Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

SKKN áp dụng kỹ thuật brainstorming trong các tiết dạy tiếng anh chương trình mới cho học sinh THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.03 KB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT NGÔ GIA TỰ
-----šš&šš-----

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến:

“ÁP DỤNG KỸ THUẬT “BRAINSTORMING” TRONG
CÁC TIẾT DẠY TIẾNG ANH CHƯƠNG TRÌNH MỚI
CHO HỌC SINH THPT”

Tác giả sáng kiến: ĐÒAN THỊ THANH LOAN
Mã sáng kiến: ...............….

Lập Thạch, tháng 01 năm 2020
1


MỤC LỤC
1. Lời giới thiệu
2. Tên sang kiến
3. Tác giả sang kiến
4. Chủ đầu tư tạo ra sang kiến
5. Lĩnh vực áp dụng sang kiến
6. Ngày sang kiến được áp dụng lần đầu
7. Mô tả bản chất của sang kiến
7.1. Về nội dung của sáng kiến:
I.Khái niệm “Brainstorming”
II. Cách thức tiến hành BSM.


III. Vai trò của BSM trong việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH)
IV.Thực trạng của việc dạy và học tiếng anh
V. Giai pháp nâng cao hiệu quả của việc dạy và học tiêng anh bằng cách áp
dụng BRAINSTORMING.
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
8. Những thông tin cần được bảo mật
9. Các điều kiện cần để áp dụng sang kiến
10.Đánh gí lợi ích của sang kiến
10.1. Lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
10.2. Lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của các tổ chức cá nhân:
11. Danh sách những tổ chức, cá nhân tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu.

2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
THPT :

Trung học Phổ thông

THCS:

Trung học cơ sở

BSM:

Brainstorming

PPDH:


Phương pháp dạy học

PTDH:

Phương tiện dạy học

KTDH :

Kỹ thuật dạy học

3


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:

Xã hội càng ngày càng phát triển. Do đó, nhu cầu giao tiếp, học tập,
nghiên cứu…không ngừng tăng lên. Điều đó đồng nghĩa với việc con người
không thể chỉ biết và sử dụng một ngôn ngữ nhất định (tiếng mẹ đẻ). Việc
học tập và sở hữu thêm một ngoại ngữ nào đó - đặc biệt là tiếng Anh, một
phương tiện giao tiếp quốc tế hữu hiệu - dần trở thành một nhu cầu thiết yếu.
Vì vậy, dạy và học tiếng Anh tại trường phổ thông là một tất yếu để đưa con
người dần tiến đến cái đích của sự giao tiếp quốc tế đa phương diện.
Như một xu hướng phát triển tất yếu, Giáo dục cũng phải có nhiều thay
đổi để phù hợp với những yêu cầu mới của xã hội hiện đại. Tiếng Anh đã trở
thành một môn học bắt buộc trong hệ thống Giáo dục quốc dân ở Việt Nam.
Cũng như bất kỳ một môn học nào khác, cộng thêm những yếu tố mang tính
chất đặc thù bộ môn, việc dạy và học tiếng Anh đòi hỏi những phương pháp,
phương tiện dạy học phù hợp và thường xuyên được đổi mới. Hướng đổi mới

là giảng dạy đạt hiệu quả và chất lượng, lấy người học làm trung tâm. Để một
giờ học Ngoại Ngữ đạt kết quả, giáo viên phải tìm ra những phương pháp dạy
học phù hợp, những hỗ trợ thích hợp từ phương tiện dạy học, phù hợp với
từng tiết dạy, từng đối tượng học sinh và đặc biệt là thật hứng thú. Điều này
có nghĩa là, trong khoảng thời gian cho phép của một tiết dạy vấn đề mà giáo
viên cần quan tâm không phải là mình đã làm được những gì mà là học sinh
có tâm trạng, tâm thế, thái độ như thế nào đối với các hoạt động mà giáo viên
tổ chức và mức độ tham gia của từng đối tượng học sinh vào hoạt động đó.
4


Với thực tế giảng dạy tại trường, đa phần học sinh có vốn tích lũy về
kiến thức ngôn ngữ tiếng Anh rất ít. Vì vậy nếu giáo viên chỉ giảng dạy theo
một cách thức đơn điệu, lặp lại thì sự buồn tẻ, nhàm chán của không khí tiết
học cộng với sự e ngại, rụt rè của học sinh sẽ khiến cho tư duy của các em
dần trở nên ngại và lười hoạt động. Khi giáo viên đặt học sinh vào những tình
huống có vấn đề và yêu cầu các em phải tìm cách giải quyết chúng, giải quyết
độc lập, theo cặp hay theo nhóm, thì buộc học sinh phải suy nghĩ theo các
hướng khác nhau, nhìn nhận vấn đề theo nhiều cách, nhiều khía cạnh và từ đó
tìm ra cách tốt nhất cho vấn đề đó.
Chính vì lý do đó tôi đã mạnh dạn đề xuất ý tưởng áp dụng kỹ thuật
“brainstorming” trong các tiết dạy tiếng Anh chương trình mới cho học
sinh THPT. Việc áp dụng kỹ thuật này sẽ giúp học sinh làm việc một cách
tích cực, tự giác và chủ động, ngoài ra còn thúc đẩy sự tự tin và sáng tạo của
các em, tạo cho các em một thói quen tốt trong học tập và một kĩ năng trong
cuộc sống: biết nhìn nhận một vấn đề nào đó toàn diện hơn.
2. Tên sáng kiến: “ÁP DỤNG KỸ THUẬT “BRAINSTORMING” TRONG
CÁC TIẾT DẠY TIẾNG ANH CHƯƠNG TRÌNH MỚI
CHO HỌC SINH THPT”
3. Tên tác giả:

- Họ và tên: ĐOÀN THỊ THANH LOAN
- Địa chỉ: Trường THPT Ngô Gia Tự - Lập Thạch - Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0362 929 905

Email:

4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
ĐOÀN THỊ THANH LOAN
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
5


Áp dụng trong ngành giáo dục về việc dạy tiếng anh cho học sinh THPT
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:
Từ tháng 09 năm 2019
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1.Về nội dung của sáng kiến:

I.Khái niệm “Brainstorming”
Brainstorming (BSM) (Công não/Tấn công não/tập kích não/Động não)
là một kỹ thuật ban đầu được tạo ra để tìm ý tưởng trong làm việc theo nhóm.
Kỹ thuật này được Alex F. Osborn (1888 -1966), một nhà quản trị quảng cáo
người Mỹ, đề cập trong cuốn sách Applied Imagination: Principles and
Procedures of Creative Problem Solving. Trong cuốn sách này ông miêu tả
BSM như là một kỹ thuật hội ý bao gồm một nhóm người nhằm tìm ra lời
giải cho vấn đề đặc trưng bằng cách góp nhặt tất cả ý kiến của nhóm người
đó nảy sinh trong cùng một thời gian theo một nguyên tắc nhất định. Đây là
một phương pháp đặc sắc, dùng sơ đồ tư duy (Mind Map) là một công cụ hỗ
trợ, để phát triển nhiều giải pháp sáng tạo cho một vấn đề. Phương pháp này
hoạt động bằng cách nêu các ý tưởng tập trung trên vấn đề, từ đó rút ra rất

nhiều giải pháp căn bản cho nó. Các ý niệm/ hình ảnh về vấn đề trước hết
được nêu ra một cách rất phóng khoáng và ngẫu nhiên theo dòng suy nghĩ
càng nhiều, càng đủ càng tốt. Các ý kiến có thể rất rộng và sâu cũng như
không giới hạn bởi các khía cạnh nhỏ nhặt nhất của vấn đề mà những người
tham gia nghĩ tới. Trong BSM thì vấn đề được đào bới từ nhiều khía cạnh và
nhiều cách nhìn khác nhau. Sau cùng các ý kiến sẽ được phân nhóm và đánh
giá.

6


Với đặc điểm như vậy, từ lâu người ta đã sử dụng kỹ thuật này vào trong
rất nhiều lĩnh vực đặc biệt là những lĩnh vực, hoạt động cần sự đột phá,
sáng tạo và độc đáo như:
- Phát triển sản phẩm mới
- Quảng cáo
- Giải quyết vấn đề
- Quá trình quản trị
- Quản trị dự án
- Xây dựng nhóm
- Xây dựng kế hoạch kinh doanh
Và dần dần, kỹ thuật này được áp dụng vào quá trình dạy học nhằm mang
đến cho học sinh, sinh viên một cách thức làm việc mới chủ động, sáng tạo,

7


tích cực để giải quyết các nhiệm vụ và tình huống học tập của bản thân và
của tập thể lớp.
II. Cách thức tiến hành BSM.

BSM có thể tiến hành bởi một hay nhiều người. Số lượng người tham
gia nhiều sẽ giúp cho phương pháp tìm ra lời giải được nhanh hơn hay toàn
diện hơn nhờ vào nhiều góc nhìn khác nhau bởi các trình độ, trình tự khác
nhau của mỗi người. Theo A. Osborn, để tiến hành BSM theo nhóm cần có
các bước sau:
a.

Trong nhóm chọn ra một nhóm trưởng để điều khiển và một người thư
ký để ghi lại tất cả ý kiến (cả hai công việc có thể do cùng một người
thực hiện).

b.

Xác định vấn đề hay ý kiến sẽ được BSM. Phải làm cho mọi thành viên
trong nhóm hiểu thấu đáo về đề tài sẽ được tìm hiểu.

c.

Thiết lập các "luật chơi" cho hoạt động BSM. Chúng nên bao gồm:


Nhóm trưởng có nhiệm vụ điều khiển buổi làm việc.



Không một thành viên nào có quyền đòi hỏi hay cản trở, đánh
giá, phê bình hay thêm bớt vào ý kiến, từ vựng nêu ra, hay giải đáp
của thành viên khác.




Cần xác định rằng không có câu trả lời nào là sai.



Tất cả câu trả lời, các ý, các cụm từ, ngoại trừ nó đã được lặp lại
đều sẽ được thu thập và ghi lại (cách ghi có thể tóm gọn trong một
chữ, một từ hay một câu cho mỗi ý riêng rẽ).



Vạch định thời gian cho hoạt động và ngưng khi hết giờ.
8


d.

Bắt đầu BSM: Nhóm trưởng chỉ định hay lựa chọn thành viên chia sẻ ý
kiến trả lời (hay những ý niệm rời rạc). Người thư ký phải viết xuống
tất cả các câu trả lời, nếu có thể công khai hóa cho mọi người thấy (viết
lên bảng chẳng hạn). Không cho phép bất kỳ một ý kiến đánh giá hay
bình luận nào về bất kỳ câu trả lời nào cho đến khi chấm dứt hoạt động
BSM. Trong suốt quá trình này nhóm trưởng phải là người biết cách
cân bằng hoạt động của tất cả các thành viên trong nhóm sao cho mỗi
người đều có cơ hội đưa ra ý kiến cá nhân của mình, tránh tình trạng
một vài người quá tích cực còn những người khác thì hầu như không
có ý kiến gì.

e.


Sau khi kết thúc hoạt động, hãy lượt lại tất cả và bắt đầu đánh giá các
câu trả lời. Một số lưu ý về chất lượng câu trả lời, bao gồm:


Tìm những câu ý trùng lặp hay tương tự để thu gọn lại.



Góp các câu trả lời có sự tương tự hay tương đồng về nguyên tắc
hay nguyên lí.



Xóa bỏ những ý kiến hoàn toàn không thích hợp.



Sau khi đã cô lập được danh sách các ý kiến, hãy bàn luận thêm
về câu trả lời chung.

Với cách thức làm việc như vậy thì dù muốn hay không, dù nhiều ý
tưởng hay ít thì mỗi thành viên đều phải đưa ra ý kiến cá nhân để đóng góp
cho vấn đề chung. Và như vậy nếu học sinh tham gia vào các hoạt động BSM
để tìm cách giải quyết các nhiệm vụ học tập do giáo viên yêu cầu các em sẽ
không phải sợ hay e ngại rằng ý kiến của mình sẽ bị phản bác. Điều đó thúc
đẩy sự tự tin của mỗi cá nhân và động viên các em tư duy về vấn đề, và hình
9


như nó còn tạo ra một sự cạnh tranh ngầm giữa các thành viên trong nhóm

trong việc dành lấy cơ hội để đưa ý tưởng và cũng hi vọng rằng ý tưởng đó sẽ
trở thành lựa chọn chung hợp lí nhất của nhóm.
III. Vai trò của BSM trong việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH)
Luật Giáo dục 2005, điều 28, đã nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới
phương pháp dạy và học theo hướng tích cực. Trong việc đổi mới phương
pháp dạy và học theo hướng tích cực thì phương pháp học của học sinh là
mối quan tâm hàng đầu. Trong suốt 5 năm qua, chúng ta cũng đã không
ngừng đổi mới để hưởng ứng cuộc vận động “xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực”. Mục đích cũng chính là tạo nên một chuyển biến
trong mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh với các hoạt động học tập mà
mục tiêu cuối cùng là tạo ra được sự tích cực và chủ động của học sinh trong
quá trình lĩnh hội tri thức. Trong rất nhiều kỹ thuật dạy học (KTDH) thường
dùng, có thể kể đến một số KTDH phát huy tính tích cực, sáng tạo của người
học như: Kỹ thuật công não (Brainstorming), kỹ thuật thông tin phản hồi, …
Như vậy, BSM (với việc hỗ trợ của sơ đồ tư duy (Mind Map) chính là một
trong những KTDH hiệu quả tạo nên sự chuyển biến trong tư duy của người
học.
Sự chuyển biến về hoạt động học tập trong lớp có thể thể hiện qua sơ
đồ sau:

10


Học sinh
Học sinh
Giáo viên và học sinh
Giáo viên và học sinh
Giáo viên
Giáo viên


Truyền thống

Tích cực

Nhìn vào sơ đồ trên ta dễ dàng nhận thấy sự biến đổi một cách căn bản, có
thể nói là sự đảo chiều, trong vai trò của giáo viên và học sinh đối với các
hoạt động trong lớp học. Nếu như trong PPDH truyền thống, giáo viên là
người giữ vai trò chủ đạo, là nền móng cho mọi hoạt động, hoạt động của
giáo viên chiếm phần lớn trong tổng số hoạt động chung của một tiết học
trong lớp thì ở PPDH tích cực, “linh hồn” của các hoạt động trong lớp chính
là học sinh. Các em “dành” lấy và chiếm hữu đa phần hoạt động của lớp học.
Trong PPDH mới này, mối tương quan giữa giáo viên và học sinh có thể
được miêu tả trong sơ đồ sau:

11


Định hướng

Nghiên cứu, tìm hiểu

Người dạy

Người học
Tổ chức

Thực hiện

Hỗ trợ, cố vấn, đánh giá


Tự đánh giá, tự điều chỉnh

Trong sự tương tác này, giáo viên đóng vai trò là người cố vấn, định
hướng và tổ chức các hoạt động học tập còn học sinh mới là chủ thể thực
hiện hoạt động bằng cách tự nghiên cứu, tự tìm hiểu và tự đánh giá, tự điều
chỉnh phương pháp học tập của mình. Như vậy trong trong mối quan hệ
tương tác này yếu tố quan trọng nhất chính là sự tự giác của học sinh.

12


Với kỹ thuật BSM, học sinh sẽ tự giác tư duy, chủ động và tích cực
hoạt động để tìm ra các giải pháp cho các nhiệm vụ học tập mà giáo viên đưa
ra. Do đó, BSM góp phần vào việc đổi mới PPDH theo hướng tích cực.
IV.Thực trạng của việc dạy và học tiếng anh
Tiếng Anh đã là một môn học bắt buộc trong hệ thống giáo dục quốc
dân của nước ta, song vấn đề dạy và học nó vẫn chưa đạt được sự đồng bộ
trong hiệu qủa và chất lượng giữa các vùng miền, khu vực. Đặc biệt sự quan
tâm hứng thú đối với môn học này cũng có sự phân hóa rõ rệt giữa học sinh
thành thị và học sinh nông thôn, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn. Sự khác
biệt này xuất phát từ cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan.
Thứ nhất, giáo viên không tự đổi mới PPDH. Chúng ta đề cập nhiều
đến việc đổi mới và tính tất yếu của việc đổi mới PPDH. Đó là dạy học tích
cực, lấy người học làm trung tâm, là chủ thể của hoạt động học tập. Tuy
nhiên việc đổi mới đó không thể thực hiện trong một sớm một chiều nhất là
khi PPDH truyền thống ăn sâu tạo nên gốc dễ, tạo nên lối mòn khó thay đổi.
Chúng ta thẳng thắn nhìn nhận rằng đang tồn tại rất nhiều tiết học tiếng Anh
không “warm up”. Đơn giản chỉ là kiểm tra bài cũ, kiểm tra sĩ số học sinh và
ghi tiêu đề bài mới rồi kế tiếp là hàng loạt các hoạt động thuyết trình: thuyết
trình về nghĩa từ vựng, về cách dùng của một cấu trúc ngữ pháp v.v… Các

tiết dạy diễn ra tương tự không phân biệt đối tượng học sinh, không phân biệt
nội dung bài học cũng không quan tâm đến việc phải có sự hỗ trợ của một
phương tiện dạy học nào đó cho phù hợp. Tình trạng đó dẫn đến một không
khí hết sức nhàm chán và buồn tẻ. Học sinh không hề thấy hứng thú, không
có yếu tố bất ngờ thu hút các em, không có tình huống có vấn đề để tác động
13


vào tư duy của các em. Hậu quả là một sự mệt mỏi, uể oải, mất tập trung kéo
dài.
Thứ hai, vốn tích lũy của học sinh về ngôn ngữ tiếng Anh rất ít. Mặc dù
học sinh đã được tiếp cận với môn tiếng Anh ở cấp THCS, tuy nhiên khi
bước vào cấp THPT thì hầu như vốn tích lũy của các em là rất ít, đặc biệt là
học sinh vùng nông thôn, miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Điều này
một phần xuất phát từ thực tế dạy học ở trên. Khi học sinh đã cảm thấy không
hứng thứ với môn học vì giáo viên không mang đến cho các em những bất
ngờ thú vị từ chính môn học đó thì không nảy sinh nhu cầu tìm hiểu và khám
phá về môn học. Điều này dẫn đến việc các em hết sức e ngại, rụt rè trong các
hoạt động do giáo viên tổ chức trong các tiết học tiếng Anh ở trường THPT.
Các em lúng túng và bối rối khi không thể giải quyết được nhiệm vụ mà giáo
viên giao cho do những hạn chế về mặt kiến thức. Và nếu tiếp tục để tình
trạng này tồn tại, thì các tiết học tiếng Anh sẽ lại trôi qua trong một không khí
nặng nề.
Thứ ba, phương tiện dạy học đặc thù còn nhiều thiếu thốn. Một trong
những hướng đổi mới PPDH theo hướng tích cực là áp dụng các phương tiện
dạy học (PTDH) phù hợp với đặc trưng của bộ môn. Sự hỗ trợ của các PTDH
mới, phù hợp sẽ làm tăng hiệu quả và chất lượng của quá trình dạy học. Tuy
nhiên, thực tế ở nhiều trường học các PTDH tối thiểu cho môn học tiếng Anh
như đài catsette, điã CD vẫn còn thiếu, chứ chưa kể đến hệ thống tranh ảnh
minh họa hay mô hình, vật thật, … Điều này ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề

đổi mới PPDH và nâng cao hiệu quả của việc dạy và học tiếng Anh.

14


Thứ tư, học sinh không tự đổi mới phương pháp học. Trải qua một thời
gian học tập ở cấp tiểu học và THCS, học sinh đã tự tìm ra cho mình một
phương pháp học nhất định. Tuy nhiên, không phải phương pháp nào cũng
còn phù hợp với các môn học ở cấp THPT, đặc biệt trong trong tình hình đổi
mới PPDH như ngày nay mà mục tiêu là tạo nên sự chuyển biến, đưa học
sinh trở thành chủ thể của mọi hoạt động học tập. Tuy nhiên, do thói quen
hay do những hạn chế nhất định về năng lực học tập, học sinh vẫn giữ những
phương pháp học tập cũ rất thụ động, không tự giác và tích cực. Điều này đã
tạo nên một rào cản khiến học sinh không thể lĩnh hội hết tri thức của môn
học. Các em không đủ tự tin hoặc không tự giác tham gia vào các hoạt động
học tập. Điều này khiến cho tiết học trở nên vô cùng khó khăn và không hiệu
quả.
Với tất cả những tồn tại trên, để quá trình dạy - học tiếng Anh đạt hiệu
quả thì bản thân giáo viên phải biết khắc phục tất cả những hạn chế từ phía
học sinh và những thiếu thốn về PTDH, tự đổi mới PPDH của mình, kết hợp
với những KTDH mới bên cạnh việc tận dụng những điều kiện hiện tại nhằm
“cách mạng hóa” một giờ học tiếng Anh truyền thống.
V. Giai pháp nâng cao hiệu quả của việc dạy và học tiêng anh bằng cách
áp dụng BRAINSTORMING.
Như đã đề cập, BSM là một kỹ thuật dùng sự hỗ trợ của sơ đồ tư duy
nhằm tìm ra các giải pháp cho một vấn đề, và nó thật sự hiệu quả khi làm
việc theo nhóm. Làm việc theo nhóm đã là một hình thức hoạt động mới
nhằm đổi mới PPDH mà ở đó giáo viên chỉ giữ vai trò định hướng, tổ chức
và cố vấn còn học sinh mới là chủ thể tích cực, chủ động tìm ra hướng giải
15



quyết và tự giải quyết vấn đề. BSM sẽ phát huy tinh thần và khả năng hoạt
động nhóm (team work) trong một giờ học tiếng Anh. Sự hợp tác này là
không thể thiếu nếu muốn đạt được mục đích giao tiếp trong quá trình dạy học Tiếng Anh nói riêng và ngoại ngữ nói chung. BSM có thể áp dụng trong
nhiều khâu của quá trình lên lớp từ khâu vào bài (warm up), đến quá trình
giải quyết các yêu cầu chính của bài học (task); có thể áp dụng trong các
phần từ: Reading, Speaking, Listening, Writing hay Language Focus. Ở mỗi
khâu, mỗi phần, BSM đều đem lại những hiệu quả nhất định và kích thích, lôi
cuốn sự tham gia của tất cả học sinh.
Có thể tiến hành BSM trong lớp học theo các bước sau:
Bước 1: Giáo viên chia học sinh thành các nhóm. Trong quá trình chia
nhóm cần chú ý phân bố đồng đều các đối tượng học sinh vào cùng một
nhóm để có sự hỗ trợ lẫn nhau. Tránh tình trạng nhóm này và nhóm kia có sự
chênh lệc quá lớn về năng lực học tập môn tiếng Anh. Bởi vì nếu điều đó xảy
ra sẽ có nhóm học sinh không thể tiến hành được hoạt động BSM theo mong
muốn. Các nhóm tự chọn nhóm trưởng (leader) và thư ký (secretary). Trong
một số hoạt động hay nhiệm vụ nhất định giáo viên có thể làm đồng thời hai
vai trò này. Khi đó nhóm lớn nhất chính là tập thể lớp học sinh và công cụ hỗ
trợ lúc này có thể là bảng viết.
Bước 2: Giao vấn đề cần BSM cho các nhóm. Ở bước này, giáo viên
cần phải làm cho học sinh hiểu rõ yêu cầu và nhiệm vụ mà họ phải hoàn
thành. Có thể giao một chủ đề cho tất cả các nhóm để cuối cùng có sự tổng
hợp chung và so sánh hiệu quả công việc của các nhóm hoặc mỗi nhóm một
vấn đề cần giải quyết độc lập.
16


Bước 3: Tiến hành hoạt động BSM. Nhóm trưởng sẽ điều khiển các
thành viên trong nhóm BSM, tức là yêu cầu tất cả các thành viên đều phải có

ý tưởng hay ý kiến về vấn đề và thư ký có nhiệm vụ ghi chép tất cả (ngoại trừ
những ý kiến trùng lặp). Trong một số trường hợp có thể chấp nhận ý kiến
được đưa ra bằng tiếng Việt nếu một số học sinh có hạn chế về năng lực học
tập môn tiếng Anh như vốn từ ít. Các thành viên có thể nói ra ý kiến của
mình (speak out) để thư ký ghi chép hoặc viết ra giấy (giấy viết, giấy takenote, giấy sticker…tùy theo sự chuẩn bị của giáo viên và học sinh) các suy
nghĩ của mình về vấn đề rồi đưa cho thư ký tổng hợp.
Ở bước này, giáo viên là người quan sát tổng quát hoạt động của các
nhóm, cung cấp một vài gợi ý hoặc hỗ trợ, hoặc động viên, khích lệ cho một
vài đối tượng học sinh nhất định trong các nhóm.
Trong trường hợp giáo viên giữ đồng thời hai vai trò: vừa là người điều
khiển, vừa là thư ký thì có thể gọi học sinh phát biểu ý kiến, giáo viên viết
câu trả lời của học sinh lên bảng một cách ngẫu nhiên không cần sắp xếp theo
thứ tự cụ thể nào, hoặc yêu cầu học sinh viết ý kiến ra giấy rồi dán lên bảng.
Để thu hút và tạo ấn tượng có thể dùng các giấy sticker, bút nhiều màu sắc.

17


(Ảnh minh họa)
Bước 4: Phân tích các câu trả lời và tìm ra giải pháp cho vấn đề.
Trong bước này, tất cả các thành viên trong nhóm lượt lại các câu trả lời,
không bình luận hay chỉ trích bất kì phương án nào, đơn giản chỉ là thu gọn
những ý trùng lặp, gạt đi những ý không liên quan đến vấn đề và quyết định
chọn những câu trả lời phù hợp nhất.
Có thể tham khảo một vài ví dụ sau đây:
Ví dụ 1: SGK Tiếng Anh lớp 10, unit 3: Music-Lesson 1: Getting started.
Để “warm up” cho tiết học này mỗi giáo viên sẽ có một cách thức khác
nhau. Đối với tôi, tôi đã chọn áp dụng kỹ thuật BSM để tạo nên một không
khí thoải mái cho học sinh trước khi bước vào bài mới với những yêu cầu cụ
thể khác nhau.


18


-

(Chưa yêu cầu học sinh mở SGK), tôi viết từ khóa “Music” lên bảng và
bắt đầu chia học sinh thành các nhóm. Yêu cầu mỗi nhóm chọn nhóm
trưởng và thư ký.

-

Yêu cầu các nhóm phải tìm ra càng nhiều càng tốt các từ vựng hay hoạt
động có liên quan đến chủ đề này trong thời gian 3 phút.

-

Các nhóm trưởng tự điều khiển các thành viên trong nhóm tìm từ vựng
có liên quan đến chủ đề “Music”, khuyến khích mọi thành viên, dù đưa
ý kiến bằng tiếng Việt. Các thành viên khác sẽ hỗ trợ tìm từ tiếng Anh
tương ứng.

-

Yêu cầu các nhóm báo cáo kết quả tìm được và giáo viên sẽ thống kê
kết quả của các nhóm để tạo nên một sơ đồ từ vựng theo chủ đề rộng
nhất có thể.

Kết quả của hoạt động BSM được thể hiện trong sơ đồ dưới đây:


19


rock

Pop

The piano

Types

Instruments
The guitar

Folk music

Music
Party
Concert

Performance

When to play

Wedding

Live show
Sport events

Chúng ta có thể thấy một số lượng lớn các từ vựng có liên quan đến

chủ đề này còn có thể được viết tiếp theo các “nhánh”. Như vậy, với kỹ thuật
BSM, trong vòng 5-7 phút “warm up”, các nhóm học sinh đã tìm ra được một
số lượng lớn các từ vựng theo chủ đề. Với hoạt động này, tất cả học sinh đều
đã tham gia đóng góp ý kiến, dù bằng tiếng Anh hay tiếng Việt, kể cả những
học sinh có những hạn chế nhất định trong năng lực học tập. Điều quan trọng
và cần quan tâm nhất chính là các em đã có ý kiến riêng, nó là kết quả của
quá trình tự giác và chủ động tư duy, tự phá bỏ những rào cản của sự tự ti, rụt
20


rè do những hạn chế của bản thân để tham gia vào hoạt động chung. Và các
em bị lôi cuốn vào hoạt động. Với một phần mở đầu như vậy thì những yêu
cầu mới của bài học sẽ được các em đón nhận và tìm cách giải quyết trong
một tâm trạng thoải mái, tự tin hơn, chủ động hơn, tích cực hơn và tự giác
hơn. Và kết quả dễ thấy là bài học sẽ đạt được những hiệu quả nhất định.
Ví dụ 2: SGK Tiếng Anh 11, unit 5: Being a part of ASEAN -Speaking.
Sau khi học xong phần Reading, học sinh đã nắm bắt được những
thông tin cơ bản về các quốc gia ASEAN. Và để các em có cơ hội tìm hiểu
thêm thông tin về, giúp các em có nguồn thông tin phong phú và thú vị để
bước vào bài học Speaking tôi đã kết hợp kỹ thuật BSM với PPDH dự án:
yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm tìm hiểu các thông tin liên quan đến các
quốc gia ASEAN trước khi tham gia giờ học Speaking. Để hoàn thành được
“dự án” này buộc học sinh phải dùng kỹ thuật BSM để phân tích vấn đề và
vạch định xem sẽ phải thu thập những loại thông tin nào. Với kỹ thuật này,
học sinh có thể xây dựng một sơ đồ thông tin như sau:

21


Area ( km2)


Capital (cities, …)

Population

Currency

Offical language

Famous foods and drinhs
The ASEAN countries
Time becoming independence

New records
Famous tourism

22


Với sơ đồ trên học sinh đã có được một lượng lớn thông tin hết sức thú vị để
phục vụ cho bài học mới. Học sinh có thể sử dụng bất kì nhóm thông tin nào
trong sơ đồ đó để bổ sung thêm phần hỏi - đáp ở Task 1 theo mẫu hội thoại
cho sẵn. Việc thu thập và tìm hiểu trước thông tin ở nhà bằng kỹ thuật BSM
trong PPDH dự án như trên sẽ giúp học sinh thêm hứng thú với nội dung của
bài học mới và tạo được một tâm lí tự tin, sẵn sàng.
Ví dụ 3: SGK Tiếng Anh 11, unit 10: Healthy lifestyle phần Writing –
Write a story
Với yêu cầu của bài học là viết câu chuyện kể về cách những người trẻ thay
đổi cách sống để vượt qua khó khăn thì trong một lớp, số học sinh có thể hiểu
yêu cầu và thực hiện được yêu cầu là rất ít do học sinh có rất nhiều hạn chế

về từ vựng, ngữ pháp (thì của động từ, cấu trúc câu, cách dùng từ…). Do đó,
ở phần Before you write tôi sẽ tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm và
tiến hành hoạt động BSM để tìm ra càng nhiều càng tốt các ý tưởng có liên
quan đến chủ đề viết (và càng chi tiết càng tốt). Tôi yêu cầu học sinh làm việc
theo nhóm 6 người. Mỗi nhóm sẽ phải tự suy nghĩ và đưa ra các ý sẽ trong
bài viết gồm những gì. Với những hướng dẫn về cách thức từ phía giáo viên,
học sinh có thể tiến hành hoạt động BSM với kết quả là một danh sách được
liệt kê cụ thể và chi tiết như sau

Changing lifestyle

-

Time (what time, date/ month/ …)

-

What the problem is (overweight, sleepy sleepless,lonelyness.....)
23


-

Effects ( Stress,tired......)

-

How to do

-


Result....

Ngoài hệ thống thông tin chi tiết trên giáo viên còn gợi ý cho học sinh xác
định về thì của động từ (thì quá khứ đơn), BSM để tìm ra một loạt các động
từ có thể được dùng để miêu tả ,sắp xếp lại các ý trên và xếp chúng vào các
phần Introduction, Details or conclusion cho phù hợp. Với những gợi ý trên
yêu cầu học sinh bắt đầu bài viết của mình bằng những câu đơn giản để miêu
tả ý và sau đó sử dụng các từ nối và phần useful language để hoàn thiện bài
viết của mình.
Dù mỗi bài viết của mỗi cá nhân học sinh khác nhau về chất lượng do sự
khác nhau về năng lực học tập nhưng điểm chung ở đây là tất cả học sinh khi
tham gia vào hoạt động BSM đều đã tự mình đóng góp ý kiến và đều hình
dung được bài viết nên bao gồm những thông tin gì, những thông tin đó được
sắp xếp ra sao. Có nghĩa là học sinh hiểu được yêu cầu của bài học và biết
cách thực hiện yêu cầu đó.
Như vậy, với việc áp dụng kỹ thuật BSM vào trong các khâu của quá
trình dạy học, vào các tiết dạy khác nhau, tôi đã khiến học sinh của mình phải
làm việc một cách chủ động. Các em phải tư duy để đóng góp ý kiến vào hoạt
động dù đôi lúc còn có những hạn chế nhất định nhưng trên hết các em đã
vượt qua được những hạn chế đó để tham gia vào hoạt động và để hiểu được
yêu cầu của bài học. Điều này góp phần làm cho tiết học thành công.
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
24


- Áp dụng được trong quá trình dạy và học môn tiếng Anh cho học sinh cấp THPT.
- Đáp ứng yêu cầu về đổi mới trong việc dạy và học Ngoại Ngữ và phù hợp với
việc đổi mới phương pháp giảng dạy của bộ môn tiếng Anh nhằm nâng cao hứng
thú của học sinh vơi bộ môn.

- Phát huy được tính tự giác và sáng tạo của học sinh.
- Củng cố được kiến thức, đồng thời giúp các em luyện tập được tốt hơn.
- Giáo viên có thể đánh giá khả năng tự nghiên cứu và sáng tạo của từng học sinh.
- Có thể áp dụng phương pháp này cho tất cả các đối tượng học.
8. Những thông tin cần được bảo mật: Không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Học sinh được phép sử dụng các phương tiện dùng trong công nghệ thông tin
như: điện thoại Smart phone hoặc các thiết bị nghe nhìn khác trong khi thực hiện
nhiệm vụ.
10. Lợi ích của sáng kiến:
- Phương pháp dạy học sinh áp dung BSM đạt hiệu quả khá tốt đối với học sinh.
Các em tham gia say mê vào hoạt động và kế hoạch của giáo viên hướng dẫn là vì
các em yêu thích và say mê môn học, hơn nữa các em thành thạo và thích sử dụng
công nghệ thông tin.
- Phát huy được tính tự giác và sáng tạo của từng học sinh.
- Củng cố được kiến thức, đồng thời giúp các em luyện tập được tốt hơn.
- - Giáo viên có thể đánh giá khả năng tự nghiên cứu và sáng tạo của từng học sinh.
- Có thể áp dụng phương pháp này cho tất cả các đối tượng học sinh.
10.1. Lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
- Phát triển hiệu quả khả năng vận dụng sáng tạo của học sinh, giúp các em
có điều kiện để sử dụng kiến thức trong quá trình học tập và đạt được kết quả cao
trong học tâp.
10.2. Lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của các tổ chức cá nhân:
25


×