Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

báo cáo kết quả nghiên cứu ứng dụng sáng kiến nghiên cứu ứng dụng bài tập phát triển sức bền cho học sinh lớp 11 trường THPT liễn sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 43 trang )

1

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả
công tác GDTC cho học sinh các cấp. Nhưng lựa chọn bài tập phát triển sức
bền đối với học tại Trường THPT Liễn Sơn cho phù hợp với chương trình đào
tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai thực hiện trong học chính khóa thì
vẫn chưa có ai tiến hành nghiên cứu. Xuất phát từ lý do nêu trên, chúng tôi
nghiên cứu đề tài.
2. Tên sáng kiến: "Nghiên cứu ứng dụng bài tập phát triển sức bền
cho học sinh lớp 11 Trường THPT Liễn sơn ".
3. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên: Nguyễn Trung Kiên
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Liễn Sơn - Lập Thạch
- Số điện thoại: 0979155379.
- Email:
- Mã sáng kiến: 60
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
Tác giả cùng với sự hỗ trợ của Trường THPT Liễn Sơn về kinh phí, đầu
tư cơ sở vật chất - kỹ thuật trong quá trình viết sáng kiến và dạy thực nghiệm
sáng kiến.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến có thể áp dụng cho học sinh học GDTC và kết quả học tập,
rèn luyện sức bền của giáo viên và học sinh lớp 11 Trường THPT Liễn sơn.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
Nghiên cứu ứng dụng bài tập phát triển sức bền cho học sinh lớp 11
Trường THPT Liễn Sơn được dạy thực nghiệm từ ngày 7/10/2018 tại trường
THPT Liễn Sơn.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến


7.1. Về nội dung của sáng kiến:
7.1.1 Những điều kiện cho việc nghiên cứu


2

Tôi lựa chọn trường THPT Liễn Sơn vì trường có những
điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu:
+ Lãnh đạo nhà trường luôn quan tâm, sát sao chuyên môn, nỗ lực trong bối
cảnh đổi mới căn bản toàn diện ngành giáo dục.
+ Nhà trường có đủ cơ sở vật chất, thiết bị dạy học cần thiết.
+ Giáo viên: Hiện đang dạy lớp 11 , là chiến sĩ thi đua các cấp trong nhiều năm,
có lòng nhiệt tình và trách nhiệm cao trong công tác giảng dạy và giáo dục học sinh.
+ Học sinh: Học sinh được chọn tham gia nghiên cứu đều tích cực chủ động.
Thành tích học tập của năm trước ở mức trung bình, khá trở lên.
7.1.2 Các bước thực hiện giải pháp
Thông qua sử dụng phương pháp này để có những thông tin cần thiết
mà đề tài đặt ra như: thực trạng việc sử dụng các phương pháp, phương tiện
giảng dạy và hình thức kiểm tra đánh giá sức bền cho học sinh lớp 11 trường
THPT Liễn sơn. Trên cơ sở đó để tìm ra những những ưu khuyết điểm của việc
sử dụng các phương tiện giảng dạy và huấn luyện sức bền. Đồng thời, làm cơ
sở để lựa chọn, ứng dụng các bài tập phù hợp nhằm khắc phục và nâng cao
năng lực sức bền cho đối tượng nghiên cứu.
7.1.3 Phương pháp kiểm tra sư phạm
Là phương pháp được sử dụng nhằm mục đích kiểm tra, đánh giá hiệu
quả của các bài tập phát triển sức bền cho học sinh lớp 11 trường THPT Liễn
Sơn. Đồng thời, kết quả sử dụng phương pháp này cũng chính là việc giải
quyết nhiệm vụ mà đề tài đã xác định. Các test mà quá trình nghiên cứu tiến
hành kiểm tra nhằm đánh giá năng lực sức bền của học sinh gồm:
+ Cooper test (m)

+ Chạy 500 m đối với nữ (s)
+ Chạy 1000 m đối với nam (s).
+ Nhảy dây 2 phút (lần).
+ Nằm sấp chống đẩy (lần).
Các học sinh trên đều được học tập theo chương trình môn học GDTC
áp dụng cho khối THPT của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Quá trình kiểm tra sư
phạm được tiến hành vào thời điểm bắt đầu vào và kết thúc năm học lớp 11.


3

Nội dung kiểm tra sư phạm được tiến hành thông qua 2 test chuyên môn đã lựa
chọn, với mục đích chủ yếu để xác định quy luật diễn biến của tố chất vận
động sức bền của đối tượng nghiên cứu.
Cách thức tiến hành kiểm tra test như sau:
1. Cooper test (m)
- Mục đích: đánh giá sức bền ưu khí của đối tượng kiểm tra. Đơn vị tính
bằng mét.
- Sân bãi dụng cụ: đồng hồ bấm giây, còi và cờ, sân điền kinh chia ra
làm 8 đoạn, mỗi đoạn 50m.
- Cách tiến hành: người được kiểm tra đứng trước vạch xuất phát, mỗi
ngừi mang một biển số, sau khi nghe lệnh xuất phát thì chạy thật nhanh trong
vòng 12 phút và cự ly đạt được chính là kết quả của phương pháp đo.
- Kết quả được tính như sau: số vòng x 400m + số đoạn của vòng chạy
cuối cùng x 50 + số mét ở đoạn cuối cùng.
2. Chạy 500 m đối với nữ và 1000 m đối với nam (s)
- Mục đích: đánh giá sức bền yếm khí của đối tượng kiểm tra. Đơn vị
tính bằng giây.
- Dụng cụ kiểm tra: đồng hồ bấm giây, còi và cờ, đường chạy.
- Cách tiến hành: người thực hiện đứng ở trước vạch xuất phát, mỗi

ngừi mang một biển số, khi nghe hiệu lệnh “Chạy” thì tiến hành chạy thật
nhanh cho đến hết cự ly đã quy định (500 m đối với nữ và 1000 m đối với
nam). Chỉ tiến hành một lần và tính bằng giây.
3. Nhảy dây 2 phút (lần)
- Mục đích: đánh giá sức bền các nhóm cơ tay và chân. Đơn vị tính bằng
số lần.
- Dụng cụ kiểm tra: đất bằng phẳng, đồng hồ bấm giây, dây nhảy.
- Cách tiến hành: người thực hiện đứng ở tư thế chuẩn bị, sau khi hiệu
lệnh “Bắt đầu” thì tiến hành nhảy dây thật nhanh trong vòng 2 phút. Chỉ tiến
hành một lần và thành tích là số lần nhảy được.
4. Nằm sấp chống đẩy (lần)
- Mục đích: đánh giá sức bền nhóm cơ tay vai.


4

- Dụng cụ kiểm tra: đất bằng phẳng.
- Cách tiến hành: người được kiểm tra thực hiện theo hướng dẫn.
7.1.4 Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Phương pháp này được sử dụng nhằm ứng dụng các bài tập phát triển
sức bền vào thực tiễn giảng dạy cho học sinh lớp 11 trường THPT Liễn sơn.
Từ đó, xác định hiệu quả của những bài tập đã lựa chọn trong việc phát triển
năng lực sức bền cho đối tượng nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài đã sử dụng hình thức thực nghiệm so
sánh song song. Quá trình thực thực nghiệm được tiến hành ở học kì I và II
năm học lớp 11 của đối tượng nghiên cứu (năm học 2018 – 2019). Đối tượng
thực nghiệm là 88 học sinh lớp 11 [19],[22].
7.1.5 Phương pháp toán học thống kê
Là phương pháp được chúng tôi sử dụng trong quá trình xử lý các số
liệu đã thu thập được của quá trình nghiên cứu. Các tham số đặc trưng mà

chúng tôi quan tâm là:
- Công thức tính trung bình cộng ( x ): x  

xi

n

2

 (x
x

- Công thức tính phương sai (  x ):



- Công thức độ lệch chuẩn:

x  x

2

CV 

- Hệ số biến sai:

t
- Công thức tính t quan sát:

a


 x a ) 2   ( x b  xb ) 2
n a  nb  2

2

x
100%
x

x A  xB

 A2  B2

n A nB

- Công thức tính hệ số tương quan (r): r 

với n ≥ 30

 ( x  x )( y  y )
 ( x  x )  ( y  y)
2

2


5

- Tính nhịp tăng trưởng:


W 

(V2  V1 )
100%
0.5 (V1  V2 )

+ W: Nhịp tăng trưởng
+V2: Kết quả kiểm tra cuối
+ V1: Kết quả kiểm tra ban đầu, 0.05 và 100 là hằng số
Kết quả tính toán của các tham số đặc trưng trên được chúng tôi trình
bày ở phần kết quả nghiên cứu của đề tài.


6

CƠ SỞ LÝ LUẬN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công tác GDTC trong
nhà trường các cấp
GDTC trong là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được của nền
giáo dục xã hội chủ nghĩa. GDTC có tác dụng tích cực đối với sự hoàn thiện cá
tính, nhân cách, những phẩm chất cần thiết và hoàn thiện thể chất của học sinh
nhằm đào tạo con người mới phát triển, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ vững an ninh, quốc phòng.
Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu của GDTC trong nhà trường các cấp
là gắn liền và góp phần thực hiện mục tiêu của giáo dục và đào tạo theo tinh
thần nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII, nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có
tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ và năng động sáng tạo.
Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng công tác GDTC, coi như một mặt

trong mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường xã hội chủ nghĩa. GDTC
trong nhà trường các cấp, còn giữ vị trí quan trọng và then chốt trong chiến
lược phát triển sự nghiệp thể dục thể thao.
Tháng 03/1946, trong lúc tình hình đất nước còn muôn vàn nguy hiểm
nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn dân tập thể dục, Người
khẳng định: “...Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì
cũng cần có sức khoẻ mới thành công. Mỗi một người dân yếu ớt là làm cho cả
nước yếu ớt một phần, mỗi một người dân khoẻ mạnh, tức là góp phần cho cả
nước mạnh khoẻ...”. Vì thế, Người khuyên: “...Luyện tập thể dục, bồi bổ sức
khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước...”[18].
Bước sang thời kỳ mới, Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần
thứ VI đã ghi rõ: “... Mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào TDTT quần
chúng, từng bước đưa việc rèn luyện thành thói quen hàng ngày của đông đảo


7

nhân dân ta, trước hết là thế hệ trẻ, nâng cao chất lượng GDTC trong các
trường học...”[6].
Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII năm 1996 đã
khẳng định: “... Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ phải thực
sự trở thành quốc sách hàng đầu...”[9].
Để cụ thể hoá các quan điểm chỉ đạo trên, Đảng ta luôn có những chỉ
thị, nghị quyết kịp thời đề ra chủ trương đẩy mạnh tiến trình phát triển.

-

Năm 1996 Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị 133/TTg ngày 07/03/1996, về việc
xây dựng và quy hoạch phát triển ngành TDTT, về GDTC trường học đã ghi
rõ: “... Bộ Giáo dục - Đào tạo cần đặc biệt coi trọng việc GDTC trong nhà

trường , cải tiến nội dung giảng dạy TDTT nội khóa, ngoại khoá, quy định tiêu
chuẩn rèn luyện thân thể cho học sinh các cấp học, có quy chế bắt buộc đối với
các trường...”.
Cùng với các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và nhà nước, Bộ giáo dục và
Đào tạo đã thực hiện chủ trương, đường lối về công tác giáo dục thể thao nói
chung và GDTC học đường nói riêng, bằng rất nhiều các văn bản pháp quy, cụ
thể như:
- Thông tư liên tịch số 04-93/GĐ-ĐT-TDTT ngày 14/07/1993 về việc
xây dựng kế hoạch đồng bộ, xác định mục tiêu, nội dung, biện pháp nhằm cải
tiến công tác tổ chức quản lý TDTT và GDTC trong trường học các cấp.
- Thông tư số 2896/GDTC ngày 04/05/1995 về việc hướng dẫn chỉ thị
133/TTg.
Điều 14 của Luật ghi rõ: "Thể dục thể thao trường học bao gồm giáo
dục thể chất và hoạt động thể dục thể thao ngoại khóa cho người học. Giáo
dục thể chất trong trường học là chế độ giáo dục bắt buộc......"[27].
Điều 15 của Luật quy định: "..... hệ thống thi đấu thể dục thể thao trường
học"[27].
Ngày 21/10/2002, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành chỉ thị
17/CT/TW về phát triển TDTT đến năm 2010 trong đó nêu rõ những phương
hướng, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện việc đẩy mạnh phát triển TDTT rộng
khắp trong cả nước. Với thể thao trường học chỉ thị nêu: "Đẩy mạnh hoạt động


8

TDTT ở trường học. Tiến tới bảo đảm mỗi trường đều có giáo viên thể dục
chuyên trách và lớp học thể dục đúng tiêu chuẩn, tạo điều kiện nâng cao chất
lượng GDTC, xem đây là một tiêu chí xét công nhận trường chuẩn quốc
gia"[4].
Giáo dục con người phát triển toàn diện phải: "Kết hợp hài hòa sự phong

phú về tinh thần, sự trong sáng về đạo đức, sự toàn diện về chất". Đó chính là
mục tiêu cơ bản, quan trọng của nền giáo dục nước ta mà Đảng, Nhà nước và
Bác Hồ luôn coi trọng, quan tâm và nhắc nhở.
Đến nay, hệ thống tổ chức quản lý GDTC đã được hình thành và phát
triển trong nhà trường các cấp từ địa phương đến trung ương, khẳng định vị
thế quan trọng của công tác GDTC trong sự nghiệp giáo dục đào tạo của nước
ta.
Có thể thấy rằng lĩnh vực GDTC trong trường học nói chung và GDTC
trong các trường trung học phổ thông nói riêng, đã và đang thu hút sự chú ý
quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, các nhà giáo dục về chuyên
môn.
1.2. Mục tiêu của công tác GDTC cho học sinh phổ thông
Mục tiêu chung của công tác GDTC, sức khỏe cho học sinh phổ thông
trong thời gian tới là:
- Góp phần phát triển hài hòa thể chất, sức khỏe nâng cao thể lực, bồi
dưỡng năng lực và kỹ năng vận động nhằm tăng cường hiệu quả học tập, lao
động và sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc của thế hệ trẻ Việt Nam.
- Góp phần tạo dựng cuộc sống văn hóa, tinh thần lành mạnh, hạn chế
các tệ nạn xã hội, đào tạo và bồi dưỡng tài năng TDTT cho đất nước.
- Phấn đấu đưa việc dạy và học thể dục, sức khỏe, nội ngoại khóa vào nề
nếp và có hiệu quả trong nhà trường phổ thông.
- Tăng cường rèn luyện thể chất và đẩy mạnh công tác y tế học đường,
giáo dục sức khỏe và vệ sinh môi trường nhằm tích cực tạo điều kiện nâng cao
sức khỏe cho học sinh.
- Giáo dục và bồi dưỡng học sinh năng khiếu, phát hiện tài năng và phấn
đấu nâng cao một bước thành tích thể thao học sinh phổ thông.


9


GDTC là một trong năm mặt giáo dục toàn diện cho học sinh. Tuổi học
sinh phổ thông vốn có những nét đặc trưng riêng: học tập, vui chơi và vận
động là hoạt động chủ đạo. Đó là những nhu cầu không thể thiếu được của học
sinh phổ thông. Do vậy trong nội dung GDTC cho học sinh phổ thông cần ưu
tiên trước hết cho các bài tập phát triển chung, bài tập phát triển sức bền, điền
kinh (chạy, nhảy, ném), các bài tập trò chơi vận động và một số môn thể thao
như: Bóng đá, Bóng chuyền, Bóng bàn, Bóng ném, Bóng rổ, Cầu lông, Đá cầu,
Võ… [18],[19],[21],[22].
1.3. Các quan điểm nghiên cứu về tố chất sức bền
Sức bền trong vận động là khái niệm rất rộng. Các quan điểm về sức bền
trong nhiều tài liệu có những cách thể hiện và tiếp cận khác nhau. Qua phân
tích và tổng hợp thấy có các quan điểm sau:
Quan điểm CỦA Legơ.K (1985), cho rằng: Sức bền là năng lực chống
lại mệt mỏi của cơ thể trong vận động kéo dài. Còn Gurevich I.A (1985), cho
rằng: Sức bền là khả năng khắc phục sự cản trở của môi trường bên trong cũng
như bên ngoài để hoàn thành một công việc với cường độ xác định trong thời
gian dài[25].
Dưới góc độ y - sinh học, Lê Quý Phượng, Lưu Quang Hiệp, Phạm Thị
Uyên cho rằng: Sức bền là khả năng duy trì trong thời gian dài khả năng hoạt
động của con người và sức đề kháng cao của cơ thể đối với mệt mỏi.
Theo quan điểm của các nhà lí luận trong nước như: Phạm Danh Tốn,
Trương Anh Tuấn cho rằng: Sức bền là năng lực chống lại mệt mỏi trong hoạt
động thể thao[38]. Các tác giả cho rằng để phát triển sức bền phải giải quyết
hàng loạt nhiệm vụ nhằm hoàn thiện và nâng cao những nhân tố chi phối đến
sức bền [38]:
Dưới góc độ tâm lý, Phạm Ngọc Viễn cho rằng: “Sức bền là một mặt ý
thức của VĐV phản ánh tổng hợp độ lớn và thời gian của mọi nỗ lực cơ bắp và
ý chí của VĐV được phát triển trong điều kiện thực hiện các hành động vận
động kéo dài”[43].



10

Như vậy, dưới góc độ tâm lý cho thấy: sức bền là khả năng của hệ thống
tâm thể của VĐV chịu đựng được LVĐ cao trong tập luyện và thi đấu, duy trì
được sự cân bằng cần thiết trong hệ thống đó.
Từ phân tích các quan điểm về sức bền của các tác giả trong nước và
trên thế giới, cho thấy:
- Sức bền có vai trò to lớn đối với thành tích thi đấu, khả năng chịu đựng
LVĐ, đồng thời luôn gắn liền với hiện tượng mệt mỏi và khả năng hồi phục
của VĐV.
- Để phát triển được sức bền trong tập luyện thì VĐV phải khắc phục
mệt mỏi.
Hoạt động vận động của con người rất đa dạng. Các môn thể thao khác
nhau có hoạt động đặc thù riêng mang tính chất và cơ chế mệt mỏi khác nhau.
Qua phân tích và nghiên cứu tài liệu có cách phân loại sức bền như sau:
- Căn cứ vào thời gian hoạt động các nhà khoa học như: Harre.D,
Trương Anh Tuấn, Đồng Văn Triệu, Nguyễn Thị Xuyền, Trịnh Trung Hiếu và
Nguyễn Sĩ Hà chia sức bền ra thành 3 loại:
Sức bền trong thời gian dài là sức bền cần thiết để vượt qua cự ly hoặc
hoàn thành khối lượng vận động trong thời gian 11 phút tới nhiều giờ, thành
tích phụ thuộc vào khả năng hoạt động ưa khí.
Sức bền trong thời gian trung bình là sức bền cần thiết để hoàn thành
khối lượng vận động trong thời gian từ 2 đến 11 phút. Thành tích sức bền này
đòi hỏi sự hoạt động đầy đủ của khả năng ưa khí và khả năng yếm khí.
Sức bền trong thời gian ngắn (45 giây đến dưới 2 phút): Thành tích phụ
thuộc vào khả năng hoạt động yếm khí và sự phát triển sức mạnh - bền và sức
nhanh bền [27],[38].
Căn cứ vào trạng thái năng lực làm việc của hệ thống cung cấp năng
lượng thì Diên Phong, Nguyễn Ngọc Cừ và cộng sự, Lưu Quang Hiệp, Phạm

Thị Uyên, Vũ Đức Thu và cộng sự chia sức bền ra thành 2 loại:
- Sức bền ưa khí (aerobic) là khả năng hoạt động lâu dài của cơ thể
trong điều kiện sử dụng nguồn năng lượng thông qua quá trình ôxy hoá hợp
chất hữu cơ giàu năng lượng trong cơ thể.


11

- Sức bền yếm khí (anaerobic) là khả năng hoạt động lâu dài của cơ thể
trong điều kiện dựa vào các nguồn cung cấp năng lượng yếm khí (ATP, CP)
phốtphorin và sức bền hệ thống cung cấp năng lượng láctat.
Căn cứ vào số lượng các nhóm cơ tham gia hoạt động và chế độ hoạt
động của cơ: Daxưorơxki B.M, Novicốp A.D, Matveép L.P, Nguyễn Toán,
Phạm Danh Tốn chia sức bền thành 3 loại.
Sức bền cục bộ là sức bền dưới 1/3 các nhóm cơ tham gia hoạt động.
Sức bền chung là sức bền trong các hoạt động kéo dài với cường độ thấp
có sự tham gia của 2/3 nhóm cơ trở lên.
Dựa trên đặc điểm vận động riêng biệt của từng môn thể thao đa số các
nhà khoa học như: Daxưorơxki B.M, Matveép L.P, G- Baumann.R, Trương
Anh Tuấn, Phạm Danh Tốn và Nguyễn Toán, chia sức bền thành sức bền
chung (sức bền cơ sở) và sức bền chuyên môn.
Tổng hợp các quan điểm về phân loại sức bền trên cho thấy: Dưới góc
độ khác nhau có các cách phân loại khác nhau. Tuy nhiên, dù ở góc độ nào thì
sức bền đều có liên quan tới LVĐ và cơ chế mệt mỏi. Vì thế sự phân chia sức
bền chỉ mang tính chất tương đối.
1.4. Phương pháp giáo dục sức bền chung
1.4.1. Nguyên lý huấn luyện sức bền
Sức bền trong vận động thể lực bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố, do đó để
phát triển sức bền, phải giải quyết hàng loạt nhiệm vụ nhằm hoàn thiện và
nâng cao các yếu tố đó. Nâng cao sức bền thực chất chính là quá trình làm cho

cơ thể thích nghi với lượng vận động ngày càng lớn[25],[38].
Nâng cao sức bền chung là cơ sở để phát triển sức bền chuyên môn và
nâng cao năng lực chịu đựng lượng vận động của cơ thể. Tập luyện có hệ
thống sẽ nâng cao được sức bền một cách đáng kể.
1.4.2. Các yếu tố của lượng vận động trong huấn luyện sức bền
- Tốc độ bài tập: Tốc độ bài tập được chia thành 2 loại: Tốc độ tới hạn
và tốc độ trên tới hạn.


12

+ Tốc độ tới hạn: là tốc độ di chuyển đòi hỏi lượng cung cấp ôxy dưới
mức cơ thể có thể đáp ứng được, tức là nhu cầu ôxy thấp hơn khả năng hấp thụ
của cơ thể.
+ Tốc độ trên tới hạn: là tốc độ vận động đòi hỏi nhu cầu ôxy cao hơn
năng lực hấp thụ ôxy tối đa của cơ thể[25],[27],[38].
- Thời gian thực hiện bài tập: Thời gian của bài tập có liên quan đến tốc
độ di chuyển, tức là thời gian giới hạn của bài tập luôn tương ứng với một tốc
độ di chuyển giới hạn nào đó[25],[27],[38].
- Thời gian nghỉ giữa quãng: Thời gian nghỉ giữa quãng trong các bài
tập lặp lại có vai trò quan trọng đối với tính chất và phương hướng tác động
của bài tập đối với cơ thể[25],[27],[38].
- Tính chất nghỉ ngơi: Nghỉ ngơi giữa quãng có thể là thụ động, không
tiếp tục bài tập dưới một hình thức nào khác hay nghỉ ngơi tích cực, tức là sau
bài tập, cơ thể vẫn vận động với cường độ thấp[25],[27],[38].
- Số lần lặp lại: Trong việc huấn luyện để phát triển sức bền chung, các
bài tập thường được lặp lại với rất nhiều kiểu cách và cấu trúc khác nhau. Số
lần lặp lại là một trong những yếu tố quy định lượng vận động, tạo nên kết quả
tổng hợp của bài tập[25],[27],[38].
1.4.3. Phương pháp huấn luyện sức bền chung

Sức bền chung là một trong những tố chất thể lực cần thiết để chuẩn bị
cho việc huấn luyện sau này. Qua thực tiễn huấn luyện, các nhà lý luận môn
Điền kinh đã chỉ ra rằng, sức bền chung là tố chất thể lực chống lại mệt mỏi
trong lượng vận động kéo dài dưới điều kiện đủ dưỡng khí (M.G. Down,
1974), cụ thể như bảng 1.1 [25],[27],[38].
BẢNG 1.1. MỨC ĐỘ SỬ DỤNG DƯỠNG KHÍ TRONG MÔN CHẠY

(Theo M.G. Down, 1974)
Sử dụng dưỡng khí
Thiếu dưỡng khí (%)
Đủ dưỡng khí (%)

Chạy
400m
75 - 83
17 - 25

Chạy
800m
55 – 67
33 – 45

Chạy
1500m
35 - 50
50 - 65

Chạy
5km
10 - 25

75 - 90

Chạy
10km
5 - 10
90 - 95

Marathon
0
100

Bảng 1.1 cho thấy, mức độ sử dụng dưỡng khí ở các đoạn chạy ngắn
(400m) sử dụng tốc độ cao (7 - 9m/s), sự hấp thụ dưỡng khí trong điều kiện


13

thiếu dưỡng khi cơ thể hoạt động có thể đến 83%. Ngược lại, những cự ly dài
(marathon) sử dụng tốc độ thấp (2,5 - 3m/s) thì cơ thể hoạt động trong điều
kiện đủ dưỡng khí hoàn toàn (100%). Chứng tỏ, khi phát triển sức bền chung
cần phải sử dụng các bài tập chạy với đoạn dài, có tốc độ trung bình hoặc thấp.
Sức bền chung phụ thuộc vào 2 yếu tố cơ bản là:
- Khả năng hấp thụ ôxy tối đa (VO2max) của cơ thể.
- Khả năng duy trì lâu dài mức độ hấp thụ ôxy tối đa.
Thực chất sức bền chung chính là khả năng hấp thụ ôxy tối đa, được
quyết định bởi 2 hệ thống chức năng [25],[27],[38]:
- Hệ vận chuyển ôxy (tuần hoàn và hô hấp).
- Hệ sử dụng ôxy (hệ cơ).
Mỗi hệ đảm nhiệm một chức năng riêng biệt và đóng vai trò quan trọng
trong việc cơ thể đạt được và duy trì khả năng hấp thụ ôxy tối đa.

Sức bền phụ thuộc vào đặc điểm cấu tạo và đặc điểm sinh hoá của cơ.
Các hoạt động sức bền có đặc điểm là tốc độ cơ cơ chậm. Điều này có quan hệ
chặt chẽ (tỷ lệ thuận) với VO 2Max và chiếm đến 80% số lượng sợi cơ trong bó
cơ [25],[27],[38].
Trong hoạt động sức bền, để đạt được sự trao đổi khí cao thì hệ hô hấp
phải có những biến đổi về cấu tạo và chức năng, thể hiện như sau [25],[27],
[38]:
- Dung tích của phổi tăng lên.
- Công suất và hiệu quả của hô hấp ngoài tăng lên. Thể hiện trước hết là
lực và sức bền của cơ hô hấp tốt hơn, tăng độ sâu hô hấp và giảm tần số hô
hấp. Kết quả là làm cho thông khí phổi tăng lên.
- Tăng cường khả năng khuếch tán của phổi, do thể tích khí trong phổi
tăng hơn lúc bình thường, nhưng chủ yếu là do lượng mao mạch trong phế
quản tăng, dẫn đến lượng máu tuần hoàn qua phổi tăng.
Đối với hệ tim mạch, để có khả năng hoạt động sức bền cao phải có
những biến đổi như sau [25],[27],[38]:
- Cần phải dãn buồng tim giúp lượng máu chứa trong buồng tim
tăng,làm tăng thể tích tâm thu.


14

- Tăng lực co bóp của tim.
- Giảm nhịp tim là hiện tượng rõ nhất và ổn định nhất thể hiện trình độ
phát triển sức bền chung. Nhịp tim thấp khi thể tích tâm thu cao đã thể hiện
được sự hoạt động của tim có hiệu quả và tiết kiệm.
Những kết quả nghiên cứu gần đây đã cho thấy mức độ ảnh hưởng tốt
của sức bền chung đối với hệ tim mạch và hệ hô hấp [25],[27],[38].
Từ những đặc điểm nổi bật trên của sức bền chung đã cho thấy, việc
giáo dục sức bền chung có thể sử dụng các phương pháp sau:

- Phương pháp liên tục kéo dài: Đặc điểm của phương pháp này là hoạt
động liên tục không có quãng nghỉ, thực hiện với cường độ thấp hoặc trung
bình kết hợp với khối lượng lớn. Khi sử dụng phương pháp này nhằm tăng khả
năng hấp thụ ôxy bằng 2 cách [25],[27],[38]:
- Lượng vận động kéo dài liên tục trong điều kiện ưa khí.
- Lượng vận động kéo dài với cường độ thay đổi. Cự ly chạy, thời gian
thực hiện mỗi giáo án phụ thuộc vào đặc điểm tâm, sinh lý, trình độ và thâm
niên tập luyện
- Phương pháp giãn cách tương đối: Đặc điểm của phương pháp này
quãng nghỉ ngắn và quãng nghỉ không phục vụ cho sự hồi phục hoàn toàn.
Cường độ dao động từ 60 - 75% cường độ tối đa
- Phương pháp giãn cách tuyệt đối: Sử dụng phương pháp này với mục
đích chính là tạo điều kiện khả năng cơ thể hoạt động trong điều kiện thiếu
dưỡng khí hỗ trợ cho việc phát triển sức bền chung, làm nền tảng cho việc phát
triển sức bền chung ở những giai đoạn chuyên môn hoá.
1.5. Phương tiện giáo dục sức bền chung
1.5.1. Bài tập thể chất trong phát triển tố chất thể lực
Để đạt được thành tích thể thao cao ta phải sử dụng các phương tiện
khác nhau như: vệ sinh, điều kiện tự nhiên... và nhất là các bài tập thể chất phương tiện quan trọng nhất để nâng cao thành tích thể thao, phù hợp mục
đích, nhiệm vụ của quá trình huấn luyện.
Theo Lưu Quang Hiệp (1989), một tổ hợp các động tác có liên quan chặt
chẽ với nhau nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định được gọi là bài tập.


15

- Bài tập phát triển chung là các bài tập có cấu trúc rất đa dạng từ các
môn thể thao khác nhau và các bài tập thuộc loại hình thể dục cơ bản có hoặc
không có dụng cụ.
Các bài tập huấn luyện thể thao chia làm 2 nhóm chính:

- Bài tập thi đấu, bao gồm những động tác hoàn chỉnh được dùng làm
phương tiện cơ bản để tiến hành đua tài trong thể thao theo đúng luật thi.
- Bài tập huấn luyện, trong đó chia bài tập huấn luyện ra làm bài tập
chuyên môn và bài tập huấn luyện chung.
+ Bài tập chuyên môn: Là phức hợp các yếu tố của những động tác thi
đấu, cùng các biến dạng của chúng, cũng như các bài tập dẫn dắt.
+ Các bài tập huấn luyện chung. Bài tập huấn luyện chung nhằm chuẩn
bị chung cho VĐV, thành phần của bài tập này rộng rãi và đa dạng.
Như vậy, qua các kết quả phân tích trên cho thấy, bài tập thể chất được
chia ra làm 3 loại: Bài tập chuẩn bị chung; bài tập chuẩn bị chuyên môn và bài
tập thi đấu.
1.5.2. Bài tập thể chất trong phát triển sức bền chung
Sức bền là một trong những yếu tố cơ bản của năng lực thể thao trong
thi đấu và cũng được coi là một thành phần quan trọng của sức khoẻ con
người. Qua phân tích và tổng hợp các tài liệu và công trình nghiên cứu có liên
quan cho thấy, để phát triển sức bền chung cho người tập, VĐV, các nhà
chuyên môn thường sử dụng các dạng bài tập thể chất sau [14],[17],[19],[20],
[41].
* Nhóm bài tập chạy:
* Nhóm bài tập thi đấu các môn thể thao khác: thi đấu Bóng đá, Bóng
rổ... với thời gian từ 15 phút trở lên.
* Nhóm bài tập trò chơi vận động với thời gian 15 - 25 phút trở lên và
mật độ động từ 60 - 70%.
Nhìn chung, tác giả đều cho rằng, để phát triển sức bền chung cho người
tập, việc sử dụng các bài tập chạy với cự ly, số lần lặp lại, quãng nghỉ khác
nhau sẽ có tác dụng tốt nhất.
1.6. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trung học phổ thông


16


Lứa tuổi 16 - 18 cơ thể các em đã phát triển tương đối hoàn chỉnh, các
bộ phận tiếp tục lớn lên, nhưng chậm dần. Chức năng sinh lý đã tương đối ổn
định, khả năng hoạt động của các cơ quan, bộ phận của cơ thể được nâng cao
hơn.
1.6.1. Đặc điểm giải phẫu sinh lý[16],[18],[19],[21]
- Hệ thần kinh: Các tổ chức thần kinh của lứa tuổi 16 - 18 đang tiếp tục
phát triển để đi đến hoàn thiện rất thuận lợi cho hình thành phản xạ có điều
kiện.
- Hệ vận động: Xương bắt đầu giảm tốc độ phát triển, sụn ở hai đầu
xương vẫn dài, nhưng sụn chuyển dần thành xương ít, mỗi năm nữ cao thêm
0,5 - 1cm, nam cao thêm từ 1 - 3cm. Nếu như không rèn luyện thân thể thì nữ
sau 20 tuổi và nam sau 25 tuổi hầu như không cao hơn nữa.
- Hệ cơ: Đặc điểm cơ bắp của lứa tuổi này là cơ co vẫn tương đối yếu,
các bắp cơ lớn phát triển tương đối nhanh (như cơ đùi, cơ cánh tay) còn các cơ
nhỏ như cơ bàn tay, cơ ngón tay, các cơ xoay ngoài, xoay trong phát triển
chậm hơn.
- Hệ tuần hoàn: Đang phát triển và hoàn thiện, tim của nam mỗi phút
đập 70 - 80 lần, của nữ 75 - 85 lần, cung cấp số lượng máu tương đương với
tuổi trưởng thành.
- Hệ hô hấp: Tần số thở giống như người lớn, khoảng 10 - 20 lần một
phút.
1.6.2. Đặc điểm phát triển các tố chất thể lực
- Khéo léo, mềm dẻo: ở tuổi học sinh THPT, khả năng phối hợp các
động tác được nâng lên rõ rệt, thể hiện ở những bài tập đòi hỏi phải có sự phối
hợp động tác cao, những bài tập phức tạp, các môn bóng… [32].
- Sức nhanh: Phát triển tương đối sớm, chủ yếu ở lứa tuổi học sinh trung
học cơ sở (10 - 13 tuổi).
- Sức mạnh: Sức mạnh cơ bắp phát triển với nhịp độ nhanh trong giai
đoạn 13 - 15 đến 16 - 17 tuổi.



17

- Sức bền: Sức bền ưa khí phát triển ở tuổi 16 - 17. Các em có tập luyện
sức bền phát triển khác hẳn so với các em không tập luyện. Ở lứa tuổi 16 - 17
sự khác biệt ấy đạt tới mức 50% [16].
Các em gái thể hiện tố chất này kém hơn so với các em trai. Những biện
pháp tập chạy đều, tập chạy biến tốc và tập chạy lặp lại, kết hợp với nghỉ và
chạy việt dã, tập các bài tập thể dục đòi hỏi sức bền, mạnh đều có tác dụng
giáo dục sức bền [32].
1.6.3 Đặc điểm tâm lý [50]
Trí tuệ của thanh niên mang tính chất nhạy bén và phát triển đến trình độ
tương đối cao. Tuy nhiên, tâm lý thích suy luận, thích triết lý, nhưng thiếu cơ
sở thực tế nên dẫn đến tình trạng xa rời giữa lý thuyết và thực hành. Sự hình
thành thế giới quan, xác định xu hướng về tương lai, xây dựng ý chí, muốn
khẳng định mình..., là nét tiêu biểu của tính cách thanh niên.
Tuổi thanh niên có một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời người. Đây là
thời kỳ phát triển mạnh mẽ nhất về thể chất và tinh thần, được coi là mùa xuân
của cuộc đời. Họ chuẩn bị khẩn trương bước vào đời với nhiều khát vọng về
tương lai và hứa hẹn một sự cống hiến lớn cho tổ quốc. Gia đình, nhà trường
và xã hội cần có sự quan tâm đặc biệt với lứa tuổi này, giáo dục, bồi dưỡng họ
trở thành người có đạo đức, có tài kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng ta,
của nhân dân [49].
Tóm lại: Từ những kết quả nghiên cứu trên, chung tôi có những nhận xét
sau:
1. GDTC là một bộ phận quan trọng của nền giáo dục XHCN. Trong
những năm qua, GDTC luôn được Đảng, Nhà nước và các Ngành hữu quan quan
tâm, đầu tư thích đáng nên chất lượng công tác GDTC đã có những bước phát
triển đáng khích lệ.

2. Trong các tố chất thể lực, sức bền luôn là một tố chất có vai trò đặc biệt
quan trọng đối với học sinh trường học các cấp.
3. Nâng cao sức bền thực chất là quá trình làm cho cơ thể thích nghi với
lượng vận động ngày càng lớn, đòi hỏi phải có quá trình tích luỹ kéo dài liên
tục, hệ thống trong nhiều năm.


18

4. Các phương pháp giáo dục sức bền chung: phương pháp phương pháp
liên tục kéo dài, phương pháp giãn cách tương đối, phương pháp giãn cách
tuyệt đối.
5. Các phương tiện phát triển sức bền chung chủ là các bài tập thể lực có
khối lượng vận động lớn nhưng cường độ vận động trung bình.
KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1. Đánh giá thực trạng năng lực sức bền của học sinh lớp 11 trường
THPT Liễn sơn
2.1.1. Đánh giá thực trạng năng lực sức bền của học sinh lớp 11 trường
THPT Liễn sơn
2.1.1.1. Lựa chọn test đánh giá năng lực sức bền cho đối tượng nghiên cứu
Qua phân tích và tổng hợp tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu
của các tác giả trong nước, đồng thời qua tìm hiểu thực trạng công tác giảng
dạy và huấn luyện các tố chất thể lực nói chung và huấn luyện sức bền nói
riêng tại các trường THPT trong cụm và đội tuyển thể thao của các đơn vị
khác… đề tài đã thu thập được tổng số 09 test đánh giá năng lực sức bền cho
học sinh lớp 11 trường THPT Liễn sơn:
1. Cooper test (m)

2. Chạy 500m nữ (s)


3. Chạy 1000m nam (s)

4. Chạy tuỳ sức 5 phút (m)

5. Test haward (lần)

6. Nằm sấp chống đẩy nam (lần)

7. Nhảy dây 2 phút nữ (lần)

8. Đứng lên ngồi xuống (lần)

9. Nằm ngửa gập duỗi thân (lần)
Nhằm lựa chọn đúng các test đánh giá năng lực sức bền phù hợp với đối
tượng thực nghiệm và điều kiện thực tiễn của trường THPT Liễn sơn, đề tài đã
tiến hành phỏng vấn các chuyên gia, giáo viên đang trực tiếp giảng dạy môn
GDTC tại trường và các trường THPT trong cụm. Với số phiếu phát ra là 30,
thu về là 28 phiếu, nghiên cứu thu được 5 test sức bền. Kết quả trình bày tại
bảng 2.1.
Bảng 2.1. Kết quả phỏng vấn lựa chọn test đánh giá năng lực sức bền cho học
sinh lớp 11 trường THPT Liễn sơn (n = 28)
TT

Nội dung kiểm tra

Kết quả phỏng vấn


19


Rất quan trọng

Quan trọng

Không quan
trọng

ni

%

ni

%

ni

%

1. Chạy 500m đối với nữ (s)

22

78.58

3

10.71

3


10.71

2. Chạy 1000m nam (s)

21

75.00

4

14.29

3

10.71

3. Cooper test (m)

19

67.85

6

21.43

3

10.71


4.

17

60.71

7

25.00

4

14.29

5. Nhảy dây 2 phút (lần)

16

57.14

7

25.00

5

17.86

6. Chạy tuỳ sức 5 phút (m)


13

46.43

9

32.14

6

21.43

7. Đứng lên ngồi xuống (lần)

11

39.28

6

21.43

11

39.28

8. Test haward (lần)

6


21.43

8

28.57

14

50.00

9. Nằm ngửa gập duỗi thân (lần)

5

17.86

7

25.00

16

57.14

Nằm sấp chống đẩy (lần)

Kết quả thu được tại bảng 2.1 cho thấy, đa số các ý kiến trả lời đều lựa
chọn sử dụng các test: Cooper test, Chạy 500m đối với nữ, Chạy 1000m đối
với nam, Nằm sấp chống đẩy, Nhảy dây 2 phút và chạy tuỳ sức 5 phút (từ 22

đến 25/28 ý kiến chiếm tỷ lệ 75.00% đến 89.29%). Các test còn lại có số ý
kiến trả lời lựa chọn không cao.
Từ kết quả trên, đề tài lựa chọn sử dụng các test: Cooper test (m), Chạy
500m đối với nữ (s), Chạy 1000m đối với nam, (s), Nhảy dây 2 phút (lần),
Nằm sấp chống đẩy (lần) để đánh giá năng lực sức bền cho học sinh lớp 11
trường THPT Liễn sơn.
 Xác định tính thông báo và độ tin cậy của các test:
Qua phỏng vấn, đề tài đã lựa chọn được 5 test để đánh giá năng lực sức
bền cho học sinh lớp 11 trường THPT Liễn sơn. Trong đó, Cooper test (m),
Chạy 500m, Chạy 1000m (s), Nằm sấp chống đẩy (lần) đã được Bộ Giáo dục &
Đào tạo và Tổng cục TDTT sử dụng để xây dựng tiêu chuẩn rèn luyện thân thể
áp dụng cho học sinh, sinh viên (đã được xác định tính thông báo và độ tin cậy
trên đối tượng là người Việt Nam) [38],[42]. Chúng tôi cũng nhận thấy test này
phù hợp với học sinh lớp 11 trường THPT Liễn sơn.
Với 02 test còn lại là Nhảy dây 2 phút (lần) và Chạy tùy sức 5 phút đề tài
tiến hành kiểm tra sơ bộ trên đối tượng học sinh lớp 11A1 trường THPT Liễn


20

sơn nhằm xác định hệ số tương quan giữa kết quả lập test với kết quả học tập
môn GDTC của học sinh. Kết quả được trình bày ở bảng .

Bảng 2.2: Hệ số tương quan xác định tính thông báo và độ tin
cậy của test trên đối tượng nghiên cứu (n = 47)
Hệ số tương quan r
TT

Test
Tính thông báo


Độ tin cậy

1.

Nhảy dây 2 phút (lần)

0.61

0.84

2.

Chạy tùy sức 5 phút

0.48

-

Từ kết quả tại bảng 3.2 cho thấy:
- Test Nhảy dây 2 phút (lần) có mối tương quan giữa kết quả lập test với
kết quả học tập môn GDTC r = 0.61 > 0.6, vậy test đảm bảo tính thông báo;
Mối tương quan giữa hai lần lập test có r = 0.84 > 0.8, vậy test đảm bảo độ tin
cậy. Vậy có thể sử dụng để đánh giá sức bền cho học sinh lớp 11 trường THPT
Liễn sơn.
- Test Chạy tùy sức 5 phút có mối tương quan giữa kết quả lập test với
kết quả học tập môn GDTC r = 0.48 < 0.6, vậy test không đảm bảo tính thông
báo nên đề tài loại bỏ.
2.1.1.2. Thực trạng năng lực sức bền của học sinh lớp 11 trường THPT Liễn
sơn.

Sau khi lựa chọn được các test để đánh giá năng lực sức bền, chúng tôi
tiến hành kiểm tra trên đối tượng là 180 học sinh (76 nữ, 104 nam) các lớp
11A1, 11A2, 11A5 và 11A6 trường THPT Liễn sơn. Để đánh giá khách quan
thực trạng sức bền của học sinh khối 11 trường THPT Liễn sơn, chúng tôi tiến
hành so sánh với học sinh khối 11 thuộc hai trường THPT Ngô Gia Tự và
THPT Triệu Thái (đây là hai trường cũng nằm trong cụm) có cùng lứa tuổi. Kết
quả thu được trình bày ở bảng dưới:


21

Bảng 2.3. So sánh năng lực sức bền của học sinh lớp 11 trường THPT Liễn sơn và một số
trường THPT trong cụm Lập Thạch – Vĩnh Phúc
Các test kiểm tra
Nữ (n = 76)
Đối tượng

Cooper
test (m)

Nam (n = 104)

Nằm sấp
Chạy 500m Nhảy dây 2
chống đẩy
(s)
phút (lần)
(lần)

Cooper

test (m)

Nằm sấp
Chạy 1000m Nhảy dây 2
chống đẩy
(s)
phút (lần)
(lần)
240.87
 17.36

168.60
 24.88

26.73
 7.39

12.87
 4.74

2015.17 
110.77
2019.87
 105.76

239.47
 17.54

169.40
 25.35


28.40
 7.42

171.83
 23.88

12.60
 4.91

2018.77
 107.43

239.87
 17.88

169.70
 25.10

28.27
 7.31

2.243

0.568

1.376

1.149


1.602

0.618

2.373

>0.05

<0.05

>0.05

>0.05

>0.05

>0.05

>0.05

<0.05

t1-3

0.815

1.837

0.725


0.910

0.335

1.161

0.852

2.191

P

>0.05

>0.05

>0.05

>0.05

>0.05

>0.05

>0.05

<0.05

1855.70
 135.28


123.37
 6.64

170.93
 22.31

12.07
 5.39

THPT Triệu Thái (2)

1859.91
 130.63

121.90
 6.19

171.63
 23.23

THPT Trần Nguyên Hãn
(3)

1858.13
 131.89

122.17
 6.17


t1-2

1.411

P

So sánh

THPT Ngô Gia Tự (1)

45


22

Từ kết quả tại bảng 2.3 cho thấy, nếu xét chỉ số trung bình ( x ) thì kết quả
thực hiện các test của học sinh trường THPT Liễn sơn đều thấp hơn so với
trường THPT Ngô Gia Tự và THPT Triệu Thái. Tuy nhiên, khi so sánh bằng chỉ
số t quan sát với 2 trường bạn thì sức bền của học sinh THPT Liễn sơn thấp
hơn . Điều này thể hiện ttính ở một số chỉ tiêu < tbảng = 1.960 với P < 0.05. Các test
còn lại có sự khác biệt nhưng không có ý nghĩa ở ngưỡng xác suất P = 0.05. Sự
khác biệt trên cũng phản ánh qua thành tích thi đấu tại các giải thể thao ngành
giáo dục so với các trường trong cụm.
Nhằm đánh giá chính xác hơn năng lực sức bền của học sinh THPT Liễn
sơn, đề tài tiếp tục so sánh kết quả kiểm tra các test Cooper (m), Chạy 500m đối
với nữ và Chạy 1000m đối với nam (s) và Nằm sấp chống đẩy (lần) với tiêu
chuẩn rèn luyện thân thể áp dụng cho học sinh, sinh viên [18],[40]. Kết quả
được trình bày ở bảng 2.4.



23

Bảng 2.4. Thực trạng năng lực sức bền của học sinh lớp 11 trường THPT Liễn Sơn

TT

Test

1.

Chạy 500m (s)

2.

Chạy 1000m (s)

3.

Cooper test (m)

Giới
tính
Nữ
(n=76)
Nam
(n=104)
Nữ
(n=76)
Nam
(n=104)

Nữ

5.

Nằm sấp chống
đẩy (lần)

(n=76)
Nam
(n=104)

Kết quả phân loại
Tiêu

Tốt
Số

chuẩn

lượng

123.37  6.64

110

5

240.87  17.36

220


( x  )

1855.7  135.28
2015.17  110.77

2160 2640
2500 2700

Tiêu

Đạt
Số

Tỷ lệ

Tiêu

Chưa đạt
Số

Tỷ lệ

chuẩn

lượng

%

chuẩn


lượng

%

6.57

124

37

48.68

>124

34

44.73

16

15.38

245

53

50.96

>245


35

33.66

4

5.40

41

55.40

<1850

29

39.20

11

10.57

61

58.65

<2000

32


30.76

Tỷ lệ %

1850 2150
2000 2400

12.07  5.39

> 19

3

4.05

8 -13

39

52.70

<8

32

43.25

26.73  7.39


> 41

19

18.26

21 - 30

67

64.44

<21

18

17.30

47
9


24

Qua kết quả bảng 2.4 cho thấy, thực trạng năng lực sức bền của học sinh lớp
11 trường THPT Liễn sơn có các test Chạy 1000m (nam) và Nằm sấp chống đẩy là
đạt yêu cầu theo tiêu chuẩn đánh giá. Điều này chứng tỏ, việc giáo dục sức bền
cho học sinh của trường đã thể hiện tính hiệu quả nhưng chưa cao. Có thể nói,
năng lực sức bền của học sinh lớp 11 trường THPT Liễn sơn mới chỉ dừng lại ở
mức đạt ở một số chỉ tiêu so với mặt bằng chung của cả nước nhưng thấp hơn một

số trường khác là hệ quả nhận thức chưa đầy đủ của giáo viên và học sinh về ý
nghĩa của việc chuẩn bị thể lực nói chung và sức bền nói riêng, thể hiện của sự
chưa quan tâm tổ chức rèn luyện thể lực đặc biệt là ngoại khoá cho học sinh, chưa
có đủ phương tiện và điều kiện để tập luyện phù hợp.
2.1.2. Thực trạng công tác giảng dạy và học tập môn GDTC tại trường THPT
Liễn sơn
2.1.2.1. Chương trình giảng dạy môn GDTC tại trường THPT Liễn sơn
GDTC trong trường học là quá trình sư phạm chuyên biệt nhằm giáo dục,
giảng dạy, đào tạo, rèn luyện học sinh theo định hướng mục đích, tăng cường sức
khoẻ, phát triển thể chất, hoàn thiện nhân cách, bồi dưỡng năng lực thể thao nâng
cao trình độ văn hoá thể chất cho học sinh theo nhu cầu cuộc sống và phát triển xã
hội. Nhằm từng bước nâng cao chất lượng GDTC trong trường học THPT. Sở
Giáo dục & Đào tạo đã có chỉ đạo đến các trường học thực hiện đầy đủ chương
trình giảng dạy môn thể dục do Bộ Giáo dục & Đào tạo quy định. Đảm bảo nội
dung, thời lượng trong chương trình giảng dạy chính khoá; Triển khai công tác
GDTC hàng năm đến lãnh đạo các trường THPT ở hội nghị giao ban sở. Giao
nhiệm vụ cho phòng THPT xây dựng kế hoạch hoạt động GDTC, thường xuyên
theo dõi, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện chương trình GDTC trong nhà trường và
báo cáo định kì công tác GDTC từng năm học. Nội dung cụ thể như trình bày tại
bảng 2.5.
Bảng 2.5. Nội dung và phân phối chương trình môn thể dục lớp 11 trường
THPT Liễn sơn
Học kì I: 18 tuần = 36 tiết; Học kì II: 17 tuần = 34 tiết
TT
I

Số tiết/Học kỳ

Nội dung
Thực hành bắt buộc:

Thể dục nhịp điệu

I
mi
11

II
%
18.96

mi

%


25

Nhảy cao
Cầu lông
Chạy tiếp sức
Đá cầu
Chạy bền
Nhảy xa
II

Thể thao tự chọn:
Bóng chuyền
Đẩy tạ

12

10

20.68
14

24.13

11
14
12

18.96
24.13
20.68

12

20.68

17.24

11

18.96

12

20.68

Từ bảng 2.5 cho thấy:

- Về thời lượng giảng dạy, học tập: mỗi học kỳ, số tiết dao động từ 34 - 36 tiết
học, như vậy, bình quân mỗi tuần có 2 tiết GDTC chính khoá và trong mỗi tiết thời
lượng dành cho tập luyện sức bền là rất ít. Với thời lượng như vậy thì việc lựa chọn và
sắp xếp các bài tập phát triển thể lực nói chung và sức bền nói riêng cho học sinh khó
đạt được mục tiêu đề ra do không đủ thời gian cần thiết để tập luyện.
- Về nội dung giảng dạy: đa số các giờ học nhằm giải quyết nhiệm vụ trọng tâm
là giảng dạy kỹ thuật động tác và luật thi đấu với thời gian từ 6 – 10 tiết/môn. Như vậy,
với thời lượng và nội dung trên, chỉ riêng việc nắm vững kỹ thuật động tác hay nguyên
lý kỹ thuật cũng chưa đủ, chứ không nói đến phát triển thể lực.
- Về hình thức, nội dung bổ trợ: tập luyện bổ trợ chiếm một thời lượng khá lớn
trong chương trình giảng dạy, song chỉ có nội dung TCVĐ. Mặc dù, tập luyện TCVĐ
thì nội dung phong phú và đa dạng, kích thích được tính hứng thú của học sinh và hình
thức dễ tổ chức tập luyện, song để phát triển tố chất vận động sức bền là không cao vì
tập luyện TCVĐ để phát triển sức bền thì yêu cầu thời lượng vận động phải lớn, như
vậy sẽ làm ảnh hưởng tới tổng thời gian của 1 tiết học.
Vấn đề đặt ra là cần phải nghiên cứu tổ chức hoạt động nội dụng tập luyện bổ
trợ cho học sinh, trong đó cần đa dạng các nội dung và hình thức tập luyện để kích
thích được tính tự giác của học sinh nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển thể lực nói
chung và sức bền nói riêng.
Như vậy, từ việc phân tích nội dung giảng dạy môn GDTC tại trường THPT
Liễn sơn cho thấy: Nhà trường đã thực hiện nghiêm túc chương trình theo quy định
của Bộ Giáo dục & Đào tạo ở các giờ chính khoá, song đối với phần tập luyện bổ trợ
và ngoại khoá hiệu quả phát triển sức khoẻ, thể lực cho học sinh còn chưa tốt. Như vậy,


×