Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh trong dạy học môn giáo dục công dân thông qua các phương pháp dạy học tích cực tại các trường THPT trên địa bàn thị xã cửa lò

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 45 trang )

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Môn Giáo dục công dân được Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa vào giảng dạy ở
trường Trung học phổ thông nhằm trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản,
phù hợp với lứa tuổi về hệ thống kiến thức liên quan đến nhiều lĩnh vực như triết
học, đạo đức học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, pháp luật,
đường lối, quan điểm của Đảng, một số chính sách quan trọng của Nhà nước Việt
Nam. Có thể nói môn giáo dục công dân đã góp phần hình thành nên thế giới quan
lành mạnh ở học sinh, giúp học sinh biết phân biệt lẽ phải, trái; biết tôn trọng bản
thân và tôn trọng người khác; biết sống trung thực, khiêm tốn, dũng cảm, biết yêu
thương và vị tha.
Đồng thời, những kiến thức của môn giáo dục công dân giúp học sinh hình
thành những kỹ năng sống cơ bản để vững vàng bước vào đời: ý thức tổ chức kỷ
luật, có thái độ đúng đắn trong việc nhận thức và chấp hành pháp luật…
Có thể thấy được tầm quan trọng của môn giáo dục công dân đối với học sinh
như thế nào. Tuy nhiên, việc dạy và học môn giáo dục công dân đang tồn tại một
số vấn đề bất cập. Có những học sinh không nhận thức được hết tầm quan trọng
của môn Giáo dục công dân và cho rằng đây là môn học phụ nên ít quan tâm, đầu
tư thích đáng cho việc học. Về phía giáo viên, qua thực tế có thể nhận thấy, một số
giáo viên vẫn lên lớp bằng phương pháp xưa cũ: thầy đọc, trò chép, tạo cảm giác
mệt mỏi, thụ động đối với học sinh trong việc tiếp nhận kiến thức.
Chính vì vậy, lãnh đạo ngành giáo dục đã thực sự nghiêm túc đánh giá, nhìn
nhận cả từ phía người dạy lẫn người học để từ đó có giải pháp nâng cao chất lượng
dạy và học môn học có vị trí đặc biệt quan trọng này. Cụ thể đó là việc đổi mới
phương pháp dạy học, sử dụng các phương pháp dạy học tích cực. Với việc tiến
hành đổi mới phương pháp giáo dục, qua thực tiễn với việc ứng dụng phương pháp
dạy học mới giáo viên đã làm “mềm” hoá môn học vốn được xem là khô khan,
trừu tượng này bằng những thí dụ sinh động trong đời sống thực tế. Thay cách
thuyết giảng một chiều bằng việc nêu những câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề thảo luận
nhằm phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong một số tiết
học, trong những tình huống cụ thể, để tạo sự hào hứng và cuốn hút học sinh vào


bài học, dàn dựng những vở kịch ngắn do chính học sinh thể hiện, việc sưu tầm
nhiều tư liệu, tranh ảnh minh họa, cùng các dụng cụ trực quan đã tạo ra sự sinh
động cho mỗi giờ lên lớp.
Là một giáo viên Giáo dục công dân đã và đang công tác tại trường THPT
Cửa Lò 2 đã 18 năm, tôi và đồng nghiệp đã thực hiện áp dụng phương pháp dạy
học mới trong bộ môn Giáo dục công dân và đã thu được nhiều kết quả đáng
khích lệ. Những năm qua những đổi mới mạnh mẽ về phương pháp giảng dạy với
việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực chủ yếu như: Thảo luận nhóm,
giải quyết vấn đề, nghiên cứu trường hợp điển hình, đóng vai, trò chơi, dự án...
Trang 1


đã thực sự phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh đối với
môn Giáo dục công dân.
Sau đây tôi xin chia sẻ sáng kiến kinh nghiệm “ Phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo cho học sinh trong dạy học môn giáo dục công dân thông
qua các phương pháp dạy học tích cực tại các trường THPT trên địa bàn thị
xã Cửa Lò ”. Đề tài đặt ra mục đích tìm hiểu và đánh giá tình hình đổi mới
phương pháp giảng dạy nói chung và đổi mới phương pháp giảng dạy môn Giáo
dục công dân nói riêng. Phân tích mục đích, vai trò và hiệu quả đổi mới phương
pháp giảng dạy đối với môn Giáo dục công dân. Qua đó đưa ra một số phương
pháp giảng dạy nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của giáo viên và khả năng
chủ động, sáng tạo của học sinh.

Trang 2


PHẦN 2: NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1 Tổng quan chung về phương pháp dạy học tích cực

Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn được dùng ở nhiều
nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính
tích cực, chủ động sáng tạo của người học. "Tích cực" trong phương pháp dạy
học – tích cực được dùng với nghĩa tức là hoạt động, chủ động, trái nghĩa với
không hoạt động, thụ động. Phương pháp dạy học tích cực hướng tới việc hoạt
động hóa, tích cực hóa, hoạt động nhận thức của người học tức là tập kết và
phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập kết vào phát huy tính
tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì
người dạy phải nỗ lực nhiều so với dạy học theo phương pháp thụ động.
Với nét đặc thù là truyền tải các kiến thức tổng hợp từ triết học, đạo đức,
kinh tế - chính trị, các chính sách xã hội, pháp luật, ngoài ra các nội dung xã
hội: Ngoại khóa, giáo dục kỹ năng sống, giáo dục môi trường, giáo dục giới
tính, giáo dục dân số, giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên, giáo dục phòng
tránh HIV/AIDS, giáo dục phòng chống tham nhũng…nên việc lựa chọn
phương pháp phù hợp phải được chú trọng. Giáo viên có thể sử dụng nhiều
phương pháp khác nhau, bản thân tôi và một số đồng nghiệp đã sử dụng một số
phương pháp như: phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp nghiên cứu
trường hợp điển hình, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp đóng vai,
phương pháp trò chơi, phương pháp dự án, phương pháp động não và đã thu
được một số hiệu quả nhất định.
* Mục đích của đổi mới phương pháp dạy học tích cực
Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh
thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong
học tập và trong thực tiễn. Xem việc học là một quá trình kiến tạo, giúp học sinh
tìm tòi, khám phá, phát hiện, khai thác và xử lí thông tin, tự hình thành hiểu biết,
năng lực và phẩm chất.
* Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực
- Dạy học tăng cường phát huy tính tự tin, tích cực, chủ động, sáng tạo thông
qua tổ chức thực hiện các hoạt động học tập của học sinh.

- Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp và phát huy năng lực tự học của
học sinh.
- Dạy học phân hoá kết hợp với học tập hợp tác.
- Kết hợp đánh giá của thầy với đánh giá của bạn, với tự đánh giá.
- Tăng cường khả năng, kĩ năng vận dụng vào thực tế.
Trang 3


1.2 Dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
Tính tích cực của học sinh phù hợp với nguyên tắc "tính tự giác, tích cực", vì
nó khơi gợi được họat động học tập đã được hướng đích, gợi động cơ trong quá
trình phát hiện và giải quyết vấn đề. Dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động
học tập của học sinh là biểu hiện sự thống nhất giữa giáo dưỡng và giáo dục. Tác
dụng của giáo dục kiểu dạy học này là ở chỗ dạy cho học sinh khám phá, tức là rèn
luyện cho học sinh cách phát hiện, tiếp cận và giải quyết vấn đề một cách khoa
học. Đồng thời góp phần bồi dưỡng cho học sinh những đức tính cần thiết của
người lao động sáng tạo như tính chủ động, tự giác, tích cực, tính kiên trì vượt khó,
thói quen tự kiểm tra
Tính tích cực học tập thể hiện ở cả hai mặt: tính chuyên cần trong hành động
và tính sâu sắc trong hoạt động các hoạt động trí tuệ. Cách học tích cực thể hiện
trong việc tìm kiếm, xử lý thông tin và vận dụng chúng vào giải quyết các nhiệm
vụ học tập và thực tiễn cuộc sống, thể hiện sự tìm tòi, khám phá vấn đề mới bằng
phương pháp mới, không phải là sao chép, mà là sự sáng tạo của mỗi cá nhân
Tính tích cực thể hiện ở chỗ:
- Hưởng ứng và thấy rõ bổn phận thực hiện những yêu cầu đặt ra trong tình
huống học tập
- Chịu khó suy nghĩ trả lời câu hỏi, chăm chỉ, tự giác thực hiện các hoạt động
để có được các tri thức mới, nhận thức mới, kĩ năng mới
Ngoài ra tính tích cực, tự giác học tập của học sinh còn thể hiện ở sự tập trung
chú ý vào các vấn đề đang học, ở sự tự nguyện tham gia xây dựng bài, trả lời các

câu hỏi và yêu cầu hoạt động của thầy, hăng hái tham gia thảo luận, tranh luận,
đóng góp với thầy, với bạn những suy nghĩ về các vấn đề. Tính tích cực còn được
thể hiện ở sự kiên trì không nản chí trước những tình huống khó khăn. Học sinh
không có tính tích cực thì gặp tình huống mới, vấn đề mới, chưa suy nghĩ được bao
nhiêu đã vội hỏi ý kiến người khác. Trong những trường hợp đó, nếu người được
hỏi là giáo viên, thì tốt nhất hãy xem học sinh đó đã suy nghĩ gì chưa, đã suy nghĩ
như thế nào trước khi đưa ra ý kiến trả lời
* Dạy học phát huy tính tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh
Tính tích cực, chủ động, tự giác là điều kiện cần để sáng tạo. Những biểu hiện
của sự sáng tạo là: biết nhìn nhận một sự vật theo một khía cạnh mới, nhìn nhận
một sự kiện mới dưới nhiều góc độ khác nhau; biết đặt ra những giả thiết khi phải
lí giải một hiện tượng, biết đề xuất những giải pháp khác nhau khi xử lí một tình
huống; không hoàn toàn bằng lòng với giải pháp đã có; không suy nghĩ cứng nhắc
theo những gì đã có; không máy móc áp dụng những quy tắc, phương pháp đã biết
vào những tình huống mới

Trang 4


Việc đánh giá sáng tạo được căn cứ vào tính mới mẽ, tính độc đáo, tính hữu
ích của các đề xuất. Tuy nhiên tính sáng tạo cũng có tính chất tương đối: sáng tạo
đối với ai? Sáng tạo trong điều kiện nào?...
Để học sinh tích cực, tự giác, chủ động, trước hết người giáo viên phải tạo ra
một môi trường vui vẻ, thoải mái, phải làm cho học sinh có hứng thú, phấn khởi
trong học tập
Những kết quả, những cách suy nghĩ, giải quyết vấn đề trong các môn học nói
chung, trong môn giáo dục công dân nói riêng đều có sức hấp dẫn nhất định, đều
kích thích được sự ham muốn hiểu biết của học sinh
Môn Giáo dục công dân còn có sự hấp dẫn riêng vì sự thông thái ẩn chứa
trong môn học này. Người giáo viên cần làm cho học sinh thấy được cái hay, cái

đẹp, cái ý nghĩa của mỗi nội dung bài học mà các em được học. Nếu giáo viên
không làm cho học sinh cảm thụ được những điều đó, thì các em sẽ cảm thấy môn
học rất khô khan, mất hết ý nghĩa
Những cách thức để học sinh hứng thú, phấn khởi trong học tập có thể là: gợi
động cơ, nêu mục đích, nêu tầm quan trọng của vấn đề, khuyến khích, động viên
kịp thời.
Giáo viên, với vai trò của người thiết kế, tổ chức các hoạt động nhận thức cho
học sinh, cần xác định: không làm thay cho học sinh, phải tạo điều kiện để học sinh
được học và phải học một cách tích cực. Nếu người thầy làm cho việc học trở nên
dễ dàng thì học sinh sẽ mất đi sự cố gắng, tích cực. Nhưng nếu cô giáo cứ để cho
trò tự xoay sở, yêu cầu quá cao, dù học sinh có tích cực suy nghĩ, làm việc cũng
không đạt được yêu cầu thì học sinh cũng chán nản. Vậy cần phải tạo ra tình huống
học tập sao cho hấp dẫn, vừa sức để học sinh thấy rõ nhiện vụ nhận thức của mình,
chỉ cần học sinh tích cực học tập là đạt được kết quả
Người giáo viên có thể tạo ra không khí giao tiếp thuận lợi giữa cô và trò,
giữa trò và trò bằng cách tổ chức và điều kiển hợp lý các họat động của từng cá
nhân học sinh, tập thể học sinh trên lớp. Có thể tổ chức những tình huống có vấn
đề, đòi hỏi dự đoán, nêu giả thiết, tranh luận giữa những ý kiến khác nhau. Những
tình huống đó cần phải phù hợp với trình độ của học sinh. Một nội dung quá dễ
hoặc quá khó đều không gây được sự hứng thú học tập của các em. Cần tạo cơ hội
dẫn dắt học sinh tìm tòi, phát hiện ra những tri thức mới, tạo niềm vui của sự khám
phá.
Để học sinh học tập sáng tạo, giáo viên giáo viên cần tạo ra những tình huống
ẩn chứa nhiều cách xem xét, nhiều cách xử lý độc đáo. Muốn phát triển trí sáng
tạo, cần chú trọng để học sinh tự lực khám phá kiến thức mới, phải dạy cho học
sinh phương pháp học, mà cốt lõi là tự học. Chính qua các hoạt động tự lực, được
giao cho từng các nhân hoặc nhóm nhỏ, tiềm năng sáng tạo của học sinh được bộc
lộ và phát triển
Trang 5



Thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh, qua đó động
viên, khen ngợi hay phê bình, nhắc nhở các em cũng là một biện pháp để học sinh
tích cực, tự giác, chủ động trong học tập. Giáo viên không phải chỉ hô hào, nhắc
nhở học sinh: hãy tích cực, tự giác, hãy chủ động, sáng tạo,... mà phải tạo ra các
tình huống học tập để qua đó học sinh ý thức được những đều đó
Tăng cường phương tiện trực quan trong dạy học, vì phương tiện dạy học có
chức năng khơi dậy, dẫn truyền và làm tăng sức mạnh tác động của giáo viên lên
học sinh, để nâng cao hiệu quả dạy học, tất yếu phải nâng cao tính hiện đại của các
phương tiện dạy học và nâng cao trình độ sử dụng chúng của giáo viên và học sinh
1.3 Một số yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến tính tích cực, chủ
động, sáng tạo trong học học tập của học sinh
Việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh tại
các trường THPT Cửa Lò là một điều mà đội ngũ giáo viên môn giáo dục công dân
rất quan tâm khi sử dụng các phương pháp giáo dục tích cực mới.
Dưới đây là các yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến đến tính tích
cực, chủ động, sáng tạo trong học học tập của học sinh
Trong quá trình thực hiện sáng kiến kinh nghiệm tôi và đồng nghiệp dựa trên
các yếu tố ảnh hưởng đến tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của học
sinh đã phát 200 phiếu điều tra các em học sinh tại các trường THPT Cửa Lò và đã
thu được các nhận xét như sau:
Bảng 1.1: Các yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến tính tích
cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh
TT

Các yếu tố ảnh hưởng

Tỉ lệ%

I. Yếu tố khách quan

1

Nội dung học tập phù hợp với nhận thức của học sinh

44.6

2

Môn học hữu ích cho bản thân

40.5

3

Trang thiết bị dạy học đầy đủ

32.5

4

Sách giáo trình tài liệu thư viện phong phú

26.7
51.7

5

Giáo viên giảng dạy hay, tạo sự tích cự chủ động cho học
sinh


6

Giáo viên đánh giá công bằng với HS

42.5

7

Giáo viên vui vẻ, cởi mở với HS

52.6

8

Bản thân có phương pháp học tập phù hợp

19.7

9

Bản thân tích cực tự giác với hoạt động học tập

48.2

Trang 6


10

Hiểu vị trí, vai trò của môn Giáo dục công dân trong

chương trình học
II. Yếu tố chủ quan

15.4

Nội dung học tập chưa phù hợp với nhận thức của học

21,2

1

sinh

2

Môn học ít hữu ích cho học sinh

41.1

3

Trang thiết bị dạy học chưa đầy đủ

37.2

4

Sách giáo trình tài liệu thư viện chưa phong phú

60.0


Giáo viên giảng dạy chưa hay, chưa tạo sự tích cực, chủ

10.8

5

động cho học sinh

6

Giáo viên đánh giá chưa công bằng với HS

14.6

7

Giáo viên chưa vui vẻ, cởi mở với HS

9.8

8

Bản thân chưa có phương pháp học tập phù hợp

10,2

9

Bản thân chưa tích cực tự giác với hoạt động học tập


37.5

Ít hiểu vị trí, vai trò của môn Giáo dục công dân trong

31,5

10

chương trình học

Tất cả các yếu tố đều có học sinh lựa chọn (tỉ lệ>0) từ đó cho thấy trong quá
trình dạy học các yếu tố ảnh hưởng khách quan lẫn chủ quan khác nhau, ảnh
hưởng tích cực và tiêu cực hoạt động học tập môn Giáo dục công dân
Yếu tố khách quan: nhìn vào yếu tố 1,4,5,6,7, học sinh đánh giá các yếu tố
“giáo viên vui vẻ, cởi mở là (52,6%), giáo viên giảng dạy hay, tạo sự tích cực, chủ
động cho học sinh (51,7%), giáo viên đánh giá công bằng với học sinh (42,5%),
bản thân tích cực tự giác với hoạt động học tập (48,2%) có ảnh hưởng tích cực đến
hoạt động học tập của học sinh cao hơn ảnh hưởng tiêu cực là 9,8%, 10,8%,
14,6%, 18,6%. Điều này cho thấy thái độ của giáo viên cởi mở hòa đồng, mối
quan hệ thầy trò và phương pháp giảng dạy, sự tích cực, sự tự giác và cách đánh
giá công bằng của giáo viên đã thật sự tác động rất lớn đến tính tích cực học tập
của học sinh. Tuy nhiên, vẫn còn học sinh bị ảnh hưởng tiêu cực như phương pháp
giảng dạy chưa hay, chưa tạo chủ động tích cực (10,8%), giáo viên đánh giá chưa
công bằng với học sinh (14,6%). Như vậy, giáo viên cần chú trọng hơn nữa trong
việc đổi mới và áp dụng phương pháp giảng dạy học tích cực vào mỗi bài học, bên
cạnh đó, giáo viên cần quan tâm việc đánh giá công bằng hơn với học sinh. Ngoài
ra, yếu tố khách quan khác như “sách, giáo trình, cơ sở vật chất, trang thiết bị ”
cũng ảnh hưởng đến tính tích học tập của học sinh, nguồn tài liệu chưa phong phú
làm cho học sinh khó có điều kiện nghiên cứu đào sâu kiến thức bài học, môn học.

Trang 7


Yếu tố chủ quan: nội dung học tập chưa phù hợp với nhận thức của học sinh
(21,2%), chưa hiểu vị trí, vai trò của môn Giáo dục công dân học trong chương
trình học (31,5%). Chính những đều này đã làm cho học sinh khó tiếp thu, lĩnh hội
và tìm hiếu khám phá sâu những tri thức của ngành học cụ thể, yếu tố thứ hai mà
học sinh chọn tỉ lệ cao “chưa hiểu vị trí, vai trò của môn Giáo dục công dân
trong chương trình học” là 31,5%, cho thấy ngoài bản thân học sinh cần nỗ lực
hiểu rõ môn học trong quá trình đào tạo, trong quá trình giảng dạy giáo viên phải
làm cho học sinh hiểu vị trí, tầm quan trọng của môn học mình phụ trách.
Chỉ có yếu tố “bản thân học sinh tích cực tự giác học tập” được học sinh
chọn nhiều nhưng tỉ lệ này chỉ ở mức trung bình 48,2% (<50%). Đây là yếu tố
quan trọng để hoạt động học tập của học sinh đạt kêt quả tốt, cần phát huy yếu tố
này để việc học được hiệu quả hơn.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng nói chung về đổi mới phương pháp dạy học môn Giáo dục
công dân tại các trường THPT
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05/06/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã nêu “phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc
trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học, bồi
dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và
trách nhiệm học tập cho học sinh
Đồng thời năm học 2006 - 2007, Bộ Giáo dục ban hành chủ trương đổi mới
phương pháp dạy học mới ở cấp học phổ thông, một giải pháp nhằm khắc phục
tình trạng học tập thụ động, áp đặt của phương pháp dạy học truyền thống,
nhằm phát huy tính chủ động tiếp cận tri thức, tạo cho học sinh khả năng tự soi
chiếu tri thức vào cuộc sống, năng lực kiểm chứng giữa lý luận với thực tiễn.

Đối với bộ môn GDCD, phương pháp dạy học rất phong phú, đa dạng, bao gồm
các phương pháp dạy học truyền thống kết hợp hiện đại như: Thảo luận nhóm,
giải quyết vấn đề, nghiên cứu trường hợp điển hình, đóng vai, trò chơi, dự án,
thuyết trình, đàm thoại...
Chương trình giáo dục công dân cấp THPT được bố trí hợp lý với các bài
học có kiến thức thực tế gắn liền với cuộc sống của mỗi con người, từ triết học,
đạo đức, kinh tế - chính trị, giá trị con người Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, các chính sách xã hội, pháp luật, ngoài ra môn học còn
tích hợp rất nhiều nội dung xã hội cần thiết cho các công dân như: Ngoại khóa,
giáo dục kỹ năng sống, giáo dục môi trường, giáo dục giới tính, giáo dục dân số,
giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên, giáo dục phòng tránh HIV/AIDS, giáo
dục phòng chống tham nhũng … Vậy để truyền tải nội dung bài học đòi hỏi giáo
viên phải đầu tư bài giảng thật sự có chất lượng, phải biết sử dụng phương pháp
Trang 8


dạy học một cách có hiệu quả thì mới truyền tải được nội dung bài học cho học
sinh. Một số giáo viên khi lên lớp và truyền tải kiến thức cũng đã vấp phải
những hạn chế, khó khăn, kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều, thời gian tích lũy
chuyên môn còn nhiều hạn chế. Vì vậy việc truyền thụ tri thức cho học sinh vẫn
còn nhiều thiếu sót, nhất là phần liên hệ với cuộc sống, với thực tiễn. Trong sử
dụng phương pháp dạy học vẫn còn sử dụng phương pháp truyền thống như đọc
– chép, thuyết trình. Một số giáo viên còn thiếu nhiệt tình, tâm huyết với nghề.
Điều đó cũng ảnh hưởng đến việc tiếp cận kiến thức của học sinh.
Trong khi đó, nội dung chương trình giáo dục công dân THPT bao gồm
nhiều kiến thức phức tạp, quỹ thời gian cho một giờ dạy lại có hạn, đồng thời
phải chuyển tải rất nhiều nội dung bài học, khó khăn của thầy và trò là điều
không tránh khỏi. Để chuyển tải dung lượng kiến thức một cách có hiệu quả, đòi
hỏi đội ngũ thầy cô giáo phải có tri thức, nhiệt huyết với nghề nghiệp, phải đổi
mới phương pháp dạy học mới hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Bên cạnh những khó khăn như đã nói ở trên, đối với giáo viên Giáo dục
công dân cũng có những thuận lợi như: được tổ chức bồi dưỡng, tập huấn hàng
năm nhằm nâng cao trình độ nhận thức cho giáo viên. Nhà trường cũng tạo những
điều kiện nhất định để giáo viên nâng cao trình độ như mua sắm tài liệu tham
khảo, phương tiện nghe nhìn, nghe báo cáo thời sự, tiếp cận với thực tế xã hội…
Là một giáo viên môn Giáo dục công dân, tôi nhận thấy việc phát huy tính
tích cực, chủ động của học sinh trong học tập cũng như việc áp dụng phương
pháp dạy học tích cực vào việc giảng dạy có hiệu quả là một vấn đề không đơn
giản. Đã nhiều năm nay, tôi cùng các thành viên trong nhóm chuyên môn mạnh
dạn sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tính tích cực chủ
động của học sinh và đã thu được nhiều kết quả khả quan. Vì vậy, sau đây tôi
xin chia sẻ kinh nghiệm: “Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học
sinh trong dạy học môn giáo dục công dân thông qua các phương pháp dạy
học tích cực tại các trường THPT ”.
2.2. Thực trạng việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
tại các trường THPT.
Để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, mỗi giáo viên chúng ta tại
các trường THPT nói chung và các trường THPT Cửa Lò nói riêng phải luôn đổi
mới phương pháp giảng dạy, cụ thể hiện nay người giáo viên sẽ phải đặt người học
vào tình huống có vấn đề, vào thực tế cuộc sống, người học trực tiếp thảo luận,
quan sát, giải quyết vấn đề theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức
mới, không rập khuôn theo khuôn mẫu có sẵn, được bộc lộ và phát huy tiềm năng
sáng tạo. Và để làm được điều này giáo viên không chỉ đơn giản truyền đạt tri thức
mà còn hướng dẫn các hoạt độngvà tích cực tham gia các chương trình hoạt động.
Đồng thời giáo viên phải phát huy, khai thác tối đa kinh nghiệm sống của học
sinh, tạo cơ hội cho học sinh bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân về vấn đề đang học,
Trang 9


khuyến khích các em nêu những thắc mắc trong khi nghe giảng, đặt ra câu hỏi cho

thầy, cho bạn trao đổi, tranh luận, tạo nên mối quan hệ hợp tác trong giao tiếp giữa
thầy và trò, giữa trò với trò trong quá trình chiếm lĩnh nội dung học tập. Hợp tác
trong học tập sẽ làm tăng hiệu quả học tập, trong hoạt động hợp tác, tính cách,
năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ uốn nắn, tình bạn, ý thức tổ chức, tinh
thần tương trợ được phát triển. Sự hợp tác trong học tập sẽ giúp học sinh sẽ quen
dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội và hình thành năng lực hợp tác
cho người công dân trong một thế giới phát triển.
Với việc mong muốn thực hiện được các nội dung của phương pháp dạy học
tích cực tôi đã tìm tòi và đưa ra một số giải pháp dạy học tích cực và được minh
họa qua các ví dụ cụ thể việc đổi mới dạy học môn Giáo dục công dân. Mỗi bài
giáo dục công dân tôi luôn ứng dụng từng phương pháp phù hợp để nhằm phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Dưới đây là một số phương pháp
mà tôi lựa chọn giảng dạy, áp dụng cho bài giảng dạy môn Giáo dục công dân.
2.3. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh trong dạy học
môn giáo dục công dân thông qua các phương pháp dạy học tích cực tại các
trường THPT.
2.3.1. Phương pháp thảo luận nhóm
Phương pháp thảo luận nhóm được sử dụng nhằm giúp cho mọi học sinh
tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể
chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết các vấn đề có liên quan đến
nội dung bài học; tạo cơ hội cho các em được giao lưu, học hỏi lẫn nhau, cùng
nhau hợp tác giải quyết những nhiệm vụ chung. Thảo luận nhóm được tiến hành
theo các bước: Giáo viên giới thiệu chủ đề thảo luận. Chia nhóm, giao nhiệm vụ
cho mỗi nhóm, quy định thời gian và phân công vị trí cho các nhóm. Các nhóm
thảo luận giải quyết nhiệm vụ được giao. Đại diện từng nhóm trình bày kết quả
thảo luận của nhóm. Các nhóm khác quan sát, lắng nghe, chất vấn, bình luận và
bổ sung ý kiến. Giáo viên tổng kết và nhận xét.
Các nghiên cứu về phương pháp thảo luận nhóm đã chứng minh rằng, nhờ
thảo luận trong nhóm nhỏ mà: kiến thức của học sinh sẽ bớt phần chủ quan,
phiến diện làm tăng tính khách quan, khoa học; kiến thức trở nên sâu sắc, bền

vững, dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do được giao lưu, học hỏi giữa các thành viên
trong nhóm. Nhờ không khí thảo luận cởi mở nên học sinh, đặc biệt là những
em nhút nhát, trở nên bạo dạn hơn; các em học được cách trình bày ý kiến của
mình, biết lắng nghe, có phê phán ý kiến của bạn; từ đó, giúp học sinh dễ hòa
nhập và cộng đồng nhóm, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú trong học tập và
sinh hoạt. Vốn hiểu biết và kinh nghiệm của học sinh thêm phong phú; kỹ năng
giao tiếp, kỹ năng hợp tác của học sinh được phát triển.
Trước đây, khi chưa sử dụng phương pháp dạy học tích cực như thảo luận
nhóm thì giáo viên thường truyền thụ kiến thức một chiều, học sinh học tập thụ
Trang 10


động, không phát huy được tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh nên
trong giờ học, nhiều học sinh còn chây lười, không vận động, không có tính hợp
tác với bạn bè, với tổ, nhóm dẫn đến nhiều học sinh không nắm được kiến thức,
không hiểu bài. Những phương pháp giảng dạy cũ đó đã làm mất đi tư duy sáng
tạo của học sinh.
Một số lưu ý khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm:
Giáo viên chia số lượng học sinh trong lớp thành các nhóm (thường cứ mỗi
tổ là một nhóm để các em hiểu nhau hơn); phần việc này không khó, nhưng
không nên để nhóm quá nhiều học sinh, bởi có những học sinh chây lười, có cơ
hội lẩn tránh học tập. Nếu có điều kiện phân chia theo chất lượng học sinh, có em
khá hơn, có em yếu kém để kèm cặp nhau trong học tập.
Về thời gian được quy định là bao nhiêu, giáo viên có thể dựa vào chất
lượng của các câu hỏi để định liệu. Giữa phần thảo luận của các nhóm và phần
tổng kết của giáo viên phải có tỷ lệ cân đối. Hai phần này có mối quan hệ biện
chứng, không thể tách rời. Phần việc này đòi hỏi giáo viên phải có kinh nghiệm
thực tế, thời gian nên giành cho các em thảo luận là bao nhiêu thì vừa, phần kết
luận của cô giáo thật hàm súc thì bài học mới mang lại hiệu quả. Vấn đề mà
giáo viên nắm càng vững thì thời gian truyền thụ sẽ ít đi. Vì vậy, giáo viên phải

chuẩn bị giáo án thật kỹ trước khi lên lớp, chắc chắn bài giảng sẽ có chất lượng
cao. Một giờ học hứng thú, có chất lượng sẽ tạo ra không khí hào hứng cho các
em vào tiếp những giờ sau tốt hơn.
Khi nhận thức được phần việc của mình, các thành viên phải tập trung tư
tưởng, năng lực hiểu biết của mình để chuẩn bị ý kiến riêng. Từ người này sang
người khác trình bày, không để thời gian chết.
Các thành viên phải hướng vào chủ đề để trao đổi, đồng thời phải lắng
nghe ý kiến của bạn. Nếu phát hiện ra ý kiến của bạn khác với ý kiến của mình
thì phải suy nghĩ lại mình đúng hay bạn đúng.
Tất cả các thành viên trong nhóm phải chịu sự điều khiển của nhóm trưởng.
Nhóm trưởng là người điều hành chung mọi hoạt động của cả nhóm. Nhóm
trưởng là người phải nắm vững nội dung, mục tiêu của từng vấn đề mà giáo viên
đã đặt ra cho nhóm mình. Nhóm trưởng còn phải là người trực tiếp phân loại các
nhân vật trong các tình huống, điều chỉnh những lệch lạc của các thành viên,
mỗi khi thành viên đó đi xa chủ đề. Nhưng tất cả phải sống trong không khí say
mê học tập.
Thư ký còn có nhiệm vụ tổng hợp các ý kiến được cả nhóm thống nhất về
các nội dung câu hỏi được cô giáo giao cho tổ mình. Để điều hành chất lượng
chung của cả lớp, khi chia nhóm, phân công nhóm trưởng, thư ký nhóm đều
phải luân phiên, không nên chỉ tập trung vào một người trong nhiều tiết học.
Nhóm trưởng và thư ký, phải là những em có năng lực chuyên môn, có kỹ năng
phân tích, đánh giá vấn đề. Nhóm trưởng và thư ký là linh hồn của nhóm. Chất
Trang 11


lượng một giờ có tốt hay không vai trò của nhóm trưởng và thư ký mang tính
định hướng. Kết quả đúng sai phải dựa trên trí tuệ của tập thể để quyết định.
Trên thực tế, tôi đã đi dự giờ đồng nghiệp tôi thấy nhiều giáo viên sử dụng
thành công phương pháp thảo luận nhóm, nhưng cũng có một số giáo viên sử
dụng phương pháp thảo luận nhóm vẫn chưa có hiệu quả. Một số giáo viên chia

nhóm không đều, có giáo viên chia lớp thành 2 nhóm thì số lượng nhóm quá
đông. Có giáo viên chia số lượng nhóm quá nhiều, làm như vậy chưa phát huy
hết hiệu quả của phương pháp thảo luận nhóm. Riêng tôi thì tôi thường sử dụng
phương pháp thảo luận nhóm bằng cách chia lớp thành 4 nhóm tương ứng mỗi
nhóm là 1 tổ học sinh. Như vậy nếu lớp từ 35 đến 40 học sinh thì mỗi nhóm
tương ứng từ 8 đến 10 em. Số lượng học sinh vừa phải thì tất cả các em đều hoạt
động tích cực trong quá trình học tập.
Giáo viên quy định thời gian thực hiện cho học sinh đặt tên nhóm, cử nhóm
trưởng, thư ký và thực hiện công việc của nhóm.
Học sinh thảo luận và các nhóm lần lượt trình bày.
Giáo viên nhận xét, kết luận.
Ví dụ: Tôi đã sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong bài 4 GDCD 10:
“Nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng” trong phần tìm
hiểu khái niệm mâu thuẫn như sau:
GV tổ chức cho HS thảo luận nhóm để tìm hiểu thế nào là mâu thuẫn: GV
chia lớp thành 3 nhóm (chia theo danh sách lớp). GV quy định thời gian và chỗ
ngồi thảo luận của các nhóm
GV giao câu hỏi cho các nhóm:
Nhóm 1. Em hãy đưa ra một số VD về mâu thuẫn? (Trạng thái xung đột,
chống đối nhau trái ngược nhau về hình thức, nội dung...) em có nhận xét gì về các
ví dụ trên ?
Nhóm 2. Em có nhận xét gì về các ví dụ sau:
điện tích (+)
- Mỗi nguyên tử có 2 mặt
điện tích (-)
địa chủ
- Xã hội phong kiến có hai giai cấp
Nông dân
Tích cực
- Nhận thức có hai mặt

Trang 12


Tiêu cực
a) 2 mặt của các sự vật, hiện tượng trên có ràng buộc, tác động và đấu
tranh với nhau không?
2 mặt của các sự vật, hiện tượng trên có ràng buộc, tác động và

b)

đấu tranh với nhau không?
Nhóm 3. Cho 2 ví dụ
VD1: Mặt đồng hoá của cơ thể (A)
Mặt dị hoá của cơ thể (B)
VD2:
Đồng hoá
Mỗi sinh vật có 2 mặt
Dị hóa
a) Em hãy so sánh và rút ra kết luận về hai ví dụ trên
b) Thế nào được gọi là một mâu thuẫn. Mỗi sự vật, hiện tượng có nhiều mâu
thuẫn không?
HS các nhóm thảo luận
HS cử đại diện nhóm trình bày
HS cả lớp tranh luận,trao đổi đưa ra ý kiến đúng
GV bổ sung đưa ra kết luận
Nhóm 1
* Ví

dụ


To >< nhỏ
Trắng >< đen
Tốt >< xấu
* Người

ta quan niệm đây là mâu thuẫn.

Nhóm 2
* Mỗi

sự vật và hiện tượng có 2 mặt đối lập nhau

* Hai

mặt đó ràng buộc, tác động và đấu tranh với nhau.

Nhóm 3 a) So sánh
VD1 không gọi là mâu thuẫn
Trang 13


VD2 được gọi là mâu thuẫn
b) Mỗi mâu thuẫn phải có 2 mặt đối lập ràng buộc nhau trong một chỉnh thể
(một sự vật, hiện tượng). Mỗi sự vật, hiện tượng luôn tồn tại nhiều mâu thuẫn.
GV gợi ý khắc sâu kiến thức
-

Mâu thuẫn (thông thường) là trạng thái xung đột, chống đối nhau

-


Mâu thuẫn (Triết học): Hai mặt đối lập ràng buộc nhau, tác động lên nhaụ

GV đưa ra định nghĩa về mâu thuẫn HS ghi bài
Mâu thuẫn là một chỉnh thể trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất với nhau
vừa đấu tranh với nhau.
Như vậy, học sinh đã rất tích cực hoạt động nhóm, chủ động tìm hiểu kiến
thức và đi đến khái niệm.
Qua phần thảo luận nhóm, học sinh hiểu bài, lớp học hứng thú sôi nổi.
Phương pháp thảo luận nhóm đã phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học
sinh. Kích thích hứng thú cho học sinh, học sinh hiểu bài, lớp học sôi nổi, bài
giảng hay và sinh động.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 2, "Thực hiện pháp luật" tại lớp 12, tôi tiến hành thảo
luận nhóm tại phần mục 1.b, cụ thể như sau: Tôi chia lớp thành 4 nhóm, mỗi
nhóm 9 học sinh. Mỗi nhóm thảo luận một mục hình thức thực hiện pháp luật
với các câu hỏi phù hợp với năng lực của người học. Tôi phân công vị trí và thời
gian thảo luận cho các nhóm để tìm hiểu các hình thức thực hiện pháp luật. Từ
đó rút ra các hình thức thực hiện pháp luật.
Thứ nhất, đối với phần tìm hiểu hình thức sử dụng pháp luật, tôi giao câu
hỏi cho nhóm 1, cho các em tìm hiểu về hình thức sử dụng pháp luật. Tôi cho
học sinh tìm hiểu những chủ thể nào có quyền sử dụng pháp luật? Những chủ
thể đó sử dụng pháp luật như thế nào? Ở hình thức này, chủ thể có bắt buộc phải
thực hiện pháp luật hay không? Cho học sinh đưa ra một số ví dụ sử dụng pháp
luật trong cuộc sống.
Thứ hai, đối với phần tìm hiểu hình thức thi hành pháp luật. Phần này, tôi
giao cho nhóm 2 thảo luận câu hỏi: Những chủ thể nào có nghĩa vụ thi hành
pháp luật? Những chủ thể đó thi hành pháp luật như thế nào? Ở hình thức này,
chủ thể có bắt buộc phải thực hiện pháp luật hay không? Đưa ra một số ví dụ về
hình thức thi hành pháp luật trong cuộc sống.
Thứ ba, đối với phần tìm hiểu hình thức tuân thủ pháp luật. Tôi giao câu

hỏi cho nhóm 3: Những chủ thể nào có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật? Những chủ
thể đó tuân thủ pháp luật như thế nào? Ở hình thức này, chủ thể có bắt buộc
Trang 14


phải thực hiện pháp luật hay không? Đưa ra một số ví dụ về hình thức tuân thủ
pháp luật trong cuộc sống.
Thứ tư, đối với phần tìm hiểu hình thức áp dụng pháp luật. Tôi giao câu hỏi
cho nhóm 4: Những chủ thể nào có quyền áp dụng pháp luật? Những chủ thể đó
căn cứ vào đâu để áp dụng pháp luật? Những chủ thể đó áp dụng pháp luật như
thế nào? Những chủ thể đó áp dụng pháp luật trong những trường hợp nào? Cho
ví dụ minh họa?
Sau khi cho nghiên cứu sách giáo khoa, học sinh tiến hành thảo luận theo
nhóm, thống nhất ý kiến và lần lượt trình bày kết quả thảo luận. Tôi nhận xét,
bổ sung và đưa ra kết luận về từng hình thức thực hiện pháp luật và có thể minh
họa thêm các ví dụ.
* Đối với hình thức: Sử dụng pháp luật: Chủ thể sử dụng pháp luật là những
cá nhân, tổ chức trong xã hội. Những chủ thể đó sử dụng các quyền của mình,
làm những gì mà pháp luật cho phép làm.
Qua phần thảo luận nhóm của bài 2 học sinh tích cực chủ động sáng tạo
trong học tập, rèn luyện cho học sinh kỹ năng tự tin trình bày suy nghĩ ý tưởng,
kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin sáng tạo trong hoạt động học tập. Học sinh
học tập sôi nổi, hiểu bài.
2.3.2 Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình là một phương pháp dạy
học, trong đó HS tự lực nghiên cứu một tình huống thực tiễn và giải quyết các
vấn đề của tình huống đặt ra, hình thức làm việc chủ yếu là làm việc nhóm,
phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình là phương pháp điển hình của
dạy học theo tình huống và dạy học giải quyết vấn đề.
Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình đề cập đến một tình huống

từ thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp, tình huống đó đã gặp hoặc có thể gặp
trong cuộc sống và công việc nghề nghiệp hàng ngày. Những tình huống đó
chứa đựng vấn đề cần giải quyết. Để giải quyết các vấn đề đó đòi hỏi có những
quyết định dựa trên cơ sở lập luận. Các trường hợp cần được xử lý về mặt lý
luận dạy học. Bên cạnh việc mô tả trường hợp (mô tả sự kiện) cần có sự lý giải,
phân tích về mặt lý luận dạy học, dưới dạng những định hướng, trợ giúp cho
việc dạy và học phù hợp với mục đích đặt ra.
Có thể đưa ra những đặc điểm sau đây của phương pháp nghiên cứu trường
hợp điển hình:
• Trường hợp được rút ra từ thực tiễn dạy học hoặc phản ánh một tình
huống thực tiễn dạy học. Do đó một trường hợp thường mang tính phức hợp.
Trang 15


• Mục đích hàng đầu của phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
không phải là việc truyền thụ tri thức lý thuyết mà là việc vận dụng tri thức vào
việc giải quyết vấn đề trong những tình huống cụ thể.
• HS được đặt trước những tình huống cần quyết định, họ cần xây dựng các
phương án giải quyết vấn đề cũng như đánh giá các phương án đó, để quyết
định một phương án giải quyết vấn đề.
• HS cần xác định những phương hướng hành động có ý nghĩa quan trọng
trong việc tìm ra quyết định.
Tiến trình thực hiện
Tiến trình các giai đoạn được trình bày sau đây là tiến trình lý tưởng của
phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình. Trong thực tiễn vận dụng có thể
linh hoạt, chẳng hạn có những giai đoạn được rút gọn, kéo dài hơn hoặc bỏ qua
tuỳ theo các trưòng hợp cụ thể.
Các bước tiến hành phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình:
Các giai đoạn
l.Nhận biết trường hợp:

Làm quen vớỉ trường hợp
2.Thu thập thông tin:
Thu thập thông tin về các trường
hợp từ các tàỉ liệu có sẵn và tự
tìm
3.Nghiên cứu và tìm ra các
phương án giải quyết:
Tìm các phương án giải quyết và
thảo luận (tìm hiểu, nghiên cứu,
khảo sát, điều tra)
4.Quyết định
Quyết định trong nhóm về
phương án giải quyết.
5. Bảo vệ:
Các nhóm lập luận và bảo vệ
quyết định của nhóm.
6. So sánh:
So sánh các phương án giải quyết

Mục đích
Nắm được vấn đề và các tình huống cần
xác định.Tự nhận biết các quan hệ
chuyên môn
Học cách tự lực tìm kiếm thông tin, hệ
thống hóa và đánh giá thông tin.

Phát triển tư duy sáng tạo, tư duy theo
nhiều hướng, làm việc trong nhóm, hiểu
các ý kiến khác nhau, biết trình bày ý
kiến trong nhóm.

Đối chiếu và đánh giá các phương án giải
quyết trên cơ sở các tiêu chuẩn đánh giá
đã được lập luận.
Bảo vệ các quyết định với những luận cứ
rõ ràng, trình bày các quan điểm một
cách rõ ràng, phát hiện các điểm yếu
trong các lập luận.
Cân nhắc mối quan hệ theo các phương
án giải quyết khác nhau; Việc quyết định
Trang 16


của nhóm với các quyết định
trong thực tế.

luôn liên quan đến các tình huống, điều
kiện, thời gian cụ thể.

Tôi đã đi dự giờ đồng nghiệp trong nhóm chuyên môn, tôi thấy một số bài
giáo viên sử dụng các phương pháp dạy học nghiên cứu trường hợp điển hình có
hiệu quả, học sinh tích cực chủ động và rất hiểu bài, biết nhận thức rõ vấn đề
trong cuộc sống, trong thực tiễn, có ý thức chấp hành pháp luật. Song bên cạnh
đó cũng có một số bài giáo viên chưa sử dụng đúng phương pháp phù hợp với
từng bài nên chất lượng, hiệu quả dạy học chưa cao.
Ví dụ: Đối với bản thân tôi, tôi đã vận dụng phương pháp nghiên cứu điển
hình vào môn GDCD lớp 12 ở một số bài như: Bài 1: Pháp luật và đời sống; Bài
4: Công dân bình đẳng trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội; Bài 6: Công
dân với các quyền tự do cơ bản.
Đối với bài 1: Pháp luật và đời sống: Tôi cho học sinh xem một đoạn
phóng sự ngắn về tình trạng bạo hành trẻ em trên địa bàn thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai. Sau đó, tôi cho học sinh suy nghĩ về đoạn phóng sự đó. Học sinh
thảo luận về trường hợp điển hình và đánh giá, nhận xét để bảo vệ quyền lợi con
người cần phải như thế nào. Tôi kết luận. Từ đó học sinh rút ra pháp luật có vai
trò như thế nào đối với cuộc sống của mỗi con người. Sử dụng phương pháp
nghiên cứu điển hình làm cho bài học gần gũi, sinh động, dễ hiểu đối với học
sinh.
Đối với Bài 4: Công dân bình đẳng trong một số lĩnh vực của đời sống xã
hội: Tôi cho học sinh tìm hiểu câu chuyện về tình trạng bạo lực gia đình, cho
học sinh thảo luận về tình huống đó. Quyền và nghĩa vụ của mỗi người trong gia
đình được quy định như thế nào. Sau đó tôi nhận xét, kết luận. Từ đó giúp các
em hiểu được Luật hôn nhân và gia đình, biết sống có trách nhiệm. Với phương
pháp này học sinh rất hiểu bài vì đó là những tình huống có thật trong đời sống.
Đối với Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản: Với các nội dung:
Quyền bất xả xâm phạm về thân thể; Quyền được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; Quyền bất xả xâm phạm về chỗ ở; Quyền
được bảo đảm an toàn về thư tín, điện tín; Quyền tự do ngôn luận. Tôi đưa ra
bài báo hoặc thông tin về những vi phạm đến quyền tự do cơ bản của công dân.
Sau đó tôi cho học sinh thảo luận về trường hợp đó. Cho học sinh nhận xét,
đánh giá. Sau đó tôi nhận xét, kết luận. Sử dụng phương pháp nghiên cứu
trường hợp điển hình ở bài này giúp học sinh phân biệt được những hành vi
đúng và hành vi xâm phạm quyền tự do cơ bản của công dân. Biết tự bảo vệ
mình trước các hành vi xâm phạm của người khác. Có ý thức bảo vệ quyền tự
do cơ bản của mình và tôn trọng các quyền tự do của người khác. Biết phê phán
các hành vi xâm phạm quyền tự do cơ bản của công dân.
Với bài học này, việc sử dụng phương pháp nghiên cứu điển hình rất sinh
động và có hiệu quả.
Trang 17


Trang 18



2.3.3. Sử dụng phương pháp dự án
Phương pháp dạy học dự án là một phương pháp dạy học được các nhà sư
phạm Mỹ sử dụng từ cuối thế kỷ XIX và đến nay nó được sử dụng rộng rãi ở các
nước phát triển như Pháp, Đan mạch... Ở Việt Nam, phương pháp này cũng bắt
đầu dạy học thực nghiệm ở một số trường học, môn học nhưng chưa phổ biến.
Với những cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đưa ra nhiều định nghĩa về
phương pháp dạy học này song nhìn chung có thể hiểu: Dạy học theo dự án là
một phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Phương pháp này giúp học
sinh phát triển kiến thức và kỹ năng liên quan thông qua những nhiệm vụ học tập
mang tính mở, khuyến khích học sinh tìm tòi, hiện thực hóa những kiến thức đã
học trong quá trình thực hiện dự án và tạo ra những sản phẩm của chính mình.
Chương trình của dạy học theo dự án được xây dựng dựa trên những câu hỏi
định hướng quan trọng, lồng ghép các chuẩn nội dung và tư duy bậc cao trong
những bối cảnh thực tế. Bài học thiết kế theo dự án chứa đựng nhiều kĩ thuật dạy
học khác nhau có thể lôi cuốn mọi đối tượng học sinh không phụ thuộc vào cách
học của họ. Các phương tiện kĩ thuật cũng được sử dụng để hỗ trợ việc dạy và
học. Với mô hình này có thể vận dụng nhiều cách đánh giá khác nhau để giúp học
sinh tạo ra những sản phẩm chất lượng và được đánh giá toàn diện.
Dạy học theo dự án là một phương pháp dạy học tích cực, bản chất của
phương pháp này đã tạo nên một sự thay đổi lớn về vai trò của người dạy và
người học.
Khi sử dụng phương pháp dạy học theo dự án giáo viên cần lưu ý một số
điểm sau đây:
- Phải xác định đúng chủ đề: Vì nếu không xác định đúng chủ đề thì nội
dung của dự án tiến triển theo 2 hướng bất lợi: Một là, không có nhiệm vụ
nghiên cứu vì chủ đề quá đơn giản; hai là, nhiệm vụ quá khó vượt khả năng và
điều kiện cho phép.
- Đòi hỏi giáo viên phải có năng lực tổ chức và quản lý học sinh trong hoạt

động, nhất là hoạt động nhóm.
- Giáo viên phải quan tâm đến nguồn tư liệu tham khảo của chủ đề dự án, trang
thiết bị cần thiết và địa điểm phù hợp cho hoạt động của giáo viên và học sinh.
- Việc thực hiện dự án ít nhiều liên quan đến kinh phí (in ấn, chi phí trong
quá trình thu thập tài liệu...) vì vậy giáo viên phải thường xuyên bám sát, điều
chỉnh tránh lãng phí, không cần thiết.
Dạy học theo dự án là một hoạt động học tập nhằm tạo cơ hội cho học sinh
tổng hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực, áp dụng một cách sáng tạo vào thực tế
cuộc sống. Đồng thời củng cố kiến thức và xây dựng các kỹ năng hợp tác, giao

Trang 19


tiếp và học tập độc lập, chuẩn bị hành trang cho học sinh học tập suốt đời và đối
mặt với các thử thách trong cuộc sống.
Ngoài việc lựa chọn kiến thức phù hợp, để thành công phương pháp này
còn đòi hỏi người giáo viên phải có kinh nghiệm trong việc tổ chức, hướng dẫn
cho học sinh các hoạt động khoa học để theo đúng định hướng, mục tiêu đề ra.
Thông thường khi thực hiện dạy học theo dự án, giáo viên phải tuân thủ các
bước sau đây:
Bước 1: Xác định chủ đề và mục đích của dự án:
Giáo viên và học sinh cùng nhau đề xuất ý tưởng, xác định chủ đề và mục
đích của dự án. Cần tạo ra một tình huống xuất phát, chứa đựng một vấn đề,
hoặc đặt một nhiệm vụ cần giải quyết, trong đó liên hệ với hoàn cảnh thực tiễn
xã hội và đời sống. Cần chú ý đến hứng thú của người học cũng như ý nghĩa xã
hội của đề tài. Giáo viên có thể giới thiệu một số hướng đề tài để học sinh lựa
chọn và cụ thể hoá. Trong một số trường hợp, ý tưởng về việc xác định đề tài có
thể xuất phát từ phía học sinh. Giai đoạn này còn được mô tả thành hai giai
đoạn là đề xuất ý tưởng và thảo luận về ý tưởng.
Bước 2: Xây dựng kế hoạch thực hiện:

Trong giai đoạn này học sinh với sự hướng dẫn của giáo viên xây dựng đề
cương cũng như kế hoạch cho việc thực hiện dự án. Trong việc xây dựng kế
hoạch cần xác định những công việc cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh
phí, phương pháp tiến hành và phân công công việc trong nhóm.
Bước 3: Thu thập thông tin:
Hướng dẫn học sinh các cách thu thập thông tin như: Quan sát, phỏng vấn,
tra cứu mạng, thư viện, bảo tàng, Sách báo, tạp chí....và các mối quan hệ khác
trong cuộc sống.
Bước 4: Thực hiện dự án:
Các thành viên thực hiện công việc theo kế hoạch đã đề ra cho nhóm và cá
nhân. Trong giai đoạn này học sinh thực hiện các hoạt động trí tuệ và hoạt động
thực tiễn, thực hành, những hoạt động này xen kẽ và tác động qua lại lẫn nhau.
Kiến thức lý thuyết, các phương án giải quyết vấn đề được thử nghiệm qua thực
tiễn. Trong quá trình đó sản phẩm của dự án và thông tin mới được tạo ra.
Bước 5: Trình bày sản phẩm dự án:
Kết quả thực hiện dự án có thể được viết dưới dạng thu hoạch, báo cáo, bài
báo... Trong nhiều dự án các sản phẩm vật chất được tạo ra qua hoạt động thực
hành. Sản phẩm của dự án cũng có thể là những hành động phi vật chất, chẳng
hạn việc biểu diễn một vở kịch, việc tổ chức một sinh hoạt nhằm tạo ra các tác
Trang 20


động xã hội. Sản phẩm của dự án có thể được trình bày giữa các nhóm học sinh,
có thể được giới thiệu trong nhà trường, hay ngoài xã hội.
Bước 6: Đánh gía dự án:
Giáo viên và học sinh đánh giá quá trình thực hiện và kết quả cũng như
kinh nghiệm đạt được. Từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc thực hiện các
dự án tiếp theo. Kết quả của dự án cũng có thể đuợc đánh giá từ bên ngoài.
Việc phân chia các giai đoạn trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Trong
thực tế chúng có thể xen kẽ và thâm nhập lẫn nhau. Việc tự kiểm tra, điều chỉnh

cần được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của dự án. Với những dạng dự án
khác nhau có thể xây dựng cấu trúc chi tiết riêng phù hợp với nhiệm vụ dự án.
Giai đoạn 4 và 5 cũng có thể mô tả chung thành một giai đoạn.
Ví dụ: Chương trình GDCD lớp 12, tôi tổ chức, hướng dẫn học sinh thực
hiện các nhiệm vụ theo dạy học dự án ở Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ
bản.
Bài học này với thời lượng thiết kế là 4 tiết, với các kiến thức trọng tâm là:
Khái niệm, nội dung, ý nghĩa các quyền tự do cơ bản của công dân bao gồm:
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, quyền được pháp luật bảo
hộ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự, quyền bất khả xâm phạm về
chỗ ở, quyền đảm bảo an toàn, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín, quyền tự do
ngôn luận; Trách nhiệm của Nhà nước và công dân trong việc bảo đảm và thực
hiện các quyền tự do cơ bản của công dân. Khi dạy học bài này chúng ta không
đặt ra mục đích tìm hiểu tất cả các quyền tự do cơ bản của công dân, mà chỉ tìm
hiểu một số quyền tự do quan trọng đầu tiên đối với mỗi công dân. Đây là
những kiến thức mở rộng chung, bao trùm, có nội dung pháp lý phong phú
thuộc nhiều lĩnh vực nên việc sử dụng phương pháp dạy học theo dự án là một
thuận lợi. Tôi tiến hành cụ thể như sau: (thực hiện từ bước 1 đến bước 4 trước 2
tuần).
Bước 1: Xác định chủ đề và mục đích của dự án
Giáo viên nêu mục đích, yêu cầu, các bước tiến hành, nhiệm vụ chính cho
học sinh, sau đó cùng thống nhất chủ đề thực hiện dự án. Giáo viên có thể đưa
ra một số gợi ý về ý tưởng thực hiện cho học sinh tham khảo từ đó động viên,
khơi gợi tính sáng tạo, tò mò, khả năng tự học của các em.
Chủ đề dự án của bài 6 là công dân với các quyền tự do cơ bản, giáo viên
nêu mục đích yêu cầu về mặt nội dung, hình thức học sinh phải đạt được trong
dự án. Có thể các nhóm tự chọn cho mình một nội dung phù hợp để thực hiện
hoặc giáo viên sẽ giao nhiệm vụ cho từng nhóm. Việc thống nhất nội dung, hình
Trang 21



thức thực hiện trong dự án phải vừa đảm bảo tính bao quát, vừa đảm bảo trọng
tâm của bài học. Bên cạnh đó, giáo viên khuyến khích học sinh đưa ra các ý
tưởng để dự án được thực hiện một cách sinh động, phong phú, phù hợp và có
chất lượng. Sau khi thảo luận, giáo viên và học sinh thống nhất:
Chủ đề dự án: Công dân với các quyền tự do cơ bản
Mục đích dự án: Tìm hiểu các quyền cơ bản của công dân, qua đó liên hệ
thực tiễn và rút ra bào học cho bản thân.
Bước 2: Xây dựng kế hoạch thực hiện
Đây là bước quan trọng, tất cả các thành viên trong nhóm cùng tham gia
xây dựng và xác định:
- Mục tiêu cần hướng tới
- Nhiệm vụ phải làm
- Sản phẩm dự kiến
- Cách triển khai thực hiện hoàn thành dự án
- Thời gian thực hiện và hoàn thành.
Ví dụ:

Tên thành
viên
Trần Thị
Thanh Soa

Nguyễn Văn
Giáp

Nhiệm vụ

Phương
tiện


Phỏng vấn nhân vật cụ thể
để làm rõ nội quyền bất
khả xâm phạm về thân thể
công dân

Phiếu PV

Xây dựng tiểu phẩm, hoặc
tìm tài liệu cho nội dung
quyền tự do ngôn luận...

Tài liệu,
tranh ảnh,
số liệu…

Thời
hạn
hoàn
thành
1 tuần

Máy ảnh
Máy ghi âm
(Nếu có)

Sản
phẩm dự
kiến
Phiếu trả

lời phỏng
vấn
Ảnh chụp

1 tuần

Kịch bản
hoặc
tranh ảnh

Bước 3: Thu thập thông tin:
Học sinh có thể tiếp cận thông tin bằng nhiều hình thức khác nhau như sách
báo, mạng, các địa chỉ tư vấn pháp luật..., ngoài ra tôi luôn động viên học sinh
tích cực, mạnh dạn gặp gỡ, học hỏi các kiến thức pháp luật liên quan tại các địa
chỉ uy tín trên địa bàn như sở Tư pháp, Tòa án... thu thập thông tin về:
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân : Tham khảo chương 2,
3, 5 Bộ Luật dân sự.
Trang 22


Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm của công dân: Tham khảo Điều 121 Bộ luật hình sự ; Điều 122 Bộ luật
hình sự ; Điều 104 Bộ luật hình sự...
Bước 4: Thực hiện dự án:
Trong quá trình thực hiện dự án, mặc dù học sinh làm việc độc lập nhưng
giáo viên vẫn phải duy trì thông tin hai chiều, vừa để giải quyết khó khăn,
vướng mắc nếu có, đồng thời động viên, khích lệ tinh thần cho các nhóm. Khi
thực hiện dự án ở bài 6 học sinh cơ bản thực hiện được nhiệm vụ về mặt nội
dung nhưng hơi lúng túng trong chọn phương pháp trình bày sản phẩm sắp tới.
Ban đầu, hầu hết các nhóm đều chọn thuyết trình là chính nhưng nhờ sự giúp

đỡ, tư vấn kịp thời của giáo viên mà các nhóm đã có những ý tưởng trình bày
sáng tạo hơn như xây dựng tiểu phẩm, quay video, xây dựng tình huống giả
định...Vậy, để các sản phẩm của dự án có chất lượng thì người giáo viên cần đặc
biệt quan tâm tới bước thực hiện dự án để giúp học sinh điều chỉnh, bổ sung và
hoàn thiện một các tốt nhất.
Với cách tổ chức và hướng dẫn cho học sinh trong phương pháp dạy học
dự án như trên, tôi nhận thấy rằng đây là một sự thay đổi mạnh mẽ trong cách
dạy và học hiện nay, người giáo viên là người hướng dẫn, quan sát, chỉ đạo quá
trình học của học sinh, còn học sinh thực sự được tham gia vào quá trình tự học,
chủ động trong tìm hiểu kiến thức.
Dạy học theo dự án đã và đang là một phương pháp dạy học tích cực, hiện
đại, phù hợp với xu thế phát triển. Ngoài việc giúp cho người học chủ động, tích
cực trong việc tiếp cận kiến thức thì nó còn hình thành và hoàn thiện thêm một
số kĩ năng cơ bản, cần thiết cho người học. Chính vì lẽ đó mà dạy học theo dự
án đang được cả giáo viên và học sinh tiếp nhận một cách tích cực.
Việc trình bày sản phẩm là nhiệm vụ cuối cùng nhưng xét về mặt ý nghĩa
thì đây là nội dung mang tính quyết định cho sự thành công phương pháp dạy
học theo dự án.
Sản phẩm của dự án là những bài báo cáo, những kết quả thu thập được của
học sinh trong suốt quá trình tìm hiểm, thực nghiệm. Sản phẩm phải có bản in,
ngoài ra khuyến khích học sinh sử dụng thêm công nghệ thông tin hiện đại để
tăng tính sinh động và phong phú.
Việc đánh giá kết quả của dự án gồm các mặt sau:
+ Nội dung (tiêu chí) :giá trị của sản phẩm ...?
+ Bài học rút ra sau khi tiến hành dự án? (kiến thức, kĩ năng, thái độ,...)
+ Thái độ, ý thức làm việc tập thể như thế nào?
+ Sự thoải mái và tích cực tham gia ở mức độ nào?
Trang 23



+ Điều gì cần tiếp tục phát huy ở những lần sau?
+ Điều gì cần thay đổi? Những điểm nào cần được cải thiện?
Một vấn đề đặt ra là làm thế nào để học sinh báo cáo được hết các sản phẩm
và báo cáo có hiệu quả? Đây là một khó khăn khiến nhiều giáo viên phải lúng
túng bởi bài báo cáo sản phẩm của học sinh không chỉ đơn thuần là đọc lại những
kết quả đã thu thập được mà nhiều khi còn phải đi kèm những băng hình, video,
phóng sự, tranh ảnh...nên giáo viên phải có kinh nghiệm trong việc sắp xếp,
hướng dẫn, định hình nhiều phương án để học sinh tiến hành báo cáo thuận lợi và
có hiệu quả. Trong thực tế một số giáo viên tiến hành các bước của dự án đầy đủ,
khoa học nhưng khi tiến hành báo cáo sản phẩm lại không thành công vì bị ảnh
hưởng bởi thời gian, ý thức học sinh, phương pháp trình bày, ý kiến phản biện...
Với tôi, khi cho học sinh tiến hành báo cáo sản phẩm của bài 6: Công dân
với các quyền tự do cơ bản - GDCD 12 tôi tiến hành như sau:
- Trước 2 đến 3 ngày: Nhắc nhở học sinh lần cuối hoàn thiện và chuẩn bị
các công việc cần thiết cho tiết báo cáo như: sản phẩm, máy tính xách tay, máy
chiếu, tranh ảnh...
- Trong tiết báo cáo:
+ Nhóm báo cáo chuẩn bị sãn sàng về cả nội dung, hình thức, sắp xếp vị trí
ngồi cho các nhóm còn lại một cách hợp lý và phù hợp với ý tưởng đã đưa ra.
+ Nhóm có màn khởi động, giới thiệu từ 2 đến 3 phút (Có thể giới thiệu tên
nhóm, các thành viên của nhóm thông qua hò, vè, bài hát, những hình ảnh minh
họa sinh động, các bài nhảy dân vũ...) nhằm mục đích tạo hứng thú và thu hút sự
quan tâm của mọi người, đồng thời để các nhóm thể hiện bản sắc, năng khiếu
riêng. Đây là một sự khởi đầu rất hấp dẫn và hiệu quả.
+ Nhóm tiến hành báo cáo sản phẩm: Sản phẩm bài 6 của các nhóm được
chia làm 2 loại: thứ nhất là bài báo cáo, bản thu hoạch ghi lại tất cả các hoạt
động, thể hiện các sản phẩm của nhóm in trên giấy A4, đảm bảo về mặt hình
thức gồm nội dung các quyền cơ bản của công dân, các tình huống, các ví dụ
được khai thác từ các nguồn khác nhau, là những phân tích, đánh giá, đối chiếu
giữa kiến thức bài học với những tư liệu tìm hiểu thêm, là những điều chỉnh bổ

sung của những điều Luật liên quan. Điều đặc biệt trong bài báo cáo là các em
đã có những chia sẻ thực tế của bản thân, những cảm xúc, suy nghĩ khi tham gia
hoạt động nhóm trong quá trình thực hiện dự án; thứ 2 là bản PowerPoint trình
chiếu. Trong bản trình chiếu sẽ giúp học sinh thể hiện được các tiểu phẩm,
video, các clip phỏng vấn... sinh động mà bản in không thể hiện hết được. Vì
điều kiện thời gian nên giáo viên không cần cho học sinh trình bày bản in mà
chỉ trình bày sản phẩm trên PowerPoint. Trong quá trình trình bày của nhóm,
giáo viên bao quát và nhắc nhở học sinh kịp thời để tiết học đảm bảo mục tiêu
đề ra.
Trang 24


+ Sau khi nhóm kết thúc báo cáo, giáo viên cho các nhóm còn lại nhận xét,
bổ sung về nội dung của dự án và phương pháp trình bày, hiệu quả của dự án.
+ Cuối cùng giáo viên nhận xét và đánh giá.
* Sản phẩm báo cáo tóm tắt của nhóm 1 lớp 12A2
BÁO CÁO THỰC HÀNH

Dự án: Công dân với các quyền tự do cơ bản
NHÓM I:
1. Phùng Bá Dũng (nhóm trưởng)
2. Nguyễn Thị Phương Thảo (thư ký)
3. Phan Viết Dũng
4. Trần Tiến An
5. Võ Thị Mơ
6. Hoàng Thị Nam
7. Nguyễn Minh Tuấn
8. Phạm Trọng Quân
KẾ HOẠCH NHÓM
Thành viên nhóm

1. Phùng Bá Dũng
(nhóm trưởng)

2. Nguyễn Thị Phương
Thảo
(Thư ký)
3. Phan Viết Dũng

4. Trần Tiến An

5. Võ Thị Mơ

6. Hoàng Thị Nam

7. Nguyễn Minh

Công việc được giao
Quản lý nhóm, làm tổng hợp
báo cáo chung, góp ý xây
dựng tiểu phẩm và tìm hiểu
các tình huống pháp luật...
Tổng hợp ý kiến, tổng hợp
báo cáo, tham gia tiểu
phẩm…
Phụ trách nội dung 2: quyền
được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khỏe nhân phẩm,
danh dự của công dân...
Tìm hiểu, xây dựng các tình
huống, tiểu phẩm cho các nội

dung...
Tranh ảnh minh họa các nội
dung bài học trong đó chủ
yếu tập trung vào nội dung 1:
quyền bất khả xâm phạm về
thân thể công dân...
Tranh ảnh, minh họa, tiểu
phẩm, hỗ trợ làm phỏng vấn,
máy tính...
Xây dựng tiểu phẩm, kịch

Thời gian
thực hiện
7/12 đến
28/12

Đánh
giá

7/12 đến
24/12
7/12 đến
21/12

7/12 đến
21/12
7/12 đến
21/12

7/12 đến

28/12
7/12 đến
Trang 25


×