Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG tác tư vấn tâm lý CHO học SINH của GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM ở TRƯỜNG THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.72 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

Lời giới thiệu……………………………………………………………………...

1

2

Tên sáng kiến……………………………………………………………………...

3

3

Tác giả sáng kiến………………………………………………………………….

3

4

Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến……………………………………………………...

3

5

Lĩnh vực áp dụng sáng kiến……………………………………………………...

3



6

Ngày sáng kiến được áp dụng……………………………………………………

3

7

Mô tả bản chất của sáng kiến……………………………………………………

4

A. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHUNG………………………………………

4

B. GIẢI PHÁP……………………………………………………………………

6

B.1. Tìm hiểu hoàn cảnh HS…………………………………………………

6

B.2. Chú ý quan sát HS………………………………………………………

6

B.3. Tổ chức các giờ sinh hoạt lớp theo các chuyên đề ………………………


7

B.4. Thiết lập đường dây nóng giữa HS và GVCN………………………........

7

B.5. Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh………………………………………...

8

B.6. Gắn kết tinh thần yêu thương chia sẻ của các thành viên ……..…………

8

C. KẾT QUẢ VÀ ĐỀ XUẤT…………………………………………………….

9

C.1. Kết quả………………………………………………………………...

9

C.2. Đề xuất………………………………………………………………...

12

8

Những thông tin cần được bảo mật (nếu có)……………………………………


14

9

Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến…………………………………..

14

10 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được ………………………

14

11 Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử ...……………….

15

THƯ MỤC THAM KHẢO

16

PHỤ LỤC

1


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Tài liệu tập huấn
2.


Đổi mới công tác giáo viên chủ nhiệm lớp trong các

hoạt động ở trường THPT, Hà Nội, 2015.
TS. Đinh Thị Kim Thoa, Tập bài giảng Tâm lý học lứa tuổi và sư phạm, Hà Nội, 2014.

3. PGS.TS. Đinh Thị Kim Thoa, Giáo viên chủ nhiệm với công tác tư vấn tâm lý –
giáo dục cho học sinh trung học, NXB ĐHQG Hà Nội, 2016.
4. Phạm Minh Lăng, Tâm lý trẻ thơ: Từ sơ sinh đến 15, 17 tuổi, NXB Văn hóa
thông tin, 2013.
5. Viện ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2007.
6. Http://Vietnam.net
7. Http://Violet.vn

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
2


1.

HS:

Học sinh

2.

GV:

Giáo viên


3.

GVCN:

Giáo viên chủ nhiệm

4.

TVTL:

Tư vấn tâm lý

3


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Bàn về những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của con người, nhà
tâm lý học Ba Lan Krytyna Skarzyska đã khẳng định: “Chất lượng cuộc sống của
chúng ta phụ thuộc khá lớn vào việc xung quanh chúng ta có nhiều người thấu hiểu
chúng ta hay không”. Còn học giả Mỹ Kinixti cho rằng: “Sự thành công của mỗi
người chỉ có 15% là dựa vào kĩ thuật chuyên ngành, còn 85% là dựa vào những quan
hệ giao tiếp và tài năng xử thế của người đó”. Rõ ràng, cuộc sống hiện đại với nhịp
điệu phát triển như vũ bão đòi hỏi mỗi cá nhân phải không ngừng cập nhật giá trị và
hoàn thiện giá trị của mình. Để tồn tại và phát triển, với bất kỳ ai, cần phải nỗ lực học
tập, bồi dưỡng, rèn luyện không ngừng để nâng cao chất lượng đời sống của mình,
không chỉ chú ý trang bị bổ sung tri thức mà còn cần phải chú ý rèn luyện những hành
vi ứng xử tích cực để luôn luôn chủ động trong cuộc sống.
Nhìn vào thực tế môi trường học đường, chúng ta phải thừa nhận chính sự phát

triển với tốc độ nhanh và đầy biến động của nền kinh tế xã hội, các yêu cầu ngày càng
cao của nhà trường và cả những điều bất cập trong thực tiễn giáo dục; thêm vào đó là
sự kỳ vọng quá cao của cha mẹ, thầy cô đang tạo ra những áp lực rất lớn và gây ra
căng thẳng cho HS trong cuộc sống, trong học tập và trong quá trình phát triển. Ở độ
tuổi 15-18, các em chưa phải là người lớn nhưng cũng không còn là trẻ con, có khả
năng nhận thức nhưng những nhận thức của các em chưa thật sự chín chắn và có thể sẽ
sai lệch nếu không được định hướng. Đa số các em còn lệ thuộc vào cha mẹ về cả kinh
tế lẫn tinh thần. Tuy nhiệm vụ chính là học tập, nhưng các em thường phải đối mặt với
rất nhiều áp lực, từ nhiều phía: gia đình, nhà trường, xã hội. Ở nhà, đó là những yêu
cầu, kỳ vọng của cha mẹ, ông bà, là bầu không khí trong gia đình, là mối quan hệ giữa
con cái với cha mẹ… Ở trường, là áp lực về học tập, quan hệ với thầy cô, bạn bè,..
Ngoài xã hội, các em phải đối mặt với những cám dỗ của các trò chơi, các trang thông
tin mạng… Và riêng bản thân các em cũng phải lúng túng với những vấn đề mới nảy
sinh: những thay đổi về tâm sinh lý, tình yêu tuổi học trò, việc lựa chọn nghề nghiệp
trong tương lai… Cá biệt, có những em vấp phải vấn đề nghiêm trọng hơn: lệch lạc về
giới tính, bạo hành gia đình, lạm dụng tình dục, tệ nạn xã hội… Đối diện với những
4


vấn đề phức tạp đó, rất nhiều em sẽ không biết nhìn nhận, giải quyết vấn đề như thế
nào cho hợp lý.
Trong những trường hợp như thế, học sinh rất cần đến sự chia sẻ, sự thông hiểu
từ người thân: gia đình, bạn bè… Thế nhưng trong cuộc sống, người lớn chúng ta
thường đòi hỏi các em phải có ý thức trách nhiệm, có thái độ hợp lý, có tính độc lập,
nhưng mặt khác lại cũng đòi hỏi các em phải chịu sự sắp đặt của của người lớn. Vì
vậy, thay vì cho con những lời khuyên, các bậc cha mẹ lại thường rót vào tai con cái
những câu đại loại như: Con phải …, Con người ta … còn con thì …, Hồi đó ba (mẹ)
…, … Không muốn bị áp đặt, không muốn bị so sánh, và không muốn nghe ba mẹ kể
"chuyện đời xưa", con cái thường che giấu cha mẹ những điều mà các em đang trăn
trở, những vướng mắc của bản thân, …

Lâu dần, vì lý do này hay lý do khác, các em đâm ra đề phòng cha mẹ, thầy cô,
thủ thế với bạn bè. Trong khi đó, trên báo chí, trên các trang mạng xã hội, lại đầy
những thông tin bất lợi đối với các em – những "người lớn - trẻ con" chưa đủ sức sàng
lọc để lựa chọn, giữ lại những điều tốt và loại bỏ cái xấu. Theo chuyên gia tư vấn
thuộc Trung tâm Tư vấn học đường tại TP.HCM - Chuyên viên Nguyễn Hồng Sơn thì: "Đối với trẻ vị thành niên, có thể bị mất thăng bằng bởi chính những điều tưởng
như vặt vãnh ấy nếu không được những người xung quanh quan tâm, giúp đỡ và chia
sẻ kịp thời". Bác sĩ Phạm Anh Tuấn, Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương
cho biết: 90% trẻ vị thành niên tự tử vì cảm thấy không được gia đình thấu hiểu.
Có thể nói, lứa tuổi 15 – 18 là một trong những giai đoạn khủng hoảng và khó
khăn trong cuộc đời của mỗi người. Sự trợ giúp kịp thời và đúng đắn từ phía người lớn
là một nhu cầu bức thiết đối với trẻ, đặc biệt là khi các em đã rơi vào sự khủng hoảng
tâm lý. Học sinh cần được giãi bày, cần được tâm sự, cần được những lời khuyên đúng
đắn từ người lớn, mà gần gũi với các em nhất chính là cha mẹ, thầy cô. Và khi không
thể có được điều đó từ gia đình, nhiều em đã xem thầy cô như một chỗ dựa tinh thần.
Cho các em những lời khuyên, định hướng đúng đắn cho các em con đường phải đi,
giúp các em tìm lại niềm tin, niềm vui trong cuộc sống,… Đó là những điều mà người
thầy cần phải thực hiện được để đáp ứng nhu cầu được tư vấn tâm lý, một nhu cầu có
thực và vô cùng bức thiết của học sinh trong nhà trường phổ thông.
Bản thân tôi nghĩ rằng, trong nhà trường phổ thông, hơn ai hết người giáo viên
5


chủ nhiệm cần phải phát huy vai trò của mình trong công tác tư vấn tâm lý học
đường. Qua công tác tư vấn học đường, giáo viên chủ nhiệm sẽ nắm được tâm tư tình
cảm của các em, những khó khăn mà học sinh đang mắc phải, cùng sẻ chia, động viên
và hướng dẫn các em vượt qua khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống, giúp
học sinh tự trải nghiệm để nhận ra giá trị thật của cuộc sống, tự trang bị cho mình
những kỹ năng sống cần thiết. Đồng thời công tác tư vấn học đường còn là cơ hội để
xây dựng quan hệ thầy – trò gắn bó, bạn bè mến thương nhau, tạo cơ sở để xây dựng
nên lớp học thân thiện, học sinh tích cực. Khi làm được điều đó là chúng ta đang góp

phần nâng cao hiệu quả của công tác chủ nhiệm lớp.
Từ những thực trạng và mong muốn trên, cùng với những trải nghiệm và kết quả
đạt được trong công tác chủ nhiệm, tôi mạnh dạn thực hiện đề tài: “Nâng cao hiệu quả
công tác tư vấn tâm lý cho học sinh của giáo viên chủ nhiệm ở trường THPT” để
nghiên cứu.
2. Tên sáng kiến: NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TƯ VẤN TÂM LÝ CHO
HỌC SINH CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM Ở TRƯỜNG THPT.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Trần Phương Hoa
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Bình Xuyên
- Số điện thoại: 0972 005 951
- E_mail:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
Trần Phương Hoa
Giáo viên trường THPT Bình Xuyên
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến được áp dụng vào lĩnh vực chủ nhiệm trong nhà trường phổ thông, nhằm
mục đích giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng và nâng cao hành vi ứng xử tích cực, văn hóa
cho học sinh.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng:
Từ 25/8/2018 cho đến nay.
6


7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
A. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHUNG
Trường THPT Bình Xuyên là một trong số các trường có quy mô lớn trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Năm học 2018- 2019, trường có 27 lớp (gồm 10 lớp khối 12, 08
lớp khối 11 và 09 lớp khối 10) với quy mô hơn 1000 học sinh. Ban giám hiệu nhà
trường đã có nhiều quan tâm đến vấn đề tư vấn tâm lý học đường như: Trường đã

thành lập phòng Tư vấn tâm lý học đường do cô Nguyễn Thị Hạnh, Nguyễn Thị
Huyền Trang giáo viên môn GDCD và cô Phan Thị Hoài, giáo viên môn lịch sử phụ
trách. Nhà trường đã phối hợp với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường như hội
cha mẹ học sinh, công an huyện, công an tỉnh, hàng năm tổ chức các hoạt động để phổ
biến kiến thức pháp luật cho học sinh; phối hợp với trung tâm y tế huyện, Bệnh viện
đa khoa tỉnh tư vấn cho học sinh về sức khỏe sinh sản vị thành niên; phối hợp với các
trường đại học, cao đẳng, trung cấp để tư vấn tuyển sinh cho học sinh khối 12, tư vấn
nghề nghiệp cho học sinh, giúp các em có cái nhìn đúng về các ngành nghề trong xã
hội. Ngoài ra còn có sự tham gia của các tổ chức Đoàn thanh niên, câu lạc bộ đàn ghi
ta, câu lạc bộ nhảy, câu lạc bộ tiếng Anh, câu lạc bộ văn học ... Thông qua việc tổ
chức các hoạt động ngoại khoá, văn nghệ, vui chơi giải trí đã góp phần tạo điều kiện
để các em được tham gia sinh hoạt tập thể, rèn luyện kỹ năng hoà nhập với cộng đồng,
vượt qua những mặc cảm tự ti về bản thân, dám thể hiện mình trước đám đông...
Như chúng ta đã biết, các em học sinh của trường đều ở độ tuổi từ 15 đến 18
tuổi, lứa tuổi gặp nhiều vướng mắc về tâm, sinh lý nên rất cần sự tư vấn và sự quan
tâm, giúp đỡ của những người có chuyên môn. Tuy nhiên công tác tư vấn học đường
tại trường vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế. Cụ thể:
Nhà trường chưa có cán bộ chuyên môn phụ trách công tác tư vấn học đường.
Các lực lượng tham gia vào công tác này hiện nay đều là những lực lượng không
chuyên, không được đào tạo bài bản về công tác tư vấn. Chính vì vậy, khi tư vấn cho
học sinh các giáo viên chủ yếu tư vấn theo kinh nghiệm của bản thân và đồng nghiệp.
Quá trình nắm bắt tâm lý học sinh, gợi mở để các em mạnh dạn bày tỏ những khó
khăn đang mắc phải, quá trình giúp đỡ các em chưa chuyên nghiệp dẫn đến học sinh
còn mang tâm lý e ngại. Khi có nhu cầu được tư vấn các em chủ yếu sẽ tìm kiếm
sự giúp đỡ từ bạn bè hoặc tự mình mò mẫm tìm cách xử lý.

7


Bảng thăm dò các cách giải quyết của học sinh THPT khi gặp những khó khăn, vướng mắc

trong học tập và trong cuộc sống
Tổng số HS khảo sát: 45
Các cách giải quyết
Tìm đến sự trợ giúp của cha mẹ
Tìm đến sự trợ giúp của thầy cô
Tìm đến sự trợ giúp của bạn bè
Tìm đến sự trợ giúp của các chuyên gia tâm lý
Tìm đến sự trợ giúp từ mạng xã hội
Tự mình khắc phục
Không làm gì cả

Số lượng
2
0
35
0
40
43
2

Tỉ lệ (%)
4.44
0
77.78
0
88.89
95.56
4.44

Bảng thăm dò mức độ thường xuyên đến phòng tư vấn tâm lý học đường của trường

Tổng số HS khảo sát: 45 HS
Mức độ đến

Rất thường

Thường

Không

phòng TVHĐ
Số lượng
Tỉ lệ (%)

xuyên
0
0

xuyên
0
0

thường xuyên
6
13.33

Chưa bao giờ
39
86.67

Mặt khác, phòng tư vấn của trường chưa đảm bảo được yêu cầu của một phòng

tư vấn vì chưa đảm bảo sự kín đáo, riêng tư, tạo cho các em cảm giác an toàn.
Ngoài ra, thực tế đáng buồn nữa là nhiều giáo viên kể cả giáo viên chủ nhiệm là
những người gần gũi với học sinh nhất vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của tư
vấn học đường. Trong các tiết sinh hoạt lớp giáo viên thường dành nhiều thời gian để
phổ biến các hoạt động tuần tiếp theo, phê bình các học sinh vi phạm hoặc có những
biểu hiện không tốt trong tuần vừa qua. Một số giáo viên chưa quan tâm, tìm hiểu
nguyên nhân tại sao học sinh lại như vậy và nếu tìm hiểu được nguyên nhân thì lại
không biết phải tác động như thế nào, nhất là khi học sinh gặp những vấn đề nhạy cảm
về giới tính, tình bạn, tình yêu...
Về phía gia đình, nhiều bậc cha mẹ còn mải mê lo kinh tế, ít dành thời gian để
gần gũi và quan tâm đến con nên không hiểu được suy nghĩ của con mình. Nhất là các
em học sinh cấp THPT đều bước vào độ tuổi đang lớn, tâm sinh lý có nhiều thay đổi,
nhiều bậc phụ huynh không theo sát sự phát triển của con, chưa quan tâm đúng mức
đến sự phát triển tâm sinh lý của con nên không thấy được những khó khăn các em
đang mắc phải để kịp thời hỗ trợ.
8


Một số học sinh bị ảnh hưởng từ cuộc sống gia đình không hạnh phúc, ba
mẹ thường xuyên cãi cọ, ly hôn… Sứt mẻ tình cảm gia đình làm các em thường cảm
thấy mặc cảm, tự ti về bản thân, một số khác rơi vào trạng thái chán nản, mất
phương hướng, muốn trả thù đời nên thường tìm cách quậy phá, chống đối. Đối
với những học sinh này, để giúp đỡ các em phải tác động từ gia đình. Đây là một
điều vô cùng khó khăn đối với nhà trường.
B. GIẢI PHÁP
Trên đây là một số những khó khăn vấp phải trong công tác tư vấn tâm lý cho
học sinh ở trường THPT. Để khắc phục phần nào những khó khăn, hạn chế trên, tôi đã
mạnh dạn thực hiện một số giải pháp bước đầu và có đạt hiệu quả tích cực. Cụ thể như
sau:
B.1. Tìm hiểu hoàn cảnh HS

Là một GVCN, trước hết tôi phải tìm hiểu thật cặn kẽ tình hình học sinh thông
qua các nguồn khác nhau. Từ bản thân các em thông qua Phiếu thông tin cá nhân, có
thể nắm được hoàn cảnh kinh tế gia đình, tình hình nhà ở, mối quan hệ gia đình, xã
hội, những ước muốn, sở trường, những khó khăn nếu có,… Với những thông tin đầu
tiên này, tôi có thể sàng lọc chọn ra những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt để nếu cần,
thu thập thêm thông tin về các em thông qua bạn bè, cha mẹ, GVCN hay thầy cô cũ
của các em.
Đối với những HS có hoàn cảnh đặc biệt, tôi luôn gần gũi trò chuyện tiếp xúc
với các em nhiều hơn, tạo cho các em sự thân thiết, tin tưởng để có thể dễ dàng bộc lộ
tâm tư tình cảm, điều mong muốn của chính mình khi cần thiết. Qua đó tôi sẽ hiểu các
em hơn và kịp thời ngăn chặn những suy nghĩ nông cạn, sai lầm hay các hành vi không
hay… hướng các em nhận thức được giá trị bản thân, nâng cao lòng tự trọng và biết cố
gắng để vượt qua những khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống.
Tuy nhiên, trong cuộc sống, không có gì là không thể xảy ra. Vì vậy, đối với
những học sinh được đánh giá thật bình thường về hoàn cảnh, về tâm lý, cũng không
nên chủ quan cho rằng không cần phải quan tâm đến các em. GVCN phải thể hiện sự
quan tâm của mình đến với từng học sinh, nhưng cũng phải đặt trọng tâm, trọng điểm
ở một số học sinh đặc biệt. Song song đó, GVCN cũng cần tự hình thành cho mình
9


một mạng lưới thu thập thông tin riêng từ các nguồn: giáo viên bộ môn, cha mẹ, bạn
bè của học sinh…
B.2. Chú ý quan sát HS
GVCN cần chú ý quan sát để phát hiện những thay đổi trong hành vi, những
hiện tượng bất thường trong đời sống học đường, quan sát những biểu hiện của học
sinh có nguy cơ rối nhiễu tâm lý. Đó có thể là những biểu hiện nhỏ: đi trễ, không mang
giày, không mặc đúng trang phục theo quy định, cáu gắt với bạn, lo âu,… hay lớn hơn:
nghỉ học không xin phép, trốn tiết. Và nghiêm trọng hơn, như vi phạm kiểm tra, vô lễ
với giáo viên,…Với những học sinh cá biệt, việc nghỉ học, trốn tiết là chuyện thường

ngày, nhưng với những học sinh vốn ngoan ngoãn, chăm chỉ thì một biểu hiện nhỏ
nhất cũng là điều cần lưu ý. Một học sinh học khá, chưa một lần đi trễ hay nghỉ học lại
đi học trễ. Khi được hỏi trước lớp về lý do đi trễ, đã rơi nước mắt và im lặng. GVCN
gọi riêng hỏi han, em mới chia sẻ lý do thật sự về việc đi học muộn giờ của mình. Với
trường hợp này, nếu GVCN cứ cứng nhắc áp dụng kỷ luật mà không cần hỏi han, có
thể sẽ gây một chấn động tâm lý cho học sinh.
B.3. Tổ chức các giờ sinh hoạt lớp theo các chuyên đề
Ví dụ chuyên đề 1: Tình yêu, giới tính và quan hệ với bạn khác giới
Để thực hiện hiệu quả chuyên đề này, GVCN mời một vài phụ huynh có kinh
nghiệm, hiểu biết sâu sắc hoặc các giáo viên được HS yêu mến đến cùng tham gia tư
vấn để các em được thoải mái bộc lộ quan điểm của mình, tạo điều kiện các em được
giao lưu, trao đổi các vấn đề còn vướng mắc của bản thân.
GVCN hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước ở nhà một số câu hỏi về các vấn đề
bản thân đang mắc phải. Thông qua các buổi tư vấn đó, học sinh được trang bị những
kiến thức cơ bản về giới tính của bản thân, còn giáo viên cũng nắm được những
vướng mắc mà học sinh mình đang mắc phải để có thể hỗ trợ các em hiệu quả nhất.
Ví dụ chuyên đề: Quan hệ giao tiếp, ứng xử với gia đình, thầy cô và bạn
bè. Trong những tiết sinh hoạt lớp, GVCN hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước một số
tình huống (bằng câu hỏi hoặc clip) phản ánh những tình huống thường xảy ra trong
qua hệ giữa các em với gia đình, với giáo viên và giữa các em với nhau. Động viên
học sinh mạnh dạn trả lời, bày tỏ suy nghĩ của bản thân, tham gia tranh luận, bổ sung

10


cho nhau. Trên cơ sở hiểu được suy nghĩ của các em, để đưa ra những định hướng
điều chỉnh phù hợp.
B.4. Thiết lập đường dây nóng giữa HS và GVCN
Thiết lập đường dây nóng giữa HS và GVCN để những em có tính rụt rè,
không dám hỏi trực tiếp có thể đặt câu hỏi về những vấn đề mình đang mắc phải. Tôi

cung cấp số điện thoại, địa chỉ mail cá nhân và địa chỉ facebook cho học sinh để các
em tiện trao đổi. Tất cả các câu hỏi của học sinh tôi cố gắng trả lời trong ngày, những
vấn đề quá rắc rối, tôi sẽ trả lời sớm nhất sau khi tham khảo ý kiến của chuyên viên tư
vấn.
B.5. Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh
Thường xuyên trao đổi thông tin về học sinh, nâng cao nhận thức của phụ
huynh về vấn đề tâm sinh lý lứa tuổi để có sự quan tâm đúng mức đến con cái, phát
hiện kịp thời những biểu hiện không bình thường của các em để có sự hỗ trợ kịp thời.
Thông qua các buổi họp phụ huynh định kỳ và những lần gặp mặt riêng phụ huynh
của một số em có những biểu hiện bất thường, sai khác, nhấn mạnh vai trò của gia
đình trong việc giáo dục con cái. Cha mẹ phải quan tâm và thường xuyên trò chuyện
với con mình như những người bạn, lắng nghe con tâm sự để hiểu con cần giúp đỡ
như thế nào, đối với những vướng mắc từ trường lớp, bạn bè, cha mẹ báo với giáo
viên chủ nhiệm để phối hợp giúp đỡ các em giải quyết.
B. 6. Gắn kết tinh thần yêu thương chia sẻ của các thành viên trong lớp và giữa
HS với GV
GVCN cần chú ý xây dựng mối quan hệ tốt giữa giáo viên với học sinh, học
sinh với học sinh trên sơ sở thương yêu, tôn trọng và chân thành với nhau. GVCN
phải thực sự tin tưởng vào các em, tạo điều kiện để các em phát huy năng lực, sở
trường, tạo điều kiện để nâng cao tinh thần trách nhiệm của các em. GVCN cũng cần
tạo cho các em có cảm giác an toàn trong lớp học bằng cách xây dựng một bầu không
khí "gia đình", để các em thật sự cảm thấy trường, lớp chính là nhà, bạn bè, thầy cô là
những người thân yêu, khi vui có thể cùng nhau cười, khi buồn có thể dựa vào mà
khóc. Cần tìm hiểu để nắm bắt được năng lực, sở trường của học sinh. Việc làm này
tưởng như không liên quan đến hoạt động tư vấn tâm lý, nhưng thật ra lại hỗ trợ đắc
11


lực cho việc củng cố, kích thích ở học sinh lòng tự tin, giúp các em đủ niềm tin để đưa
ra những quyết định đúng đắn.

Ví dụ, GVCN hướng dẫn các học sinh nam tổ chức kỷ niệm ngày Phụ nữ Việt
Nam 20/10, ngày Quốc tế phụ nữ 8/3, tổ chức trò chơi bốc thăm tặng hoa. Bạn nam
bốc thăm trúng tên bạn nữ nào sẽ tặng hoa cho bạn đó kèm một lời chúc mừng. Bạn
nam nào có cử chỉ tặng hoa lãng mạn nhất, lời chúc mừng hay nhất sẽ nhận được
một phần thưởng đặc biệt. Thông qua các trò chơi đó, xây dựng và củng cố mối quan
hệ bạn bè tốt đẹp, gắn bó.
Cùng học sinh tổ chức toạ đàm kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam 20- 11,
mời giáo viên bộ môn, giáo viên làm công tác Đoàn về tham dự. Hướng dẫn học
sinh đặt câu hỏi về tuổi học trò của các thầy cô, những kỷ niệm vui, buồn trong
cuộc đời làm nghề giáo, những mong muốn của thầy cô đối với học trò hôm nay...
tạo không khí gần gũi, thân mật giữa thầy cô và học sinh. Tổ chức chương trình
văn nghệ “Tri ân thầy cô” gồm các tiết mục của các bạn trong lớp hát về thầy cô và
mái trường. Mời một số thầy cô lên giao lưu văn nghệ với lớp.
Thường xuyên trao đổi với các em về vai trò của gia đình trong cuộc sống
của con người, phối hợp với hội phụ huynh của lớp tổ chức toạ đàm về vai trò của
gia đình để lắng nghe các em chia sẻ suy nghĩ và những mong ước của bản thân
đối với cha mẹ, đồng thời giúp các em hiểu được suy nghĩ, mong ước của cha mẹ
và thông cảm với cha mẹ mình. Qua đó góp phần xây dựng quan hệ gắn bó, cởi
mở, gần gũi giữa cha mẹ và con cái.
C. KẾT QUẢ VÀ ĐỀ XUẤT
C.1. Kết quả
Đề tài này tôi thực hiện ở lớp chủ nhiệm 11A6 năm học 2018- 2019 ở trường
THPT Bình Xuyên và đã đem lại hiệu quả giáo dục rất khả quan. Cụ thể là:
- Xây dựng được tập thể lớp đoàn kết, tương thân tương ái, học sinh tự giác hỗ trợ,
giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn trong học tập và trong cuộc sống. Trong lớp có một
số em có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt đã được tập thể lớp hỗ trợ hết mình về vật chất
và tinh thần, lớp không ngừng tìm kiếm các nguồn tài trợ từ các tổ chức trong và
ngoài nhà trường để giúp đỡ các bạn vượt qua khó khăn tiếp tục đến trường.
- Trước khi thực hiện đề tài, việc thực hiện nội quy học sinh của các em chưa tốt,
nhiều học sinh thường xuyên vi phạm nội quy học sinh về các vấn đề như trang

12


phục, đi học trễ , sử dụng tài liệu trong kiểm tra, ... Sau khi thực hiện các biện pháp
tư vấn học đường, số lượng học sinh vi phạm giảm xuống đáng kể: không có học
sinh vi phạm trong giờ kiểm tra, không có học sinh mặc đồng phục sai quy định, số
học sinh đi học trễ đã giảm đáng kể.... Ý thức tự giác của các em được nâng cao rất
nhiều. Trong bảng thi đua giữa học kỳ một, lớp vươn lên vị thứ 3 toàn khối 11 cuối
học kỳ 1.
Bảng thăm dò đánh giá mức độ vi phạm nội quy của học sinh trong lớp

Tổng số HS khảo sát: 45
Số phiếu

Tỉ lệ (%)

Vi phạm nhiều

0

0

Có vi phạm

3

6.67

Ít vi phạm


7

15.56

Không vi phạm

35

77.78

- Trong các mối quan hệ, các em HS đã tỏ ra mạnh dạn hơn khi thể hiện mình, bớt
rụt rè, e ngại khi đứng trước đám đông. Các em tham gia các hoạt động văn hóa, văn
nghệ, thể dục thể thao do Đoàn thanh niên, Công đoàn nhà trường phát động rất tích
cực. Do đó trong học kì I năm học 2018-2019, tập thể lớp đã đạt được nhiều thành tích
cao trong các cuộc thi do Đoàn thanh niên nhà trường phát động:
+ Hội thi cắm hoa chào mừng ngày nhà giáo 20/11: giải Ba
+ Thi kéo co: giải Nhì
+ Thi văn nghệ: giải Nhì
+ Xếp loại thi đua tập thể: giải Ba
+ Xếp loại chi đoàn: Tiên tiến xuất sắc.

- Trong lớp, 100% HS có hạnh kiểm tốt, 10/45 HS có học lực giỏi, chiếm 22,3%,
không có HS học lực trung bình, yếu, kém; không có hiện tượng bạo lực học đường,
bắt nạt, chia bè phái. HS sống có trách nhiệm hơn với bản thân, gia đình và tập thể
lớp. Không xảy ra tình trạng HS bỏ học đi chơi bi a, điện tử, chat, ...

- Tinh thần của các em sau các buổi sinh hoạt tập thể rất hào hứng, nhiều HS bày tỏ
rằng các em rất mong đến cuối tuần để được khẳng định mình trong giờ sinh hoạt lớp,
tham gia vào các hoạt động tập thể của lớp. Vì qua đây các em có thể nhận thức được
13



giá trị của bản thân, giá trị của tinh thần đoàn kết và có thêm nhiều hành vi tích cực
cho bản thân để phục vụ vào trong cuộc sống.
- Các em thường xuyên tâm sự với giáo viên chủ nhiệm về những vướng mắc trong
tình bạn, tình yêu để được chia sẻ và hướng dẫn. Qua đó, GVCN đã nắm bắt được
diễn biến tình cảm của học sinh trong lớp, từ đó có những biện pháp tác động phù
hợp, để định hướng kịp thời cho các em.

Bảng đánh giá mức độ học sinh thường xuyên chia sẻ với GV về các vấn đề tình bạn,
tình yêu, và các vấn đề ứng xử hàng ngày
Số HS được khảo sát: 45
Rất thường
xuyên
Số lượng Tỉ lệ

Thường xuyên
Số lượng

Tỉ lệ

Không thường
xuyên
Số lượng Tỉ lệ

Không bao giờ
Số lượng

Tỉ lệ


Trước khi
áp dụng

0

0

2

4.44

10

22.22

33

73.33

8

17.78

25

55.56

10

22.22


2

4.44

TVTL
Sau khi áp
dụng
TVTL

- Đã tạo ra được sự phối hợp tốt giữa GVCN và gia đình học sinh trong việc giáo dục
học sinh. Khi học sinh có vấn đề vướng mắc phụ huynh đã chủ động báo cho giáo viên
chủ nhiệm. Nhờ đó đã nắm bắt được tình hình học sinh học ở trường cũng như ở nhà
và phối hợp với gia đình giải quyết tốt các vấn đề của học sinh. Một số em được sinh
ra trong những gia đình khá giả, cộng với sự chiều chuộng quá mức của cha mẹ nên
mặc nhiên cho rằng những người xung quanh phải phục vụ cho mình, có biểu hiện thờ
ơ với sự vất vả của cha mẹ. Qua nhiều lần tâm sự với cả lớp về những nỗi vất vả của
cha mẹ, những kỳ vọng mà cha mẹ gửi gắm ở các em, nhiều em đã có sự tiến bộ. Một
số phụ huynh phản ánh các em đã biết thu xếp thời gian học tập để phụ giúp việc nhà,
một số em ngoài thời gian học còn xin đi làm thêm, chia sẻ gánh nặng gia đình với cha
mẹ. Hầu hết các em đều ý thức được sự vất vả của cha mẹ, biết thương và thông cảm
với cha mẹ mình.
- Nhờ ứng dụng các biện pháp tư vấn học đường, tôi đã xây dựng được mối quan hệ
gắn bó giữa giáo viên bộ môn với tập thể HS của lớp, giữa HS với HS và giữa HS với
GVCN. Các em tìm thấy sự tin cậy từ GVCN, dễ dàng chia sẻ và mở lòng hơn, nhờ đó
14


GVCN kịp thời nắm bắt các vấn đề khó khăn, khúc mắc của các em để có những tác
động phù hợp kịp thời.

C.2. Đề xuất
C.2.1. Nâng cao nhận thức của học sinh, giáo viên - Tư vấn viên về hoạt động tư
vấn tâm lý trong nhà trường
Trước hết, Ban giám hiệu phải nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của hoạt động
tư vấn tâm lý (TVTL) đối với việc giáo dục toàn diện cho HS hướng tới mục tiêu giáo
dục của nhà trường phổ thông. Từ đó mới có những biện pháp để động viên mọi thành
viên của Ban chỉ đạo hoạt động tư vấn tâm lý tham gia tích cực các hoạt động TVTL và
tổ chức tốt đội ngũ tư vấn viên, giáo viên chủ nhiệm tham gia vào hoạt động TVTL,
nhất là động viên và sử dụng những giáo viên có kinh nghiệm, có kỹ năng giao tiếp,
thấu hiểu mọi vấn đề để làm nòng cốt cho các hoạt động.
C.2.2. Kế hoạch hoá HĐTVTL trong nhà trường
BGH cần xây dựng toàn bộ chương trình hoạt động TVTL của nhà trường, của
Tổ tư vấn tâm lí căn cứ vào hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và
Đào tạo. Xây dựng kế hoạch sử dụng nguồn tài chính, vật chất đảm bảo, sự ủng hộ của
các lực lượng ngoài nhà trường. Việc xây dựng kế hoạch hoạt động trong cả năm học
sẽ giúp cho người quản lý có cái nhìn bao quát về hoạt động TVTL diễn ra trong một
năm như thế nào.
C.2.3. Hoàn thiện bộ máy nhân sự làm công tác TVTL
Thành lập Ban chỉ đạo TVTL bao gồm: Hiệu trưởng (Phó hiệu trưởng), bí thư
Đoàn thanh niên, tổ trưởng tổ chủ nhiệm, đại diện Ban chấp hành Công đoàn, trưởng
ban đại diện Hội CMHS, và một số giáo viên có năng lực trong các hoạt động giáo dục
trong nhà trường.

15


C.2.4. Điều chỉnh mô hình tư vấn tâm lý tại các trường THPT
Hỗ trợ giáo viên, cán bộ quản lý, cha mẹ học sinh trong việc vận dụng kiến thức tâm
lý học và giáo dục học để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, để dự phòng, từ đó
ngăn chặn sự phát triển không lành mạnh về sức khoẻ tinh thần ở học sinh; Trực tiếp tìm

hiểu, can thiệp sớm với những trường hợp mới chớm có dấu hiệu rối nhiễu.
C.2.5. Tăng cường rèn luyện kỹ năng sống, giá trị sống cho học sinh
Tăng cường công tác tuyên truyền; Các cơ quan chức năng, các đoàn thể xã hội
cần phối hợp tốt với nhà trường đẩy mạnh công tác giáo dục ý thức chấp hành pháp
luật, đạo đức cho học sinh, các trường học chủ động phối hợp với gia đình- nhà trường
- xã hội trong việc giáo dục học sinh; Nhà trường giúp gia đình tư vấn giáo dục học
sinh, tổ chức nhiều hoạt động ngoại khoá, hoạt động ngoài giờ lên lớp, các hoạt động
giáo dục kỹ năng sống, giá trị sống cho các em học sinh.
C.2.6. Quản lí các điều kiện hỗ trợ HĐTVTL trong trường học
Tăng cường cơ sở vật chất, nguồn tài chính cho tổ chức hoạt động TVTL; Có kế
hoạch xây dựng, trang bị cơ sở vật chất trước mắt và lâu dài cho trường bằng các nguồn
lực khác nhau.
C.2.7. Tăng cường quản lý việc kiểm tra, đánh giá hoạt động tư vấn tâm lý cho
học sinh.
Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá quản lý hoạt động TVTL để điều chỉnh
kế hoạch, điều chỉnh những biện pháp quản lý; Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch hoạt
động của các bộ phận, của các cá nhân tư vấn viên.
C.2.8. Phát huy vai trò của GVCN trong công tác TVTL
GVCN có vai trò rất quan trọng, quyết định đối với công tác giáo dục HS, được
coi như người mẹ hay người cha thứ hai của HS. Vì vậy, khi TVTL cho HS, GVCN
hãy coi các em như con em mình, chỉ bảo tận tình để các em thấy gần gũi, thân thiện.
Khi đó, việc tư vấn sẽ đem lại hiệu quả cao.
Người GVCN cần biết phối hợp các lực lượng giáo dục, tranh thủ sự giúp sức
từ nhiều phía để tạo nên nguồn lực hỗ trợ cho học sinh mọi nơi, mọi lúc. GVCN có
thể tham khảo ý kiến với những người có kinh nghiệm về vấn đề mà học sinh gặp
phải, nhưng tuyệt đối không được biến học sinh của mình thành trò cười hoặc tâm
16


điểm chú ý của mọi người. Điều đó có nghĩa là, phải tuân thủ nguyên tắc bảo mật

thông tin cho học sinh. Vi phạm nguyên tắc này, về lâu dài, GVCN sẽ tự đánh mất
lòng tin mà học sinh dành cho mình.
GVCN cần phối hợp với GV bộ môn, các tổ chức trong nhà trường (đặc biệt là
Đoàn thanh niên) để lồng ghép tư vấn, giáo dục cho các em một cách đồng bộ, tránh
sự mâu thuẫn hay trùng lặp, có như thế mới đưa được nhiều nội dung vào giáo dục.
GVCN cũng cần tìm hiểu hoàn cảnh từng HS, đặc điểm tâm sinh lí riêng của mỗi
em để có biện pháp giáo dục, tư vấn phù hợp, không thể áp dụng máy móc một kịch
bản chung cho tất cả các đối tượng HS.
- Về khả năng áp dụng của sáng kiến: Sáng kiến được áp dụng thử nghiệm ở lớp
11A6 và có thể áp dụng ở tất cả các khối lớp trong nhà trường phổ thông.
8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Giáo viên nhiệt tình, có trách nhiệm trong việc giảng dạy, giáo dục và rèn luyện hành
vi cho học sinh.
- Học sinh có tinh thần học tập tích cực đáp ứng được các yêu cầu giáo viên đưa ra.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến
theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tác giả:
- Học sinh được tư vấn tâm lý kịp thời, khắc phục hiện tượng rỗi nhiễu
tâm lý.
- Học sinh được củng cố, bồi dưỡng và hoàn thiện nhân cách.
- Kích thích được tinh thần học tập của học sinh.
- Xây dựng được các mối quan hệ tốt đẹp giữa HS với HS, HS với thầy
cô, HS với gia đình, và gia đình với nhà trường.
- Tạo dựng được môi trường giáo dục lành mạnh, văn minh.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
17



- Tạo sự chuyển biến tích cực cho việc giáo dục đạo đức, phẩm chất, lối sống cho học
sinh phổ thông.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu
có):

STT
1
2
3

Tên tổ chức/cá nhân
Trần Phương Hoa
Hoàng Thị Hồng Hạnh
Đào Thị Thanh Huyền

Phạm vi/Lĩnh vực

Địa chỉ
Trường THPT Bình Xuyên
Trường THPT Bình Xuyên
Trường THPT Bình Xuyên

............., ngày.....tháng......năm 2019

áp dụng sáng kiến
Trong công tác chủ nhiệm
Trong công tác chủ nhiệm
Trong công tác chủ nhiệm


Bình Xuyên, ngày 15 tháng 1 năm 2019

Thủ trưởng đơn vị

Tác giả sáng kiến

(Ký tên, đóng dấu)

Trần Phương Hoa

18



×