Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

SKKN một số biện pháp dạy trẻ 5 – 6 tuổi a1 đọc thơ diễn cảm ở trường mầm non hoa sen thị trấn lập thạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.99 KB, 29 trang )

Một số biện pháp dạy trẻ 5 – 6 tuổi A1 đọc thơ diễn cảm ở trường
Mầm non Hoa Sen Thị Trấn Lập Thạch
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:
Trong những năm qua cùng với sự phát triển của các bậc h ọc khác, b ậc
học mầm non là một bậc học đã có nhiều đóng góp to lớn, th ực sự có trách
nhiệm gieo những hạt giống mầm non tốt tạo tiền đề vững ch ắc cho
nhiệm vụ giáo dục đào tạo cho thế hệ mai sau. Nhận thấy rõ tầm quan
trọng của bậc học Mầm non Bộ Giáo dục và Đào tạo luôn chú tr ọng vi ệc
nâng cao chất lượng giáo dục và coi chất lượng chăm sóc - giáo d ục tr ẻ là
một trong những vấn đề phải quan tâm hàng đầu. T ừ nhận th ức trên bản
thân là một giáo viên công tác và giảng dạy nhiều năm trong tr ường m ầm
non tôi thấy mặc dù còn nhỏ tuổi nhưng trẻ rất hứng thú khi tham gia vào
các hoạt động hàng ngày khi ở truờng. Sự hứng thú của trẻ đã làm thay đ ổi
rất nhiều quan niệm trước đây của tôi về ngành giáo dục đặc biệt này.
Khác với các cấp học khác, cấp học Mầm non có nh ững đ ặc tr ưng riêng,
chi khi chúng ta được chứng kiến và trải nghiệm th ực tế chúng ta m ới
hiểu hết ý nghĩa của câu nói mà ta vẫn th ường hay nghe “ Học mà chơi,
chơi mà học”.
Giờ học được bắt đầu bằng một trò chơi, bắt đầu bằng m ột câu đ ố, b ắt
đầu bằng mở hộp quà... và đôi khi kết thúc cũng là trò ch ơi. Tr ẻ c ứ t ưởng
mình đang tham gia vào trò chơi, cứ tưởng mình đang trong đoàn đi “tham
quan” nên rất hứng thú, rất tò mò khám phá tri thức mới một cách h ồn
nhiên.
Cũng chính bởi “Học mà chơi, chơi mà học” nên đòi hỏi người giáo viên
Mầm non ngoài việc nắm vững chuyên môn, nắm vững ph ương pháp d ạy
học còn phải khéo léo lựa chọn hình thức tổ chức giờ h ọc sao cho sinh
động, thu hút trẻ. Điều này không phải giáo viên M ầm non nào cũng làm
được bởi nó đòi hỏi một chút “nghệ thuật” và một chút “năng khiếu”.
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy trẻ hứng thú nhất là các gi ờ h ọc Âm


nhạc sau đó là các giờ làm quen với Văn h ọc. Các câu chuy ện c ổ tích, các
bài thơ luôn thu hút trẻ một cách kỳ lạ. Thực tế cho th ấy hoạt động văn
học là một hoạt động không thể thiếu ở lứa tuổi mầm non bởi lứa tuổi
này trẻ rất nhạy cảm, giàu cảm xúc. Trẻ luôn mong muốn đ ược ti ếp xúc
với các câu chuyện cổ tích, các bài ca dao, ngay từ nh ững ngày đầu c ủa


cuộc sống, trẻ mong muốn đi vào giấc ngủ bằng lời ru của bà, của mẹ,
chúng có thể ngồi hàng giờ nghe cô, mẹ, bà kể chuy ện đọc th ơ đ ể hoà
mình vào cuộc sống cổ tích mà trẻ luôn cho là có thật.
Có thể nói văn học là người bạn gần gũi đối với trẻ. Văn học đem lại
cho trẻ những hiểu biết xung quanh, nó nuôi dưỡng trí t ưởng t ượng, kh ả
năng sáng tạo nghệ thuật. Đặc biệt thông qua kể chuy ện giúp phát tri ển
ngôn ngữ cho trẻ, kỹ năng nói mạch lạc, chính xác, hình thành cho tr ẻ
những tư cách đạo đức tốt, trẻ biết yêu, biết ghét, biết phân biệt đúng sai,
thiện ác, có tâm tư tình cảm và lòng nhân hậu bao dung đối v ới mọi ng ười
xung quanh.
Qua các tác phẩm văn học trẻ biết thêm những vẻ đẹp của đất n ước,
quê hương, hiểu thêm những di tích lịch sử, danh lam th ắng c ảnh. T ừ đó
hình thành ở trẻ tình cảm đối với quê hương, đất n ước m ột cách nh ẹ
nhàng qua những nhân vật, hình ảnh gần gũi với trẻ. Tuy v ậy kh ả năng ghi
nhớ của trẻ còn hạn chế nên các câu chuyện dài trẻ có th ẻ chỉ nh ớ đ ược
các nhân vật, một vài tình tiết truyện và rất ít trẻ kể lại được câu chuy ện.
Nhưng các bài thơ thì khác, trẻ có thể thuộc thơ rất nhanh và ghi nh ớ r ất
lâu vì các bài thơ của trẻ thường ngắn, câu từ vần điệu, dễ hi ểu, d ễ nh ớ
hơn.
Trẻ thơ có một tâm hồn rất nhạy cảm với cái đẹp. Đây là lứa tuổi bắt đ ầu
của sự nhận thức và những tình cảm mãnh liệt, các em yêu th ơ, thích th ơ
và có nhu cầu đọc thơ. Trẻ thơ đến với thơ ca bằng những dung động đ ầu
tiên ngọt ngào nhất, say mê nhất. Chính vì vậy th ơ ca có vai trò quan tr ọng

góp phần hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Thơ là một ph ần của
cuộc sống gợi lên cho trẻ những cảm xúc lành mạnh, thơ giúp trẻ nhận
thức thế giới xung quanh về con người về cuộc sống xã hội xung quanh
trẻ. Vì vậy thơ góp phần giáo dục thẩm mỹ và phát triển ngôn ngữ nghệ
thuật cho trẻ.
Bước vào đầu năm học khi nhận lớp chủ nhiệm tôi đã tiến hành giảng d ạy
một vài tiết và khảo sát chất lượng về khả năng đọc thơ của trẻ trong lớp.
Tôi nhận thấy: Trẻ chưa hứng thú tham gia vào giờ học, có nhiều trẻ ch ưa
chú ý đến bài dạy và yêu cầu của câu hỏi cô đặt ra? Khi cho tr ẻ đ ọc l ại
toàn bộ nội dung bài thơ thì trẻ chưa thể hiện được nh ịp điệu, âm điệu,
sắc thái biểu cảm của bài thơ mà mới chỉ là đọc thuộc lòng và v ới hình
thức đọc cho xong không có nhịp điệu, giọng điệu, ngữ điệu, sắc thái, đi ệu
bộ, cử chỉ.
2. Tên sáng kiến:
Đứng trước tình hình đó tôi luôn trăn trở làm thế nào để trẻ h ứng thú v ới
văn học? Làm thế nào để trẻ thích các bài thơ và th ể hiện đ ược tình c ảm


của mình qua bài thơ đó? Để giải quyết câu hỏi trên tôi đã quyết định ch ọn
đề tài: “Một số biện pháp dạy trẻ 5 – 6 tuổi A1 đọc thơ diễn cảm ở
trường Mầm non Hoa Sen Thị Trấn Lập Thạch” làm đề tài sáng kiến
kinh nghiệm của mình nhằm tìm ra những biện pháp h ữu hiệu nhất áp
dụng vào công tác giảng dạy tại lớp. Bởi việc h ướng dẫn cho tr ẻ “Làm
quen với văn học” là cơ hội tốt để sớm hình thành ở tr ẻ nh ững năng l ực
hoạt động ngôn ngữ. Qua đó giáo dục tình cảm và phát triển tư duy m ở
rộng vốn hiểu biết của trẻ góp phần vào việc phát triển toàn diện cho trẻ.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Tạ Tố Linh
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường mầm non Hoa Sen Thị trấn Lập Th ạch.
- Số điện thoại: 0989.419.088; E_mail:


4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tạ Tố Linh
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Báo cáo sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “Một số biện pháp dạy trẻ 5 –
6 tuổi A1 đọc thơ diễn cảm ở trường Mầm non Hoa Sen Thị Tr ấn Lập
Thạch” được áp dụng trong lĩnh vực phát triển ngôn ngữ dành cho trẻ
mầm non ở bộ môn Phương pháp cho trẻ làm quen với Văn h ọc.
Mặt khác, đây là một đề tài mang tính thực tiễn, được áp dụng vào quá
trình giảng dạy không chỉ dành riêng cho môn h ọc Làm quen v ới Văn h ọc
mà còn có khả năng áp dụng cho tất cả các môn học khác đ ể tạo h ứng thú
cho trẻ như môn: Làm quen với toán, tạo hình, âm nhạc…Hay khi t ổ ch ức
các hoạt động khác như: Hoạt động góc, hoạt động ngoài tr ời, ….
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng th ử:
Sau khi đề ra những giải pháp nhằm giúp cho trẻ có thể lĩnh h ội nh ững
kiến thức, kỹ năng và thái độ về thế giới xung quanh thì đề tài nghiên c ứu
đã được áp dụng đối với trẻ lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi A1 t ại tr ường m ầm
non Hoa Sen, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc từ ngày 20/9/2018.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Về nội dung của sáng kiến:
7.1.1. Về cơ sở lí luận.
Ai cũng biết rằng văn học được bắt nguồn từ cuộc sống sinh ho ạt h ằng
ngày của con người và nó được lưu truyền qua nhiều thế hệ, qua nhi ều
thời đại. Văn học là một loại hình nghệ thuật mà trẻ được tiếp xúc t ừ r ất
sớm, qua những lời ru của bà, của mẹ từ những bài th ơ, bài đ ồng dao, bài


ca dao, những câu chuyện dân gian, chuyện cổ tích. Văn h ọc chính là kho
tàng kinh nghiệm về nhiều phương diện, nó là n ơi l ưu giữ nh ững truy ền
thống vô giá của dân tộc Việt Nam. Vì vậy cho trẻ làm quen v ới văn h ọc
ngay từ tuổi mầm non là rất cần thiết, bởi qua việc cho tr ẻ làm quen văn

học chính là hình thành ở trẻ những tình cảm đạo đức tốt đẹp, nh ững cảm
xúc thẩm mỹ, phát triển trí tưởng tượng như: lòng yêu thiên nhiên ở cỏ cây
hoa lá, lòng kính trọng yêu th ương gần gũi và giúp đ ỡ nh ững ng ười thân
xung quanh trẻ như: Ông bà, bố mẹ, cô giáo, anh chị em. Thông qua ho ạt
động này trẻ làm tái tạo và sáng tạo thêm những tình ti ết của tác ph ẩm
một cách hồn nhiên phù hợp với nội dung của tác phẩm. Thông qua s ự
hiểu biết, trí tưởng tượng của trẻ. Đồng thời trẻ biết đọc thuộc th ơ di ễn
cảm, biết kể chuyện sáng tạo.
Văn học là môn học rất quan trọng đối với trẻ m ầm non, là ph ương ti ện
phát triển ngôn ngữ cho trẻ giúp trẻ có đủ vốn từ để nói năng lưu loát,
diễn đạt gãy gọn biết sử dụng từ đúng lúc, đúng chỗ, không nh ững th ế mà
việc dạy trẻ làm quen với những từ ngữ nghệ thuật như từ tượng hình, từ
tượng thanh giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát, kh ả năng t ư
duy độc lập trong suy nghĩ. Đồng thời còn giúp trẻ có nh ững tình c ảm
trong sáng, những đức tính tốt đẹp, giàu lòng yêu th ương, biết giúp đ ỡ
những người thân trong gia đình và mọi người xung quanh, s ống th ật thà,
lễ phép, mạnh dạn, hồn nhiên. Qua đó văn h ọc còn giáo d ục trẻ có thói
quen văn minh lịch sự, biết kính trên, nhường dưới, có ý th ức chăm ch ỉ lao
động và dũng cảm khi đứng trước khó khăn.
Văn học là phương tiện hữu hiệu nhất để giáo dục tình cảm đạo đ ức cho
trẻ. Bên cạnh đó văn học còn giúp trẻ phát triển ngôn ng ữ m ạch lạc, nói
đủ câu, đủ từ, câu có ý nghĩa và có hình ảnh biểu cảm.
Xuất phát từ những vai trò cụ thể đó cho nên hoạt động dạy trẻ làm quen
với văn học là môn học không thể thiếu trong chương trình chăm sóc giáo
dục trẻ. Và việc nâng cao chất lượng dạy trẻ làm quen v ới tác ph ẩm văn
học là vấn đề quan trọng trong chương trình giáo dục m ầm non trong đó
có thơ ca.
a.. Khái niệm về thơ:
Thơ là một loại hình nghệ thuật dùng từ, dùng chữ trong ngôn ngữ làm
chất liệu, và sự chọn lọc từ cũng như tổ hợp của chúng được sắp xếp d ưới

một hình thức lôgíc nhất định tạo nên hình ảnh hay g ợi cảm âm thanh có
tính thẩm mỹ cho người đọc, người nghe.
Thơ là loại sáng tác Văn học có vần điệu, có đặc đi ểm ngắn gọn, súc tích,
nhiều ý cô đọng, tuân theo các quy luật nhất đ ịnh. Th ơ th ường dùng nh ư
một hình thức biểu tả cảm xúc trữ tình, hoặc tình cảm xúc động tr ước


một hiện tượng xảy ra trong cuộc sống cũng như khi người ta đ ứng tr ước
một phong cảnh ngoạn mục hoặc đứng trước một cảnh đẹp nên th ơ.
b. Thơ ca với tâm hồn trẻ nhỏ:
Thơ ca là một sản phẩm tinh túy của ngôn ngữ, là kết tinh vẻ đẹp c ủa
tiếng Việt, từ những chuyện nhỏ bé, từ cuộc sống th ường ngày gi ản d ị đến
những điều lớn lao, những mong ước bay bổng đều đ ược diễn đ ạt trong
thơ một cách uyển chuyển, giàu nhạc điệu, giàu hình ảnh làm n ảy sinh
trong lòng người đọc những tình cảm thiết tha với cuộc đời, nh ững ước
mơ trong sáng về tương lai. Những câu thơ hay không chỉ gieo vần vào lòng
người đọc vẻ đẹp của tiếng nói dân tộc mà còn sáng lên vẻ đ ẹp v ề tâm
hồn, về thiên nhiên, đất nước và con người Việt Nam.
Thơ ca và trẻ thơ có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi chất th ơ hồn
nhiên, chân thực, trong sáng, giản dị mà cả hai bên đều có. Khó có th ể hình
dung sự phát triển của trẻ mà thiếu vắng những bài th ơ hay cũng nh ư
người làm thơ lại thiếu đi sự hồn nhiên chân thực, trong sáng của tâm h ồn.
Trẻ nhỏ thường đến với thơ ca hồn nhiên như đến với chính mình vậy.
Sớm cho trẻ tiếp xúc với thơ ca ngay từ khi còn nhỏ là điều rất nên làm, vì
thơ ca là nguồn dinh dưỡng cho tâm hồn trẻ em về nhiều mặt:
* Trước hết thơ ca giúp trẻ tiếp nhận cái hay cái đẹp trong tiếng
nói dân tộc:
Ngay từ thuở lọt lòng, trẻ được nghe tiếng hát ru của mẹ cũng là l ần đ ầu
tiên trẻ nghe giọng nói của con người - tiếng mẹ đẻ. Tuy trẻ ch ưa hiểu
được nội dung những câu thơ mẹ hát nhưng lại tiếp nhận nhạc điệu, v ần

điệu của nó. Thật tuyệt khi trẻ bắt đầu học nói lại được tiếp xúc v ới th ơ
ca, ngày qua ngày âm hưởng của nó cứ thấm dần vào tâm h ồn của trẻ. L ời
đẹp ý hay của thơ ca sẽ giúp các cháu nói đúng, nói hay, nói rõ ràng, m ạch
lạc giúp trẻ có thêm vốn từ phong phú, phát âm chuẩn góp ph ần phát tri ển
ngôn ngữ cho trẻ.
* Thơ ca làm giàu cảm xúc của trẻ:
Thơ ca thể hiện thế giới nội tâm ở nhiều sắc thái cung bậc khác nhau. Có
những câu thơ đọc lên nghe thật vui tai, thật sảng khoái. Ng ược l ại có
những câu thơ nghe sao mà da diết, sâu lắng. Nh ững sắc thái c ảm xúc đó
khơi dậy ở trẻ tình cảm sâu đậm về con người, hun đúc ở trẻ m ột tâm h ồn
nhạy cảm, dễ xúc động khi tiếp xúc với con người và cảnh v ật xung
quanh, bồi bổ lòng nhân ái, lòng yêu thiên nhiên, cuộc sống.
* Thơ ca phát triển trí tưởng tượng của trẻ:
Sự phản ánh hiện thực của thơ ca vừa thực lại vừa h ư, điều đó giúp
trẻ phát triển mãnh liệt trí tưởng tượng. Hơn nữa nghệ thuật nhân cách


hóa trong thơ ca là sự kết hợp hài hòa giữa tình yêu th ương v ới trí t ưởng
tượng và đó chính là đặc điểm tâm lý nổi bật của trẻ nh ỏ. S ự vật xung
quanh trong mắt của trẻ thơ bao giờ cũng có hồn, nhuốm màu xúc cảm và
bay bổng đến kì diệu. Bằng sức tưởng t ượng th ơ ca còn giúp trẻ có một
tâm hồn giàu ước mơ, sớm hình thành tiền đề của hoạt động sáng tạo,
hình dung ra những cái sẽ có và mong muốn làm nên nh ững đi ều t ốt lành.
* Thơ ca còn giúp trẻ khám phá những điều mới lạ, trong thế giới xung
quanh.
Những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với nhau, những thái độ
thân thiện giữa con người với thiên nhiên đều là n ội dung phong phú b ồi
bổ cho đời sống tinh thần của các cháu nhỏ. Nghe thơ đọc th ơ còn giúp
cháu khám phá, những quy luật đối nhân xử thế, những vẻ đẹp trong thiên
nhiên và trong cuộc sống con người, giúp trẻ có cách sống, cách nghĩ, cách

nhìn hồn nhiên trong sáng đối với thế giới xung quanh, nhạy cảm tr ước cái
đẹp, do đó dễ tiếp nhận với điều hay lẽ phải.
Cho trẻ tiếp xúc với thơ ca là việc nên làm, và làm càng sớm càng tốt.
Nhưng dạy thơ cho trẻ như thế nào là một vấn đề nên bàn luận để hiệu
quả giáo dục được nhân lên? Đó là câu hỏi đặt ra cho ng ười l ớn, đ ặt bi ệt
cho những cô giáo mầm non cần tìm cách giải quy ết đ ể đáp ứng nhu c ầu
phát triển của các cháu nhỏ.
Bản thân những lời hát ru của mẹ, những giọng ngâm th ơ c ủa bà, đã
là những bài học quý giá thấm sâu vào lòng con trẻ c ủa bi ết bao th ế h ệ
người Việt Nam. Ở lứa tuổi mẫu giáo khi nhu cầu về cái đẹp đang phát
triển thì việc dạy thơ ca còn mang một ý nghĩa đặt biệt, có nhiều tác đ ộng
mạnh mẽ và nhiều mặt đối với đời sống của các cháu, về ngôn ngữ, về
tình cảm, về suy nghĩ, về tưởng tượng, về cách sống đẹp. Do đó có th ể
khẳng định rằng thơ ca là một loại hình nghệ thuật giàu s ức gợi c ảm, d ạy
thơ cho trẻ là hình thức giáo dục mang tính tích hợp cao, có kh ả năng hình
thành ở trẻ một tâm hồn giàu lòng yêu thương, giàu ước mơ trong sáng và
lành mạnh.
c. Khả năng đọc và cảm nhận thơ của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tu ổi.
Cùng với sự phát triển về thể chất và trí tuệ của trẻ, ngôn ngữ là công c ụ
để trẻ thể hiện sự khôn lớn hàng ngày mà chúng ta có thể kiểm ch ứng.
Theo từng độ tuổi khả năng nói của trẻ tăng lên từng ngày, tăng lên v ề s ố
lượng câu từ, chính xác về cách sử dụng câu từ và khả năng diễn đ ạt m ạch
lạc hơn.
Nếu ở độ tuổi nhà trẻ, trẻ chỉ có thể đọc theo cô nh ững câu ng ắn và
thường phát âm từ cuối của các câu thơ đến độ tuổi mẫu giáo bé trẻ đã có
thể thuộc và đọc được những bài thơ ngắn. Độ tuổi Mẫu giáo nhỡ, l ớn trẻ


không chỉ có khả năng đọc thuộc lòng bài th ơ mà còn bi ết c ảm nh ận cái
hay, cái đẹp của ngôn ngữ qua vần điệu nhịp điệu các bài th ơ, trẻ có th ể

đọc diễn cảm đồng thời có thể thể hiện các động tác minh h ọa theo bài
thơ rất hồn nhiên và giàu cảm xúc. Vì vậy việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm
cho trẻ có ý nghĩa rất to lớn trong phát triển toàn diện nhân cách tr ẻ.
Dạy trẻ đọc thuộc thơ, đọc diễn cảm là giúp trẻ thuộc lòng bài th ơ, giúp
trẻ phát âm rõ ràng đảm bảo sự nghiêm ngặt chính âm. Dạy tr ẻ đ ọc di ễn
cảm là rèn cho trẻ giọng đọc hay, đọc đúng, biết phối hợp giữa ch ất gi ọng
tự nhiên với các nội dung tác phẩm, thể hiện ngữ điệu phù hợp, biết ng ắt
nghỉ đúng chỗ theo vần điệu, nhịp điệu câu th ơ. Rèn trẻ bi ết làm ch ủ
giọng đọc và kỹ thuật đọc phù hợp với giọng điệu cảm xúc của nhà văn và
nghĩa của văn bản.
Xác định rõ tầm quan trọng của việc cho trẻ làm quen v ới tác ph ẩm văn
học trong đó có thơ ca bản thân tôi với lòng nhiệt tình, yêu ngh ề m ến trẻ
tôi đã thay đổi nhiều hình thức và nhiều biện pháp khác nhau để gây h ứng
thú cho trẻ cuốn hút trẻ vào tiết học. Trẻ tiếp nhận và lĩnh hội các bài th ơ
một cách nhẹ nhàng thoải mái, không bị áp đặt gò bó và đặc biệt trẻ đ ược
chủ động sáng tạo và hoạt động một cách tích cực trong giờ học.
7.1.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
a. Thuận lợi:
Trường Mầm non Hoa Sen được xây dựng khang trang, sạch đẹp phù hợp
với lứa tuổi Mầm non và được đặt gần khu dân cư thuận lợi cho công tác
chăm sóc - giáo dục trẻ.
Cơ sở vật chất tương đối đảm bảo cho việc dạy và học đặc biệt là đồ dùng
cho các tiết dạy thơ.
Ban giám hiệu luôn luôn quan tâm đến việc nâng cao ch ất l ượng
chăm sóc, giáo dục trẻ của nhà trường. Thường xuyên tạo cơ h ội cho bản
thân tôi đi học tập bồi dưỡng về đổi mới hình thức, phương pháp, kỹ năng
dạy thơ do cấp trên và các trường bạn trong huy ện tổ ch ức.
Tổ chuyên môn tổ chức sinh hoạt đều đặn theo đúng lịch và kế hoạch
đề ra. Các giáo viên trong tổ luôn có ý thức tìm ra cái mới hay nhất, sáng tạo
nhất trong quá trình dạy trẻ đọc thơ diễn cảm.

Giáo viên có trình độ trên chuẩn và có phẩm ch ất đạo đ ức t ốt. B ản thân
luôn tâm huyết với nghề nghiệp, thực sự yêu nghề mến trẻ, luôn học hỏi
nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Thường xuyên giảng dạy nhiệt tình, có
trách nhiệm với các cháu.


Các cháu trong lớp cùng 1 độ tuổi. Các cháu ngoan thông minh, nhanh nhẹn,
hòa đồng với bạn, có nề nếp.
Đa số các cháu đều học theo lứa tuổi từ nhà trẻ lên.
Phần lớn phụ huynh đều quan tâm chăm lo cho việc học hành c ủa
trẻ. Thường xuyên phối kết hợp với tôi dạy trẻ học những bài th ơ m ới và
ôn lại những bài thơ cũ theo chủ đề.
b. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên trong quá trình dạy trẻ đ ọc th ơ diễn c ảm
tôi còn gặp một số khó khăn sau:
* Nhận thức của học sinh:
Nhận thức của trẻ trong lớp chưa đồng đều.
Có một số trẻ trong giao tiếp với cô và bạn còn nhút nhát, chưa mạnh dạn tự
tin.
Phần lớn trẻ chưa có kỹ năng đọc thơ, việc đọc th ơ của tr ẻ m ới ch ỉ d ừng
lại ở việc thuộc thơ mà chưa biết đọc diễn cảm, chưa thể hiện được giọng
điệu, ngữ điệu, điệu bộ cử chỉ, sắc thái tình cảm qua bài th ơ.
* Đối với phụ huynh học sinh:
Một số ít phụ huynh do hoàn cảnh gia đình phải đi làm ăn xa nên
chưa dành nhiều thời gian quan tâm đến việc học tập của trẻ, chưa
thường xuyên phối kết hợp với giáo viên và nhà trường trong công tác
chăm sóc giáo dục trẻ đặc biệt là cùng với tôi rèn và dạy trẻ đ ọc nh ững bài
thơ mới.
* Cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng dạy học:
Đồ dùng, trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác dạy và học nh ư máy

chiếu đã có nhưng số lượng còn ít: 1 cái/trường.
Đồ dùng đồ chơi đa số là do tự bản thân tôi làm cho nên cũng có phần hạn chế.
c. Thực trạng và kết quả các giờ dạy thơ cho trẻ:
Tổng số học sinh: 31 trẻ
Trong đó: - Nữ: 11; Nam: 20
Tại lớp tôi chủ nhiệm, tôi nhận thấy sau các giờ dạy th ơ, đa số các cháu
đều đọc thuộc được bài thơ, nhưng khi hỏi nội dung bài thơ nói gì thì r ất ít
cháu trả lời được và chỉ sau một vài buổi trẻ lại quên hết. Trẻ tham gia vào
giờ học là thực hiện nhiệm vụ trong khi một số trẻ chưa th ực sự chú ý vào
giờ học chính vì vậy trẻ mới chỉ đọc thuộc lòng, đọc vẹt và ch ưa th ể hiện


được nhịp điệu, âm điệu, sắc thái biểu cảm của bài thơ. Có cháu trong khi
đọc thơ còn bị ngọng, có cháu đọc còn hay bị lặp lại do nói lắp.
Qua điều tra nghiên cứu và tiến hành khảo sát đầu năm học trên 31 cháu ở
lớp 5 - 6 tuổi A1 tôi đang giảng dạy kết quả đạt được như sau:
Yêu cầu cần đạt

Số lượng trẻ

% đạt

Hứng thú

17/31

54,8%

Hiểu nội dung


17/31

54,8%

Thuộc bài thơ

25/31

81%

Đọc diễn cảm

6/31

19,3%

Đọc còn ngọng

4/31

13%

Nói lắp

2/31

6,5%

* Đánh giá chung thực trạng:
- Ưu điểm:

+ Bản thân tôi luôn truyền thụ nội dung, kiến thức chính xác theo đúng
đặc trưng của môn học của ngành.
+ Giảng dạy theo đúng chương trình kế hoạch đã quy định.
+ Tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ.
+ Xây dựng kế hoạch chuyên đề Văn học đầy đủ theo hướng dẫn của Ban
giám hiệu nhà trường và đã được Hiệu phó phụ trách chuyên môn phê
duyệt.
+ Nắm vững phương pháp môn học dạy một cách sáng tạo đặc biệt là dạy
trẻ đọc thơ diễn cảm.
- Tồn tại, hạn chế:
+ Một số trẻ chưa chủ động tích cực tham gia giờ học.
+ Một số trẻ chưa chú ý còn hay nói chuyện riêng và đùa nghịch trong giờ học.
+ Một số trẻ chưa mạnh dạn tự tin dẫn đến chưa biết đọc diễn cảm bài
thơ.
+ Một số trẻ còn nói ngọng, nói lắp.
+ Một số phụ huynh chưa dành nhiều thời gian để phối k ết h ợp v ới giáo
viên trong việc rèn và dạy trẻ đọc thơ diễn cảm.
- Nguyên nhân của những tồn tại:


- Do một số trẻ không hứng thú với giờ học cho nên đọc thơ với hình thức đọc
vẹt, đọc thuộc lòng chưa thể hiện được sắc thái tình cảm của mình qua bài
thơ.
- Một số trẻ lần đầu đến lớp chưa mạnh dạn trong giao tiếp v ới cô và b ạn.
- Do khả năng phát âm của trẻ còn chưa chuẩn, chưa rõ tiếng.
- Do điều kiện hoàn cảnh một số phụ huynh đi làm ăn xa đ ể con ở nhà cho
ông bà chăm sóc cho nên chưa có nhiều thời gian để phối kết h ợp v ới giáo
viên.
Xuất phát từ một số cơ sở lý luận khoa học, từ thực trạng việc dạy trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi đọc thơ diễn cảm khi chưa áp dụng các bi ện pháp m ới

giáo viên mới chỉ chú trọng dạy trẻ đọc thuộc bài th ơ mà ch ưa chú ý đ ến
việc dạy trẻ cảm nhận vẻ đẹp của âm thanh ngôn ngữ tiếng việt, ch ưa
chú ý rèn trẻ thể hiện tình cảm với bài thơ, trẻ chưa biết đọc th ơ diễn
cảm và từ những nguyên nhân, tồn tại của việc dạy trẻ đọc th ơ diễn cảm
ở lớp tôi đang giảng dạy như trên tôi mạnh dạn tìm hiểu “ Một số biện
pháp dạy trẻ Mẫu giáo 5 - 6 tuổi A1 đọc thơ diễn cảm ở trường Mầm non
Hoa Sen - Thị Trấn Lập Thạch - Huyện lập Thạch - tỉnh Vĩnh Phúc” và đưa ra
áp dụng ở lớp đang giảng dạy như sau:
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Để khắc phục những hạn chế của trẻ về việc dạy trẻ 5 – 6 tuổi A1
đọc thơ diễn cảm tôi đã đưa ra một số biện pháp nh ư sau:
Biện pháp 1: Tham gia đầy đủ các lớp bồi dưỡng về chuyên môn
nghiệp vụ.
Qua các lớp bồi dưỡng do Sở Giáo dục Phòng Giáo dục, do nhà tr ường t ổ
chức trong năm học tôi đã được nhà trường lựa chọn và cử để tham gia tập
huấn. Trong quá trình học tập tôi luôn có ý thức tự học t ự bồi d ưỡng bằng
cách nghiên cứu tài liệu và học hỏi qua bạn bè đồng nghiệp c ủa mình. M ặt
khác tôi luôn tích cực tham gia đóng góp ý kiến, th ảo lu ận v ề các n ội dung
bồi dưỡng.
Khi tham gia tôi luôn có đủ tài liệu và giáo trình để giúp cho bản thân h ọc
tập đạt kết quả tốt trong các đợt bồi dưỡng đó.
Sau khi tham gia các lớp bồi dưỡng tôi đem nh ững ki ến th ức mình đã h ọc
tập được để xây dựng giáo án mẫu và dạy thực tế trên đối t ượng h ọc sinh
của lớp mình.
Vào các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ tôi triển khai lại các n ội dung
bồi dưỡng đã được tập huấn tới các giáo viên trong tổ để các giáo viên


đều nắm được từ đó ứng dụng vào thực tiễn của từng lớp nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy của lớp mình.

Ngoài ra bản thân tôi còn tự học hỏi qua các hội thi, các buổi Hội th ảo, qua
mạng Internet và qua các hoạt động khác.
* Kết quả đạt được:
Với cách làm như vậy tôi đã nắm chắc phương pháp về chuyên môn
nghiệp vụ của ngành học Mầm non, tôi cũng có thêm bề dày về ki ến th ức
trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non.
Trong quá trình giảng dạy thực tế tôi cũng được các giáo viên trong nhà
trường giúp đỡ, ủng hộ nhiệt tình và tham gia đóng góp nh ững ý ki ến sâu
sắc cho bài giảng từ đó giúp tôi có thêm nhiều kinh nghiệm để giờ dạy sau
đạt kết quả cao hơn.
Đặc biệt là học sinh lớp tôi khi tôi ứng dụng các nội dung đã đ ược b ồi
dưỡng, đã được học hỏi chất lượng giáo dục cuối năm học c ủa l ớp tôi đã
được nâng lên rất nhiều cụ thể:
Nhận thức: - Tốt: 18/31 trẻ = 58%
- Khá: 11/31 trẻ = 35,5%
- Đạt yêu cầu: 2/31 trẻ = 6,5%
- Không có học sinh không đạt yêu cầu.
Biện pháp 2: Nắm vững phương pháp bộ môn.
Bất kỳ một môn học nào cũng có những phương pháp cụ thể của nó, không
thể nói là dạy hay, dạy giỏi nếu không dạy đúng phương pháp, càng không
thể đem lại kết quả trên trẻ nếu một giáo viên không nắm vững phương
pháp dạy học của các bộ môn.
Là một giáo viên công tác trong ngành học mầm non nếu chỉ là giáo viên đơn
thuần thì chỉ cần nắm được các bước lên lớp c ụ thể khi dạy trẻ một bài thơ
bao gồm các bước cơ bản sau đây:
Bước 1: Ổn định tổ chức, gây hứng thú.
Bước 2: Cô đọc diễn cảm.
Bước 3: Giúp trẻ hiểu nội dung tác phẩm
Bước 4: Dạy trẻ đọc thơ.
Trước đây khi chưa nghiên cứu biện pháp dạy trẻ 5 – 6 tu ổi A1 đ ọc th ơ

diễn cảm tôi thường tiến hành một tiết dạy thơ theo đúng trình tự các
bước như trên và hầu như các tiết đều lặp lại và diễn ra như vậy. Gây


hứng thú dẫn dắt vào bài tôi thường sử dụng bằng cách giới thiệu tr ực
tiếp, khi đọc diễn cảm tôi không chú ý nhiều đến ngữ điệu, giọng điệu,
cường điệu, nhịp điệu, sắc thái của bài thơ và ở bước giúp trẻ hiểu nội
dung tác phẩm tôi cũng chỉ đàm thoại theo các câu hỏi ch ưa b ắt tr ẻ ph ải
tư duy nhiều và đến bước 4 dạy trẻ đọc thơ tôi cũng ch ưa chú ý rèn kh ả
năng đọc diễn cảm cho trẻ mà mới chỉ dừng lại ở mức là trẻ đọc thuộc th ơ
và có một vài động tác minh hoạ.
Khi thực hiện một tiết dạy như vậy tôi thấy kết quả giờ học không
cao, nhiều trẻ không chú ý, trẻ đọc thuộc trước rồi lại quên sau. Đi ều đó
cho thấy nếu muốn giờ dạy đạt kết quả cao thì trẻ phải t ự nguy ện tham
gia hoạt động lúc đó tri thức mới mới được tiếp nhận và ghi nh ớ m ột cách
bền vững. Chính vì vậy tôi đã nghiên cứu, tìm tòi sáng t ạo và áp d ụng vào
các tiết dạy thơ cho trẻ làm sao để tiến hành các bước lên l ớp vẫn đủ mà
lại gây được hứng thú cho trẻ và giúp trẻ tiếp nhận tri th ức mới một cách
tích cực chủ động sáng tạo.
Ví dụ: Dạy bài thơ: “Chiếc cầu mới”
Bước 1: Để gây hứng thú cho trẻ tôi cho trẻ đi thăm quan mô hình d ưới là
dòng sông có tàu thuyền qua lại. Trên là một chiếc c ầu bắc ngang qua
dòng sông và trên cầu cũng có các phương tiện đang tham gia giao thông.
Tôi tiến hành cho trẻ quan sát nhận xét xem mô hình có gì? T ừ đó tôi d ẫn
dắt trẻ vào bài.
Với cách làm như vậy trẻ rất hứng thú, phấn khởi trẻ nh ư hoà mình vào
một chuyến thăm quan. Trẻ không thụ động ngồi lỳ một chỗ mà trẻ đ ược
đi lại, cười nói và nói lên những nhận xét của mình về nh ững gì tr ẻ nhìn
thấy. Qua đó trẻ còn được giao lưu với nhau để tiếp nhận bài h ọc một cách
nhẹ nhàng như đang đi chơi mà thực chất là đang được học.

Bước 2: Sau khi giới thiệu về tên tác phẩm, tác giả, tôi tiến hành đọc m ẫu.
Tôi luôn chú ý giọng đọc của mình sao cho phù hợp v ới nội dung bài thơ và
phải thể hiện được giọng điệu, nhịp điệu, cường độ, nét mặt, cử chỉ để
thu hút trẻ hứng thú tham gia vào giờ học, giúp trẻ hiểu nội dung tác
phẩm một cách chính xác, cụ thể rõ ràng.
Tôi tiến hành đọc mẫu hai lần.
+ Lần một: Tôi đọc diễn cảm một cách tự nhiên, rõ vần điệu, nhạc điệu
cho trẻ nghe, nhấn mạnh các hình tượng trong bài thơ nh ư:
“...Tu tu xe lửa,
Xình xịch qua cầu...”


để giúp trẻ cảm nhận vẻ đẹp ngôn ngữ trong bài thơ đó, và đọc kèm động
tác minh họa, điệu bộ, cử chỉ để bài thơ thêm sinh động hấp dẫn. Qua
động tác cử chỉ điệu bộ minh hoạ của tôi bước đầu giúp trẻ hiểu và n ắm
bắt được giọng điệu ngữ điệu, sắc thái biểu cảm của bài th ơ đó. Sau khi
đọc xong tôi tiến hành giới thiệu tên bài th ơ, tên tác giả và giảng nội dung
bài thơ để trẻ hiểu được nội dung bài thơ nói lên điều gì.
+ Lần hai: Đọc kết hợp tranh minh họa giúp trẻ kh ắc sâu thêm các hình
ảnh của bài thơ. Tôi nhấn mạnh những câu chữ mang hình tượng đẹp,
những ý hay gần gũi với trẻ để giúp trẻ cảm nhận những tình cảm tha
thiết, những ý nghĩ tốt đẹp đối với con người và cảnh vật xung quanh. Tuy
nhiên nếu chỉ sử dụng tranh bình thường và để dạy cho xong thì giáo viên
nào cũng có thể làm được và như vậy trẻ chỉ được xem tranh lướt qua ch ứ
chưa được quan sát kỹ và biết được nội dung từng tranh nh ư th ế nào.
Để trẻ hứng thú và khắc sâu kiến thức tôi làm như sau:
Tôi đọc nhưng vẫn phải chú ý đến giọng điệu, ngữ điệu, c ường độ giọng
đọc nhưng không sử dụng cử chỉ, điệu bộ minh hoạ n ữa mà thay vào đó tôi
chú ý đến thao tác lật giở tranh, chỉ các hình ảnh trong tranh sao cho phù
hợp với nội dung của các đoạn thơ trong bài thơ đó.

Khi tiến hành như vậy trẻ lớp tôi rất chú ý quan sát và lắng nghe cô đ ọc,
cả lớp im phăng phắc và chú ý theo tay cô chỉ vào các bức tranh. Tôi nh ận
thấy quá trình tôi đọc mẫu kết hợp với các yếu tố phi ngôn ngữ, v ới tranh
minh họa bài thơ là một bước quan trọng làm cho bài bài th ơ có s ức s ống
trong lòng trẻ, để trẻ có thể đọc theo cô, bắt chước cô và thuộc th ơ nhanh
hơn, nhớ lâu hơn.
* Bước 3: Giúp trẻ hiểu nội dung tác phẩm:
Trước đây khi dạy bước này tôi thường áp dụng đàm thoại theo tranh minh
hoạ nhưng như vậy tôi thấy có nhiều trẻ không chú ý. Chính vì vậy để thu
hút trẻ vào hoạt động này và giúp trẻ hiểu rõ hơn về nội dung bài thơ tôi
làm như sau:
Trong bước này tôi xây dựng hình ảnh nội dung các khổ th ơ bằng hình ảnh
powerpoint trên máy chiếu và là hình ảnh động. Mỗi một hình ảnh thâu
tóm nội dung một khổ thơ tôi trình chiếu cho trẻ quan sát xem n ội dung
hình ảnh đó nói về điều gì sau đó tôi đặt câu hỏi để trẻ trả lời. Khi tr ẻ tr ả
lời xong tôi khái quát lại và giảng giải nội dung đoạn th ơ đó kết h ợp gi ảng
từ khó (nếu có) sau đó tôi trích dẫn lại đoạn th ơ và cho trẻ bắt ch ước
giọng điệu, ngữ điệu.
Tôi thấy khi sử dụng hình ảnh powerpoint trên máy chiếu để giúp trẻ hiểu
nội dung tác phẩm trẻ lớp tôi đã chú ý hơn rất nhiều và tr ẻ tr ả l ời r ất sôi


nổi và hăng hái tham gia phát biểu ý kiến. Qua bước này trẻ đã đ ược b ắt
chước ngữ điệu, giọng điệu, những từ ngữ được nhấn mạnh trong bài
thơ... điều đó đã giúp trẻ đọc thuộc thơ một cách nhanh chóng và th ể hiện
được sắc thái tình cảm của trẻ qua bài thơ.
* Bước 4: Dạy trẻ đọc thơ:
Quá trình dạy trẻ đọc thơ được thực hiện sau cùng trong một gi ờ dạy
thơ sau khi đã thực hiện các bước trên. Tùy từng bài th ơ, tùy vào kh ả năng
của từng trẻ ở lớp tôi giảng dạy tôi đã lựa chọn hình th ức dạy trẻ đọc

như: Cho trẻ đọc theo từng đoạn, cả lớp đọc rồi t ừng tổ, nhóm, cá nhân
đọc cho đến lúc thuộc.
Trong quá trình dạy trẻ đọc tôi tiến hành cho trẻ đọc th ơ theo nhiều
cách khác nhau như: Đọc kết hợp vỗ vào các bộ phận trên c ơ th ể hay lắc
cổ tay theo nhịp...Với cách này tôi thấy trẻ nhanh thuộc và nh ớ lâu h ơn.
Ngoài ra tôi luôn tuyên dương, khuyến khích những trẻ đọc hay, đọc đúng,
thể hiện cử chỉ, nét mặt, nhất là giọng điệu phù hợp với bài th ơ m ột cách
hồn nhiên lấy đó làm gương động viên những trẻ khác trong l ớp.
Theo kinh nghiệm của bản thân, tôi nhận thấy dạy trẻ một bài th ơ không
chỉ dạy trong một buổi mà thường diễn ra trong cả tuần, cả tháng hoặc
lâu hơn nữa, người dạy thơ cho trẻ không cứ phải là cô giáo mà có th ể là
ông bà, cha mẹ, anh chị.. có như thế mới thấm dần cái hay, cái đẹp của bài
thơ. Đó cũng chính là cái vốn th ơ ca vô cùng quý giá mà trẻ tích lũy đ ược
trong thơ ấu để rồi sau đó mỗi người trong từng bước tr ưởng thành trong
cuộc đời.
Cùng với việc nắm vững phương pháp bộ môn khi thực hiện cũng ph ải hết
sức linh hoạt để phù hợp với từng bài thơ, phù hợp với nh ận th ức của trẻ.
Hiện nay quan điểm tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ ph ải l ấy tr ẻ
làm trung tâm và dạy học theo hướng tích cực nhằm phát huy tính tích c ực
chủ động sáng tạo của trẻ. Vậy để giải quyết vấn đề này giáo viên cần
phải làm gì? Và làm như thế nào để phát huy tính tích c ực của trẻ mà ti ết
học nhẹ nhàng không gò bó, mà vẫn đảm bảo được các n ội dung giáo d ục?
Theo kinh nghiệm của cá nhân tôi việc nắm vững phương pháp bộ môn là
một yêu cầu tối thiểu mà giáo viên phải đạt được trong quá trình gi ảng
dạy cho trẻ, không chỉ nắm chắc mà giáo viên còn ph ải tìm tòi, sáng t ạo
trong khi thực hiện, không ngừng đổi mới phương pháp, tích cực ứng dụng
công nghệ thông tin trong giảng dạy. Khi cần thực hiện linh hoạt sáng t ạo
sao cho tiết học nhẹ nhàng, thoải mái, sinh động cuốn hút trẻ vào bài học.
Đồ dùng trực quan sinh động song phải phù hợp với chủ đề và nội dung bài
dạy mà vẫn đảm bảo được yêu cầu của bài.



Biện pháp 3: Sử dụng đồ dùng trực quan minh họa trong các gi ờ dạy
thơ cho trẻ.
Tư duy của trẻ Mẫu giáo 5 - 6 tuổi là tư duy trực quan hành đ ộng, tr ẻ ph ải
được trực tiếp hoạt động, phải được trải nghiệm thì quá trình nh ận th ức
mới có kết quả bền vững. Bất cứ một môn học nào giáo viên Mầm non
phải có đồ dùng trực quan phù hợp, đẹp mắt thì mới thu hút đ ược tr ẻ vào
hoạt động.
Việc dạy trẻ học một bài thơ không khác nào dạy trẻ học mà không có đồ
dùng vì thơ là sản phẩm của ngôn ngữ rất tr ừu tượng. Chính vì v ậy càng
cần phải có đồ dùng trực quan để giúp trẻ hiểu được nội dung bài th ơ.
Đồ dùng để dạy thơ cho trẻ không đơn giản chỉ là tranh, ảnh, vật th ật mà
có thể là cả một mô hình theo nội dung bài th ơ. Tranh ảnh, mô hình càng
bám sát nội dung bài thơ bao nhiêu thì trẻ càng dễ hiểu dễ nh ớ bấy nhiêu.
Khi đã chuẩn bị được tranh ảnh, mô hình phù hợp với nội dung bài th ơ
giáo viên còn cần phải khéo léo khai thác tranh ảnh, mô hình sao cho th ật
hiệu quả. Chú ý đến thời điểm sử dụng tranh ảnh, số l ần s ử dụng tranh
ảnh, chú ý đến địa điểm đặt mô hình cho trẻ quan sát... thì m ới phát huy
được tác dụng giúp trẻ cảm nhận nội dung tác phẩm một cách sâu sắc.
Trước đây khi dạy các tiết thơ tôi thường sử dụng tranh minh hoạ có bán
sẵn trên thị trường. Thường những loại tranh này hình ảnh không rõ ràng
và cũng không thể hiện được hết nội dung của các đoạn th ơ, kh ổ th ơ. Khi
giảng dạy như vậy tôi thấy chất lượng đạt được thể hiện trên học sinh
không cao.
Khi nghiên cứu đề tài này tôi đã suy nghĩ làm th ế nào đ ể tr ẻ l ớp tôi ti ếp
thu bài tốt và phát huy được tính tích cực chủ đ ộng sáng t ạo c ủa tr ẻ? Tôi
đã tiến hành các cách làm như sau:
* Ngoài tranh bán sẵn tôi còn tự vẽ những bức tranh th ể hiện cho câu th ơ,
khổ thơ, hay đoạn thơ để khi trích dẫn làm rõ ý giúp trẻ hi ểu đ ược n ội

dung của bức tranh trong bài thơ đó như:
Ví dụ: Bài thơ “Cô và mẹ” trong chủ điểm Gia đình tôi vẽ 3 bức tranh:
Tranh 1: Thể hiện cho 2 câu thơ:
“Buổi sáng bé chào mẹ
Chạy tới ôm cổ cô...”
Tôi vẽ hình ảnh bé đang ôm cổ cô ở cửa lớp và đang vẫy một tay chào m ẹ
để vào lớp với cô.
Tranh 2: Thể hiện 2 câu tiếp theo:


“Buổi chiều bé chào cô
Rồi sà vào lòng mẹ...”
Tôi vẽ hình ảnh bé đứng cạnh mẹ ở cửa lớp và khoanh tay chào cô đ ể về
nhà với mẹ.
Tranh 3: Thể hiện cho 4 câu cuối
“Mặt trời mọc rồi lặn
Trên đôi chân lon ton
Hai chân trời của con
Là mẹ và cô giáo”
Tôi vẽ hình ảnh mẹ và cô dắt tay em bé đang đi trên đường, phía trên có
ông mặt trời đang mỉm cười.
Với những tranh có hình ảnh cụ thể cho từng khổ thơ như vậy khi dạy trẻ
tôi thấy trẻ hiểu và thuộc thơ rất nhanh .
* Sử dụng đồ dùng trực quan bằng mô hình:
Ví dụ: Khi dạy trẻ bài thơ “Em yêu nhà em” của tác giả Đoàn Thị Lam Luyến
Tôi đã tự chuẩn bị một mô hình “Nhà của em” để sử dụng vào lúc khi đ ọc
mẫu cho trẻ nghe bài thơ lần 2. Sau khi đọc xong lần 1 tôi nói v ới trẻ r ằng
các con đã học rất chăm ngoan và cô thưởng cho một chuy ến đi thăm nhà
của bé. Trước mô hình trẻ như lạc vào một ngôi nhà của bé th ật, có đầy đ ủ
các hình ảnh như trong bài thơ mà trẻ vừa học như ngôi nhà, đàn chim s ẻ

đậu bên thềm, cây chuối, nàng gà mái, ao cá...Nh ư v ậy là trẻ l ại đ ược thu
hút vào một không gian mới của bài thơ, vừa thay đổi t ư th ế, đ ịa đi ểm
đứng đọc thơ, vừa được tri giác và đọc thơ để tặng cho bé nên với hình
thức này trẻ lớp tôi rất hứng thú tham gia và điều đó cũng giúp trẻ hiểu và
cảm nhận nội dung bài thơ một cách trọn vẹn hơn.
* Sử dụng vật thật trong quá trình dạy trẻ đọc th ơ diễn cảm:
Hình ảnh trực quan cho các tác phẩm thơ rất phong phú và đa dạng, ngoài
tranh ảnh, mô hình tôi còn dùng vật thật để dạy trẻ.
Ví dụ như trong bài thơ "Rong và Cá".
Tôi đã sưu tầm và chuẩn bị một bình cá cảnh (hoặc một con cá chép đ ỏ) và
một cây rêu thả vào trong đó để trẻ được quan sát và tri giác nhìn ng ắm.
Qua bài thơ trẻ còn biết thêm được mối quan hệ gắn bó khăng khít gi ữa
“Rong” và “Cá” và sâu xa hơn là tình cảm thân thiết của một đôi b ạn. Ch ỉ
với một cây rêu và một đàn cá cảnh tôi đã giúp trẻ hiểu thêm đ ược nhi ều


điều về thế giới xung quanh trẻ và giáo dục trẻ về tình cảm bạn bè gi ữa
các bạn trong lớp với nhau.
Tôi thấy với cách làm này trẻ lớp tôi đã rất hứng thú và hiệu quả đạt được
cao hơn là sử dụng tranh bình thường.
* Sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin vào trong tiết dạy th ơ:
Hiện nay nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin trong gi ảng d ạy, n ếu
giáo viên áp dụng giáo án điện tử, dạy học trên máy chi ếu, d ạy tr ẻ đ ọc th ơ
trên nền nhạc... thì trẻ hứng thú hơn nhiều, hiệu quả rất cao.
Tôi cũng đã tiến hành áp dụng đối với trẻ ở lớp đang giảng dạy nh ư sau:
Ví dụ: Bài thơ “Bé làm bao nhiêu nghề” của tác giả: Yên Thao
Khi dạy trẻ bài thơ này thay vì sử dụng tranh, thay vì làm mô hình (bài th ơ
này rất khó để xây dụng mô hình) tôi đã sử dụng nh ững hình ảnh th ật v ề
các nghề làm thành một vi deo để dạy thơ cho trẻ. Khi cô đọc đến đâu các
hình ảnh xuất hiện đến đó đã làm cho trẻ rất húng thú.

BÉ LÀM BAO NHIÊU NGHỀ

Bé chơi làm thợ nề
Xây nên bao nhà cửa
Bé chơi làm thợ mỏ
Đào lên thật nhiều than
Bé chơi làm thợ hàn
Nối nhịp cầu đất nước,
Bé chơi làm thầy thuốc
Chữa bệnh cho mọi người
Bé chơi làm cô nuôi
Xúc cơm cho cháu bé,
Một ngày ở nhà trẻ
Bé “ làm” bao nhiêu nghề
Chiều mẹ đến đón về
Bé lại là... cái cún.


Tác giả: Yên Thao
Kết quả thật bất ngờ, trẻ rất chú ý l ắng nghe và theo dõi hình ảnh. Tr ẻ
không những thuộc th ơ nhanh, bi ết đ ọc di ễn c ảm mà còn có nh ững c ảm
nhận rất sâu sắc về bài th ơ. Càng b ất ng ờ h ơn sau khi h ọc xong bài th ơ
trên tôi hỏi trẻ: Sau này l ớn lên các con thích làm ngh ề gì? Có m ột tr ẻ
trả lời rất hồn nhiên: “Cháu thích làm th ợ hàn vì chú th ợ hàn có cái m ặt
nạ sắt rất đẹp”! (Chú th ợ hàn trong hình ảnh mà tr ẻ đ ược xem có dùng
mặt nạ sắt bảo vệ).
Như vậy có thể khẳng định nh ững
hình ảnh trực quan minh h ọa có tác d ụng r ất l ớn trong vi ệc giúp tr ẻ
cảm nhận bài thơ, giúp trẻ h ọc th ơ t ốt h ơn.
Nói tóm l ại việc d ạy h ọc ở M ầm non nói chung không th ể không có đ ồ

dùng trực quan minh họa. Đặc biệt khi dạy trẻ học thơ càng không th ể
không sử dụng đồ dùng trực quan minh họa. Chính vì v ậy ng ười giáo viên
muốn dạy trẻ hoc thơ đạt kết quả cần thường xuyên sử dụng đồ dùng
trực quan minh họa và phải thật khéo léo linh hoạt trong s ử dụng. Việc s ử
dụng các đồ dùng trực quan, cho một tác phẩm th ơ dù bằng vật th ật, hay
tranh minh hoạ, hoặc mô hình đều phải phù h ợp v ới n ội dung tác ph ẩm
thì mới đạt được kết quả mong muốn.
Biện pháp 4: Thiết kế giờ học nhẹ nhàng, phát huy tính tích cực của trẻ.
Phương pháp với các bước cứng không thể bỏ qua một bước nào nh ưng tổ
chức giờ học nhẹ nhàng là ta linh hoạt sao cho giờ học vẫn đảm b ảo các
bước nhưng dưới một hình thức khác. Thay vì tổ chức gi ờ học theo ki ểu:
Hôm nay cô dạy lớp mình bài thơ.... Các cháu nghe cô đ ọc m ẫu....các cháu
hãy trả lời câu hỏi sau....cả lớp đọc theo cô nào... Cô giáo có th ể t ổ ch ức gi ờ
học dưới hình thức một cuộc thi, một buổi giao lưu, m ột ch ương trình mà
trong đó vẫn đủ các bước như giới thiệu bài thơ, tác giả, cô đọc m ẫu, đàm
thoại, giảng giải và dạy trẻ đọc thơ. Nếu giờ học theo khuôn mẫu luôn làm
cho trẻ nhàm chán thì khi giáo viên thiết kế gi ờ h ọc theo một hình th ức
mới trẻ sẽ rất húng thú và tham gia một cách tích cực. Đơn giản vì trẻ nghĩ
là trẻ đang tham gia một cuộc thi, một buổi giao lưu, một ch ương trình Bé
yêu thơ... khi đó trẻ có cơ hội bộc lộ thật hồn nhiên những cảm xúc bay
bổng của tâm hồn thơ bé. Trẻ không những đọc thuộc thơ mà còn biết th ể
hiện động tác điệu bộ cử chỉ minh họa phù hợp với bài th ơ m ột cách h ồn
nhiên, biết đọc diễn cảm...
Để thiết kế giờ học nhẹ nhàng, phát huy tính tích cực của trẻ tr ước hết tôi
lựa chọn bài thơ hay, phù hợp với cách cảm, cách nghĩ của trẻ ở l ớp tôi
giảng dạy, phù hợp với chủ đề đang học, rồi đọc diễn cảm một cách t ự


nhiên, rõ vần điệu, nhạc điệu cho trẻ nghe, nhấn mạnh các hình t ượng
trong bài thơ, giúp trẻ cảm nhận vẻ đẹp ngôn ngữ trong bài th ơ đó.

Với bài thơ được phổ nhạc như bài: “Hạt gạo làng ta”, “Hoa kết trái”...thì
kết thúc tôi cho trẻ hát luôn bài hát đó và với bài có th ể múa minh ho ạ tôi
cũng cho trẻ thể hiện luôn tôi thấy trẻ rất vui thích. Từ đó khêu g ợi ở tr ẻ
những cảm xúc, những ý tưởng và tôi khuyến khích trẻ k ể lại nh ững điều
mà trẻ cảm nhận được khi đọc bài thơ.
Để thiết kế giờ học nhẹ nhàng, phát huy tính tích c ực c ủa tr ẻ đòi h ỏi tôi
phải có sự đầu tư, chuẩn bị kỹ lưỡng hơn một tiết học bình th ường, từ
khâu thiết kế giáo án đến chuẩn bị đồ dùng, thậm chí tôi còn ph ải t ập
đóng vai như một người dẫn chương trình vậy. Để đạt đ ược kết qu ả cao
nhất, tôi còn phải sử dụng đến các phương tiện như máy chiếu, ti vi... Giáo
án dạy các tiết thơ như vậy phải là giáo án được chuẩn bị kỹ càng hoặc là
giáo án điện tử được trình chiếu thì trẻ sẽ rất chú ý, rất h ứng thú.
Phát huy tính tích cực của trẻ là cuốn hút trẻ vào hoạt động từ đó tr ẻ tiếp
thu kiến thức mới. Trong giờ dạy thơ sự tích cực của trẻ biểu hiện qua
việc trẻ tham gia trả lời các câu hỏi đàm thoại theo nội dung bài th ơ, qua
việc trẻ tích cực đọc thơ, đọc thơ diễn cảm, có động tác minh h ọa phù
hợp. Tôi phải thật khéo léo, linh hoạt để trẻ lớp tôi tích c ực tham gia vào
các hoạt động này. Hệ thống câu hỏi sử dụng khi đàm thoại là nh ững câu
hỏi gợi mở, câu hỏi đưa ra từ dễ đến khó, câu hỏi khó tôi dành cho nh ững
trẻ khá, giỏi, câu hỏi dễ dành cho những trẻ yếu hơn sao cho cháu nào
cũng được trả lời, góp ý kiến.
Đọc thơ diễn cảm và làm động tác minh họa không phải cháu nào cũng
thực hiện được, vì vậy tôi phải làm mẫu sau đó cho trẻ th ực hiện tập th ể
trước, cả lớp, đến các tổ, nhóm trẻ thực hiện rồi mới đến cá nhân. Khi g ọi
cá nhân lại lấy tinh thần xung phong trước. Tôi luôn chú ý đ ến nh ững cháu
yếu hơn, nhút nhát hơn các bạn để giúp đỡ trẻ. Đồng th ời tôi động viên,
khen thưởng kịp thời. Khéo léo khi nhận xét, khen chê tr ẻ trong quá trình
đọc thơ để tránh làm trẻ tự ty, tự ái hay xấu hổ.
Phát huy tính tích cực của trẻ còn được th ực hiện bằng nhi ều hình th ức
như huy động trẻ cùng góp sức, góp nguyên vật liệu để chuẩn bị cho mô

hình bài thơ, giúp cô tô mầu tranh thơ... Việc làm này tưởng là đ ơn gi ản
nhưng lại có tác động rất lớn đến trẻ trong việc học bài th ơ.
Thiết kế giờ học nhẹ nhàng còn được thể hiện ở việc khi tổ chức các hoạt
động tôi thường xen kẽ các hoạt động động và tĩnh trong gi ờ h ọc th ơ, th ể
hiện ở các hoạt động chuyển tiếp sau giờ học thơ.
Ví dụ: Tôi tổ chức cho trẻ hoạt động tạo hình (vẽ n ặn, cắt, dán…) nh ững
hình ảnh biểu hiện cảm xúc của mình đối với con người và c ảnh vật ho ặc


những gì trẻ cảm nhận ở bài thơ theo cách cảm, các nghĩ, theo trí t ưởng
tượng của trẻ. Sau khi trẻ vẽ theo cảm xúc và sự hình thành chân dung
thật sự của mình về bài thơ, tôi đưa cho trẻ xem m ột vài b ức vẽ có giá tr ị
của các họa sĩ phù hợp với bài th ơ đó giúp trẻ c ảm nh ận bài th ơ sâu s ắc
hơn. Cách làm này có thể tiến hành đối với việc dạy bất cứ bài th ơ nào, và
rất dễ thực hiện.
Ví dụ: Sau khi dạy trẻ bài thơ “Em vẽ” của tác giả Hoàng Thanh Hà.
EM VẼ

Em vẽ
Con gà trống
Mào đỏ tươi
Em vẽ
Con mèo lười
Nằm sưởi nắng
Em vẽ
Đôi bướm trắng
Bay tung tăng
Em vẽ
Bác mặt trăng
Tỏa ánh sáng

Em vẽ
Cánh đồng lúa
Ngát hương thơm
Em vẽ
Nhiều mái trường
Tươi ngói đỏ.

Tác giả: Hoàng Thanh Hà


Tôi cho trẻ vẽ các con vật và vẽ theo nội dung bài th ơ. Sau khi c ả l ớp vẽ
xong tôi cho trẻ chọn những bức tranh đẹp nhất để ch ơi trò ch ơi ghép
tranh theo đúng thứ tự xuất hiện trong bài thơ.
Kết quả rất khả quan khi trẻ vẽ được những bức tranh rất đẹp, trẻ ch ơi
trò chơi ghép tranh cũng rất đúng thứ tự.
Việc này chứng tỏ trẻ đã nắm được nội dung bài th ơ và nh ớ đ ược th ứ t ự
các hình ảnh xuất hiện trong bài thơ, giúp trẻ thuộc thơ và nhớ lâu h ơn.
Như vậy có thể khẳng định việc thiết kế giờ học nhẹ nhàng, phát huy tính
tích cực của trẻ trong giờ học thơ là một biện pháp hữu hiệu, đ ưa lại
nhiều kết quả khả quan trong việc dạy thơ cho trẻ.
Biện pháp 5: Rèn nền nếp thường xuyên cho trẻ.
Nền nếp của trẻ là bước đầu của một tiết học, nếu nh ư không đ ưa
trẻ vào nền nếp thì giờ học không đạt kết quả cao. Khi trẻ có nền nếp tốt
cùng với sự hướng dẫn khoa học của cô ngay ban đầu trẻ sẽ say mê v ới gi ờ
học, luôn thể hiện cảm xúc, trí tưởng tượng cho hoạt động văn học.
Trước đây khi tôi chưa áp dụng biện pháp này tôi th ấy tr ẻ l ớp tôi không
chú ý nhất là các cháu hiếu động, trẻ còn hay đùa nghịch và nói chuy ện
riêng.
Với học sinh lớp tôi đang giảng dạy chủ yếu là con cán bộ công ch ức và s ố
trẻ nam lại đông hơn trẻ nữ rất nhiều. Mà trẻ nam thường rất hiếu động

nếu như tôi cứ thực hiện một giờ dạy đơn thuần cho hết giờ, đủ các bước
lên lớp và đủ nội dung của bài thì các cháu sẽ nhàm chán và không ch ủ
động tích cực trong quá trình học dẫn đến kết quả đạt được ở gi ờ học th ơ
sẽ không cao.
Cho nên tôi đã khắc phục bằng cách: Xếp xen kẽ cháu mạnh dạn với cháu
nhút nhát, cháu hiếu động xen với cháu tiêu biểu. Chia tổ, đặt tên cho t ổ và
bầu ra tổ trưởng để quán xuyến, nhắc nhở thành viên của tổ mình. Tôi
luôn động viên trẻ trong tiết học, uốn nắn tác phong ngồi h ọc cho trẻ, tr ẻ
ngồi đúng tư thế, không nói chuyện, không nói leo, nói ph ải xin phép cô,
nói rõ ràng mạch lạc, đủ câu... Kịp thời tuyên d ương khen th ưởng nh ững
cháu hiếu động khi cháu thực hiện tốt yêu cầu của cô giáo đ ể tạo đ ộng l ực
cho trẻ, kích thích trẻ có ý chí phấn đấu trong gi ờ học đó. Ngoài ra tôi
thường xuyên tạo cơ hội để trẻ được thực hành trải nghiệm, tạo môi
trường hoạt động thuận lợi để phát huy tính tích cực, và kh ả năng sáng
tạo của trẻ trong giờ đọc thơ.
Trong giờ học nói chung và giờ học “văn học” nói riêng tôi luôn đ ể tr ẻ t ự
thể hiện mình và tôi là người động viên, khuyến khích trẻ sáng tạo b ởi vì


trẻ cần được động viên để thể hiện ý muốn, tình cảm, cảm xúc và nh ững
hiểu biết của trẻ đối với sự vật trẻ muốn được lựa chọn.
Biện pháp 6: Chú ý đến những trẻ cá biệt như: Nói ngọng, nói l ắp,
trẻ nhút nhát, nhận thức chậm.
Trong quá trình dạy trẻ đọc thơ tôi thường chú ý đ ến ngôn ng ữ c ủa tr ẻ,
quan tâm đến trẻ để biết những trẻ nói ngọng, nói lắp.
* Với trẻ nói ngọng âm “n – l”: Tôi sửa cho trẻ bằng cách tìm và cho trẻ
đọc những đoạn thơ có chứa chữ n và l để sửa sai cho trẻ:
“Na non xanh
Quả bé choắt
Na mở mắt

Quả chín mềm
Bàn tay cháu
Vừa ăn na
Sờ mặt bà
Còn thơm phức”.
Hoặc:
“Hoa lựu nở đầu hè
Cứ lập loè, lập loè”.
* Với trẻ nói lắp tôi sửa cho trẻ bằng cách cho trẻ phát âm hay đ ọc ch ậm
từng từ, từng câu sau đó ghép lại thành câu dài ví dụ nh ư trong bài th ơ:
“Lấy tăm cho bà” tôi sửa cho trẻ như sau:
“Cô giáo/ dạy bé/ về nhà
Ăn xong/ nhớ lấy/ cho bà/ cái tăm…”
Cứ cho trẻ đọc hai từ một như vậy và sau đó ghép lại thành câu dài bốn t ừ,
sáu từ… Tuy nhiên tôi cũng phải kết hợp luyện cho cháu d ần d ần không
những ở trên tiết học, ngoài tiết học, các hoạt động góc, hoạt động ngoài
trời mà còn rèn cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi, mọi thời điểm để giúp trẻ khắc
phục tật nói lắp. Mặt khác tôi cũng gặp gỡ những phụ huynh có tr ẻ nói
lắp, nói ngọng để trao đổi với phụ huynh kèm cặp thêm, tập cho tr ẻ phát
âm đúng, chuẩn khi ở nhà.


* Với những trẻ nhút nhát tôi thường xuyên gần gũi trẻ, mời trẻ phát
biểu ý kiến, chú ý giao tiếp nhiều hơn với trẻ, tạo cho trẻ tính m ạnh d ạn
tự tin.
* Những trẻ nhận thức chậm do lần đầu tiên đến l ớp tôi quan tâm
đến trẻ nhiều hơn, cho trẻ ngồi gần cô và trong giờ h ọc tôi luôn đ ặt câu
hỏi dễ, rõ ràng, ngắn gọn để cho trẻ trả lời trước, khen ngợi trẻ kịp th ời,
khích lệ trẻ để trẻ hứng thú và cố gắng dần dần. Còn nh ững trẻ có nh ận
thức tốt hơn thì tôi đặt các câu hỏi có yêu cầu cao h ơn đ ể tr ẻ suy nghĩ, t ư

duy từ đó phát triển trí thông minh, sáng tạo ở trẻ.
Biện pháp 7: Hướng dẫn trẻ đọc thơ diễn cảm ở góc “Th ư viện c ủa
bé” thông qua Hoạt động góc.
Hoạt động vui chơi là hoạt động có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm tư, tình
cảm, đạo đức của trẻ.
Thông qua các trò chơi nhằm giúp trẻ được tự do bộc lộ những khả năng
của trẻ và thường xuyên ôn luyện củng cố những nội dung trẻ đã được
học, giúp trẻ có nhiều kinh nghiệm và sáng tạo trong khi h ọc tập cũng nh ư
trong khi trẻ vui chơi.
Mặt khác thông qua các trò chơi trẻ còn được trao đổi, chia sẻ kinh
nghiệm, biết hợp tác với nhau và hoạt động tích cực trong nhóm ch ơi của
mình nhưng làm thế nào để phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo
của trẻ thông qua các trò chơi giúp trẻ phát triển toàn diện nhân cách và
đặc biệt là phát triển về ngôn ngữ trong đó có kỹ năng đọc th ơ di ễn c ảm?
Qua mày mò suy nghĩ tôi đã làm như sau:
Ví dụ : Ở góc thư viện của lớp tôi hiện nay tôi sưu tầm được rất nhiều các
quyển sách báo có tranh ảnh và nội dung gần gũi v ới trẻ liên quan đ ến
một số bài thơ trong chương trình và mang tính giáo dục cao.
Ở góc thư viện có những quyển tranh thơ về mầm non do tôi và trẻ tự vẽ
sáng tạo và sưu tầm được. Hàng ngày thông qua hoạt động góc tôi cho tr ẻ
được đến xem tranh và hoạt động ở góc thư viện, tôi quan sát trẻ và nhận
thấy trẻ tích cực trao đổi về những hình ảnh và nội dung c ủa nh ững b ức
tranh đó với các bạn trong nhóm. Tôi đặt câu hỏi để trẻ nh ớ l ại xem nh ững
hình ảnh đó ở trong bài thơ gì? của tác giả nào? Sau đó tôi cho tr ẻ đ ọc và
thể hiện lại bài thơ.
Ngoài ra tôi cũng bố trí sắp xếp một số tranh của các bài th ơ theo không
đúng thứ tự với yêu cầu trẻ thực hiện dưới dạng trò chơi. Cách ch ơi là tr ẻ
phải sắp xếp lại theo đúng trình tự các bức tranh. Khi xếp xong đọc l ại
được nội dung bài thơ đó đội nào nhanh và đúng là chiến thắng và kết quả
cũng thật bất ngờ 100% trẻ thực hiện tốt yêu cầu mà tôi đưa ra đặc bi ệt



có rất nhiều trẻ trong lớp tôi không những đọc diễn cảm lại đ ược bài th ơ
mà còn có khả năng đọc sáng tạo theo trí tưởng tượng của mình.
Với cách làm như vậy qua mỗi chủ đề tôi đã cho trẻ ôn luy ện lại các bài
thơ cũ. Mỗi chủ đề ôn ít nhất là 4 - 5 bài th ơ; Và trẻ t ự sáng t ạo đ ọc th ơ
theo trí tưởng tượng của mình 2- 3 bài. Qua đó tôi th ấy tr ẻ r ất h ứng thú,
phấn khởi mỗi khi tham gia vào hoạt động này. Trẻ cảm nhận được âm
điệu, sắc thái tình cảm của bài thơ một cách rõ nét và tôi cũng rèn cho tr ẻ
được kỹ năng biết hợp tác chia sẻ với bạn bè trong nhóm, phát triển t ư
duy, trí tưởng tượng, tính sáng tạo trong khi chơi.
- Ngoài ra tôi còn xây dựng góc tuyên truy ền của lớp. Ở góc tuyên truy ền
tôi bày một số hình ảnh, câu chuyện bài thơ có tính giáo dục cao, để khi
phụ huynh đón trẻ dễ nhìn thấy.
Biện pháp 8: Dạy th ơ cho tr ẻ m ọi lúc m ọi n ơi, l ồng ghép trong các
nội dung giáo d ục khác.
Giáo dục trẻ ở mọi lúc mọi nơi là biện pháp không thể thiếu được đối v ới
các môn học. Và trong việc dạy thơ cho trẻ cũng vậy không nằm ngoài quy
luật đó. Tôi không chỉ thực hiện trong tiết học mà còn d ạy tr ẻ ở mọi lúc
mọi nơi. Đây là việc làm hết sức quan trọng vì thế tôi đã suy nghĩ làm th ế
nào để trẻ vẫn được học mà trẻ tưởng như mình đang chơi và để thực
hiện được phương châm “Học mà chơi, chơi mà học” tôi đã tiến hành làm
như sau:
* Tôi tận dụng ở mọi lúc, mọi thời điểm như: Giờ đón trẻ, trả trẻ, trò
chuyện buổi sáng, hoạt động ngoài trời, hoạt động góc, tr ước gi ờ ăn, gi ờ đi
ngủ; hoạt động chiều...dạy thơ cho trẻ để trên tiết học th ơ trẻ sẽ học
những bài thơ mới nhanh hơn, hay nhớ kỹ và lâu hơn nh ững bài th ơ cũ.
Thông qua hình thức này tôi không những giúp trẻ làm quen v ới tác ph ẩm
thơ mới mà qua đó còn giúp trẻ ôn luyện và nâng cao kiến th ức cũ, trẻ có
thể đọc diễn cảm và đóng kịch thơ. Tuy nhiên khi thực hiện tôi luôn l ưu ý

lựa chọn bài thơ phù hợp với thời điểm và hoạt động đang di ễn ra tr ẻ sẽ
hứng thú và mang lại kết quả cao hơn rất nhiều.
Ví dụ: Trong giờ đón trẻ tôi cho trẻ chơi theo ý thích và cho trẻ đọc ôn
luyện các bài thơ cũ, đọc thơ theo quyển tranh thơ hay theo tranh ch ủ đề...
Ngoài ra nhờ có tranh ảnh tôi thấy trẻ thi đua nhau đọc và đ ọc r ất sôi n ổi
hào hứng và thu hút được nhiều trẻ tham gia vào hoạt động đọc thơ này.
Ví dụ: Trong giờ thể dục sáng trong khi xếp hàng đi ra sân tôi kết h ợp cho
trẻ đọc bài thơ “Xếp hàng”...như vậy trẻ vừa phải thực hiện nhiệm vụ xếp
hàng ngay ngắn đi ra sân không chen lấn xô đẩy nhau mặt khác trẻ ph ải t ư


duy xem mình đã thực hiện được theo yêu cầu như thế ch ưa qua đó rèn ý
thức tổ chức kỷ luật cho trẻ.
Ví dụ: Trước giờ ăn, tôi cho trẻ đọc các bài thơ có nội dung liên quan đ ến
các loại thực phẩm như bài: “Bác bầu bác bí”, “Rau ngót rau đay”, “Chùm
quả ngọt”... trước hết là để giáo dục dinh dưỡng cho trẻ sau là giúp tr ẻ có
tâm thế chờ đón được ăn những món ăn mới giàu chất dinh dưỡng và th ực
chất thông qua đó là tôi đang dạy trẻ học th ơ và giúp trẻ đ ọc có v ần, có
điệu.
Hay trước giờ ngủ tôi cho trẻ đọc các bài như: “Giờ đi ngủ”, “Qu ạt cho bà
ngủ”, “Bé ngủ”...thông qua các bài thơ đó giáo dục nề nếp thói quen cho tr ẻ
biết ngủ đúng giờ và biết quan tâm chăm sóc những người thân trong gia
đình.
Dạy trẻ học thơ mọi lúc mọi nơi còn được tôi thể hiện trong việc lồng
ghép dạy thơ trong các hoạt động giáo dục khác như giờ học âm nh ạc, tạo
hình, môi trường xung quanh...
Ví dụ: Trong giờ cho trẻ học Tạo hình, vẽ và tô mầu rau bắp cải, vẽ hoa, vẽ
con cá, vẽ ông mặt trời...Tôi cho trẻ đọc bài th ơ “Bắp c ải xanh”, “Hoa k ết
trái”, “Con cá chép”, “Ông mặt trời”...
Trong giờ học Môi trường xung quanh, trò chuyện về công việc của cô

giáo, trò chuyện về nghề bộ đội, làm quen với một số con vật nuôi...tôi
lồng ghép cho trẻ đọc các bài th ơ để gây hứng thú hay c ủng c ố n ội dung
bài học như “Cô giáo của em”, “Chú giải phóng quân”, “K ể cho bé nghe” ,
...Dạy thơ cho trẻ lồng ghép trong các hoạt động giáo dục khác v ừa giúp
trẻ ôn luyện kiến thức thơ vừa làm cho các giờ học thêm ph ần sinh động,
đỡ nhàm chán.
Thông qua các hoạt động ngoài trời, hoạt động chi ều cho trẻ làm
quen với tác phẩm văn học tôi tổ chức cho trẻ ôn luy ện nh ững bài th ơ đã
được học trên tiết học và giúp trẻ luyện phát âm để phát triển lời nói.
Ví dụ: Thông qua Hoạt động ngoài trời dạy trẻ đọc th ơ được tôi th ực
hiện trong tổ chức các trò chơi vận động. Tôi cho trẻ ch ơi nh ững trò ch ơi
có kết hợp lời thơ hay lời đồng dao như: “Mèo đuổi chuột”, “Dung dăng
dung dẻ”, “Chi chi chành chành”…chơi trò chơi có kết h ợp l ời th ơ và l ời
đồng dao cũng giúp trẻ dễ nhớ, nhanh thuộc và chơi hứng thú h ơn.
Thông qua hoạt động vui chơi ở phần gây hứng thú tôi cho tr ẻ đ ọc
một bài thơ liên quan đến trò chơi hôm đó tôi định dạy ví dụ: Nh ư ch ơi trò
chơi đóng vai Bác sĩ tôi cho trẻ đọc bài thơ: “Làm bác sĩ” để trò chuy ện dẫn
dắt trẻ vào bài cũng là khắc sâu cho trẻ nhiệm vụ c ủa vai ch ơi. Hay ph ần
kết thúc giờ chơi tôi thường cho trẻ đọc bài “Cất đồ ch ơi” v ừa là yêu c ầu


×