Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Phương pháp tạo hứng thú cho học sinh trong việc học tập địa lý THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 59 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đổi mới giáo dục và dạy học địa lí không chỉ giới hạn ở đổi mới dạy học địa
lí theo quan điểm lấy học sinh làm trung tâm như nhiều người quan niệm. Trên
thực tế nó rộng hơn như thế nhiều, bởi vì đổi mới tổ chức dạy học địa lí THPT ở
Việt Nam đã và đang chịu tác động không chỉ của một mà là nhiều quan điểm đổi
mới của giáo dục và dạy học hiện đại, trong số đó đáng kể nhất là các xu hướng
đổi mới cơ bản sau đây :
- Xu hướng đổi mới dạy học địa lí theo quan điểm lấy học sinh làm trung
tâm và quan điểm định hướng hành động.
- Xu hướng đổi mới dạy học địa lí theo quan điểm của công nghệ dạy học.
- Xu hướng đổi mới dạy học địa lí theo quan điểm của Giáo dục vì sự phát triển
bền vững.
Chúng ta đều hiểu rằng quan điểm dạy học nào dù có hay đến đâu cũng
không thể giải quyết hết được những vấn đề đa dạng (phù hợp đối tượng, đặc điểm
vùng miền, cơ sở vật chất,...) của đổi mới tổ chức dạy học địa lí ở phổ thông. Mỗi
một quan điểm sẽ tạo cho dạy học địa lí và những bài học địa lí những thành công
mới và giá trị mới.
Một trong những điều kiện tiên quyết để người giáo viên địa lí thành công
trong việc đổi mới giáo dục và dạy học địa lí là hiểu rõ tính đa diện và phức tạp
của đổi mới phương pháp dạy học địa lí. Thực tế cho thấy một trong những khó
khăn không nhỏ mà giáo viên địa lí ở bậc phổ thông đã và đang phải đương đầu là
càng tiếp xúc với các tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học địa lí do các tổ chức
giáo dục khác nhau cung cấp thì họ càng có cảm giác đang “bơi” trong một “bể
các thuật ngữ đủ loại về phương pháp dạy học” mà tính phức tạp và đa diện của nó
đã khiến cho nhiều giáo viên lúng túng và lẫn lộn khi sử dụng các khái niệm, thuật
ngữ về phương pháp dạy học có độ rộng và cấp độ khác nhau . Vì vậy dẫn đến đổi
mới mà không toàn diện và đồng bộ các khâu và các thành tố cơ bản của quá trình
dạy học địa lí, dẫn đến giờ học nặng nề không gây được hứng thú cho học sinh,
hiệu quả dạy học thấp. Nguyên nhân chính là do giáo viên đổi mới mà không biết
cách sử dụng linh hoạt sáng tạo Phương pháp dạy học, Kỹ thuật dạy học, Phương


tiện dạy học trong giờ Địa lý như thế nào để dẫn đến tiết học thành công. Mặt khác
do tác động cuộc sống và một số quan điểm sai lệch dẫn đến học sinh ít mặn mà
với các bộ môn khoa học xã hội trong đó có môn Địa lý.
Xuất phát từ thực tiễn trên, là giáo viên Địa lý có khá nhiều năm công tác tôi
luôn trăn trở là làm thế nào để học sinh có hứng thú trong giờ học địa lý để từ đó
nâng cao được chất lượng dạy và học của bộ môn. Vì vậy tôi quyết định chọn đề
1


tài “Phương pháp tạo hứng thú cho học sinh trong việc học tập Địa lý THPT

II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Khắc phục một số tồn tại trong quá trình dạy học.
- Đưa ra một số giải pháp tạo cho học sinh tính tích cực học tập, để từ đó nâng cao
hiệu quả dạy và học môn Địa lý THPT
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng: Học sinh THPT.
- Thời gian: Năm học 2018 - 2019
- Địa điểm: Trường THPT Phan Thúc Trực
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp lý thuyết: + Tham khảo một số tài liệu
+ Tham khảo sách báo
+ Tham khảo thông tin, thời sự.
- Phương pháp thực tiễn: + Nắm bắt tình hình thực tế về các biểu hiện ý thức, thái
độ, tinh thần học tập của học sinh THPT
+ Dự giờ đồng nghiệp trong trường, ngoài trường về môn Địa.
+ Điều tra, phỏng vấn học sinh, phụ huynh và các đồng nghiệp.
- Phương pháp thực nghiệm:
+ Chọn lớp thực nghiệm.
+ Chọn lớp đối chứng.

- Giáo viên tiến hành giảng dạy, kiểm tra, tổng hợp kết quả của học sinh để rút ra
số liệu về tính tích cực học tập của học sinh.
- Phối hợp cùng đồng nghiệp ngoài trường cùng áp dụng để kiểm tra tính khả thi
của đề tài.

2


B. NỘI DUNG
I. YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC TẠO HỨNG THÚ VÀ TÍNH TÍCH CỰC HỌC
TẬP CỦA HỌC SINH
Để tạo hứng thú và tính tích cực học tập của học sinh cần đảm bảo những
yêu cầu sau đây:
Một bài học địa lí đuợc thiết kế và tổ chức theo quan điểm lấy học sinh làm
trung tâm và định hướng hành động thì cần phải thỏa mãn các vấn đề cơ bản:
- Xác lập nội dung bài học: Xuất phát từ mục tiêu, dựa vào chương trình và
nội dung SGK xác định các đơn vị kiến thức cơ bản và cấu trúc bài học. Giáo viên
giỏi, có kinh nghiệm thường tổ chức cho học sinh trải nghiệm, tiếp thu kiến thức
theo các đơn vị kiến thức nhỏ để học sinh dễ tiếp thu.
- Lựa chọn phương pháp thích hợp: Sự đa dạng của phương pháp là tiêu chuẩn
của đổi mới. Việc xác định chính xác một tổ hợp các phương pháp đổi mới đòi hỏi
giáo viên phải xem xét một loạt các yếu tố như qui mô và chất lượng lớp học (số
lượng và chất lượng học sinh, nguồn thông tin, đặc biệt là SGK, thời gian dành cho
bài học).
- Xác lập thời gian thích đáng cho học tập: Dành càng nhiều thời gian cho
học tập của học sinh càng tốt. Học sinh sẽ có nhiều thời gian để học tập hơn nếu
giáo viên thay việc kiểm tra đầu giờ thành kiểm tra học sinh trong quá trình diễn ra
bài học. Đây cũng là một định hướng của việc đổi mới phương pháp kiểm tra đánh
giá. Đánh giá trong quá trình dạy học không chỉ là công cụ đánh giá có hiệu quả
mà còn là công cụ dạy học hiệu quả vì nó cho phép người học nhận biết được mức

độ tiến bộ của học sinh.
- Tìm kiếm công cụ dạy học thích hợp: Dạy học với các phương pháp hiện
đại đòi hỏi giáo viên phải có các phương tiện hỗ trợ kĩ thuật hiện đại (thiết bị, máy
móc trình chiếu), các công cụ để tổ chức các hoạt động hợp tác hoặc độc lập của
học sinh (ví dụ, bài tập nhận thức, tranh ảnh, mô hình...) và các công cụ để đánh
giá (câu hỏi, bài tập để đánh giá mức độ đạt được của các mục tiêu).
- Khởi động, tạo nhu cầu nhận thức và định hướng hành động: hãy bắt đầu
giờ học bằng một câu chuyện lí thú hay một biện pháp kích thích sự tò mò, hứng
thú của học sinh (động não, tranh châm biếm, trò chơi...), sau đó định vị các mục
tiêu học tập.
- Tổ chức các hoạt động hợp tác hay độc lập của học sinh: Sau khi học sinh
đã hiểu và nắm vững được các mục tiêu của bài học thì điều quan trọng là giao cho
các cá nhân hoặc nhóm học sinh các nhiệm vụ, bài tập hoặc vấn đề nhận thức để
học sinh làm việc độc lập hoặc làm việc hợp tác dưới dự hướng dẫn của giáo viên.
- Cập nhật kiến thức mới mang tính thời sự để luôn làm phong phú, đa dạng
nội dung bài học đồng thời tạo sự thu hút, kích thích học sinh tham gia học tập.
3


- Tổ chức cho học sinh tự đánh giá kết quả học tập: dành nhiều thời hơn nữa
để học sinh tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của mình trong thời gian cuối giờ
học. Công cụ để học sinh tự kiểm tra, đánh giá kết học tập là các câu hỏi, bài tập
tương ứng với các mục tiêu học tập và thang điểm đánh giá mức độ đạt được của
các câu trả lời.
II. PHƯƠNG PHÁP TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG VIỆC
HỌC TẬP MÔN ĐỊA LÝ THPT
1. DỰA VÀO NỘI DUNG BÀI HỌC
1.1. Xác định nội dung trọng tâm và kiến thức cơ bản của bài học:
Việc lựa chọn kiến thức cơ bản và xác định đúng trọng tâm của bài sẽ giúp
học sinh dễ dàng tiếp thu kiến thức.Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải chú trọng đến

việc làm này.
Trong thực tế có một số giáo viên rơi vào trường hợp ôm đồm kiến thức,
muốn “Trổ tài kiến thức”, hoặc ngược lại một số giáo viên lại rơi vào trường hợp
chỉ dạy theo cách tóm tắt sách giáo khoa, không truyền thụ đầy đủ kiến thức cơ
bản, cần thiết theo yêu cầu bài học. Hai trường hợp trên đều không phát huy được
tính tích cực học tập của học sinh, không tạo được hứng thú cho các em trong quá
trình học tập.
Chính vì vậy đòi hỏi giáo viên phải lựa chọn kiến thức cơ bản, xác định trọng
tâm của bài học phù hợp với đối tượng và trình độ học sinh thì khi đó mới kích
thích được sự yêu thích và tích cực học tập của học sinh.
Ví dụ:

Khi dạy bài 35 - Địa Lí 10 .
“Vai trò, các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển và phân bố ngành

dịch vụ”
Dịch vụ là một lĩnh vực kinh tế rộng lớn, đa dạng, và rất quan trọng trong nền
kinh tế đất nước. Học sinh có thể hiểu vấn đề ở nhiều góc độ khác nhau, thậm chí
có thể hiểu kiến thức một cách lan man. Để đạt được mục đích yêu cầu của bài
học, trên cơ sở cấu trúc bài học theo sách giáo khoa giáo viên cần xác định rõ kiến
thức trọng tâm của bài học là:
- Ngành dịch vụ nước ta có cơ cấu rất phức tạp và ngày càng đa dạng.
Ngành dịch vụ có vai trò to lớn trong việc đảm bảo sự phát triển của các ngành
kinh tế khác và trong hoạt động của đời sống xã hội và tạo việc làm cho nhân dân,
đóng góp vào thu nhập quốc dân.
- Các hoạt động dịch vụ phát triển khá nhanh và ngày càng có nhiều cơ hội
vươn lên ngang tầm với khu vực và quốc tế.
- Sự phân bố của ngành dịch vụ nước ta phụ thuộc vào sự phân bố dân cư và sự
phân bố các ngành kinh tế khác.
4



Sau khi xác định các kiến thức cơ bản, trọng tâm của bài học, giáo viên mới lựa
chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học và các phương tiện dạy học như: sơ
đồ về cơ cấu ngành dịch vụ nước ta, một số tranh ảnh, tài liệu về các hoạt động
dịch vụ hiện nay của nước ta và tổ chức các hoạt động học tập để HS nắm được
các kiến thức cơ bản của bài học.
Xác định nội dung trọng tâm của bài học là việc làm hết sức quan trọng, hiệu
quả giờ học ở mức độ nào là phụ thuộc vào việc làm này của giáo viên.
1.2. Cập nhật các kiến thức mới, mang tính thời sự
Môn Địa lý THPT với trọng tâm chương trình là kiến thức về kinh tế - xã hội
lẫn tự nhiên Mặc dù nhiều nội dung rất phong phú và đa dạng, đặc biệt kinh tế - xã
hội thì rất nhiều thông tin thay đổi từng ngày, từng giờ mà nếu không cập nhật sẽ
không làm rõ được nhiều nội dung, thậm chí làm cho bài học xa rời với thực tế
phát triển của đất nước, của nhiều sự vật và hiện tượng địa lý. Để đảm bảo cung
cấp kiến thức đồng thời tạo hứng thú và làm cho học sinh tích cực học tập thì đòi
hỏi giáo viên phải luôn cập nhật kiến thức từ tài liệu, sách báo, nguồn thông tin từ
mạng Internet…
Những kiến thức được cập nhật là những kiến thức mới mang tính thời sự, sẽ
tạo cho học sinh hứng thú học tập, gây được trí tưởng tượng, muốn tìm tòi và thích
khám phá của các em.
Để giảm bớt những căng thẳng mệt mỏi, nhàm chán trong quá trình tiếp thu
kiến thức, thì giáo viên cần phải cập nhật những thông tin mới mẻ, sinh động hơn
thì mới giúp học sinh giảm được những hạn chế trên. Giáo viên có thể cập nhật các
thông tin qua nhiều hình thức như: Sưu tầm những câu chuyện Địa lý, sưu tầm
tranh ảnh, các số liệu thống kê…để cung cấp cho học sinh. Từ đó sẽ tạo cho các
em thích thú, kích thích tính tò mò, ham hiểu biết và cũng làm giảm tính căng
thẳng, mệt mỏi trong quá trình tiếp thu kiến thức. Các em cũng thấy được rằng, học
Địa lý là học theo một hướng mở, không chỉ bó hẹp nội dung ở sách giáo khoa.
Các em có thể hiểu kiến thức bài học thông qua tìm tòi tài liệu, sách báo, mạng

Internet và khám phá ở những lĩnh vực khác.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 18- Địa lí 12 “Đô Thị Hóa”.
Nội dung III: Đô thị hóa
Sách giáo khoa chỉ cung cấp bảng số liệu “Số dân thành thị và tỷ lệ dân thành thị
nước ta thời kỳ 1985 – 2004”.
- Ở phần nội dung này học sinh phải nhận xét về số dân thành thị và tỷ lệ dân
thành thị của nước ta, và sự thay đổi tỷ lệ dân thành thị đã phản ánh quá trình đô
thị hóa của nước ta hiện nay. Đó là một vấn đề xã hội rộng lớn đang có sự thay đổi
lớn trên đất nước ta.
- Để học sinh nắm được: Quá trình đô thị hóa ở nước ta được thể hiện ở việc mở
rộng quy mô các thành phố và sự lan tỏa lối sống thành thị về các vùng nông thôn.
5


So với nhiều nước trên thế giới thì nước ta còn ở trình độ đô thị hóa còn thấp. Quá
trình đô thị hóa nước ta diễn ra khá nhanh.Việt Nam đang bước vào giai đoạn quan
trọng của quá trình đô thị hóa tương ứng với quá trình phát triển kinh tế hiện tại.
Tuy nhiên thông tin mà sách giáo khoa cung cấp chỉ mới là phần rất cơ bản, quá
tóm tắt, số liệu lại quá cũ (cách đây hơn 10 năm)…điều đó không thể làm toát lên
được những đặc điểm của vấn đề đô thị hóa nước ta hiện nay.
Để đáp ứng được mục tiêu bài học, giáo viên phải sưu tầm những số liệu và
thông tin mới mẻ, cập nhật những diễn biến về quá trình đô thị hóa nước ta trong
những năm gần đây để cung cấp cho học sinh thì các em mới hiểu được kiến thức
cơ bản và mới có hứng thú học nội dung này.
Giáo viên có thể cập nhật một số kiến thức:
“Trích báo cáo đánh giá quá trình Đô thị hóa của nước ta của Tổng cục thống
kê năm 2018
“Dự báo sẽ có 50% dân số Việt Nam sẽ sống tại đô thị vào những năm 40 của
thế kỷ XXI. Như vậy, chúng ta rất cần một đội ngũ cán bộ quản lý đô thị để đáp
ứng với sự phát triển này. Đây là chia sẻ của Kiến trúc sư Trần Ngọc Chính Chủ tịch Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam tại Lễ ra mắt Chương trình

đào tạo Thạc sĩ liên ngành Quản lý phát triển đô thị thuộc Đại học Quốc gia Hà
Nội sáng 14/6.
Thứ trưởng Bộ Xây dựng Lê Quang Hùng cho biết, tỷ lệ đô thị hóa trên cả nước
vào năm 2018 đạt 38% tăng 0,9% so với năm 2017, đạt xấp xỉ cận dưới của các
chỉ tiêu theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
Theo đó, cả nước hiện có 819 đô thị (tăng 6 đô thị so với năm 2017). Tỷ lệ phủ
kín quy hoạch chung xây dựng đô thị đạt 100%, quy hoạch phân khu đạt khoảng
78% (tăng 1% so với năm 2016), quy hoạch chi tiết đạt khoảng 39% (tăng 2% so
với năm 2017), quy hoạch xây dựng nông thôn đạt 100% (tăng 0,6% so với năm
2017).
- Với những kiến thức được cập nhật tôi in thành phiếu “thông tin” cung cấp
cho học sinh, yêu cầu các em đọc hoặc lưu giữ làm tài liệu học tập.
- Việc cập nhật những kiến thức mới, mang tính thời sự để cung cấp cho học sinh
có vai trò hết sức quan trọng. Không những khắc sâu kiến thức bài học mà còn đáp
ứng được mục tiêu dạy học theo hướng mở, khơi dậy trong học sinh niềm say mê,
hứng thú học tập.
1.3. Liên hệ kiến thức thực tế vào nội dung bài học:
Liên hệ kiến thức thực tế vào nội dung bài học là hết sức quan trọng. Môn Địa
lý nhìn chung trang bị kiến thức về kinh tê - xã hội khá lớn. Vì vậy giáo viên phải
liên hệ các kiến thức thực tế vào bài giảng để làm sáng tỏ hơn kiến thức cơ bản của
bài học, đồng thời làm phong phú, sinh động hơn cho bài giảng.
6


Tăng cường liên hệ thực tế để bổ sung kiến thức, minh họa cho bài giảng để tạo
hứng thú cho các em trong quá trình học tập. Đó cũng chính là chúng ta đang thực
hiện nguyên lý giáo dục: “Học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn”.
Ví dụ 1: Dạy bài 27 –Địa Lí 12 “ Vấn đề phát triển ngành công nghiệp trọng
điểm”
Mục 1. Ngành công nhiệp năng lượng.

- Ngành công nghiệp dầu khí:
Đây là ngành công nghiệp non trẻ nhất của nước ta: Giáo viên liên hệ thực tế về
ngành công nghiệp hóa dầu.
Nhà máy lọc dầu Dung Quất ở Quảng Ngãi, công suất 6 triệu tấn/năm.
(Cung cấp ảnh và thông tin của Nhà máy lọc dầu Dung Quất)
- Nghành công nghiệp điện:
+ Về thủy điện: Liên hệ nhà máy thủy điện Bản Vẽ ở Tương Dương – Nghệ
An. (Hình ảnh và thông tin)
+ Nhiệt điện: Liên hệ nhà máy nhiệt điện Vũng Áng – Hà Tĩnh. (Hình ảnh và
thông tin)
Ví dụ 2: Dạy bài 31- Địa lí 12 “ Vấn đề phát triển Thương mại và Du lịch”
Mục II: Du lịch
- Liên hệ các tài nguyên du lịch tự nhiên và du lịch nhân văn ở Nghệ An.
+ Tài nguyên du lịch tự nhiên: Cửa Lò, Bãi Lữ, Vườn quốc gia Pù Mát, thác
Khe Kèm, Hang Bua...
+ Tài nguyên du lịch nhân văn: Quê Bác, Cổng Thành, Quảng trường Hồ Chí
Minh, di tích Truông Bồn, đền thờ Vua Quang Trung – Nguyễn Huệ.v.v
Hình thức liên hệ: Cho học sinh xem các hình ảnh và giới thiệu một số thông
tin về các tài nguyên du lịch nêu trên.
2. LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
2.1. Sử dụng phương pháp thuyết trình theo quan điểm đổi mới
a. Đặc trưng của phương pháp
- Phương pháp thuyết trình cho đến nay vẫn còn là một trong những phương
pháp dạy học địa lí phổ biến nhất, được giáo viên sử dụng nhiều nhất trong quá trình
dạy học địa lí. Giáo viên thường dùng phương pháp này để truyền đạt thông báo nội
dung bài học mà học sinh cần lĩnh hội hoặc đi sâu vào chi tiết và giải thích nội dung
bài học. Khi sử dụng phương pháp này, thời gian nói của giáo viên là khá lớn (trung
bình chiếm 40- 60 % tổng số thời gian của giờ học) và nhiều giáo viên đã đưa thêm
những kiến thức bổ sung làm cho bài học nặng nề và quá tải đối với học sinh. …)
phương pháp này vẫn thường xuyên bị phê phán là phương pháp lấy giáo viên làm

7


trung tâm và được coi là ít có tác dụng trong việc phát huy tính chủ động, tích cực
và độc lập nhận thức của học sinh. Vậy để sử dụng PPDH thuyết trình theo hướng
tích cực hóa của học sinh một cách hiệu quả người giáo viên cần phải làm như thế
nào?
b. Sử dụng phương pháp thuyết trình theo hướng tích cực hóa hoạt động
nhận thức của HS:
Để thực hiện được mục tiêu này giáo viên cần phải :
- Kết hợp thuyết giảng với các phương pháp khác nhằm hình thành các khái
niệm, các mối liên hệ nhân quả và phát triển tư duy cho học sinh. Một trong những
xu hướng thường xảy ra khi giáo viên sử dụng phương pháp thuyết trình là liệt kê,
bổ sung thêm nhiều thông tin sự kiện cho những nhận định, nhận xét trong SGK.
Nếu chỉ thuyết trình tức là chỉ dùng lời nói thì rất dễ dẫn đến nhàm chán và làm
giảm nhanh chóng mức độ tập trung của học sinh. Vì vậy, việc kết hợp phương
pháp thuyết trình với phương pháp đặt câu hỏi, hướng dẫn học sinh tìm hiểu
nghiên cứu sách giáo khoa cũng như giao cho học sinh hoàn thành các bài tập nhận
thức là rất quan trọng. Sự kết hợp này phải nhằm tới mục tiêu quan trọng là hình
thành các khái niệm riêng, các mối liên hệ nhân quả cũng như để phát triển tư duy
cho học sinh trong quá trình dạy học địa lí ở phổ thông.
Để đạt những mục tiêu cơ bản nêu trên, giáo viên cần thực hiện tốt các biện
pháp cơ bản sau đây:
+ Xác định và biểu đạt chính xác các kiến thức khái quát: Các kiến thức khái
quát mà học sinh cần phải nắm vững trong chương trình địa lí là những thuộc tính
bản chất của các khái niệm riêng hoặc các dấu hiệu bản chất biểu thị các mối liên
hệ nhân quả. Đối với nhiều học sinh việc lựa chọn kiến thức để biểu đạt các đặc
điểm khái quát không phải lúc nào cũng là việc dễ dàng, đặc biệt đối với những bài
mà SGK không thể hiện chúng dưới những tiêu mục được in đậm mà lẫn trong
nhiều thông tin với nhiều cấp độ khái quát khác nhau.

+ Chứng minh - cụ thể hoá: Sau khi đã nêu lên được các đặc điểm khái quát
thì việc chứng minh, cụ thể hoá các đặc điểm đã nêu được coi là biện pháp hết sức
quan trọng và cần thiết. Cụ thể hóa có tác dụng khắc sâu các đặc điểm khái quát và
giúp cho học sinh nắm vững chúng. Giáo viên có thể tự mình cụ thể hoá các đặc
điểm khái quát. Tuy nhiên, theo tinh thần đổi mới thì tôt hơn cả là giáo viên đề
nghị và hướng dẫn học sinh nghiên cứu sách giáo khoa để chứng minh và cụ thể
hoá các đặc điểm khái quát.
+ Giải thích một cách rõ ràng, chính xác: Giải thích là một kĩ năng rất quan
trọng mà giáo viên cần thực hiện khi thuyết trình, đặc biệt khi học sinh cảm thấy
có những khó khăn khi tìm hiểu một khái niệm hay một luận điểm lí thuyết nào đó,
nếu giáo viên biết dựa vào những kiến thức, kĩ năng sẵn có của học sinh để tiến
hành giải thích thì giúp các em hiểu biết kiến thức một cách dễ dàng nhất. Trong
chương trình địa lý phổ thông, giáo viên nên sử dụng thường xuyên kĩ thuật này
8


nhằm giúp cho học sinh thực sự hiểu rõ, nắm vững và nhớ lâu các đặc điểm khái
quát và các dấu hiệu đặc trưng, bản chất của các khái niệm riêng và thiết lập các
môi liên hệ nhân quả.
Khi dùng phương pháp dạy học này cần chú ý những điểm sau :
- Đừng nói quá nhanh và quá nhiều: Trong một giờ học giáo viên chỉ nên
dành ra 30 % thời gian giờ học để nói, tối đa là 40 hoặc 45%. Dành 60% thời gian
giờ học cho giáo viên nói là quá nhiều.
- Không nên đứng một chỗ khi thuyết giảng : Người giáo viên giỏi khi giảng
bài rất hiếm khi ngồi sau bàn hoặc ghế mà thường đứng gần lớp trừ khi họ viết
bảng. Họ thường đi vòng quanh lớp, đến từng nhóm một và mặt không ngừng quan
sát học sinh. Giáo viên thiếu kinh nghiệm thì thường lúc nào cũng lo lắng và
thường trình bày đều đều cho đến khi lấy được tự tin.
- Nên thay đổi cường độ, âm lượng giọng nói : giáo viên có kinh nghiệm
thường thay đổi cường độ và âm lượng của giọng nói ít nhất ba lần khi trình bày

cũng như khi giảng bài.
- Tăng cường sử dụng ngôn ngữ cử chỉ: Cũng cần phải sử dụng cả ngôn ngữ
cử chỉ. Thật thú vị khi quan sát những giáo viên thực sự giỏi giảng bài, đặc biệt là
cách sử dụng ngôn ngữ cử chỉ của họ. Với phong cách này học sinh cảm thấy họ tự
nhiên và dễ gần hơn. Nếu không có tiếp xúc bằng ánh mắt với học trò lớp học dễ
cảm thấy bị bỏ quên còn cô giáo thì lo thuyết trình
Ví dụ, sau khi giáo viên đã giúp giúp học sinh xác định và biểu đạt chính xác
các đặc điểm khái quát thứ nhât trong “Vấn đề phát triển ngành lâm nghiệp và
thủy sản”- Địa lí 12, giáo viên nên đề nghị học sinh dựa vào SGK chứng minh
đặc điểm khái quát này bằng các luận điểm hay chứng cứ có tính khái quát và bằng
số liệu cụ thể.
- Ví dụ minh họa về chứng minh và cụ thể hóa một đặc điểm khái quát:
Biểu đạt
đặc điểm khái quát

Sản xuất thủy sản
phát triển mạnh
mẽ, xuất khẩu thủy
sản tăng vượt bậc

Chứng minh-cụ thể hóa đặc điểm khái quát
Luận điểm chứng
minh

Minh chứng cụ thể

- Ngành khai thác có - Sản lượng ngành khai thác :
sản lượng tăng khá 1990 : 728,5 nghìn tấn
nhanh.
2005 : 1987,6 nghìn tấn

- Nuôi trồng thủy sản
15 năm tăng 1274,1 nghìn tấn
gần đây tăng nhanh.
- Xuất khẩu thủy sản - Sản lượng nuôi trồng :
đã có bước phát triển 1990 : 162,1 nghìn tấn
vượt bậc
2005 : 1478,8 nghìn tấn
9


15 năm tăng 982,7nghìn tấn
- Giá trị xuất khẩu 2002 đạt 2014
triệu USD (đứng thứ 3 trong các
mặt hàng xuất khẩu của nước ta)
Như vậy sẽ khác hẳn với cách thuyết trình thông thường học sinh chỉ đọc
SGK đưa ra kết luận Sản xuất thủy sản phát triển mạnh mẽ, xuất khẩu thủy sản
tăng vượt bậc; sau đó giáo viên lại thuyết trình số liệu chứng minh, hiệu quả dạy
học sẽ cao hơn.
2.2. Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề
a. Đặc trưng của phương pháp
Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề hay dạy học dựa trên vấn đề, hoặc dạy
học đặt và giải quyết vấn đề là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra trước học
sinh một vấn đề nhận thức, chuyển học sinh vào tình huống có vấn đề, sau đó giáo
viên phối hợp cùng học sinh (hoặc hướng dẫn, điều khiển học sinh) giải quyết vấn
đề, đi đến những kết luận cần thiết của nội dung học tập. Đây là phương pháp được
xem xét nhiều về mặt tính chất hoạt động của học sinh và của giáo viên.
b. Sử dụng phương pháp nêu và giải quyết vấn đề theo hướng tích cực
hóa hoạt động nhận thức của học sinh
Trình tự tiến hành: Đặt vấn đề và chuyển học sinh vào tình huống có vấn đề.
Đặt vấn đề là đặt ra trước học sinh một câu hỏi. Tuy nhiên, đó không phải là câu

hỏi thông thường như trong đàm thoại, mà phải là câu hỏi có vấn đề. Nghĩa là, câu
hỏi phải chứa đựng:Một mâu thuẫn giữa kiến thức cũ và kiến thức mới, giữa cái đã
biết và cái chưa biết cần phải khám phá, nhận thức,giữa vốn kiến thức khoa học đã
có và vốn kiến thức thực tiễn đa dạng
Ví dụ:
- Một vấn đề
+ Vì sao, ở nước ta hiện nay, tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên giảm, nhưng dân số vẫn
tăng nhanh?
+ Thường ở nơi đông dân, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn trong phát triển, thế
nhưng tại sao đồng bằng sông Hồng là vùng đông dân, nhưng vẫn là vùng có trình
độ phát triển cao so với trung bình của cả nước?”
- Một sự lựa chọn:
+ Kiên Giang là tỉnh đứng đầu cả nước về sản lượng khai thác hải sản là do có
nhiều tàu đánh cá nhất, do nằm gần các ngư trường giàu có nhất, do có khí hậu
thuận lợi để khai thác quanh năm, do tất cả các nguyên nhân trên. Trong số đó,
nguyên nhân nào đúng nhất?

10


- Một nghịch lí, một sự kiện bất ngờ, một điều gì không bình thường so với
cách hiểu cũ của học sinh và đôi khi ban đầu thoạt nghe, tưởng chừng như vô lí
làm học sinh ngạc nhiên.
+ Ví dụ: học sinh đã biết thiên tai gây ra nhiều hậu quả xấu cho con người, nhưng
tại sao ở Đồng bằng sông Cửu Long phải "sống chung với lũ?", ở Duyên hải miền
Trung lại chủ trương "sống chung với thiên tai?"
- Tình huống có vấn đề là một trạng thái tâm lý: trong đó học sinh tiếp nhận
mâu thuẫn khách quan (một khó khăn gặp phải trên bước đường nhận thức) như là
mâu thuẫn chủ quan (mâu thuẫn nội tại của bản thân) bị day dứt bởi chính mâu
thuẫn đó và có ham muốn giải quyết.

- Để vấn đề trở thành tình huống đối với học sinh, câu hỏi đặt vấn đề phải lưu ý
các điểm sau:
+ Trong thành phần câu hỏi, phải có phần học sinh đã biết, phần kiến thức cũ và
phần học sinh chưa biết, phần kiến thức mới. Hai phần này phải có mối quan hệ
với nhau, trong đó phần học sinh chưa biết là phần chính của câu hỏi, học sinh phải
có nhiệm vụ tìm tòi, khám phá.
+ Ví dụ: Thường những nơi ở gần biển thì khí hậu điều hoà, có mưa nhiều.
Nhưng tại sao Phan Rang ở sát biển mà lượng mưa rất ít?
- Nội dung câu hỏi phải thật sự kích thích, gây hứng thú nhận thức đối với học
sinh. Trong rất nhiều trường hợp, câu hỏi gắn với các vấn đề thực tế gần gũi,
thường lôi cuốn hứng thú học sinh nhiều hơn.
- Câu hỏi phải vừa sức học sinh. Các em có thể giải quyết được, hoặc hiểu được
cách giải quyết dựa vào việc huy động vốn tri thức sẵn có của mình bằng hoạt
động tư duy.
- Trong câu hỏi nên hàm chứa phương hướng giải quyết vấn đề, tạo điều kiện
làm xuất hiện giả thuyết và tạo điều kiện tìm ra con đường giải quyết đúng.
2.3. Sử dụng một số kỹ thuật day học
a. Kỹ thuật động não
Là kỹ thuật nhằm huy động những ý tưởng mới, độc đáo về một chủ đề của
các thành viên trong nhóm. Các thành viên được cổ vũ tham gia một cách tích cực,
không hạn chế các ý tưởng.
- Nguyên tắc:
+ Không đánh giá và phê phán trong quá trình thu thập ý tưởng các của
thành viên
+ Liên hệ với những ý tưởng đã trình bày
+ Khuyến khích số lượng các ý tưởng.
+ Cho phép sự tưởng tượng và liên tưởng
11



- Các bước tiến hành:
+ Người điều phối dẫn nhập vào chủ đề và xác định rõ một vấn đề.
+ Các thành viên đưa ra những ý kiến của mình, trong khi thu thập ý kiến,
không đánh giá nhận xét, mục đích là huy động nhiều ý kiến tiếp nối nhau.
+ Kết thúc việc đưa ra ý kiến.
+ Đánh giá (lựa chọn sơ bộ các suy nghĩ, chẳng hạn theo khả năng ứng dụng
+ Đánh giá những ý kiến đã lựa chọn và rút ra kết luận hành động.
b. Kỹ thuật X-Y-Z
Là một kĩ thuật nhằm phát huy tính tích cực trong thảo luận nhóm. X là số người
trong nhóm, Y là số ý kiến mỗi người cần đưa ra, Z là phút dành cho mỗi người.
Trong giảng dạy Địa lí kĩ thuật này thường sử dụng để giải quyết các vấn đề liên
quan đề giải thích, phân tích hoặc đưa ra các ý kiến của mình về một vấn đề địa lí
tự nhiên hay kinh tế-xã hội,...
Ví dụ: Kĩ thuật X-Y-Z thực hiện như sau: Khi dạy Chủ đề Địa lí dân cư
- Mỗi nhóm 6 người, mỗi người viết 2 ý kiến về giải pháp giải quyết việc làm
ở nước ta trên một tờ giấy trong vòng 2 phút và tiếp tục chuyển cho người bên
cạnh, tiếp tục như vậy cho đến khi tất cả mọi người đều viết ý kiến của mình, có
thể lặp lại vòng khác.
- Con số X-Y-Z có thể thay đổi. Sau khi thu thập ý kiến thì tiến hành thảo
luận, đánh giá các ý kiến.
- Trong quá trình thực hiện kĩ thuật này, giáo viên cần chú ý đến thời gian
thực hiện, các ý kiến trùng lặp nhau.
c. Kỹ thuật tia chớp
Kĩ thuật tia chớp là một kĩ thuật huy động sự tham gia của các thành viên đối
với một câu hỏi nào đó, hoặc nhằm thu thông tin phản hồi để cải thiện tình trạng
giao tiếp và không khí học tập trong lớp học, thông qua việc các thành viên lần
lượt nêu ngắn gọn và nhanh chóng (nhanh như chớp) ý kiến của mình về câu hỏi
hoặc tình trạng vấn đề.
Quy tắc thực hiện:
- Có thể áp dụng bất cứ thời điểm nào khi các thành viên thấy cần thiết và đề nghị.

- Lần lượt từng người nói suy nghĩ của mình về một câu hỏi đã thoả thuận.
- Mỗi người chỉ nói ngắn gọn 1-2 câu ý kiến của mình.
- Chỉ thảo luận khi tất cả đã nói xong ý kiến.
Kĩ thuật này được sử dụng khá phổ biến trong quá trình dạy học.
Ví dụ: Khi dạy bài 42- Đia Lí 12 “Vấn đè phát triển kinh tế,an ninh quốc
phòng ở Biển Đông và các đảo,quần đảo”
12


Muc 3: Phát triển tổng hợp kinh tế biển
Mục đích: Nhằm huy động sự tham gia của các thành viên đối với một câu hỏi
và nhằm thu thông tin phản hồi để cải thiện không khí học tập trong lớp học, thông
qua việc các thành viên lần lượt nêu ngắn gọn và nhanh chóng (nhanh như chớp) ý
kiến của mình về câu hỏi giáo viên đưa ra.
Các bước tiến hành:
Sau khi học sinh đã nắm được những đặc điểm chung của Biển, đảo Việt Nam,
giáo viên chuyển sang:
Mục 3. Phát triển tổng hợp kinh tế biển
Giáo viên áp dụng kỹ thuật tia chớp để lấy ý kiến nhanh của học sinh về đặc
điểm phát triển của các ngành kinh tế biển. Áp dụng như sau:
Bước 1: Giáo viên đưa ra câu hỏi “ Vùng biển Việt Nam có những tiềm năng
nào mang lại giá trị kinh tế lớn? ”
Bước 2: Giáo viên tổ chức cho học sinh suy nghĩ nhanh và nêu ý kiến ngắn gọn.
Mỗi học sinh chỉ nêu một câu trả lời. Giáo viên ghi nhanh lên bảng.
Bước 3: Khi đã hết ý kiến, Giáo viên cho cả lớp thảo luận để khẳng định các ý
kiến đúng về tiềm năng vùng biển nước ta:
- Dầu mỏ, Khí đốt
- Nguồn hải sản phong phú
- Nguồn muối vô tận.
- Cát trắng, ti tan

- Bãi biển đẹp.
- Đảo ven bờ
- Các vũng, vịnh biển.
- Có vị trí nằm trên đường giao thông hàng hải quốc tế....
Giáo viên đặt câu hỏi để chốt kiến thức cho học sinh: "Các tiềm năng đó có
giá trị đối với các ngành kinh tế biển nào?"
Học sinh trả lời. Giáo viên chuẩn kiến thức: Các tiềm năng đó có giá trị đối
với các ngành: - Khai thác, nuôi trồng và chế biến hải sản
- Du lịch biển – đảo
- Khai thác, chế biến khoáng sản biển.
- Phát triển giao thông vận tải biên
d. Kỹ thuật “3 lần 3”

13


Kĩ thuật “3 lần 3“ là một kĩ thuật lấy thông tin phản hồi nhằm huy động sự
tham gia tích cực của học sinh.
Cách làm như sau:
- Học sinh được yêu cầu cho ý kiến phản hồi về một vấn đề nào đó (nội dung
buổi thảo luận, phương pháp tiến hành thảo luận...).
- Mỗi người cần viết ra: 3 điều tốt; 3 điều chưa tốt; 3 đề nghị cải tiến.
- Sau khi thu thập ý kiến thì xử lý và thảo luận về các ý kiến phản hồi.
Trong giảng dạy Địa lí kĩ thuật này thường được sử dụng đối với các vấn đề
nêu ưu điểm, nhược điểm hoặc đánh giá thuận lợi khó khăn của một nguồn lực nào
đó trong phát triển kinh tế -xã hội.
Ví dụ: Mỗi học sinh nêu lên 3 đặc điểm tốt của lao động nước ta, 3 hạn chế
của nguồn lao động và 3 giải pháp để sử dụng nguồn lao động hợp lí.
e. Kỹ thuật phòng tranh.
Là kỹ thuật giúp thu thập, phát triển ý tưởng về một chủ đề, một nội dung

quan tâm của một nhóm người.
- Tất cả các thành viên phác hoạ những ý nghĩ đầu tiên về cách giải quyết vấn
đề trên một tờ bìa, rồi dính lên bảng hay lên tường như một triển lãm tranh.
Trong một vòng triển lãm mỗi thành viên trình bày suy nghĩ của mình về cách giải
quyết.
- Giai đoạn thứ hai: của việc tìm lời giải cá nhân, các phương án giải quyết tiếp
tục được tìm kiếm, đề xuất.
- Giai đoạn đánh giá: tất cả các phương án giải quyết được tập hợp lại và lựa
chọn đưa ra phương án tối ưu.
g. Kỹ thuật “bể cá”
Là một kỹ thuật dùng cho thảo luận nhóm, trong đó một nhóm học sinh ngồi
giữa lớp và thảo luận với nhau, còn những học sinh khác trong lớp ngồi xung
quanh ở vòng ngoài theo dõi cuộc thảo luận đó và sau khi kết thúc cuộc thảo luận
thì đưa ra những nhận xét về cách ứng xử của những học sinh thảo luận.
Trong nhóm thảo luận có thể có một vị trí không có người ngồi. Học sinh
tham gia nhóm quan sát có thể ngồi vào chỗ đó và đóng góp ý kiến vào cuộc thảo
luận, ví dụ đưa ra một câu hỏi đối với nhóm thảo luận hoặc phát biểu ý kiến khi
cuộc thảo luận bị chững lại trong nhóm. Cách luyện tập này được gọi là phương
pháp thảo luận “bể cá”, vì những người ngồi vòng ngoài có thể quan sát những
người thảo luận, tương tự như xem những con cá trong một bể cá cảnh. Trong quá
trình thảo luận, những người quan sát và những người thảo luận sẽ thay đổi vai trò
với nhau.
14


Bảng câu hỏi cho những người quan sát
+ Người nói có nhìn vào những người đang nói với mình không?
+ Họ có nói một cách dễ hiểu không?
+ Họ có để những người khác nói hay không?
+ Họ có đưa ra được những luận điểm đáng thuyết phục hay không?

+ Họ có đề cập đến luận điểm của người nói trước mình không?
+ Họ có lệch hướng khỏi đề tài hay không?
+ Họ có tôn trọng những quan điểm khác hay không?
Trong số rất nhiều các kỹ thuật dạy học được nêu trên thì có những kỹ thuật
dạy học tôi đã áp dụng phổ biến trong quá trình giảng dạy vì nó phù hợp với các
điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện dạy học, trình độ học sinh như Kỹ thuật
động não, Kĩ thuật X-Y-Z , Kĩ thuật “tia chớp”, Kĩ thuật “3 lần 3”..
3. LỰA CHỌN HÌNH THỨC DẠY HỌC VÀ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
THÍCH HỢP.
3.1. LỰA CHỌN HÌNH THỨC DẠY HỌC
a. Hình thức dạy học theo nhóm
Dạy học theo nhóm có nhiều cách tổ chức khác nhau nhưng đối với cá nhân
tôi, tôi thường áp dụng cho những bài học có nội dung kiến thức dài, khó. Phương
pháp này giúp học sinh mở rộng, đào sâu suy nghĩ, dùng lý lẽ của mình để phân
tích vấn đề, phát triển được tư duy học sinh. Đồng thời giúp học sinh rèn luyện
được các kĩ năng nói, giao tiếp, tranh luận trước tập thể.
Khi học sinh thực hiện thảo luận nhóm có thể thay đổi quan điểm của từng cá
nhân nhờ cách lập luận chặt chẽ, lôgic, khoa học của mình. Từ đó các em hiểu
nhau, tôn trọng nhau hơn trong học tập và kích thích hứng thú trong học tập, và
mỗi cá nhân đều xác định được cho mình trách nhiệm học tập.
Hình thức dạy học theo nhóm đem lại hiệu quả giảng dạy cao, giáo viên đánh
giá được học sinh đầy đủ các mặt: kiến thức, kĩ năng và tinh thần thái độ học tập đối
với môn học.
- Giáo viên cần tiến hành tổ chức thảo luận theo các bước sau:
+ Chuẩn bị: Giáo viên chọn bài học, chọn nội dung cần thảo luận.
+ Phân nhóm thảo luận, cho học sinh nghiên cứu trước tài liệu.
+ Thông báo cho học sinh chủ đề thảo luận, nội dung của từng nhóm.
+ Phát phiếu học tập hoặc nêu quy trình thảo luận cho các nhóm.
+ Cung cấp thêm cho học sinh một số thông tin (ngoài sách giáo khoa) có liên
quan đến nội dung cần thảo luận như: tranh ảnh, đoạn phim hay tư liệu sưu tầm..

+ Học sinh tiến hành thảo luận theo từng nhóm: các cá nhân trong nhóm trình bày
ý kiến, thư ký ghi tổng hợp.
15


Bước này giáo viên quan sát, theo dõi, gợi ý, nhắc nhở để các em thực hiện có
hiệu quả. Giáo viên cũng có thể đưa ra các câu hỏi hay cử chỉ gần gũi làm cho
học sinh tự tin hơn, tạo không khí sôi nổi cho phần thảo luận.
+ Kết thúc thảo luận: Học sinh báo cáo kết quả của nhóm (cử một đại diện)
Các cá nhân hoặc nhóm khác bổ sung, nhận xét kết quả của nhóm. Giáo viên uốn
nắn, nhận xét đánh giá tinh thần và kết quả của từng nhóm, và chuẩn kiến thức sau
thảo luận của học sinh.
- Một số lưu ý khi vận dụng hình thức dạy học theo nhóm:
+ Lưu ý về mặt thời gian cho phép thảo luận: cần phải đảm bảo mục tiêu nhưng
không được vi phạm về thời gian để không làm ảnh hưởng đến cả tiết học.
+ Phần kết quả ghi chép của các nhóm giáo viên nên cho các em ghi vào phiếu học
tập cỡ lớn, ghi bằng bút dạ cỡ chữ lớn, học sinh gắn lên bảng và trình bày, cả lớp
đều nhìn rõ phiếu của các nhóm. Học sinh trình bày xong giáo viên nên lưu phiếu
học tập đó trên bảng để thành một hệ thống nội dung kiến thức của bài học.
+ Giáo viên cần chú ý quan tâm động viên khích lệ những học sinh yếu kém để các
em không tự ti, hoặc không làm việc (đây là một việc làm mà nhiều GV thường bỏ
qua). Để có sự thành công trong phương pháp dạy học này thì đây là điều mà GV
cần quan tâm nhất.
Ví dụ 1: Dạy bài 31- Địa lí 12 “ Vấn đề phát triển Thương mại và Du lịch”
Mục I: Thương mại.
Hoạt động nhóm : Chia lớp 4 nhóm
Giáo viên sử dụng Công cụ CNTT “Câu chuyện hình ảnh” xây dựng thành đoạn
phim: Giới thiệu các hình ảnh về các hoạt động Nội thương, Ngoại thương, có
lồng tiếng thuyết minh của giáo viên.
Yêu cầu học sinh nghe, quan sát kỹ để phát hiện kiến thức của nội dung phần Nội

thương và Ngoại thương để điền vào phiếu học tập của nhóm.
Nhóm 1-3: Hoàn thành phiếu học tập số 1
Nhóm 2-4: Hoàn thành phiếu học tập số 2
Học sinh thảo luận xong - Đại diện các nhóm trình bày kết quả - Giáo viên ghi các
nội dung chính của các nhóm lên bảng như sau:
1. Nội thương:
*Tình hình phát triển:
- Hàng hóa phong phú, đa dạng và tự do lưu thông.
- Cả nước là một thị trường thống nhất.
- Chợ là hình thức phổ biến.
16


- Thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia, nhất là kinh tế tư nhân..
*Phân bố:
Hoạt động thương mại khác nhau giữa các vùng trong cả nước:
- Đông Nam Bộ, Đồng bằng Sông Cửu Long, Đồng bằng Sông Hồng tập trung
hoạt động thương mại cao.
- Tây Nguyên các hoạt động thương mại kém phát triển.
- Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh là 2 trung tâm thương mại lớn và đa dạng nhất cả
nước.
2. Ngọai thương:
*Vai trò :
- Là hoạt động kinh tế đối ngoại quan trọng nhất nước ta.
- Giải quyết đầu ra cho các sản phẩm.
- Đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất.
- Cải thiện đời sống nhân dân.
*Các mặt hàng xuất khẩu:
- Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản: than, dầu thô..
- Hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp: dệt, may, đồ da.

- Hàng nông, lâm, thủy sản: gạo, cà phê, cao su, cá, tôm...
*Các mặt hàng nhập khẩu:
- Tư liệu, máy móc, thiết bi.
- Nguyên, nhiên liệu.
- Hàng tiêu dùng...
Ví dụ 2: Khi dạy bài 42- Đia Lí 12 “Vấn đè phát triển kinh tế,an ninh quốc
phòng ở Biển Đông và các đảo,quần đảo”
Mục 3: Phát triển tổng hợp kinh tế biển.
1. Khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản.
2. Du lịch biển - đảo.
Tôi tổ chức học sinh hoạt động nhóm: Chia lớp 4 nhóm.
Mỗi ngành kinh tế biển học sin thảo luận theo các nội dung sau:
- Tiềm năng phát triển.
- Tình hình phát triển.
- Những hạn chế.
17


- Phương hướng phát triển của ngành
Nhóm 1 - 2: Thảo luận ngành Khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản.
Nhóm 3 - 4: Thảo luận ngành Du lịch biển - đảo.
Học sinh thảo luận xong - Đại diện nhóm báo cáo kết quả - Giáo viên chốt kiến
thức.
Đây là bài học dài, lượng kiến thức cần cung cấp nhiều, nếu vận dụng không hợp
lý các phương pháp dạy học thì dễ dẫn đến tình trạng dạy thiếu thời gian, học sinh
chán học. Tuy nhiên nhờ vận dụng phương pháp thảo luận nhóm đã giúp tôi hoàn
thành bài dạy theo đúng với yêu cầu đặt ra. Hơn thế nữa không khí học tập sôi nổi,
học sinh học tập tích cực, tất cả học sinh hiểu bài và nắm chắc kiến thức cơ bản đó
chính là thành công của giáo viên khi dạy bài này.
Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp tích cực nhất trong đổi mới

phương pháp dạy học. Giúp học sinh chủ động học tập, làm chủ tri thức. Giáo viên
chỉ đóng vai trò tổ chức thực hiện. Từ đó đã khích lệ được niềm say mê, hứng thú
và tích cực học tập của học sinh.
b. Hình thức dạy học theo Dự án
Dạy học theo dự án là một hình thức dạy học, trong đó học sinh thực hiện một
nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với thực tiễn, kết hợp lí thuyết với thực hành, tự
lực lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá kết quả.
Hình thức làm việc chủ yếu là theo nhóm,hình thức dạy học theo dự án có thể sử
dụng được và sử dụng có hiệu quả trong giảng dạy và học tập Địa lí.
Hình thức dạy học này sẽ tạo điều kiện cho học sinh gắn với thực tiễn, kết hợp lí
thuyết với thực hành và vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết một số vấn đề
trong thực tiễn; từ đó góp phần hình thành và phát triển các năng lực của học sinh
như năng lực hoạt động, tham gia, hoà nhập với cộng đồng và biết vận dụng kiến
thức, kĩ năng của môn Địa lí để giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
Các bước tiến hành:
- Bước 1: Xác định chủ đề
- Bước2: Các nhóm xây dựng kế hoạch làm việc
- Bước 3: Thực hiện
- Bước4: Giới thiệu sản phẩm trước lớp
- Bước 5: Đánh giá
Lưu ý khi ứng dụng hình thức dạy học theo dự án:
giáo viên cần chú ý đến trình độ học sinh, khả năng và điều kiện thu nhập thông
tin, xử lí thông tin của học sinh, đặc điểm cư trú và đặc điểm kinh tế - xã hội của

18


địa phương để thực hiện. Dạy học theo dự án phù hợp hơn cả là sử dụng đối với
học sinh chuyên, học sinh ở vùng đồng bằng với các điều kiện học tập tốt hơn.
c. Hình thức tổ chức Trò chơi Địa lý:

Trò chơi Địa lý là hoạt động có thể tổ chức thông qua hình thức ngoại khoá.
Tuy nhiên chương trình Địa lý THPT ngoài các giờ học nội khoá thì việc tổ chức
các hoạt động ngoại khoá không phải dễ dàng.
Lý do: - Thứ nhất: chương trình không có tiết ngoại khoá.
- Thứ hai: Học sinh phải dành thời gian để học tập các môn khác nhiều
hơn, nhất là lớp 12 là lớp cuối cấp, học sinh phải tham gia thi THPT quốc gia để tổ
chức một chương trình ngoại khoá sẽ rất khó thực hiện.
Sau đây tôi xin giới thiệu một số hình thức trò chơi được tôi sử dụng ở Địa lí
11
1. Sử dụng trò chơi ô chữ trong bài. “Hợp chủng quốc Hoa Kì”
- Mục tiêu. Giúp học sinh nắm được các đặc điểm dân cư của Hoa Kì.
- Đồng thời hình thành cho học sinh kỹ năng xử lí thông tin một cách nhanh
chóng có hiệu quả.
- Địa điểm: Phòng học.
- Thời gian: 5 phút
- Số lượng: người tham gia cả lớp.
- Chuẩn bị: các ô chữ sắp xếp theo hàng dọc và hàng ngang.
- Diến biến:
Giáo viên vẽ các ô trống lên giấy A0 hoặc là trên máy tính sau đó đặt câu hỏi gắn
với ô hàng ngang. Học sinh lần lượt trả lời các câu hỏi, trong quá trình trả lời nếu
học sinh tìm ra ô chữ hàng dọc thì có thể trả lời, số điểm sẽ tăng cao nếu học sinh
trả lời chính xác.
+ Các câu hỏi:
. Ô hàng ngang thứ nhất gồm có 6 chữ cái: Nước có luồng di cư đến nhiều, trong
đó châu lục nào đến nhiều nhất?
. Hàng ngang thứ 2 có 6 chữ cái tỉ lệ người già trong xã hội ngày càng nhiều đó là
xu hướng gì của dân cư?
. Hàng ngang thứ 3 có 6 chữ cái: dân cư chủ yếu nhập cư đến từ nhiều châu lục
nên nền văn hóa có đặc điểm gì?
. Hàng ngang thứ 4 có 10 chữ cái: Một đặc điểm của nguồn lao động mà do sự di

cư mang lại?

19


. Hàng ngang thứ 5 có 8 chữ cái: Chỉ có 3 triệu người bị phân biệt đối xử nặng nề
và đang có nguy cơ tuyệt chủng đó là tộc người nào?
Sau khi học sinh trả lời câu hỏi sẽ xuất hiện ô chữ hàng dọc chạy ra trên máy tính,
hoặc giáo viên có thể làm bằng màu chữ khác trên giấy A0.

G

A

I

N

À

H

C

H

Â

H


O

Á

Đ

A

D

K

Ĩ

Đ

I

Ê

U

Â

U



N


G

T H U

N

Â

T C A

O

G

2. Trò chơi kẻ dấu tên trong bài “Nhật Bản”. Phần tự nhiên dân cư và tình hình
phát triển kinh tế.
- Mục đích: Giúp học sinh nắm được các loại gió chính và đặc điểm cơ bản của
khí hậu Nhật Bản.
- Thời gian: 5 phút
- Số người tham gia cả lớp.
- Chuẩn bị. Mỗi người tham gia chơi có một tờ giấy và một cây bút. Người tổ
chức có bản ghi điểm của những kẻ dấu tên.
- Diến biến:
+ Người chơi kẻ các ô chữ hình cữ nhật và đánh số thứ tự các ô từ số 1 đến số 6.
+ Người tổ chức lần lượt đọc các câu hỏi với các kẻ tên.
+ Cứ như vậy cho đến lúc trò chơi kết thúc. Đội thắng cuộc sẽ là đội trả lời được
nhiều câu hỏi chính xác nhất.
* Các câu hỏi lần lượt như sau:
1. Loại gió thổi chủ yếu vào mùa đông ở Nhật Bản là gió gì?
2. Mùa hạ là mùa hoạt động chính của loại gió này ở Nhật?

3. Phía Bắc của Nhật Bản có khí hậu ôn đới nen có mùa đông như thế nào?
4. Do nằm trong ngay vành đainúi lửa TBD nên Nhật thường xuyên có thiên tai
này xảy ra?
20


5. Đảo có diện tích lớn nhất của Nhật?
6. Nhật là quốc gia hầu như rất nghèo loại tài nguyên này?
Sau khi học sinh trả lời xong sẽ có kết quả như sau.

1

2

3

GIÓ MÙA
ĐÔNG

GIÓ MÙA HẠ

MÙA ĐÔNG
LẠNH KÉO DÀI

4

5

ĐỘNG ĐẤT


HÔN SU

3. Trò chơi ai nhanh nhất
nhiên.

6
KHOÁNG SẢN

trong bài “Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” Phần tự

- Mục tiêu: Giúp học sinh nắm chắc những vấn đề cơ bản của tự nhiên Trung
Quốc, hình thành cho học sinh kĩ năng xử lí thông tin nhanh chóng, chính xác.
-Địa điểm: Lớp học
- Thời gian: 7 phút
- Số người tham gia 4 tổ.
- Chuẩn bị: Hệ thống câu hỏi, đáp án và các bảng chữ cái.
- Tiến hành chơi:
+ Giáo chia lớp thành 4 tổ, một tổ cử các đại diện lên trả lời các câu hỏi.
+ Người tổ chức lần lượt đọc các câu hỏi và người trả lời bằng cách chọn các đáp
án a, b, c, d. Mỗi câu trả lời chính xác sẽ được bước lên một bước. Trả lới sai đứng
nguyên tại chỗ.
Hệ thống các câu hỏi như sau:
1. Trung Quốc có mấy đồng bằng lớn?
a. 3 Đồng bằng
c . 5 Đồng bằng

b . 4 Đồng bằng
d . 6 Đồng bằng

2. Đất đai chủ yếu ở đồng bằng Trung Quốc là đất gì?

a. Phù sa

b. Feralit

c. Cát

d. Sét.

3. Đồng bằng nào là đồng bằng lớn nhất của Trung Quốc?
4. Trò chơi thành lập lược đồ trong bài Thực hành: Tìm hiểu sự thay đổi GDP
và phân bố nông nghiệp của Liên Bang Nga.
21


- Mục tiêu: Học sinh nắm được sự phân bố một số nông sản của Liên Bang Nga.
- Đại điểm: Phòng học.
- Số người tham gia: 2 nhóm mỗi nhóm 5 người cùng với cả lớp
- Thời gian 5- 7 phút:
- Chuẩn bị: 2 bản đồ khung của Liên Bang Nga.
- Tờ giấy có ghi các nông sản.
- Tiến hành chơi: Gíao viên chia lớp thành 2 nhóm, mỗi nhóm cử 5 người lên chơi.
Sau khi có hiệu lệnh, giáo viên phát các phiếu cho học sinh. Các nhóm chơi lần
lượt xếp các nông sản theo đúng địa danh. Sau đó đại diện nhóm sẽ thể hiện trên
bản đồ.
- Nhóm thắng cuộc là nhóm thể hiện nhanh nhất và chính xác các vị trí nông sản.
5. Trò chơi tìm địa danh trong bài “Liên Minh Châu Âu”.
- Mục tiêu: giúp học sinh nắm được vị trí, năm gia nhập vào EU của các nước
trong liên minh EU. Đồng thời hình thành cho học sinh kĩ năng xác định chính xác
đối tượng trên bản đồ.
- Thời gian 5-7 phút.

- Địa điểm. Tại lớp học.
- Số người 3 cùng với cả lớp.
- Chuẩn bị bản đồ câm Liên minh Châu Âu, trên đó có ghi năm gia nhập của các
nước.
- Tiến hành chơi: Chia lớp thành 2 nhóm, mỗi nhóm có người. Khi có hiệu lệnh
bắt đầu các bản đồ câm được treo lên. Đồng thời các nhóm chơi sẽ cầm viết đúng
vị trí của nhóm mình và ghi tên các nước vào bản đồ, mỗi người chơi trong đội chỉ
được điền một lần trong quá trình chơi.
Sau 3 phút dừng cuộc chơi. Đội nào thể hiện nhanh nhất, chính xác nhất, đẹp
nhất thì đội đó sẽ là người thắng cuộc.
3.2. LỰA CHỌN PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC.
a. Sử dụng bản đồ, lược đồ, tập Atlat.
Học địa lý “bắt đầu bằng bản đồ và kết thúc cũng bằng bản đồ”.
Hầu như bài học nào trong chương trình cũng đều sử dụng đến bản đồ hoặc lược
đồ. Bản đồ có thể xem là quyển sách giáo khoa thứ hai, bản đồ là nguồn tri thức
của Địa lý.
Ngoài bản đồ, lược đồ treo tường chúng ta cần sử dụng triệt để Tập Atlat Địa
lý Việt Nam. Kĩ năng khai thác bản đồ nói chung và Atlat Địa lí nói riêng là kĩ
năng cơ bản của môn Địa lí. Nếu không nắm vững kĩ năng này thì khó có thể hiểu
22


và giải thích được các sự vật, hiện tượng địa lí, đồng thời cũng rất khó tự mình tìm
tòi các kiến thức địa lí khác. Do vậy, việc rèn luyện kĩ năng làm việc với bản đồ
nói chung là không thể thiếu khi học môn Địa lí.
Sử dụng bản đồ, lược đồ Tập Atlat để giảng dạy sẽ gây hứng thú cho học sinh
trong quá trình học tập. Để học sinh hiểu bài và nắm được các kiến thức cơ bản thì
rất cần đến phương tiện trực quan là bản đồ, lược đồ. Các sự vật và hiện tượng Địa
lý ở rất xa chúng ta. Bản đồ giúp cho học sinh xác định được vị trí địa lý của các sự
vật, hiện tượng, sự phân bố và mối quan hệ nhân quả của các đối tượng Địa lý. Do

trình độ tư duy của các em còn hạn chế nên để nắm được các kiến thức Địa lý một
cách nhanh nhất, dễ dàng nhất và tạo được niềm say mê, hứng thú học tập thì nhất
thiết phải sử dụng bản đồ.
Giáo viên cần chú ý một số kỹ thuật sử dụng bản đồ lược đồ, tập Atlat:
Có hai hướng sử dụng bản đồ, lược đồ, tập Atlat:
- Hướng minh họa kiến thưc: giáo viên trình bày nội dung bài giảng sau đó
minh họa trên bản đồ.
- Hướng sử dụng bản đồ là nguồn tri thức địa lý:
Giáo viên phải xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập gắn với bản đồ, lược đồ.
Yêu cầu học sinh nghiên cứu bản đồ tự hoàn thành các câu hỏi, bài tập để tìm ra tri
thức mới (vận dụng kiến thức và kỹ năng). Phần lớn trong các giờ học địa lý tôi
thường sử dụng bản đồ theo hướng này với mục đích tích cực hóa hoạt động của
học sinh, để khai thác hiệu quả nhất đặc trưng bộ môn, nhằm gây hứng thú trong
học tập cho học sinh.
Ví dụ: Sử dụng bản đồ, lược đồ trong mục đích minh họa kiến thức:
Bài 32-Địa lí 12:"Vấn đề khai thác thế mạnh ở Trung du và Miền núi
Bắc Bộ"
Giáo viên giới thiệu “Lược đồ các vùng kinh tế của nước ta ( Trang 26)
Đây là vùng lãnh thổ đầu tiên học sinh được học trong 7 vùng lãnh thổ. Vì vậy
giáo viên phải giới thiệu khái quát trên lược đồ 7 vùng lãnh thổ và 3 vùng kinh tế
trọng điểm.
Giáo viên giảng về tiêu chí phân vùng lãnh thổ để học sinh hiểu. Sau đó dừng lại
lâu hơn ở vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ.
Mục I: Vị trí địa lý và giới hạn lãnh thổ.
- Giáo viên cho học sinh quan sát lược đồ tự nhiên của vùng Trung du và Miền
núi Bắc Bộ. Xác định vị trí địa lý và giới hạn lãnh thổ của vùng.
- Cho học sinh quan sát bản đồ Hành chính để xác định số tỉnh của vùng. Sau đó
cũng từ bản đồ học sinh nêu ý nghĩa của vị trí, giới hạn lãnh thổ đó đối với tự
nhiên, kinh tế - xã hội của vùng.
23



Ví dụ 2: Giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách phân tích “Bản đồ Nông
nghiệp” để tìm hiểu một số nội dung:
- Tìm hiểu cơ cấu, tình hình phát triển và phân bố của ngành trồng trọt và chăn
nuôi.
- Tìm hiểu cơ cấu, tình hình phát triển và phân bố cây công nghiệp.
+ Hướng dẫn học sinh dựa vào diện tích trồng cây công nghiệp qua các năm, kết
hợp với ký hiệu các loại cây công nghiệp trên trên bản đồ để nhận xét cơ cấu cây
công nghiệp đa dạng có cả cây công nghiệp hàng năm, cây công nghiệp lâu năm,
cây nhiệt đới, cây cận nhiệt.
24


+ Giáo viên hướng dẫn học sinh dựa vào ký hiệu diện tích trồng lúa các tỉnh trên
bản đồ để nhận xét sự phân bố cây lúa.
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc thông tin trên bản đồ để nêu: Cơ cấu ngành
chăn nuôi gồm chăn nuôi gia súc lớn (trâu, bò), chăn nuôi gia súc nhỏ (lợn), chăn
nuôi gia cầm.
Ví dụ 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh cách phân tích “lược đồ Lâm nghiệp”
để tìm hiểu một số nội dung:
- Tìm hiểu về tài nguyên rừng. Sự phát triển và phân bố lâm nghiệp.
Giáo viên huớng dẫn học sinh quan sát ký hiệu tỉ lệ diện tích rừng so với diện tích
trên cả nước, diện tích rừng cả nước qua các năm để nhận xét về tài nguyên rừng
nước ta, diện tích và cơ cấu diện tích rừng nước ta giai đoạn 2000 – 2007.
Nhận xét cơ cấu các loại rừng ở nước ta.

Qua đó ta thấy rằng: khi tìm hiểu một số kiến thức về kinh tế - xã hội, việc
sử dụng bản đồ, lược đồ đã giúp cho học sinh có phương pháp tiếp thu kiến thức
chủ động hơn so với cách học ghi chép máy móc. Học sinh tự tìm hiểu các kiến

thức cần thiết, bổ ích, ít phải thuộc lòng các kiến thức một cách máy móc, tầm nhìn
khoa học của các em được mở rộng hơn. Nhất là việc tìm hiểu sự phát triển và
phân bố các ngành kinh tế.
Như vậy qua việc khai thác kiến thức trên bản đồ học sinh nhận thức kiến
thức địa lí một cách nhẹ nhàng, đơn giản, tăng thêm hứng thú, trên cơ sở đã mã hoá
các thông tin bằng ký hiệu, màu sắc, kích thước... làm cho học sinh say mê học
môn hơn, chất lượng học tập cao hơn.
25


×