Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

SKKN nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh thông qua tích hợp chủ nghĩa mác lênin và tư tưởng hồ chí minh vào bài giảng lịch sử phần các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.54 KB, 63 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC
SỞ GIÁO
DỤCTHPT
VÀ ĐÀO
TẠO
VĨNH PHÚC
TRƯỜNG
BÌNH
XUYÊN
TRƯỜNG THPT BÌNH XUYÊN
=====***=====
=====***=====

BÁOCÁO
CÁOKẾT
KẾTQUẢ
QUẢ
BÁO
Bình Xuyên, năm2018
NGHIÊN CỨU,
ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến:
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỌC TẬP CHO HỌC SINH THÔNG QUA
TÍCH HỢP CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VÀO BÀI GIẢNG LỊCH SỬ PHẦN: CÁC CUỘC CÁCH MẠNG TƯ
SẢN THỜI CẬN ĐẠI (SGK LỊCH SỬ 10 - BAN CƠ BẢN)

Tác giả sáng kiến: Trần Thị Kim Thơ
Mã sáng kiến: 31.57.05


Bình Xuyên, năm 2019
1


MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài....................................................................................................3
2. Tên sáng kiến.........................................................................................................4
3. Tác giả sáng kiến....................................................................................................4
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: ..................................................................................5
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:..................................................................................5
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:......................................5
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:................................................................................5
7.1 Cơ sở lý luận...................................................................................................5
7.2 Giải pháp và quá trình thực hiện....................................................................12
7.3 Kết quả đạt được............................................................................................22
KẾT LUẬN..............................................................................................................24
8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không có......................................25
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến......................................................25
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến
theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng
sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có) theo các nội dung sau: ...............27
11. Danh sách những tổ chức/ cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng
kiến lần đầu (nếu có):...............................................................................................28
PHỤ LỤC.................................................................................................................29

2


1. Lý do chọn đề tài
Tại Đại hội Đảng toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII khẳng

định “phải kiên trì vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh” và nêu rõ “Cái mới là cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng nêu cao tư
tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó là tự nhiên, bởi tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết
quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của nước
ta”.
Việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào bài
giảng lịch sử không phải là cái mới nhưng sẽ là thiếu sót nếu trong quá trình giảng
dạy chúng ta xa rời những nguyên tắc đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Bởi nếu như trước đây chức năng cơ bản của dạy học là cung
cấp kiến thức, mục đích cơ bản của học tập là “học để hiểu biết” thì giờ đây chức
năng này có sự thay đổi, dạy học không chỉ là cung cấp kiến thức mà quan trọng
hơn cả là còn đáp ứng cả chức năng về mặt giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm,
đạo đức, góp phần đóng góp quan trọng vào việc xây dựng con người mới, phục vụ
đất nước, phục vụ xã hội.
Sử học có ưu thế trong việc tác động đến tâm tư, tình cảm của học sinh, hình
thành phẩm chất đạo đức, chính trị cho học sinh thông qua các biểu tượng lịch sử.
Và thông qua các bài giảng lịch sử giúp các em sẽ tin vào chủ nghĩa cộng sản, có
tinh thần quốc tế vô sản chân chính, có lý tưởng cách mạng cao đẹp, từ đó giúp cho
học sinh có thái độ và hành động đúng đắn trong cuộc sống hiện tại. Đồng thời qua
đó, giúp học sinh hiểu được con đường mà dân tộc mình đang đi. Đó là công việc
mang tính khoa học.
Và thực tế cho thấy rằng, việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh vào việc giảng dạy lịch sử không chỉ cung cấp cho các bài giảng lịch
sử những quan điểm khoa học mà còn cung cấp rất nhiều tư liệu lịch sử quí giá cho
mỗi bài giảng. Đó là nguồn minh chứng mang tính khoa học và cách mạng, phục vụ

3


đắc lực cho mỗi bài dạy lịch sử, góp phần làm cho bài giảng chặt chẽ, sinh động và

đạt hiệu quả cao hơn.
Trong những năm vừa qua, đã có không ít những công trình, đề tài, hội thảo
khoa học, bài báo khoa học đề cập đến vấn đề dạy học tích hợp cho học sinh ở nhà
trường phổ thông hiện nay; nhất việc tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh tôi xin dẫn ra
một số ví dụ tiêu biểu như:
Tác phẩm: Một số vấn đề về tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh trong giảng dạy
môn Lịch sử ở nhà trường phổ thông, tác giả PGS.TS Nghiêm Đình Vỳ - Ban tuyên
giáo trung ương. Trong tác phẩm này tác giả khái quát nội dung tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh, nhận thức về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, phân tích các giai đoạn
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đó chưa thực sự nghiên cứu việc tích
hợp những vấn đề liên quan trong một bài học cụ thể, đặc biệt là liên quan tới phần
lịch sử thế giới.
Từ thực tiễn trên, để góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường
phổ thông, tôi chọn “Nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh thông qua tích hợp
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào bài giảng lịch sử phần:
các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại (SGK lịch sử 10 - Ban cơ bản)” làm đề
tài nghiên cứu của mình.
2. Tên sáng kiến
Nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh thông qua tích hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào bài giảng lịch sử phần: các cuộc
cách mạng tư sản thời cận đại (SGK lịch sử 10 - Ban cơ bản).
3. Tác giả sáng kiến
Họ và tên: Trần Thị Kim Thơ
Sinh ngày: 04/06/1984.
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ Lịch sử
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường THPT Bình Xuyên.
4



Điện thoại: 0988.107.991
Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trần Thị Kim Thơ.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến được áp dụng trong dạy học bộ môn Lịch sử.
Sáng kiến được đưa ra nhằm giải quyết vấn đề tạo hứng thú cho học sinh trong
giờ học một vấn đề lịch sử cụ thể - phần các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:
Tháng 11, 12 năm 2017 (Học kì II, năm học 2017 - 2018).
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1 Cơ sở lý luận
7.1.1 Cơ sở lý luận
Dạy học tích hợp là một xu thế được các quốc gia trên thế giới và Việt Nam
triển khai thực hiện, nhất là trong bối cảnh nước ta đang đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo. Dạy học tích hợp nhằm định hướng hình thành một số năng
lực cho người học, thực hiện yêu cầu giảm tải và tránh sự trùng lặp về kiến thức
giữa các môn học.
Dạy học tích hợp liên môn là định hướng dạy học trong đó giáo viên tổ chức,
hướng dẫn để học sinh biết huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng,… thuộc nhiều
lĩnh vực (môn học/HĐGD) khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập; thông
qua đó hình thành những kiến thức, kĩ năng mới; phát triển được những năng lực
cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề trong học tập và thực tiễn cuộc sống.
Ở mức độ thấp thì dạy học tích hợp mới chỉ là lồng ghép những nội dung
giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học một môn học như: lồng ghép giáo dục
đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới,
biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường,
an toàn giao thông...

5



Mức độ tích hợp cao hơn là phải xử lí các nội dung kiến thức trong mối liên
quan với nhau, bảo đảm cho học sinh vận dụng được tổng hợp các kiến thức đó một
cách hợp lí để giải quyết các vấn đề trong học tập, trong cuộc sống, đồng thời tránh
việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học
khác nhau.
Là giáo viên dạy học lịch sử, qua nhiều năm kinh nghiệm, tôi nhận thấy việc
dạy học tích hợp, đặc biệt tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử có
ý nghĩa vô cùng quan trọng với cả nhà trường, giáo viên, học sinh và thực tiễn đời
sống xã hội.
Trong việc giảng dạy môn lịch sử ở nhà trường THPT, một yêu cầu tổng quát
đặt ra cho mỗi giáo viên là truyền thụ chính xác, đầy đủ các tri thức khoa học của
từng bài học. Trên cơ sở hiểu từng bài học, giáo viên cần giúp học sinh hiểu biết
sâu hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đây là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt lịch sử phát triển của nhân loại nói chung và lịch sử Việt Nam nói riêng.
Và một bài giảng được coi là thành công khi làm được hai nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, khôi phục lại bức tranh lịch sử. Mà một trong những biện pháp chủ yếu
để có thể khôi phục bức tranh lịch sử là tạo biểu tượng lịch sử. Và trong các tác
phẩm của Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh có rất nhiều biểu tượng lịch sử.
Chức năng thứ hai của bài giảng lịch sử là làm sáng tỏ bản chất lịch sử. Có nghĩa là
có cái nhìn đúng, đánh giá đúng sự kiện, nhân vật lịch sử, bài học lịch sử. Đó là
công việc mang tính khoa học.
Chính vì vậy, việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
vào bài giảng lịch sử ở nhà trường THPT là một luận điểm có tính chỉ đạo toàn bộ
hoạt động dạy của người giáo viên và hoạt động học của người học sinh.
Trong quá trình vận dụng quan điểm Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
vào bài giảng lịch sử, giáo viên cần bảo đảm những nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất: Khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
vào bài giảng lịch sử, cần phải nhận thức rằng: học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng
6



Hồ Chí Minh không đối lập mà là hòa hợp, gắn bó với cộng đồng thế giới. Học
thuyết đã làm giàu hơn nhận thức của loài người, làm phong phú hơn những di sản
văn hóa của nhân loại. Không phải là đối lập với các bộ phận khác nhau của loài
người mà chính là máu thịt của nhân loại - đó là bản chất của học thuyết Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai: phải trung thực với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Điều đó đòi hỏi người giáo viên lịch sử phải là một chiến sĩ trên mặt trận văn
hóa - tư tưởng. Trung thực ở đây không phải là trung thực trên từng câu chữ mà là
trong thực chất hành động cách mạng và khoa học vốn là hai mặt đặc tính căn bản
kết hợp làm một trong bản thân của chủ nghĩa Mác - Lênin và tưởng Hồ Chí Minh.
Trung thực với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi
người giáo viên lịch sử phải công khai giữ vững lập trường của giai cấp công nhân,
của Đảng. Lênin có nói rằng “Chủ nghĩa duy vật bắt buộc chúng ta mỗi khi đánh
giá một sự kiện phải công khai dứt khoát đứng về một tập đoàn xã hội nhất định”
(quan điểm giai cấp). Trung thực với chủ nghĩa Mác - Lênin và tưởng Hồ Chí Minh
là yêu cầu quan trọng bậc nhất đối với người giáo viên Lịch sử. Nó đòi hỏi người
giáo viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ hiểu biết một cách thấu đáo
về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phải không ngừng
rèn luyện bồi dưỡng lòng nhiệt tình cách mạng.
Thứ ba: Như chúng ta đã biết, việc giảng dạy môn Lịch sử là một khoa học.
Do đó, việc xây dựng tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức cách mạng cho học
sinh không phải là cái gì xa xôi mà chính là ở ngay trong việc truyền thụ tri thức
qua các bài học lịch sử.
Trong bài dạy lịch sử, việc trích dẫn ý kiến của Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ
Chí Minh là cần thiết. Tuy nhiên, trích dẫn như thế nào cần được cân nhắc, lựa
chọn, chú ý đến thái độ, tâm lí của học sinh. Việc trích dẫn đó phải sát với mục đích
bài giảng giúp cho học sinh hiểu rõ bản chất lịch sử.
7.1.2 Cơ sở thực tiễn
7



* Về phía giáo viên:
Cho đến nay, việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi
mới phương pháp dạy học Lịch sử nói riêng đã được tiến hành ở bậc trung học phổ
thông xong còn chậm, chưa mang lại hiệu quả cao, chưa chú ý hình thành các năng
lực cần thiết cho học sinh.
Qua điều tra thực tế, tôi thấy số giáo viên thường xuyên chủ động, sáng tạo
trong việc phối hợp các phương pháp dạy - học cũng như sử dụng các phương pháp
dạy - học phát huy năng lực học sinh chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ
kiến thức lí thuyết. Việc rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết các tình huống
thực tiễn cho học sinh vẫn chưa thực sự được quan tâm.
Trong dạy học lịch sử hiện nay, nhiều giáo viên còn gặp khó khăn, chưa tìm
được cho mình những biện pháp thích hợp để hình thành và phát triển năng lực học
sinh, đặc biệt là phát triển năng lực học tập hợp tác của học sinh.
Chúng tôi tiến hành khảo sát về cảm nhận của các em học sinh về bộ môn
lịch sử, để có những đánh giá chính xác thực tế dạy và học, từ đó rút ra phương
pháp giảng dạy phù hợp.
Phiếu 1: Cảm nhận của em khi học môn lịch sử. Đánh dấu cộng (+) vào
những nội dung các em chọn:
STT

Cảm nhận

1

Thích

2


Không thích

3

Ý kiến khác

10A6
Tỉ lệ (%)
Số lượng

10A9
Số lượng

Tỉ lệ (%)

- Kết quả khảo sát cảm nhận của học sinh khi học môn lịch sử (Tổng số
phiếu: 70 phiếu):

STT

Cảm nhận

10A6

10A9
8


Số lượng


Tỉ lệ (%)

Tỉ lệ (%)

1

Thích

10

28,6

Số lượng
9

2

Không thích

23

65,7

25

71,4

3

Ý kiến khác


2

5,7

1

2,9

25,7

Qua bảng khảo sát, có thể thấy học sinh lớp 10A6, 10A9 đều có những cảm
nhận tương đối giống nhau. Những học sinh thấy môn Lịch sử hay và hấp dẫn
chiếm tỉ lệ rất thấp, chỉ có 28,6% (lớp 10A6); 25,7 (lớp 10A9). Trong khi cảm thấy
không thích môn Lịch sử lại là cảm nhận chính của hầu hết các em học sinh: 65,7%
(lớp 10A6); 71,4% (lớp 10A9).
Lý giải về nguyên nhân vì sao đại bộ phận học sinh lại không thích học môn
Lịch sử, chúng tôi phát phiếu khảo sát cho học sinh hai lớp 10A6, 10A9.
Phiếu 2: Nguyên nhân vì sao học sinh không thích học môn Lịch sử
(HS có thể chọn một hoặc nhiều nguyên nhân)

Nguyên nhân

10A6

10A9

SL

%


SL

%

18

51,4

21

60,0

28

80,0

31

88,6

Nhiều sự kiện

35

100

35

100


Ý kiến khác

2

5,7

1

2,9

Phương pháp truyền thụ
truyền thống.
Quá dài dòng

Qua bảng khảo sát, có thể thấy học sinh lớp 10A6, 10A9 đều có những cảm
nhận tương đối giống nhau. Hầu hết các em đều cảm thấy môn Lịch sử quá dài
dòng và nhiều sự kiện: 100% học sinh. Bên cạnh đó, có 51,4% (10A6), 60,0%
(10A9) số học sinh cho rằng phương pháp dạy của giáo viên, nặng về thuyết trình
và đọc chép nên học sinh không thích thú với môn học. Đặc biệt, không có học sinh
nào cảm thấy môn Lịch sử hấp dẫn. Đây là những khó khăn cho cả giáo viên và học
sinh khi tiếp cận môn học này.
9


Là một giáo viên dạy bộ môn Lịch sử ở trường trung học phổ thông, trực tiếp
tham gia giảng dạy chương trình Lịch sử lớp 10, tôi luôn suy nghĩ và tự xác định
cho mình làm thế nào để sử dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học phát huy
được năng lực của học sinh trong môn lịch sử nói chung và phần lịch sử các cuộc
cách mạng tư sản - cơ bản nói riêng, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng môn

học. Có rất nhiều năng lực chung và chuyên biệt của môn lịch sử cần hình thành và
phát triển cho học sinh nhưng trong sáng kiến kinh nghiệm này, tôi chú trọng vào
việc kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào giảng dạy, giúp học
sinh hiểu bản chất của vấn đề, hình thành tư tưởng đạo đức nâng cao hứng thú cho
học sinh trong quá trình học lịch sử.
Việc tích hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào bài học còn
xuất phát từ đặc trưng của bộ môn Lịch sử. Lịch sử là một bộ môn khoa học, phải
mang tính Đảng - tính khoa học, cho nên trong mỗi bài giảng lịch sử, giáo viên phải
chú trọng đến tính khoa học, tính cơ bản của nội dung bài học gắn với tính vừa sức
đối với việc lĩnh hội của học sinh. Từ đó, học sinh sẽ hiểu hơn nữa bản chất của
mỗi sự kiện, mỗi giai đoạn lịch sử.
* Về phía học sinh:
Qua thực tế giảng dạy của bản thân, tôi nhận thấy một thực trạng. Đó là:
- Đa số các em không thích học và sợ học lịch sử. Nhiều em còn “mơ hồ” về
lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới. Những sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc
và lịch sử thế giới, nhiều học sinh không biết và không hiểu. Các em còn thiếu các
kỹ năng cơ bản của bộ môn và năng lực vận dụng liên hệ kiến thức lịch sử đã học
để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra là rất yếu. Chất lượng môn học lịch sử
còn thấp. Điều này được thể hiện rất rõ khi tôi tiến hành khảo sát thực tế thông qua
việc phát phiếu điều tra cho học sinh.
- Khả năng đánh giá sự kiện chưa tốt, chưa hiểu biết bản chất của một sự
kiện, một vấn đề lịch sử nên làm cho kết quả kiểm tra không cao

10


- Trong tư tưởng của một số học sinh có sự phân biệt môn chính môn phụ, ít
dành thời gian cho việc học môn lịch sử, học chỉ mang tính chất đối phó, học vẹt
chứ chưa có ý thức tìm hiểu để có cái nhìn sâu sắc và toàn diện về lịch sử.
Trong quá trình giảng dạy, kết hợp với việc nghiên cứu đặc điểm tình hình

học tập bộ môn của học sinh, vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy, tôi đã
tiến hành điều tra chất lượng học của học sinh qua bài kiểm tra một tiết, thông qua
hệ thống câu hỏi phát triển tư duy học sinh ở trên lớp. Kết quả điều tra tôi nhận
thấy đa số học sinh chỉ trả lời được những câu hỏi mang tính chất trình bày, còn
những câu hỏi giải thích tại sao, so sánh, nhận xét, đánh giá thì các em còn rất lúng
túng khi trình bày, thậm chí có những đánh giá sai lệch.
Kết quả được thể hiện ở việc điều tra 2 lớp 10A6, 10A9 như sau:

Lớp

Số lượng
học sinh

Giỏi

10A6

35

SL
5

10A9

35

4

Khá


Trung bình

%
14.2

SL
17

%
48.6

SL
13

%
37.1

11.4

15

42.9

16

45.7

Ngoài ra, tôi cũng tiến hành khảo sát học sinh ở hai lớp 10A6, 10A9 về sở
thích môn học của học sinh.
Phiếu 3: Phát phiếu trả lời cho học sinh lớp 10A6, 10A9 theo nội dung sau: Có

6 môn: Toán, Lý, Hóa, Văn, Sử, Địa.

STT
1
2
3
4
5
6

Môn học
Toán

Hóa
Văn
Sử
Địa

Đánh dấu (+) vào môn học em thích học

- Kết quả khảo sát về sở thích học tập bộ môn của học sinh như sau:

11


Sở thích môn học
Lớp


số


Văn
SL

Sử

Địa

Toán



Hóa

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL


%

SL

%

10A6

35 10

28,6

7

20

10

28,6

35

100

28

80

31


88,6

10A9

35 12

34,3

10

28,6

11

31,4

34

97,1

25

71,4

29

82,9

Tổng


70 22

31,4

17 24,3

21

30

69

98,6

53

75,7

60

85,7

Qua khảo sát trên tôi nhận thấy: Học sinh thích học các môn khoa học tự
nhiên hơn rất nhiều. Các môn xã hội có tỷ lệ học sinh thích học thấp hơn. Riêng
môn Lịch sử chỉ chiếm tỷ lệ 24,3 % (17 học sinh) trong tổng số 70 học sinh được
khảo sát.
Thực trạng trên là một vấn đề cần phải suy nghĩ của chính người dạy và
người học. Yêu cầu đặt ra là người giáo viên cần phải có biện pháp phù hợp và đổi
mới phương pháp giảng dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử.
7.2. Giải pháp và quá trình thực hiện

Giáo viên có thể vận dụng quan điểm Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh
vào từng bài học như sau:
* Trong bài 29: Cách mạng Hà Lan và cách mạng tư sản Anh (SGK lịch
sử lớp 10 - Ban cơ bản)
Về chế độ quân chủ lập hiến ở Anh sau cuộc chính biến tháng 12/1688
Ở mục 2. Cách mạng tư sản Anh (SGK lịch sử 10 - Ban cơ bản), khi nói về
diễn biến của cuộc cách mạng tư sản Anh đến sự kiện năm 1658, nước Anh lâm vào
tình trạng không ổn định về chính trị, dẫn đến sự thỏa hiệp giữa Quốc hội với lực
lượng phong kiến cũ. SGK viết: “Sau khi Crôm Oen qua đời (1658), nước Anh lâm
vào tình trạng không ổn định về chính trị, dẫn đến sự thỏa hiệp giữa Quốc hội với
lực lượng phong kiến cũ. Tháng 12/1688, Quốc hội tiến hành chính biến, đưa Vin

12


Hem Ô-Ran-Giơ (rể Vua Anh, Quốc trưởng Hà Lan) lên ngôi vua thiết lập chế độ
quân chủ lập hiến”.
Về sự kiện này, trong cuốn Tư bản, Quyển 1, tập 3, trang 233, Mác viết:
“Cuộc cách mạng vẻ vang đã đưa Guy-Ôm III, ông hoàng xứ Ô-Ran-Giơ lên địa vị
thống trị và cùng với ông, những bọn người làm tiền, địa chủ quí tộc và những nhà
tư bản không quí tộc”.
Như vậy, trong quá trình dạy, khi nói đến cuộc chính biến tháng 12/1688,
giáo viên trích dẫn nhận định trên của Mác sẽ giúp học sinh hiểu rõ:
- Về mặt kiến thức: sau sự kiện tháng 12/1688, thống trị nước Anh không chỉ
có Vin Hem Ô-Ran-Giơ mà còn có cả địa chủ quí tộc và những nhà tư bản không
quí tộc. Do đó, mặc dù có Vua nhưng không phải là chế độ quân chủ mà là “Quân
chủ lập hiến” (nền quân chủ của một nước do vua đứng đầu nhưng vua chỉ mang
tính chất tượng trưng, còn quyền lực tập trung trong tay Nghị viện). Việc trích dẫn
nhận định này của Mác sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn về bản chất của nền quân chủ
lập hiến ở Anh sau cuộc chính biến 12/1688.

- Về mặt thái độ: từ việc hiểu rõ được bản chất của chế độ quân chủ lập
hiến ở Anh, giáo viên giúp cho học sinh nắm được sự khác nhau giữa các chế độ
chính trị, từ đó hiểu được con đường mà dân tộc mình đang đi. Từ đó các em sẽ tin
vào chủ nghĩa cộng sản, có tinh thần quốc tế vô sản chân chính, có lý tưởng cách
mạng cao đẹp, từ đó giúp cho học sinh có thái độ và hành động đúng đắn trong
cuộc sống hiện tại.
 Về giai cấp lãnh đạo cách mạng tư sản Anh
Ở mục 2. Cách mạng tư sản Anh (SGK lịch sử 10 - Ban cơ bản), khi nói về
kết quả và tính chất của cuộc cách mạng tư sản Anh, SGK viết: “Lãnh đạo cách
mạng tư sản Anh là do quí tộc mới liên minh với giai cấp tư sản, nên nhiều tàn dư
của chế độ phong kiến không bị xóa bỏ. Cách mạng chỉ đáp ứng quyền lợi cho giai
cấp tư sản và quí tộc mới, còn nhân dân không được hưởng gì mà còn tiếp tục bị
chiếm ruộng đất”.
13


Như vậy, có nghĩa là SGK giải thích tính chất không triệt để của cách mạng
tư sản Anh là do “Lãnh đạo cách mạng là do quí tộc mới liên minh với giai cấp tư
sản”.
Mác và Ăng-ghen trong Tuyển tập, Matxcơva, 1948, Tập 1, trang 41 đã viết
về sự liên minh này như sau: “Trong cuộc cách mạng tư sản Anh, giai cấp tư sản
liên minh với tầng lớp quí tộc mới đã đấu tranh chống chế độ quân chủ, chống quí
tộc phong kiến và chống giáo hội thống trị”.
Như vậy, trong quá trình dạy, khi nói về kết quả và tính chất của cuộc cách
mạng tư sản Anh, giáo viên trích dẫn ý kiến này của Mác và Ăngghen sẽ giúp học
sinh nhận thức được rằng:
- Về mặt kiến thức: khi nêu ra giai cấp lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản Anh
là liên minh giữa quí tộc mới với giai cấp tư sản không phải chỉ để giải thích tính
chất không triệt để của cách mạng mà còn nêu lên được vai trò lãnh đạo của giai
cấp tư sản và quí tộc mới, để giải thích sự thắng lợi của cách mạng tư sản Anh (tức

là nếu không có liên minh trên thì cách mạng không thể giành thắng lợi).
- Về mặt thái độ: giúp học sinh có những nhận thức đúng đắn về vai trò của
giai cấp lãnh đạo trong một cuộc cách mạng. Từ đó, hình thành ở các em niềm tin
vào đường lối lãnh đạo của Đảng ta.
Giáo án minh họa: Phụ lục 1
* Trong bài 30: Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc
Mĩ (SGK lịch sử lớp 10 - Ban cơ bản)
Về Tuyên ngôn độc lập
Khi dạy mục 2. Diễn biến chiến tranh và sự thành lập Hợp chúng quốc Mĩ,
nói về sự ra đời của bản Tuyên ngôn độc lập, SGK viết: “Ngày 4/7/1776, Đại hội
thông qua bản Tuyên ngôn độc lập, tố cáo chế độ áp bức thuộc địa của thực dân
Anh và chính thức tuyên bố 13 thuộc địa thoát ly khỏi chính quốc, thành lập một
quốc gia độc lập - Hợp chúng quốc Mĩ”.

14


Trong bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ chí Minh đọc tại quảng
trường Ba Đình ngày 2/9/1945, Hồ Chủ Tịch nhắc lại lời bất hủ trong bản Tuyên
ngôn độc lập của nước Mĩ:
“Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh: “Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc
lập năm 1776 ở nước Mĩ. Câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều
sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do...”
Việc trích dẫn câu nói này của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào bài giảng, sẽ giúp
học sinh:
- Về mặt kiến thức: hiểu hơn về ý nghĩa trọng đại của bản Tuyên ngôn độc

lập năm 1776 của nước Mĩ. Khẳng định một lần nữa về các quyền tự do, dân chủ tư
sản, lần đầu tiên nhân quyền và quyền công dân được chính thức công bố trước
toàn thể nhân loại, nó được đề cao như một thách thức với sự thống trị của chế độ
quân chủ chuyên chế đang thống trị khắp châu Âu. Tuyên ngôn khẳng định chỉ có
nhân dân mới có quyền thiết lập chính quyền và hủy bỏ chính quyền khi nó đi
ngược với lợi ích của quần chúng. Tuyên ngôn là một văn kiện có tính chất dân chủ
tự do, thấm nhuần tinh thần thời đại.
- Về mặt thái độ:
+ Học sinh nhận thức được các quyền của con người và quyền công dân Đó là quyền tự nhiên và tuyệt đối của con người.
+ Qua bản Tuyên ngôn cũng đã nêu lên được vai trò to lớn của quần chúng
trong cách mạng. Từ đó, giúp học sinh thấy được động lực đưa đến thắng lợi của
cách mạng - quần chúng nhân dân, họ là lực lượng hùng hậu của các cuộc cách
mạng.
Về ý nghĩa của cuộc chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mĩ
15


Khi dạy mục 3. Kết quả và ý nghĩa của cuộc chiến tranh giành độc lập,
SGK viết: “Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa đã giải phóng Bắc Mĩ
khỏi sự thống trị của thực dân Anh, thành lập một nhà nước mới, mở đường cho
kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Mĩ phát triển”.
Đánh giá về ý nghĩa của chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở
Bắc Mĩ, trong cuốn Lênin, Toàn tập, tập 28, trang 44, Lênin gọi cuộc chiến tranh
này là cuộc chiến tranh của “nhân dân Mĩ chống bọn kẻ cướp Anh”. Lênin còn chỉ
ra rằng: “Đây là cuộc chiến tranh vĩ đại, thật sự giải phóng, thật sự cách mạng”.
Như vậy, trong bài giảng, giáo viên đưa các đánh giá trên của Lênin vào sẽ
giúp học sinh:
- Về mặt kiến thức: hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa và tính chất của cuộc chiến
tranh này - Cuộc chiến tranh đầu tiên nêu lên yêu cầu giải phóng dân tộc và sau
cuộc chiến, 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ đã giành được độc lập, thoát khỏi sự thống

trị của thực dân Anh và thành lập Hợp chúng Mĩ - quốc gia độc lập đầu tiên ở châu
Mĩ.
- Về mặt thái độ: giúp học sinh thấy được ý nghĩa to lớn của nền độc lập
dân tộc bởi tất cả các quốc gia đều ra sức đấu tranh để bảo vệ nền độc lập ấy. Từ
đó, giúp cho học sinh có thái độ và hành động đúng đắn trong cuộc sống hiện tại.
Giáo án minh họa: Phụ lục 2
* Trong bài 31: Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII
(SGK lịch sử lớp 10 - Ban cơ bản)
Về nguyên nhân thắng lợi của cách mạng tư sản Pháp
Khi nói về nguyên nhân thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản Pháp, SGK có
nêu lên các biện pháp mà phái Gia-cô-banh thực hiện trong cách mạng như: giải
quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, ban bố rộng rãi các quyền tự do dân chủ, xóa
bỏ sự bất bình đẳng trong xã hội... Tất cả đã góp phần thủ tiêu chế độ phong kiến,
tạo ra được tầng lớp nông dân tự do tiểu tư hữu, cơ sở xã hội của chủ nghĩa tư bản.

16


Đây chính là điểm mấu chốt để phân biệt cách mạng tư sản Pháp với các cuộc cách
mạng tư sản khác.
Mác nhận định: “Giai cấp tư sản Pháp năm 1789 không một lúc nào từ bỏ
đồng minh của nó - những người nông dân. Nó biết rằng nền tảng của sự thống trị
của nó là sự thủ tiêu chế độ phong kiến ở nông thôn, là sự thành lập giai cấp nông
dân tư hữu tự do”.
Lênin chỉ ra rằng: “Việc dùng những biện pháp thực sự cách mạng để đánh
đổ chế độ phong kiến là chế độ đã hết thời, việc toàn quốc chấp nhận một cách
mau chóng với một tinh thần cương quyết và hi sinh thật sự dân chủ và cách mạng
một phương thức cao hơn, tiếp nhận nông dân được quyền sở hữu ruộng đất một
cách tự do, đó là những điều kiện vật chất, những điều kiện kinh tế đã cứu được
nước Pháp một cách nhanh chóng “thần kì” đồng thời đã cải tạo, đổi mới cơ sở

kinh tế nước ấy”.
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Dân Pháp tuy lương thực ít, súng ống thiếu nhưng chỉ nhờ gan cách mạng
mà trong dẹp nội loạn, ngoài phá cường quyền”.
Những dẫn chứng trên được đưa vào trong bài giảng, sẽ giúp học sinh:
- Về mặt kiến thức: thấy rõ được nguyên nhân đưa đến thắng lợi của cuộc
đại cách mạng này. Đó là:
+ Giai cấp tư sản Pháp là lực lượng chính trị độc lập, có địa vị trong xã hội,
thực sự nắm quyền lãnh đạo (không có quý tộc mới)
+ Vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng
+ Được trang bị bởi một hệ tư tưởng tiên tiến
+ Nổ ra sau cách mạng tư sản Anh nên cách mạng Pháp tiếp thu được kinh
nghiệm.
- Về mặt thái độ:

17


+ Học sinh thấy được vai trò to lớn của giai cấp lãnh đạo và quần chúng nhân
dân trong cách mạng, họ là lực lượng đưa cách mạng đi lên, là người sáng tạo ra
lịch sử và quyết định sự phát triển của lịch sử.
+ Các em biết trân trọng những quan điểm tiến bộ của Triết học Ánh sáng
trong cuộc tấn công vào thành trì của chế độ phong kiến, dọn đường cho cuộc cách
mạng tư sản Pháp bùng nổ.
Về tính chất và ý nghĩa của cách mạng tư sản Pháp 1789
Mục III SGK. Ý nghĩa của cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII, theo
phân phối chương trình là phần đọc thêm, nhưng sau khi tìm hiểu xong mục II.
Tiến trình của cách mạng, giáo viên nói về ý nghĩa to lớn của cách mạng tư sản
Pháp cho học sinh hiểu hơn về cuộc Đại cách mạng này. Khi nói về ý nghĩa của
cách mạng tư sản Pháp, SGK viết: “Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII đã

lật đổ chế độ phong kiến chuyên chế từng thống trị nước Pháp trong nhiều thế kỉ,
hoàn thành nhiệm vụ của một cuộc cách mạng tư sản...”
Về vấn đề này, trong cuốn Mác - Ăngghen, tuyển tập, tập 1, trang 624, Mác
viết: “Nhát chổi khổng lồ của cuộc cách mạng tư sản Pháp thế kỉ XVIII đã quét
sạch tất cả các tàn tích của các thời đã qua”.
Lênin trong cuốn Lênin, Hà Nội, 1963, trang 55, nhận xét: “Cách mạng
Pháp xứng đáng là một cuộc đại cách mạng. Nó đã làm biết bao điều cho giai cấp
của nó (tức giai cấp tư sản) để đến trọn thế kỉ XIX, thế kỉ đem lại ánh sáng văn
hóa, văn minh cho nhân loại đều diễn ra dưới ảnh hưởng của cuộc cách mạng
này”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thư gửi những người Pháp ở Đông Dương có
viết: “Chúng tôi không ghét không thù gì dân tộc Pháp, trái lại chúng tôi kính phục
dân tộc ấy đã là kẻ đầu tiên truyền bá tư tưởng rộng rãi vì tự do, bình đẳng, bác ái
và đã cống hiến rất nhiều cho văn hóa, khoa học và cho văn minh”. Chính vì vậy
trong bản Tuyên ngôn độc lập đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945, Người
đã nhắc lại những lời bất hủ của Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách
18


mạng Pháp 1789: “Người ta sinh ra được tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải
luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Trong bài giảng, giáo viên đưa các trích dẫn trên vào sẽ góp phần tăng
thêm hiệu quả bài giảng, giúp học sinh:
- Về mặt kiến thức: hiểu hơn về cuộc Đại cách mạng tư sản Pháp - Một
cuộc cách mạng “long trời lở đất” được coi là điển hình nhất, triệt để nhất trong
khuôn khổ các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại.
- Về mặt thái độ: giúp học sinh có cái nhìn khách quan hơn, không ác cảm
dân tộc với dân tộc Pháp mà càng trở nên kính phục bởi không chỉ họ đã làm nên
thắng lợi của cuộc đại cách mạng này mà còn vì “chính dân tộc ấy đã là kẻ đầu
tiên truyền bá tư tưởng rộng rãi vì tự do, bình đẳng, bác ái và đã cống hiến rất

nhiều cho văn hóa, khoa học và cho văn minh”.
Giáo án minh họa: Phụ lục 3
* Trong bài 33: Hoàn thành cách mạng tư sản ở Châu Âu và Mĩ giữa
thế kỉ XIX (SGK lịch sử lớp 10 - Ban cơ bản)

 Về nguyên nhân quá trình thống nhất nước Đức
Khi dạy mục 1. Cuộc đấu tranh thống nhất nước Đức, nói về nguyên nhân
của cuộc đấu tranh thống nhất nước Đức, SGK viết: “Đến giữa thế kỉ XIX, kinh tế
tư bản chủ nghĩa ở Đức phát triển nhanh chóng; từ một nước nông nghiệp, Đức trở
thành nước công nghiệp”.
Ăngghen trong cuốn Cách mạng dân chủ tư sản Đức, NXB Khoa học, trang
16, cho biết: “Trong vòng 20 năm ấy, nước Đức đã sản xuất nhiều hơn so với cái
mà cả thế kỉ của một thời đại khác mang lại”.
Và như vậy, thông qua dẫn chứng này, giúp học sinh thấy được rằng; chính
sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất tư bản chủ nghĩa là nguyên nhân thúc đẩy quá
trình thống nhất nước Đức.
Về tính chất của sự nghiệp thống nhất nước Đức

19


Khi dạy mục 1. Cuộc đấu tranh thống nhất nước Đức, nói về tính chất của
sự nghiệp thống nhất nước Đức, SGK viết: “Việc thống nhất nước Đức mang tính
chất là một cuộc cách mạng tư sản. Do giai cấp quí tộc Phổ thực hiện “từ trên
xuống” bằng con đường chiến tranh”.
Mác trong cuốn Mác, Ăngghen, Tuyển tập, tập 2, trang 33 nhận xét: “Một
nền chuyên chính quân sự được tổ chức theo lối quan liêu, được bảo vệ bằng cảnh
sát, được trang sức bằng những hình thức nghị viện, với một mớ hỗn hợp những
tạp chất phong kiến và những ảnh hưởng của giai cấp tư sản”.
Nhận định này của Mác góp phần làm cho học sinh:

- Về mặt kiến thức: hiểu hơn nhận định trong SGK: “Nước Đức dần dần bị
quân phiệt hóa theo kiểu Phổ và trở thành trung tâm gây chiến ở châu Âu”.
- Về mặt thái độ: giúp học sinh nhận thức đúng đắn được vai trò của quần
chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh cách mạng. Bởi nếu các cuộc chiến tranh
được thực hiện theo lợi ích của giai cấp lãnh đạo thì sẽ đi chệch với lợi ích của
quần chúng, xa rời quần chúng.
Về nguyên nhân của nội chiến Mĩ
Dạy mục 3. Nội chiến ở Mĩ, khi nói về nguyên nhân của nội chiến ở Mĩ,
SGK viết: “Mâu thuẫn giữa tư sản và trại chủ miền Bắc với các chủ nô ở miền
Nam càng thêm gay gắt...”
Mác trong cuốn Mác, Ăngghen, Toàn tập, tập 12, trang 251 viết rằng đây là
“cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội - hệ thống lao động nô lệ và hệ thống lao
động tự do”.
Nhận định này của Mác giúp học sinh thấy được rằng:
- Về mặt kiến thức: mâu thuẫn giữa tư sản và trại chủ miền Bắc với ruộng
đất nằm trong tay các trại chủ và nông dân tự do phát triển kinh tế công nghiệp tư
bản chủ nghĩa với các chủ nô ở miền Nam phát triển kinh tế đồn điền dựa trên sự
bóc lột sức lao động của nô lệ đã trở thành cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống đối lập
nhau. Vì cả hai hệ thống không thể cùng tồn tại song song được nên nội chiến đã
20


diễn ra nhằm thanh toán các lực lượng bảo thủ, giải phóng nô lệ, mở đường cho
kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển trong cả nước. Chính vì vậy, cuộc nội chiến ở
Mĩ đã thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Không chỉ hạn chế trong
những người nô lệ da đen mà đã lan sang cả những người da trắng giàu có, chủ tư
bản. Họ đấu tranh vì quyền sống của mình. Họ nhận thức được rằng: Nước Mĩ nơi
mà “ở đó lao động da đen bị sỉ nhục và đầy đọa, thì lao động da trắng cũng không
được giải phóng” (Mác - Tư bản - Quyển I, tập 1 - XNB Sự thật, 1959, trang 406 407).
- Về mặt thái độ: giúp học sinh thấy rõ: “Mâu thuẫn giữa các mặt đối lập

chính là động lực của sự phát triển” - Đó là qui luật tất yếu của sự phát triển xã hội.
Về ý nghĩa của cuộc nội chiến ở Mĩ
Dạy mục 3. Nội chiến ở Mĩ, khi nói về ý nghĩa của cuộc nội chiến ở Mĩ,
SGK viết rằng: “Cuộc nội chiến 1861-1865 là cuộc cách mạng tư sản lần thứ hai ở
Mĩ, kể từ sau chiến tranh giành độc lập, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản ở khu
vực này phát triển”.
Lênin trong cuốn Lênin, Toàn tập, tập 37, trang 58 viết: “Nội chiến ở Mĩ có
ý nghĩa tiến bộ, ý nghĩa cách mạng, ý nghĩa lịch sử thế giới lớn lao...”
Ý kiến này của Lênin được trích dẫn trong bài giảng sẽ giúp học sinh:
- Về mặt kiến thức: Hiểu hơn về ý nghĩa to lớn của cuộc nội chiến ở Mĩ.
Đó là: dựa vào lực lượng cách mạng của quần chúng (những chủ trại, dân tự do và
người da đen), giai cấp tư sản miền Bắc đã xóa bỏ chế độ nô lệ ở miền Nam, đông
đảo những người nô lệ da đen bao đời tủi nhục dưới ách áp bức của chủ nô cuối
cùng đã được tự do, hăm hở gia nhập quân đội Liên bang chiến đấu ngoan cường
chống bọn chủ nô miền Nam. Sau cách mạng, một số trở thành nông dân lĩnh canh,
một số bổ sung vào kinh tế công thương nghiệp miền Bắc tham gia phát triển kinh
tế, tạo điều kiện cho kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Mĩ phát triển nhanh chóng. Và đến
cuối thế kỉ XIX, Mĩ đã tiến hành cách mạng công nghiệp, đưa Mĩ lên vị trí hàng
đầu thế giới.
21


- Về mặt thái độ: Hình thành cho học sinh niềm tin tất thắng vào con đường
cách mạng do quần chúng nhân dân thực hiện.
Giáo án minh họa: Phụ lục 4
7.3 Kết quả đạt được
Trước những đòi hỏi của môn học và thực tế của việc học lịch sử ở trường
THPT, là một giáo viên trẻ, tôi luôn trăn trở làm thế nào để việc dạy môn lịch sử có
hiệu quả hơn. Năm học 2017 - 2018, được phân công giảng dạy lịch sử khối 10 Ban cơ bản, tôi đã tiến hành thí điểm phương pháp dạy học mới trong phần lịch sử:
“Các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại” bằng việc vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào bài giảng lịch sử để giúp học sinh hiểu đúng

bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử, từ đó có những đánh giá đúng đắn, không
sai lệch bản chất vấn đề. Đồng thời qua đó, hình thành thế giới quan tiến bộ cho
học sinh.
Để kiểm tra hiệu quả của việc vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào bài giảng lịch sử, tôi đã tiến hành thực
nghiệm ở lớp 10A6 và lớp 10A9 là lớp đối chứng.
Ở lớp 10A9: khi dạy phần lịch sử “Các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại”,
khi nêu ra những nhận định, kết luận trong SGK, tôi không đưa ra những ý kiến
đánh giá, nhận xét của Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh để học sinh so sánh,
đưa ra ý kiến của bản thân về nhận thức vấn đề. Kết quả là học sinh không khắc sâu
được kiến thức. Học sinh chỉ nhớ máy móc mà không nắm được bản chất nên rất
nhanh quên. Nhiều khi đánh giá sai bản chất sự việc.
Ở lớp 10A6 thì ngược lại, khi dạy phần lịch sử “Các cuộc cách mạng tư sản
thời cận đại”, khi nêu ra những nhận định, kết luận trong SGK, tôi trích dẫn những
ý kiến đánh giá, nhận xét của Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh để học sinh so
sánh, đánh giá và có cái nhìn sâu sắc hơn vấn đề. Đồng thời, trong quá trình dạy
học, tôi thường xuyên đưa ra những câu hỏi với nội dung nhằm khắc sâu bản chất.
Tôi đã nhận thấy kết quả rất khả quan. Đa số các em hiểu bài, nắm vững trọng tâm,
22


biết vận dụng kiến thức, đánh giá đúng bản chất sự vật. Từ đó, có cái nhìn đúng đắn
về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, hình thành thế giới quan tiến bộ.
Học hết phần: “Các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại”, tôi đã cho học sinh
kiểm tra một tiết để kiểm tra hiệu quả của việc vận dụng quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Kết quả như sau:
Bảng điểm: Phụ lục 5
Điểm
Lớp


Số học sinh

10A9

35

10A6

35

9-10
SL
%
4
11,4
8

22,9

7-8

5-6

<5

SL
15

%
42,8


SL
16

%
45,7

SL
0

%
0

24

68,6

3

8,6

0

0

Thông qua các số liệu trên, ta nhận thấy sự khác biệt rõ ràng giữa lớp đối
chứng và lớp thực nghiệm về hiệu quả của việc vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với kết quả trên, tôi rất vui khi thấy mình đã thành công với việc đổi mới
phương pháp dạy học và tôi sẽ cố gắng học hỏi, tìm tòi để cho việc dạy môn lịch sử

ngày càng tốt hơn.

KẾT LUẬN
Qua việc tiến hành thực hiện sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao hiệu quả
học tập cho học sinh thông qua tích hợp chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh vào bài giảng lịch sử phần: các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại
(SGK lịch sử 10 - Ban cơ bản)” tôi rút ra một số kết luận sau:
Việc dạy học tích hợp, đặc biệt tích hợp chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử đóng vai trò quan trọng trong đổi mới giáo dục.
23


Cũng giống như các môn học khác, dạy học lịch sử theo phương pháp và kỹ thuật
dạy học tích cực được thể hiện ở chỗ học sinh được hình thành và phát triển tối đa
năng lực thông qua dạy học hợp tác của giáo viên và học tập hợp tác của học sinh,
trong đó có năng lực vận dụng kiến thức liên môn.
Đặc biệt khi vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào phần lịch sử
thế giới cận đại (các cuộc cách mạng tư sản), giáo viên đã giúp các em có cái nhìn
toàn diện, sâu sắc các vấn đề lịch sử. Từ đó, năng lực khái quát, tổng hợp của các
em được hình thành và phát triển. Các em có thể đánh giá một cách khách quan về
các đối tượng lịch sử (ví dụ: giai cấp tư sản đã bóc lột giai cấp vô sản một cách tàn
tệ nhưng giai cấp tư sản vẫn giữ một vai trò quan trọng trong tiến trình lịch sử nhân
loại...).
Bên cạnh đó, chúng ta đã biết tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả
của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam,
kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là tài sản tinh thần quý giá của Đảng và dân tộc ta, là nguồn gốc dẫn đến

những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh được
Đảng ta xác định là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Vì thế, khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong các bài giảng lịch sử, giáo
viên đã gián tiếp giáo dục học sinh - các thế hệ trẻ noi theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh. Theo thời gian, những tư tưởng của Người sẽ dần thấm sâu vào tâm hồn
của các em, hình thành nên những đức tính tốt đẹp trong mỗi cá nhân.
Qua thực tiễn giảng dạy, tôi đã nhận thấy có sự thay đổi trong tư tưởng của
hầu hết học sinh. Mặc dù sự thay đổi này chưa thể hiện một cách rõ ràng và đồng
loạt. Nhưng theo thời gian, các em sẽ có những cái nhìn thiện cảm hơn với bộ môn
lịch sử, hiểu sâu hơn các vấn đề lịch sử.
24


Khi khi vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng
Hồ Chí Minh vào bài học, càng làm tăng tính khoa học và chính xác của môn học
lịch sử. Do đó, giáo viên cần mở rông vận dụng hơn nữa không chỉ trong phần lịch
sử thế giới cận đại mà ở tất cả các giai đoạn lịch sử.
Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã áp dụng trong giờ lên lớp
và cũng đạt được những hiệu quả nhất định. Hi vọng những kinh nghiệm đó sẽ làm
phong phú thêm vốn kinh nghiệm trong dạy học lịch sử cho đồng nghiệp. Sáng kiến
này chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót, kính mong các đồng chí trao đổi, góp ý để tôi
rút kinh nghiệm đồng thời góp phần làm cho bộ môn Lịch sử thực sự học sinh yêu
thích và tăng hứng thú trong giờ học lịch sử.
8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không có.
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến.
Để thực hiện sáng kiến có hiệu quả cần có một số điều kiện:
- Phương tiện, trang thiết bị là thành phần không thể thiếu được trong quá
trình dạy học nói chung và dạy môn lịch sử nói riêng. Đây là điều kiện cần, là cơ sở
để thực hiện dạy học thành công. Dạy học theo định hướng phát triển các năng lực
của học sinh cần không gian rộng rãi, thoải mái, đủ ánh sáng; cần các phương tiện

dạy học đầy đủ như máy tính, mạng internet, máy chiếu, tài liệu học tập, giấy viết,
băng dán, bút dạ, bảng ghim …
- Giáo viên phải thường xuyên cập nhật và thực hiện các phương pháp dạy
học tích cực, các kỹ thuật dạy học để phát huy hết những khả năng của học sinh
đồng thời có thể lồng ghép những kiến thức liên quan tới bài học. Giáo viên phải là
người không ngại khó, không ngại khổ, phải lựa chọn những nội dung có thể tích
hợp với từng nội dung bài học, giúp bài học phong phú, trở nên hấp dẫn với học
sinh.
- Giáo viên phải thường xuyên trao đổi, chia sẻ chuyên môn với đồng nghiệp
bởi sự khác nhau về trí tuệ, trình độ, cách thức tư duy, phong cách tác phong nhà
giáo … Thông qua sự tác động qua lại mà giáo viên có thể gợi ý cho nhau, bổ sung
25


×