực trực tiếp liên quan
đến đời sống nhân dân.
Ba là, đẩy mạnh cải cách tư pháp theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân. Những nhiệm vụ
cụ thể trong lĩnh vực này phải được tiến hành theo hướng bảo đảm được
nguyên tắc cơ bản xuyên suốt trong toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ
15


thống tư pháp là độc lập, chỉ tuân theo pháp luật. Vấn đề cải cách tư pháp
đang đặt ra vấn đề quan trọng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
ở nước ta hiện nay. Các giải pháp cụ thể là:
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật làm cơ sở cho
tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp: bảo đảm mọi vi phạm
pháp luật đều bị xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
- Củng cố kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định lại thẩm

quyền xét xử của tòa án nhân dân các cấp, từng bước mở rộng thẩm quyền xét
xử của tòa án nhân dân cấp huyện, đổi mới tổ chức và hoạt động của viện
kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan
hỗ trợ tư pháp.
- Xây dựng đội ngũ thẩm phán, thư ký tòa án, điều tra viên, kiểm sát
viên, chấp hành viên, công chứng viên, giám định viên, luật sư và cán bộ
ngành tư pháp nói chung có phẩm chất chính trị và đạo đức, chí công vô tư,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, bảo đảm bộ máy trong sạch vững
mạnh.
Bốn là, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Để chống quan liêu,
tham nhũng một cách hiệu quả, nhất là trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện
nay, cần thực hiện tốt các giải pháp cụ thể:
- Phải có luật chống tham nhũng, xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng
pháp luật các vụ việc, nhất là các vụ việc nghiêm trọng, không phân biệt
người vi phạm ở cương vị, vị trí nào. Triển khai việc kê khai thu nhập của
công chức và cán bộ từ trung ương đến cơ sở.
- Thực hiện công khai và dân chủ trong phân phối ngân sách, kinh phí,
kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng chi tiêu ngân sách nhà nước, quản lý tài sản cơ
quan nhà nước; cải tiến chế đọ tiền lương của cán bộ, công chức nhà nước;
thực hiện chế độ tiền lương cao đối với công chức, viên chức.
- Có cơ chế, chính sách thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham
gia vào công việc quản lý nhà nước trên cơ sở đảm bảo những điều kiện cơ
16


bản như có trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nhất định.
- Đổi mới công tác cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý chủ chốt.
Đổi mới cả quan niệm, cả thực tiễn, tổ chức sắp xếp đội ngũ cán bộ công
chức, giảm đến mức tối đa những nhân viên hành chính và quan chức nhà
nước.

Năm là, xây dựng đôi ngũ cán bộ nhà nước trong sách, vững mạnh. Tất
cả các giải pháp trên đây, xét đến cùng có thể thực hiện được hay không đều
phụ thuộc vào phẩm chất, trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức
nhà nước. Vì thế, vấn đề có ý nghĩa quyết định là xây dựng được đội ngũ cán
bộ công chức nhà nước trong sạch, có bản lĩnh chính trị và tinh thần trách
nhiệm cao, có năng lực quản lý, thành thạo chuyên môn nghiệp vụ.
Quy định rõ chế độ trách nhiệm của tập thể và cá nhân cán bộ chủ chốt
trong việc chống tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân. Những yêu cầu cụ thể
về tiêu chuẩn của người cán bộ, công chức nhà nước theo quan điểm Hồ Chí
Minh vẫn là những chỉ dẫn vô cùng quý giá và cần thiết cho chúng ta trong
giai đoạn hiện nay.
2.3.4 Kế thừa có chọn lọc những phương thức tổ chức, hoạt động có
hiệu quả của các nhà nước trong lịch sử Việt Nam và trên thế giới hiện nay
Một là, những giá trị tích cực, tiến bộ của cách thức tổ chức, phương
thức họat động của nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập:
- “Pháp trị” với “đức trị”. Sự kết hợp hai yếu tố này phải là một đặc
thù của việc xây dựng và tổ chức hoạt động của nhà nước Việt Nam hiện nay.
- Pháp luật phải rõ ràng. Sự kết hợp giữa luật và hương ước lãng xã,
việc bổ nhiệm, điều hành hệ thống quan lại có nhiều điểm cần nghiên cứu để
vận dụng trong điều kiện hiện nay
Hai là, những kinh nghiệm về cách thức tổ chức và phương thức hoạt
động của nhà nước tư sản hiện đại:
- Vấn đề phân lập quyền lực. Trong việc tổ chức thực hiện quyền lực
nhà nước tư sản, nguyên tắc phân quyền theo thuyết “tam quyền phân lập”
17


được sử dụng rộng rãi. So sánh điều này với nguyên tắc: quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan nhà nước trong viêc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp

trong tổ chức và hoạt đông của nhà nướcViệt Nam hiện nay, có thể khẳng
định chúng ta hoàn toàn có thể áp dụng tinh thần cơ bản (về mặt “ký thuật”)
của sự phân lập quyền lực để thực hiện sự phân công, phân nhiệm làm cho
từng cơ quan có được tính độc lập tương đối cần thiết trong hoạt động của
mình.
- Tinh thần pháp luật và hệ thống tư pháp mạnh mẽ. Trong bất cứ xã
hội nào, các quy phạm pháp luật luôn giữ vai trò quan trọng. Luật pháp chỉ
phát huy tác dụng nếu nó được đảm bảo thi hành bởi một hệ thống các thiết
chế bảo vệ pháp luật mạnh mẽ.
- Bộ máy công chức hiệu quả. Trong các nhà nước tư sản, bộ máy công
chức hiệu quả là công cụ vô cùng quan trọng, nó giữ cho công việc quản lý và
các quan hệ xã hội không bị phá vỡ trên cơ sở đảm bảo tính liên tục, ổn định.
Tuy nhiên, để thực sự có được một bộ máy công chức hiệu quả, việc kế thừa,
học tập những mô hình bộ máy công chức của nhà nước tư sản trên thế giới
và trong khu vực là cực kỳ cần thiết.
Ba là, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân ở Việt Nam còn đòi hỏi, nghiên cứu các nhà nước xã hội chủ nghĩa
trước đây, xác định rõ những cái được và những khuyết tật của nó, tìm ra
những bài học kinh nghiệm (kể cả những kinh nghiệm thành công và thất bại)
để từng bước tìm ra những phương thức xây dựng, củng cố nhà nước.

KẾT LUẬN
Lý luận của chủ nghĩa Mác về nhà nước là một lý luận khoa học. Nó
18


chỉ rõ: tính tất yếu khách quan của việc hình thành nhà nước, bản chất giai
cấp của nhà nước và các chức năng cơ bản của nhà nước. Từ đó làm rõ bản
chất, chức năng và tính tất yếu của nhà nước xã hội chủ nghiã. Vận dụng sáng
tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác sau này Lênin đã tiếp tục bổ sung phát triển,

đồng thời Hồ Chí Minh đã nêu quan điểm xây dựng nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Lý luận này đã được sử dụng để xây dựng thành công nhà nước
dân chủ nhân dân, nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Công cuộc đổi mới đã tạo ra bước chuyển quan trọng trong việc xây
dựng nhà nước Việt Nam mới. Tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đã dần hình thành và cuối cùng được
khẳng định rõ trong Hiến pháp 1992, trong các văn kiện của Đảng cộng sản
Việt Nam (VII, VIII, IX, X). Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam là quá trình lấu dài, khó khăn, phức
tạp. Để có thể thưc hiện được nhiệm vụ này phải có nhận thức đúng đắn, quan
điểm có tính nguyên tắc rõ ràng và từ đó có những giải pháp phù hợp, hữu
hiệu.
Tiểu luận nêu lên các quan điểm cơ bản cần quán triệt trong xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân
trong điều kiện hiện nay. Đồng thời tiểu luận cũng nêu các giải pháp có tình
định hướng để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền chủ nghĩa
Việt Nam của dân, do dân, vì dân.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tuyên ngôn của Đảng Công sản, Mác - Ăngghen: Tuyển tập, gồm 6 tập,
1980
19


2. “Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước”, Mác – Ăngghen:
Toàn tập, tập 21, Nxb.CTQG, HN, 1995.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, T7, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000.
4. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về nhà nước và xây dựng chính quyền nhà
nước. PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc

gia Hồ Chí Minh.
5. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IV.
6. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX.
7. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X.
8. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI.
9. C. Mác – Ph. Ăng-ghen: Tuyển tập, tập I, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội,
năm 1970, trang 584
10. C. Mác và Ăng-ghen: Toàn tập, Nhà xuất bản. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
năm 1995, tập 22, trang 290 – 291
11. C.Mác và Ăng ghen: Tuyển tập: tập 6, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội,
năm 1984, trang 413
12. V.I.Lê nin: Toàn tập, tập 33, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mat-xcova, năm
1976, trang 110
13. C. Mắc- Ph. Ăn ghen: Tuyển tập, tập IV, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội,
năm 1983, trang 95
14. C.Mác – Ph. Ăng ghen: Tuyển tập, tập II, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội,
năm 1973, trang 604
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................2
20


Chương 1 QUAN ĐIỂM CỦA MÁC, ĂNGGHEN, LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC
VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.........................................................2
1.1 Quan điểm của C.Mác, F.Ăngghen, về nhà nước.......................................2
1.2 Quan điểm của C.Mác, F.Ăngghen, về nhà nước xã hội chủ nghĩa............3
Chương 2 SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA MÁC, ĂNGGHEN, VỀ
NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN Ở VIỆT NAM.........................7

2.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền kiểu mới.....7
2.2 Tiến trình nhận thức và triển khai xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì
dân ở Việt Nam theo hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa...............8
2.3 Một số giải pháp xây dựng nhà nước Việt Nam hiện nay theo hướng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân............................14
KẾT LUẬN.....................................................................................................20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................21

21



×