Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

SKKN một số biện pháp tạo hứng thú cho trẻ 5 6 tuổi làm quen với môi trường xung quanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.52 KB, 25 trang )

Một số biện pháp tạo hứng thú cho trẻ 5 - 6 tuổi làm quen v ới môi
trường xung quanh
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:
Nhu cầu khám phá, tìm hiểu về thế giới xung quanh của con người đã
xuất hiện ngay từ khi còn nhỏ, từ lúc mới sinh ra, khi c ất ti ếng khóc chào
đời trẻ đã có nhu cầu tìm hiểu, nhu cầu giao tiếp, nhu c ầu khám phá v ề
thế giới xung quanh và khi trẻ càng lớn thì nhu cầu đó ngày càng l ớn h ơn,
trẻ muốn khám những điều mới lạ, thú vị đang diễn ra của m ột “xã hội
người lớn” nhưng vì trẻ nhỏ chưa có vốn sống, vốn kinh nghiệm, trẻ ch ưa
thể tự khám phá được về thế giới xung quanh nên người lớn phải giúp đỡ
trẻ, phải tổ chức, hướng dẫn trẻ tham gia vào các hoạt động nh ằm cho tr ẻ
làm quen, khám phá về môi trường xung quanh. Khi trẻ được làm quen v ới
thế giới xung quanh sẽ giúp trẻ tích luỹ được vốn sống, vốn kinh nghiệm,
trẻ tích luỹ được những kiến thức, kỹ năng về tự nhiên và xã hội, giúp tr ẻ
khám phá ra những mối quan hệ và lý giải được nh ững câu h ỏi: Vì sao? T ại
sao? Sao lại như vậy?...
Thông qua việc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh sẽ giúp
trẻ được phát triển toàn diện về các mặt về đạo đức, nhận thức, thể lực,
thẩm mỹ và lao động, nhân cách của trẻ được hình thành, phát triển và đó
là mục đích hàng đầu của ngành học mầm non nói riêng và ngành giáo dục
nói chung.
Mặt khác: Nhu cầu ham hiểu biết đã kích thích h ứng thú nh ận th ức ở
trẻ. Nó thể hiện ở mong muốn biết cái mới, làm rõ cái ch ưa bi ết v ề đ ặc
điểm, tính chất của sự vật, hiện tượng xung quanh, muốn tìm hiểu bản
chất của sự vật hiện tượng và mối quan hệ giữa chúng. H ứng thú nhận
thức thôi thúc trẻ tìm cách thoả mãn, tạo ra khoái cảm, sự thích thú và có
khả năng huy động sinh lực một cách tối đa để cố gắng đạt m ục đích.
Hứng thú nhận thức của trẻ thường được thể hiện trong các hoạt động
đặc trưng của lứa tuổi như vui chơi, học tập, lao động, sinh ho ạt hàng


ngày.
Trong thực tế, việc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh đã đ ược
nhiều giáo viên rất quan tâm, giáo viên đã biết cách tổ ch ức cho trẻ tham
gia vào các hoạt động nhằm tìm hiểu về môi tr ường xung quanh và hi ệu
quả đạt được rất cao. Đó là: Trẻ đã có những kiến th ức, nh ững hi ểu biết


cơ bản về một số sự vật, hiện tượng xung quanh như: biết tên gọi, cấu
tạo, đặc điểm, ích lợi, biết được sự giống và khác nhau của 2 – 3 đ ối
tượng… của các sự vật và hiện tượng xung quanh.
Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn hiện tượng là một số giáo viên ch ưa biết cách
tổ chức hoạt động cho trẻ, chưa biết vận dụng nh ững bi ện pháp linh ho ạt,
sáng tạo vào trong quá trình dạy trẻ và đặc biệt là ch ưa bi ết thu hút s ự
tập trung chú ý, chưa tạo được hứng thú, niềm say mê, s ự tích c ực tham gia
vào các hoạt động của trẻ nên sự nhận thức của trẻ về thế giới xung
quanh còn chưa chắc chắc, trẻ còn hay quên, hay nhầm l ẫn, ch ưa rèn
luyện được kỹ năng cho trẻ dẫn tới hiệu quả giáo dục chưa cao. Và đặc
biệt nhận thức của trẻ về thế xung quanh còn đơn lẻ, những biểu tượng,
những kiến thức, nhứng kỹ năng cũng như những thái độ của tr ẻ v ề th ế
giới xung quanh còn chưa chính xác.
Đứng trước vấn đề trên, tôi nghĩ rằng nếu tình trạng đó cứ diễn ra lâu dài
thì sẽ ảnh hưởng đến chất lượng học của trẻ, ảnh hưởng đến sự phát triển
toàn diện của trẻ. Vì kiến thức của môn học cho trẻ làm quen với môi
trường xung quanh có liên quan tới các môn học khác, mà trẻ ở độ tuổi mẫu
giáo lớn càng cần phải cho trẻ nắm bắt kiến thức một cách đầy đủ, chính
xác, chắc chắn để trẻ có cơ sở học tốt, chuẩn bị tâm thế cho trẻ sẵn sàng
bước vào lớp một – môi trường học tập mới đối với trẻ, nên tôi đã nghiên
cứu những nguyên nhân: Vì sao trẻ chưa hứng thú, chưa tập trung chú ý
trong giờ làm quen với môi trường xung quanh?
2. Tên sáng kiến:

Với những băn khoăn trên về thực tế công tác chăm sóc, giáo dục trẻ trong
các cơ sở giáo dục mầm non và với mong muốn cho trẻ mầm non được được
thỏa sức tham gia khám phá một thế giới sinh động, hấp dẫn đang diễn ra
trong mắt trẻ thơ. Tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp gây hứng thú cho
trẻ 5 – 6 tuổi trong giờ làm quen với môi trường xung quanh” để giúp
được phát triển một cách toàn diện, phát huy được tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của trẻ.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Nguyễn Thị Thế
- Địa chỉ: Giáo viên - Trường mầm non Hoa Sen, huyện Lập Th ạch.
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:


Báo cáo sáng kiến kinh nghiệm là do bản thân t ự nghiên c ứu và đ ề ra
những giải pháp trong quá trình thực hiện công tác chăm sóc, giáo dục tr ẻ
tại trường mầm non Hoa Sen, huyện Lập Thạch.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Báo cáo sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “Một số biện pháp gây hứng
thú cho trẻ 5 – 6 tuổi trong giờ làm quen với môi tr ường xung
quanh” được áp dụng trong lĩnh vực phát triển nhận th ức dành cho trẻ
mầm non ở bộ môn Phương pháp cho trẻ làm quen v ới môi tr ường xung
quanh.
Mặt khác, đây là một đề tài mang tính thực tiễn, được áp dụng vào quá
trình giảng dạy không chỉ dành riêng cho môn học Làm quen v ới môi
trường xung quanh mà còn có khả năng áp dụng cho t ất c ả các môn h ọc
khác để tạo hứng thú cho trẻ như môn: Cho trẻ làm quen v ới tác ph ẩm văn
học, Làm quen với toán, tạo hình, âm nhạc…Hay khi tổ ch ức các hoạt động
khác như: Hoạt động góc, hoạt động ngoài trời, ….
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng th ử:
Sau khi đề ra những giải pháp nhằm giúp cho trẻ có th ể lĩnh h ội

những kiến thức, kỹ năng và thái độ về thế giới xung quanh thì đ ề tài
nghiên cứu đã được áp dụng đối với trẻ lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi A3 t ại
trường mầm non Hoa Sen, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc vào ngày
02/3/2017.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Về nội dung của sáng kiến:
7.1.1. Về cơ sở lý luận:
Để có thể đưa ra các giải pháp hữu hiệu và có nh ững điều kiện áp d ụng
được những giải pháp thì bản thân tôi cũng đã đầu tư nghiên c ứu về m ột
số cơ sở lý luận có liên quan đến vấn đề sự h ứng thú và t ập trung chú ý
của trẻ để trẻ có thể chủ động lĩnh hội, khám phá thế giới xung quanh. Đó
là những khái niệm về hứng thú, về chú ý và sự chuy ển hoá t ừ chú ý không
chủ định sang chú ý có chủ định và ngược lại
a. Khái niệm về hứng thú:
Có rất nhiều các nhà nghiên cứu đã đưa ra các quan điểm, các khái niệm
khác nhau về hứng thú. Nhưng tiêu biểu là nhóm tác giả: Phạm Minh H ạc –
Lê Khanh – Trần Trọng Thủy cho rằng: Khi ta có h ứng thú về m ột cái gì đó,
thì cái đó bao giờ cũng được ta ý thức, ta hiểu ý nghĩa của nó đ ối v ới cu ộc
sống của ta. Hơn nữa ở ta xuất hiện một tình cảm đặc biệt đ ối v ới nó, do


đó hứng thú lôi cuốn hấp dẫn chúng ta về phía đ ối t ượng c ủa nó t ạo ra
tâm lý khát khao tiếp cận đi sâu vào nó.
Nguyễn Quang Uẩn trong tâm lý học đại cương đã cho ra đ ời m ột khái
niệm tương đối thống nhất: Hứng thú là thái độ đặc bi ệt của cá nhân đ ối
với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối v ới cu ộc s ống, v ừa có kh ả năng
mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động.
Xét về mặt khái niệm: Hứng thú là một thái độ đặc biệt c ủa cá nhân đ ối
với đối tượng, thể hiện ở sự chú ý tới đối tượng, khao khát đi sâu nh ận
thức đối tượng sự thích thú được thoả mãn với đối tượng.

Trong đề tài nghiên cứu của tôi sử dụng khái niệm hứng thú của Trần
Thị Minh Đức làm công cụ: Khái niệm được định nghĩa như sau: “Hứng thú là
thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với
cuộc sống, vừa có khả năng đem lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt
động”.
b. Khái niệm chú ý:
Từ xưa đến nay, trong hoạt động nhận th ức và hoạt động th ực ti ễn
của con người, chú ý giữ một vai trò rất quan trọng. Khi đánh giá vai trò
của chú ý, nhà sư phạm học người Nga K.D.Usinxki cho rằng, chú ý chính là
cánh cửa mà mọi sự vật của thế giới xung quanh muốn đi vào đ ược tâm
hồn của mỗi con người, đều phải đi qua nó.
Trong các hiện tượng tâm lí, chú ý là một hiện tượng tâm lí đ ộc đáo,
luôn xuất hiện kèm theo các hoạt động, cũng như luôn có m ặt trong các
quá trình nhận thức của cá nhân, làm cho chúng diễn ra v ới nh ững s ắc thái
khác nhau. Trong môi truờng xung quanh với vô vàn s ự v ật và hiện t ượng
tác động vào, ý thức con người phải biết lựa chọn, biết tập trung vào một
số sự vật, hiện tượng nào đó của hiện th ực hoặc một số thuộc tính c ủa
chúng, nhằm có sự phản ánh rõ ràng những sự vật, hiện t ượng hoặc
những thuộc tính của sự vật, hiện tượng đó, còn các sự v ật hiện t ượng
khác ta không để ý tới, hoặc để ý tới một cách m ơ h ồ không rõ ràng. S ự
tập trung tư tưởng để nhận thức một số đối tượng hay hiện tượng nào đó
gọi là chú ý
Vậy, “Chú ý là sự tập trung của hoạt động tâm lý vào một hoặc một số đối
tượng nào đó, nhằm phản ánh chúng một cách đầy đủ, rõ ràng nhất .”
c. Sự chuyển hoá từ chú ý không chủ định sang chú ý có chủ định và
ngược lại:
Trong quá trình dạy học khi tổ chức hoạt động chú ý cho tr ẻ, giáo viên
phải tạo ra sự chuyển hoá từ chú ý không chủ định sang chú ý có ch ủ đ ịnh
và ngược lại để đạt được hiệu quả cao hơn bằng cách: Trước hết, tạo ra



một đối tượng mới lạ, hấp dẫn, sinh động để thu hút s ự tập trung chú ý
của trẻ ( chú ý không chủ định), tiếp theo giáo viên gợi ý, nêu rõ m ục đích
nhiệm vụ cần chú ý và tổ chức sự chú ý để duy trì chú ý của tr ẻ đ ược lâu
hơn.
Như vậy là đã chuyển chú ý từ không chủ định sang chú ý có ch ủ đ ịnh. Khi
trẻ học căng thẳng vì trẻ tập trung chú ý quá lâu thì giáo viên ph ải t ạo l ại
cho đối tượng đang được chú ý một sức hấp dẫn m ới, cu ốn hút s ự chú ý
của trẻ một cách tự nhiên, say mê mà vẫn không mệt m ỏi ( chuy ển chú ý
từ có chủ định sang không chủ định)
7.1.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
a. Thực trạng của việc tổ chức tiết học cho trẻ làm quen với môi trường
xung quanh:
Trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ một số giáo viên đã th ực hi ện
theo đúng chương trình giáo dục mầm non mà Ngành, Phòng giáo d ục đã
quy định đó là đã tổ chức cho trẻ tham gia đầy đủ các hoạt động làm quen
với môi trường xung quanh theo các chủ đề. Khi tổ ch ức tiết học đã th ực
hiện theo đúng phương pháp bộ môn, thực hiện đầy đủ và đúng trình t ự
các bước, các phần, bài dạy có đầy đủ nội dung ki ến th ức. Trong ti ết d ạy
cũng đã chuẩn bị đủ đồ dùng dạy học nhưng tôi thấy gi ờ học đạt k ết quả
không cao. Trong giờ học, trẻ không tập trung chú ý, trẻ có v ẻ m ệt m ỏi,
chán nản, uể oải, không chú ý nghe cô giảng bài, lười suy nghĩ. Có rất ít trẻ
tham gia tích cực vào các hoạt động, trẻ không hăng hái gi ơ tay phát bi ểu ý
kiến dẫn tới khả năng ghi nhớ, khả năng quan sát, phân bi ệt và kỹ năng
phân tích, so sánh của trẻ kém. Trẻ không nắm bắt được kiến th ức mà cô
giáo truyền đạt và có nhiều trẻ kiến thức nắm bắt được không chắc chắn,
hay quên, khi cô đặt câu hỏi thì trẻ không trả lời được, hoặc trả lời ấp úng,
không chính xác, rõ ràng.
Với tình trạng trên, nên chất lượng giờ dạy của lớp rất th ấp, các ti ết d ạy
trẻ làm quen với môi trường xung quanh của lớp được nhà tr ường d ự gi ờ

chỉ đánh giá xếp loại Khá, thậm chí có những tiết dạy xếp loại Đạt yêu
cầu.
b. Khảo sát thực tế:
Trước khi thực hiện đề tài nghiên cứu để đề xuất ra một số biện pháp gây
hứng thú cho trẻ trong giờ làm quen với môi trường xung quanh ở l ớp 5 –
6 tuổi A3 Trường Mầm Non Hoa Sen – Thị trấn Lập Th ạch – Huy ện L ập
Thạch – Tỉnh Vĩnh Phúc tôi đã có những tiết cho tr ẻ làm quen v ới môi
trường xung quanh như “Tìm hiểu về lớp học của bé”, “Tìm hi ểu về gia
đình bé” “Tìm hiểu về một số loại rau”…, tôi thấy trẻ chưa hứng thú, ch ưa
tập trung chú ý, chưa hưng phấn, sự tham gia tích cực của trẻ còn ít. Nhi ều


trẻ mệt mỏi, không tập trung, không hứng thú, chưa lĩnh hội được các ki ến
thức của bài học, chưa đáp ứng được mục tiêu giáo dục.
Trước những băn khoăn đó, tôi đã tiến hành khảo sát th ực t ế c ủa tr ẻ t ại
lớp 5 - 6 tuổi A3 trường Mầm non Hoa Sen – Huy ện L ập Th ạch – T ỉnh Vĩnh
Phúc do tôi phụ trách về khả năng hứng thú, tập trung chú ý, s ự tham gia
tích cực của trẻ trên tổng số 38 cháu trong giờ làm quen với môi trường
xung quanh như sau:
STT

Khả năng hứng thú, tập trung chú
ý
của trẻ

Kết quả
Số lượng

Tỷ lệ %


1

Loại Tốt

10/38

26,3

2

Loại Khá

15/38

39,5

3

Loại Trung bình

13/38

34,2

4

Loại yếu, kém

0


0

Như vậy, có 10/38 trẻ = 26,3% trẻ đã hứng thú và chú ý tốt trong quá
trình tôi tổ chức cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh, có 15/38
trẻ = 39,5% cháu h ứng thú chưa nhiều chỉ ở mức độ Khá. Còn 13/38 =
34,2% trẻ hứng thú ở m ức độ Trung bình, ch ưa tập trung chú ý nhiều, còn
mệt mỏi trong quá trình học tập.
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
7.2.1. Biện pháp 1: Đồ dùng, đồ chơi phải đủ, đẹp, hấp dẫn, an toàn
cho trẻ.
Yếu tố quan trọng đầu tiên để lôi cuốn được sự hứng thú của trẻ là đồ
dùng, đồ chơi phải đẹp, hấp dẫn, phong phú sinh đ ộng nh ằm kích thích
hứng thú, tò mò lòng ham hiểu biết của trẻ và đồ dùng đ ồ ch ơi ph ải đ ảm
báo an toàn cho trẻ trong quá trình sử dụng để tránh gây ra nh ững th ương
tích cho trẻ. Có như vậy thì trẻ mới hứng thú học bài. Cụ thể : Khi s ử dụng
tranh ảnh để dạy trẻ thì tôi đã chọn những tranh còn mới, có màu s ắc t ươi
tắn, đường nét rõ ràng, đẹp. Bức tranh vẽ phải gi ống v ới th ực t ế, có kích
thước vừa phải để trẻ tri giác.
Ví dụ: Khi tổ chức cho trẻ “Tìm hiểu về một số di tích lịch s ử c ủa quê
hương Lập Thạch” thì tôi đã sử dụng một số tranh vẽ về đền thờ Trần
Nguyên Hãn – là một di tích lịch sử nổi tiếng của Lập Thạch ở Xã S ơn
Đông, tranh vẽ về đền Xuân Trạch là một di tích l ịch s ử ở Xã Xuân Hoà –
Huyện Lập Thạch. Những bức tranh mà tôi lựa chọn là nh ững bức tranh
vẫn còn mới, có màu sắc tươi tắn, đường nét rõ ràng, đẹp và có kích th ước


vừa phải. Với những bức tranh đẹp như vậy trẻ rất h ứng thú và ghi nh ớ
rất nhanh về nội dung giúp trẻ lĩnh hội kiến th ức một cách sâu sắc.
Còn khi tôi sử dụng các loại đồ chơi để dạy trẻ thì tôi đã l ựa ch ọn nh ững
đồ chơi còn mới, sạch sẽ, có hình dáng đẹp, giống v ới th ực t ế, có màu s ắc

hấp dẫn bởi chính màu sắc, hình dạng và tính th ẩm mỹ của đồ ch ơi đã lôi
cuốn sự chú ý của trẻ khiến trẻ tập trung chú ý quan sát để khám phá v ề
đối tượng đó.
Ví dụ: Khi tìm hiểu về “Một số loại bánh trung thu” tôi đã chuẩn bị cho
mỗi trẻ một hộp bánh nướng và bánh dẻo bằng đồ chơi. Nh ững loại bánh
mà tôi lựa chọn này là những đồ chơi còn mới, sạch sẽ, hình dáng, màu s ắc
giống với bánh thực tế. Do đó mà trẻ rất hứng thú và tập trung khám phá
về đặc điểm, ý nghĩa của các loại bánh đó.
Khi sử dụng vật thật thì tôi đã lựa chọn những vật có sẵn ở địa ph ương và
còn tươi ngon có hình dạng đẹp, sạch sẽ, có màu sắc rõ ràng t ươi t ắn, có
kích thước vừa phải, không độc hại, nguy hiểm cho tr ẻ.
Ví dụ: Trong giờ tổ chức “Cho trẻ làm quen với m ột số loại hoa” thì tôi đã
chuẩn bị cho mỗi trẻ một giỏ hoa, trong đó có đầy đủ tất c ả các lo ại hoa
mà tôi sẽ cho trẻ tìm hiểu. Những bông hoa mà tôi đã lựa ch ọn là nh ững
loại hoa rất quen thộc gần gũi với trẻ như hoa hồng, hoa cúc, hoa đ ồng
tiền và những bông hoa này còn tươi, có màu sắc đẹp, rõ ràng,…Khi cho tr ẻ
tìm hiểu về đặc điểm của từng loại hoa, tôi đã cho tr ẻ đ ược ngắm, đ ược
ngửi,…với những loại hoa tươi, đẹp như vậy trẻ rất h ứng thú và ti ếp thu
bài một cách hiệu quả.
Khi sử dụng biện pháp này tôi thấy hiệu quả của giờ h ọc đ ạt r ất cao.
Trước kia khi tổ chức cho trẻ tìm hiểu về môi trường xung quanh đồ dùng
dồ chơi của tôi chưa đẹp, chưa phong phú về chủng loại, màu s ắc không rõ
nét,… thì tôi thấy trẻ nhàn chán, mệt mỏi, kiến thức trẻ lĩnh h ội đ ược rất
thấp và sau khi áp dụng biện pháp này thì trẻ hưng phấn, phấn kh ởi, h ứng
thú, kích thích khả năng hứng thú, sự sáng tạo của trẻ.
7.2.2. Biện pháp 2: Sử dụng đồ dùng đồ chơi ph ải linh ho ạt, phù h ợp
với nội dung của tiết dạy.
Khi tổ chức các hoạt động giáo dục nói chung và tổ ch ức cho tr ẻ làm
quen với môi trường xung quanh nói riêng thì việc sử dụng các lo ại đồ
dùng đồ chơi cần phải linh hoạt, sáng tạo, không cứng nhắc, gò bó,…sẽ tạo

hứng thú cho trẻ, kích thích khả năng ham hiểu biết của tr ẻ và đ ồ dùng đ ồ
chơi phù hợp với nội dung của tiết học, phù h ợp v ới ch ủ đ ề, phù h ợp v ới
độ tuổi.


Sử dụng đầy đủ đồ dùng trực quan phong phú về chủng loại, đó là tôi đã
sử dụng các loại đồ dùng trực quan như tranh, ảnh, mô hình, đ ồ dùng, đ ồ
chơi, vật thật,… bởi vì trẻ luôn thích cái m ới, cái lạ, n ếu trong gi ờ h ọc tôi
chỉ sử dụng một loại đồ dùng trực quan hoặc tranh ảnh, hoặc đồ ch ơi,
hoặc mô hình thì sẽ gây cho trẻ sự chán nản, nhàm chán.
Ví dụ: Tổ chức cho trẻ “Tìm hiểu về một số loại rau” tôi đã s ử d ụng mô
hình vườn rau để trẻ tham quan, sử dụng rau thật như rau bắp cải, xu hào,
rau muống, rau ngót,…để trẻ quan sát về đặc điểm, hình dạng; sử dụng
rau bằng đồ chơi để cho trẻ chơi trò chơi luyện tập, củng c ố. K ết qu ả là
trẻ rất hứng thú và 100% trẻ trẻ nhận biết được tên gọi, đ ặc đi ểm c ủa
các loại rau đó.
Mặt khác, mỗi loại đồ dùng đồ chơi đều có một ưu đi ểm, h ạn ch ế riêng.
Tranh ảnh thì đẹp nhưng không sinh động, không th ể hiện hết đ ược
những đặc điểm của sự vật, hiện tượng. Vật thật thì giúp trẻ nắm bắt
được đầy đủ, chính xác các kiến thức về đối tượng và sinh động h ơn tranh,
ảnh nhưng không thể có đầy đủ các vật thật cho tất cả các tiết h ọc và
nhiều vật thật không thể cho trẻ chơi trò chơi được, cho nên tôi đã l ựa
chọn nhiều loại đồ dùng trực quan để đưa vào trong tiết dạy và phù h ợp
với nội dung tiết dạy của mình sao cho vừa có th ể thuận tiện cho việc
truyền thụ kiến thức của cô, vừa có thể gây được hứng thú cho tr ẻ, giúp
trẻ tập trung chú ý, quan sát đối tượng, tích cực hoạt đ ộng v ới đ ối tượng
để nắm bắt kiến thức một cách dễ dàng, nhanh chóng, đầy đủ và chính xác.
Việc sử dụng các loại đồ dùng trực quan phải phù h ợp v ới n ội dung t ừng
tiết dạy. Đối với những tiết chủ đề về môi trường xã hội thì tôi đã l ựa
chọn tranh, ảnh để dạy trẻ.

Ví dụ như: Tổ chức cho trẻ tìm hiểu về Thủ đô Hà Nội thì tôi không th ể sử
dụng được vật thật mà tôi đã sưu tầm những loại tranh ảnh và tôi đã t ự vẽ
những bức tranh có nội dung về Thủ đô Hà Nội như Lăng Bác H ồ, Chùa
Một Cột, Hồ Gươm, cầu Thê Húc,…Thông qua các bức tranh trẻ đ ược quan
sát sẽ giúp trẻ nắm bắt được những kiến thức mà cô truyền đạt.
Còn có những tiết dạy tôi cũng không sử dụng vật th ật hay tranh ảnh mà
tôi đã sử dụng các loại đồ dùng đồ chơi để tổ chức cho trẻ tìm hi ểu v ề đ ặc
điểm, cấu tạo, chất liệu, màu sắc của các đồ vật và các s ự vật hi ện tượng
xung quanh.
Ví dụ: “Cho trẻ làm quen với một số đồ chơi của bé” thì tôi đã s ử dụng
những đồ chơi đẹp, hấp dẫn và rất gần gũi với trẻ nh ư: Búp bê, bóng
nhựa, đồ chơi xếp hình,…Hay “Tìm hiểu về một số loại ph ương tiện giao
thông đường bộ” thì tôi đã sử dụng những đồ dùng bằng đ ồ ch ơi có ch ất
liệu an toàn, màu sắc đẹp, hấp dẫn cho trẻ như: Xe đạp, xe máy, ô tô, xích


lô,…để cho trẻ tìm hiểu. Hoặc “Cho trẻ tìm hiểu về một số con vật sống
trong rừng” tôi đã sử dụng bộ đồ chơi các con vật sống trong r ừng đ ược Sở
giáo dục và đào tạo cấp như: Con hổ, con voi, con gấu, con s ư tử,…Qua
những đồ chơi được làm khéo léo, giống với thực tế sẽ giúp trẻ chú ý quan
sát đồ chơi, chơi với đồ chơi để khám phá những kiến th ức về đ ối t ượng.
Đặc điểm của trẻ mẫu giáo là có sự tưởng tượng chưa phong phú, kinh
nghiệm sống của trẻ còn ít nên tôi đã th ường xuyên tận d ụng các v ật th ật
để dạy trẻ. Khi cho trẻ được tiếp xúc với vật thật thì trẻ sẽ thấy h ấp d ẫn
và sinh động hơn vì vật thật là đối tượng cụ th ể, chính xác nh ất giúp tr ẻ
nắm bắt kiến thức một cách rõ ràng, chính xác và toàn diện h ơn.
Ví dụ: Tổ chức cho trẻ “Tìm hiểu về một số loại quả” tôi đã l ựa chọn một
số loại quả thật như: quả cam, quả bưởi, quả lê, quả táo,..để dạy trẻ thì
những vật thật đó đã gây được sự chú ý đối với trẻ vì trẻ đ ược nhìn th ấy
đối tượng một cách toàn diện hơn, được ngắm nhình xung quanh vật m ột

cách kỹ lưỡng. Mặt khác, trẻ còn được khám phá đối tượng bằng cách
hành động như được sờ, được ngửi, được nếm,… với đối tượng đ ể khám
phá ra đặc điểm của đối tượng một cách dễ dàng, chính xác.
Hoặc khi cho trẻ làm quen với một số loại động vật thì tôi đã chuẩn bị
những con vật quen thuộc, dễ tìm như chó, mèo, gà, vịt, cá, tôm…đ ể cho tr ẻ
quan sát. Khi trẻ quan sát những con vật đó thì trẻ th ấy nó sinh đ ộng, đáng
yêu hơn vì nó là đối tượng quan sát động ch ứ không ph ải là tĩnh nh ư tranh.
Trẻ có thể nhìn thấy con vật nó đi lại, vểnh tai, nghiêng đ ầu, kêu, ăn,
bơi...cho nên với tính chất động của đối tượng quan sát sẽ lôi cu ốn trẻ, thu
hút sự tập trung chú ý của trẻ vào việc quan sát và khám phá đối t ượng.
Ví dụ: Cho trẻ tìm hiểu về “Một số con vật sống dưới nước”, tôi đã cho trẻ
quan sát con cá vàng thật. Trẻ được trực tiếp nhìn thấy con cá vàng bơi tung
tăng, nhìn thấy con cá bơi lên để đớp mồi,…trẻ rất thích thú và tập trung chú
ý quan sát.
Việc sử dụng các đồ dùng trực quan phải được giáo viên sử dụng
một cách linh hoạt sáng tạo. Trong một tiết dạy, cô không nên sử dụng
một loại đồ dùng từ đầu đến cuối mà cô ph ải biết phối h ợp s ử d ụng
nhiều loại đồ dùng trực quan sao cho phù h ợp, linh hoạt theo t ừng ph ần
để giúp trẻ không nhàm chán.
Ví dụ : Trong tiết dạy “Cho trẻ làm quen với một số loại Quả” tôi đã sử
dụng các loại đồ dùng như: Tranh lô tô, vật thật, màn hình, đồ chơi...kết hợp
với nhau sao cho linh hoạt và phù hợp như phần đầu giới thiệu bài cô có thể
cho trẻ đi thăm quan mô hình vườn cây ăn quả, phần cung cấp kiến thức cô
cho trẻ làm quen qua các loại quả thật, phần luyện tập cô cho trẻ chơi trò
chơi qua những đồ chơi quả nhựa, tranh lô tô và cô có thể sử dụng màn hình


đèn chiếu vào các phần trong tiết học sao cho phù hợp với nội dung tiết dạy
và sự thiết kế giáo án của cô.
Khi sử dụng biện pháp này tôi thấy hiệu quả của giờ học đạt rất cao. Nếu

không biết sử dụng đồ dùng, đồ chơi một cách linh hoạt, phù h ợp v ới n ội
dung của bài học thì trẻ nhàn chán, mệt mỏi, kiến th ức trẻ lĩnh h ội đ ược
rất thấp và sau khi áp dụng biện pháp này việc kết h ợp s ử dụng các lo ại
đồ dùng trực quan trong tiết học sẽ giúp cho trẻ có c ảm giác m ới l ạ, h ấp
dẫn trẻ, lôi cuốn trẻ, thu hút sự chú ý của trẻ, từ đó trẻ sẽ tham gia hoạt
động để khám phá kiến thức một các tích cực và có hiệu quả h ơn.
7.2.3. Biện pháp 3: Tạo cơ hội cho trẻ sử dụng các giác quan phù h ợp.
Trẻ mẫu giáo có đặc điểm nhận thức là: Nhận th ức cảm tính là ch ủ y ếu,
trẻ chỉ có thể nhận biết về các sự vật hiện tượng khi trẻ được tiếp xúc v ới
đối tượng bằng các giác quan, cho nên trong quá trình dạy tr ẻ tôi đã t ạo
mọi cơ hội để trẻ có thể sử dụng nhiều giác quan như thị giác, xúc giác, vị
giác, thính giác, khứu giác để tham gia vào việc khám phá đối t ượng.
Việc tạo cơ hội cho trẻ được sử dụng các giác quan trong quá trình
giáo dục là rất cần thiết. Nhưng không phải tiết dạy nào mà tôi cũng có
thể sử dụng cùng một lúc tất cả các giác quan, cho nên tôi đã ph ải l ựa
chọn các hình thức cho trẻ sử dụng những giác quan để khám phá và lĩnh
hội những kiến thức sao cho phù hợp với nội dung dạy trẻ.
Ví dụ 1: Đối với tiết dạy “ Một số loại quả” tôi đã cho trẻ s ử dụng các
giác quan như thị giác, xúc giác, vị giác, khứu giác để trẻ khám phá đ ối
tượng. Trẻ sẽ dùng thị giác để quan sát quả từ đó khám phá ra quả có màu
sắc, hình dạng, kích thước như thế nào? Trẻ sẽ dùng v ị giác để n ếm qu ả
xem quả có vị gì chua hay ngọt? và khi trẻ được nếm trẻ sẽ r ất thích thú,
trẻ sẽ dùng xúc giác để sờ quả xem quả nhẵn hay sần sùi, trẻ dùng kh ứu
giác để ngửi quả xem quả có thơm không?
Ví dụ 2: Với tiết dạy “Tìm hiểu về một số ph ương ti ện giao thông”,
tôi đã cho trẻ sử dụng một số giác quan như thị giác, xúc giác, thính giác đ ể
khám phá kiến thức về các phương tiện giao thông đó là cho tr ẻ quan sát
phương tiện giao thông ( xe đạp, xe máy bằng đ ồ ch ơi ho ặc tranh ảnh…)
qua thị giác để trẻ phát hiện ra cấu tạo, hình dạng, màu sắc của ph ương
tiện giao thông, trẻ sử dụng thính giác để để nghe tiếng kêu c ủa ph ương

tiện giao thông, được dùng xúc giác để sờ mó vào ph ương ti ện giao thông
để từ đó trẻ sẽ trẻ nắm bắt được những kiến thức về ph ương tiện giao
thông, trẻ có thể dễ dàng so sánh được sự khác nhau của m ột s ố ph ương
tiện giao thông một cách đầy đủ và chính xác nhất.
Ví dụ 3: Tiết dạy “Cho trẻ tìm hiểu về một số loại hoa” tôi đã cho trẻ
sử dụng khứu giác để ngửi xem bông hoa hồng có thơm không? Cho tr ẻ


dùng xúc giác để sờ vào cánh hoa xem cánh hoa có mịn màng không? Cho
trẻ sờ vào lá xem lá có răng cưa không?...
Việc tạo cơ hội cho trẻ sử dụng các giác quan phù h ợp là m ột biện pháp
đạt hiệu quả rất cao để tạo hứng thú, tập trung sự chú ý c ủa tr ẻ, vi ệc tr ẻ
được hành động với đối tượng là sờ mó, nếm, ngửi, nghe…sẽ giúp trẻ r ất
thú vị vì trẻ được trực tiếp hành động, trực tiếp tự mình khám phá - Đó
chính là nhu cầu của trẻ khiến trẻ sẽ có hứng thú, tích cực tham gia hoạt
động để tìm hiểu, khám phá về đối tượng và trẻ được t ự nói lên suy nghĩ,
ý kiến, nhận xét của mình về sự vật hiện tượng từ đó sẽ khắc sâu kiến
thức cho trẻ, giúp trẻ nắm bắt kiến thức một cách chắc chắn h ơn.
7.2.4. Biện pháp 4: Cho trẻ hành động với đối tượng.
Trẻ mẫu giáo có tính hiếu động, thích tò mò, khám phá đó chính là
nhu cầu thiết yếu của trẻ nên trong quá trình dạy trẻ bằng nh ững đ ồ
dùng trực quan cô phải cho trẻ được hành động với đối tượng thông qua
những việc làm cụ thể với đối tượng để thoả mãn nhu cầu của trẻ giúp
trẻ sẽ có hứng thú. Mặt khác, khi cho trẻ hành động v ới đối tượng sẽ giúp
trẻ nắm bắt kiến thức một cách dễ dàng, nhanh chóng và kh ắc sâu ki ến
thức cho trẻ.
Ví dụ: Tiết học “Cho trẻ làm quen với một số con vật”. Muốn cho trẻ
nhận biết được về tập tính như sự đi lại, chạy, nhảy, cách ăn uống của con
vật tôi đã chuẩn bị một số thức ăn cho con vật. Tôi không cho con v ật ăn
mà tôi cho trẻ tự tay đưa thức ăn cho con vật ( cho gà, cá ăn...). Khi trẻ

được tự tay đưa thức ăn cho con vật thì trẻ sẽ rất thích thú và chú ý quan
sát xem con vật có ăn những thức ăn đó không, nó ăn nh ư th ế nào và tr ẻ
quan sát một cách kỹ lưỡng sẽ thấy con cá ăn cơm bằng cách đ ớp m ồi, con
gà ăn thóc, gạo bằng cách dùng mỏ mổ thức ăn, con chó ăn c ơn bằng cách
dùng lưỡi liếm thức ăn... Những tập tính của con vật đã th ể hiện ngay ra
trước mắt trẻ, trẻ được quan sát một cách trực tiếp sẽ giúp trẻ ghi nh ớ
một cách sâu sắc hơn.
Hoặc đối với tiết dạy “Đồ dùng của bé”. Trong tiết học này tôi đã d ạy
cho trẻ biết cách mặc quần áo. Muốn trẻ nắm được các kỹ năng về s ử
dụng quần áo và đồ dùng một cách dễ dàng và nhanh chóng thì tôi đã t ổ
chức cho trẻ tự mặc quần áo, lúc đó trẻ được tự tay cầm vào quần áo đẹp
do cô chuẩn bị, được tự mình cho tay vào tay áo, cho chân vào ống qu ần,
được tự cài cúc, chui đầu qua sự gợi ý, hướng dẫn của cô. Bằng các thao tác
và hành động trẻ thấy thích thú vì trẻ nhỏ rất thích được mặc quần áo
đẹp, trẻ thấy vui sướng khi được thực hiện nhiệm vụ do cô yêu cầu từ đó
trẻ sẽ cố gắng thực hiện tốt nhiệm vụ.


Việc cho trẻ hành động với đối tượng sẽ giúp trẻ cảm thấy thoải mái,
thích thú, khích thích được tính tò mò ham hiểu biết ở trẻ t ừ đó tr ẻ sẽ d ễ
dàng nắm bắt được những kiến thức mà cô truyền đạt.
7.2.5. Biện pháp 5: Lựa chọn các thủ thuật để tạo hứng thú.
Trẻ ở độ tuổi mẫu giáo rất thích cái mới lạ, hấp dẫn sinh động, còn nh ững
cái mà quen thuộc, lặp đi lặp lại nhiều lần gây cho trẻ sự nhàm chán cho
nên trong quá trình dạy trẻ tôi đã lựa chọn nh ững hình th ức sao cho sinh
động, hấp dẫn, sáng tạo và luôn có sự thay đổi để lôi cuốn sự chú ý c ủa tr ẻ
đặc biệt là trong phần giới thiệu bài (vì đây là ph ần đ ể gây h ứng thú cho
trẻ nhiều nhất trong tiết học )
Khi cho trẻ khám phá các đối tượng tôi không đưa luôn ra ngay đối tượng đó
vì nó sẽ mang tính chất khô cứng, dập khuôn, máy móc, không tạo được sự

hấp dẫn cho trẻ mà tôi đã đưa ra những tình huống có vấn đề, những hình
thức sinh động, sáng tạo để lôi cuốn sự tập trung, chú ý, khơi dậy trí tò mò,
khám phá của trẻ
Phần giới thiệu bài cô có thể đưa ra những hình thức như cho trẻ chơi m ột
trò chơi nhỏ, cho trẻ đi thăm quan một vườn rau, vườn hoa.., cho trẻ đi
tham dự sinh nhật hoặc cô kể một câu chuyện ngắn h ấp dẫn t ạo ra tình
huống có vấn đề để lôi cuốn trẻ, thu hút sự chú ý c ủa trẻ.
Việc lựa chọn những hình thức thủ thuật để đưa vào trong phần gi ới thiệu
bài phải phù hợp với nội dung dạy, sao cho sinh động, hấp dẫn v ới tr ẻ.
Những hình thức giới thiệu bài phải luôn thay đổi trong các tiết h ọc đ ể cho
trẻ khỏi bị nhàm chán. Tôi đã sử dụng các loại hình th ức sau:
* Sử dụng mô hình: Mô hình là một loại hình thu nhỏ của các đối tượng. Khi
tổ chức cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh hay bất c ứ m ột ti ết
học nào khác trong chương trình Giáo duc mầm non thì hình th ức mô hình
được sử dụng tạo hứng thú rất hiệu quả.
Ví dụ: Phần giới thiệu bài của tiết dạy “Làm quen với một số loại rau” cô
tôi đã tổ chức cho trẻ chơi một trò chơi “Thi hái rau”. Tôi cho tr ẻ cùng nhau
thi đua chạy ra vườn rau (mô hình vườn rau mà tôi chuẩn bị có rất nhi ều
loại rau như rau xu hào, bắp cải, cà rốt,…) để hái nh ững cây rau r ồi mang
về và trẻ được thi đua như vậy trẻ sẽ rất thích thú, hăng hái mu ốn đ ược
kể về những cây rau mà trẻ mang về và mong muốn cùng cô và các b ạn
khám phá, tìm hiểu về những loại rau đó.
Hoặc đối với tiết dạy “Cho trẻ làm quen với một số loại hoa” ho ặc “Cho
trẻ làm quen với một số loại quả”….Tôi đã cho trẻ đi tham quan một vườn
hoa, cây ăn quả,…( mô hình mà cô chuẩn bị có nhiều loại hoa, qu ả có màu
sắc khác nhau, tươi, đẹp) trẻ sẽ được đi từ trong lớp ra ngoài sân, lúc đó,


trẻ sẽ có hứng thú và mong muốn được quan sát vườn hoa, quả đẹp mà cô
vừa giới thiệu. Mặt khác, trẻ được vận động, được đi ra ngoài tr ời sẽ t ạo

ra sự thay đổi, tạo không khí mới cho trẻ, khiến trẻ có cảm giác d ễ ch ịu,
thoải mái, sảng khoái và lúc tới nơi trẻ sẽ tập trung chú ý ng ắm nhìn
những cây hoa, vườn cây ăn quả thật vì màu sắc đ ẹp r ực r ỡ, t ươi t ắn t ừ đó
tạo sự hứng thú cho trẻ, trẻ muốn khám phá về đối tượng.
* Kể chuyện: Để tạo hứng thú cho trẻ thì việc kể chuyện bằng giọng
truyền cảm, kết hợp với những cử chỉ, điệu bộ v ới nh ững tình tiết li kỳ,
hấp dẫn sẽ tăng hứng thú, kích thích sự tập trung chú ý của trẻ.
Ví dụ: Đối với tiết dạy về “Một số loại hoa” tôi đã đ ưa ra hình th ức là k ể
một câu chuyện ngắn hay một đoạn trong câu chuyện có liên quan đ ến các
loại hoa như “Sự tích của các loại hoa”, “Sự tích hoa Dâm bụt”, “Sự tích hoa
mào gà”, “Sự tích hoa hồng”…, sau đó dẫn dắt vào nội dung của bài.
* Hình thức Hội thi: Đây là một hình thức tạo hứng thú rất hiệu quả, qua
các cuộc thi có “trao giải” sẽ làm tăng s ự h ưng ph ấn, kích thích s ự t ập
trung, chú ý của trẻ.
Ví dụ: Đối với tiết dạy về “Brs tìm hiểu về một số loại hoa” thì tôi đã t ổ
chức một tình huống: Các con ơi! Ở ngoài kia có rất là nhi ều các lo ại hoa,
các loại hoa cùng đua nhau khoe sắc, nhưng Ban giám kh ảo không bi ết đó
là loài hoa gì? Và Ban giám khảo đã nhờ lớp mình chọn hái giúp và xem đó
là hoa gì đấy.(Tôi đã chia lớp thành 3 đội và cho 3 đ ội thi đi hái hoa, m ỗi
đội chỉ được hái một loại hoa sau đó nói tên của các loài hoa đó). Khi đó tr ẻ
sẽ rất vui vì được tham gia thi đua tranh tài và hi ệu qu ả của ti ết h ọc đ ạt
rất cao.
* Đọc thơ, ca dao, đồng dao, vè: Thơ, ca dao, đồng dao, vè được sử dụng rất
phổ biến trong các tiết học và với môn học Cho trẻ làm quen v ới môi
trường xung quanh cũng vậy thơ, ca dao, đồng dao là một ph ương tiện đ ể
tạo cho trẻ cảm hứng khi tham gia khám phá về một đối tượng nào đó.
Nhất là đồng dao, vì các bài đồng dao thường rất vần, dễ nh ớ, dễ thu ộc.
Ví dụ: Khi “Tìm hiểu về một số loại rau” thì tôi đã cho trẻ đọc bài đồng dao:



“Rềnh rềnh ràng ràng Chẳng thích khoe màu
Đi chợ mua hàng

Cô hoa lơ đấy

Nhìn các loại rau

Nấu ăn rất ngậy

Lẩn dưới đất sâu

Là bác đỗ xanh

Là anh cà rốt

Vừa ngọt vừa lành

Chín đỏ mi mắt

Rau lang, rau muống

Là chị cà chua

Nấu canh làm nộm

Nấu bát canh cua

Là bác xu hào

Mùng tơi với mướp


Xin gửi lời chào

Ăn phải bỏ ruột

Vui cùng các bé

Là bí là bầu

Ăn rau ngon thế
Các bé thích không?”

Sau khi đọc bài đồng dao thì trẻ rất hứng thú và vốn ki ến th ức của trẻ v ề
các loại rau rất phong phú, kết quả là 100% trẻ biết tên gọi, đ ặc đi ểm và
cách chế biến của các loại rau quen thuộc, trẻ đã tham gia vào các hoạt
động khác một cách tích cực. Điều đặc biệt là trẻ còn r ất thích ăn các lo ại
rau trong các bữa ăn hàng ngày.
* Sử dụng bài hát: Các bài hát Mầm non thường là vui tươi, rộn ràng nh ưng
cũng rất nhẹ nhàng. Vì vậy sử dụng các bài hát sẽ kích thích h ứng thú cho
trẻ tạo cho trẻ cảm giác thoải mái, vui vẻ để trẻ có th ể bắt đ ầu lĩnh h ội
những kiến thức mới lạ.
Ví dụ: Khi tổ chức cho trẻ “Tìm hiểu về các loài hoa”, tôi đã cho trẻ hát bài
hát “Màu hoa” của nhạc sỹ Hồng Đăng để gây thú cho trẻ, hay “Tìm hi ểu v ề
các loại quả” thì hát bài hát “Quả gì?” để gây thú cho trẻ, “Tìm hiểu về một
số vật nuôi trong gia đình” thì hát bài hát “Gà tr ống, mèo con và cún con”
của nhạc sỹ Thế Vinh để gây thú cho trẻ,…Những lời ca, tiếng hát, những
giai điệu mượt mà, những âm thanh sống động sẽ lôi cuốn tr ẻ, kích thích
sự hứng thú của trẻ.
* Sử dụng câu đố: Để gây sự hứng thú, hấp dẫn và kích thích tính tò mò,
ham hiểu biết thì câu đố là một trong những hình th ức đạt hi ệu qu ả r ất

cao.
Ví dụ: “Tìm hiểu về một số con vật sống dưới n ước”. Khi tìm hi ểu v ề con
cua thì tôi đã sử dụng câu đố: “ Con gì tám cẳng hai càng


Một mai hai mắt, bò ngang suốt đời”
Hay tìm hiểu về con Tôm thì tôi sử dụng câu đố:
“ Chân gần đầu
Râu gần mắt
Lưng còng co quắp
Mà bơi rất tài
Là con gì? ”
Hay tìm hiểu về con Ốc thì tôi sử dụng câu đố:
“Nhà hình xoắn, ở dưới ao
Chỉ có một cửa ra vào mà thôi
Mang nhà đi khắp mọi nơi
Không đi đóng cửa, nghỉ ngơi một mình
Là con gì?”
Khi tôi vừa đọc câu đố thì trẻ đã rất hứng thú, chú ý lắng nghe xem câu đ ố
đó nói về con gì và trẻ phát biểu rất tích cực.
Như vậy, không những phần giới thiệu bài phải lựa chọn những hình th ức
sinh động, sáng tạo và thay đổi thường xuyên mà trong các ph ần c ủa ti ết
dạy cũng phải lựa chọn những hình th ức sinh động và không đ ược lặp đi
lặp lại nhiều lần.
Đối với phần cung cấp kiến thức cho trẻ thông qua việc cho trẻ tri giác đ ối
tượng tôi cũng đã tạo ra sự mới lạ, hấp dẫn đối với trẻ. Khi đưa ra đối
tượng tôi không cần đưa ngay ra để cho trẻ quan sát mà tôi đã kích thích
sự tò mò của trẻ, tôi đã dùng câu đố để trẻ đoán, có đ ối t ượng thì tôi l ại
đọc một đoạn thơ, hát một đoạn bài hát nói về đối tượng, có đối tượng thì
tôi lại cho vào túi, vào hộp và giới thiệu đó là món quà tặng lớp hoặc đó là

một bí mật để trẻ đoán. Với những hình thức thay đổi trong cùng m ột tiết
dạy sẽ tạo cho trẻ có cảm giác mới lạ, trẻ sẽ thích thú và t ập trung chú ý
vào việc quan sát đối tượng.
Thành công của một tiết dạy là tạo được hứng thú, sự khoái cảm c ủa tr ẻ
ngay từ đầu bài học. Chính vì vậy, sử dụng linh hoạt các hình th ức t ạo
hứng thú cho trẻ sẽ là một trong những biện pháp đạt hiệu quả cao nh ất.
Khi sử dụng các thủ thật để gây hứng thú cho trẻ đã làm thay đổi không
khí, hình thức sinh động làm cho tiết dạy thêm sinh động, trẻ h ứng thú,


tập trung, chú ý, giúp cho hoạt động giữa các phần nhẹ nhàng, thu hút tr ẻ
tham gia hoạt động mới, giúp trẻ dẽ lĩnh hội kiến th ức m ới.
7.2.6. Biện pháp 6: Sử dụng trò chơi trong tiết dạy.
Đối với trẻ mẫu giáo, vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ, ph ương châm
của trẻ là: “Học bằng chơi, chơi mà học” nên trong quá trình cho trẻ làm
quen với môi trường xung quanh tôi đã th ường xuyên sử dụng trò ch ơi
trong tiết học nhằm mục đích ôn luyện, củng cố kiến thức cho trẻ. Qua
những trò chơi, trẻ vừa được ôn luyện củng cố kiến thức, vừa được thoả
mãn nhu cầu chơi
Trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục và đ ặc bi ệt là t ổ ch ức cho
trẻ làm quen với môi trường xung quanh, bản thân tôi đã th ường xuyên
đưa trò chơi vào các phần của tiết dạy, có thể là phần giới thiệu bài, có th ể
là phần cuối ôn luyện kiến thức, nhằm tạo h ứng thú cho tr ẻ và c ủng c ố
những kiến thức trẻ đã có để khắc sâu và ghi nhớ lâu hơn.
Ví dụ: Tiết học “Tìm hiểu về hoa, quả”. Tôi đã tổ ch ức cho tr ẻ ch ơi trò
chơi: “Hoa nào quả ấy”:
- Chuẩn bị: 4 – 5 bộ lô tô hoa quả (tôi đã vẽ các lo ại hoa qu ả vào bìa c ứng,
mỗi bộ có một loại hoa, quả khác nhau: hoa bưởi, quả bưởi; hoa chanh,
quả chanh; hoa mướp quả mướp,…)
- Luật chơi: Xếp đúng hoa nào, quả ấy.

- Cách chơi: Cô chia cho mỗi cháu một bộ lô tô hoa và qu ả. Sau đó cho các
cháu tự lựa chọn các loại hoa sẽ kết thành quả rồi ghép với quả ấy. Thi
xem ai chọn và xếp đúng, nhanh sẽ được thưởng.
Qua trò chơi này trẻ rất hứng thú và khắc sâu được ki ến th ức về các lo ại
hoa, quả.
Với tính chất của trò chơi là vui nhộn, trẻ được hành động bằng tay, chân,
được chạy, nhảy, đi lại ở các trò chơi động và yếu tố thi đua v ới nhau ở
những trò chơi tĩnh đã lôi cuốn trẻ, thu hút s ự chú ý c ủa tr ẻ, giúp tr ẻ có
hứng thú tham gia tích cực vào trò chơi.
Khi đưa trò chơi vào trong tiết dạy, tôi đã chú ý đưa xen kẽ cả trò chơi động
và trò chơi tĩnh để thay đổi không khí cho trẻ và đảm bảo sức khoẻ cho trẻ.
Ví dụ: “Cho trẻ tìm hiểu về các loại quả” thì tôi đã sử dụng trò chơi tĩnh “Ai
nhanh nhất” bằng cách chia cho mỗi trẻ một bộ lô tô về các loại quả, sau mỗi
một hiệu lệnh của cô ví dụ như “Quả bưởi” thì trẻ phải tìm nhanh lô tô về
quả bưởi và giơ lên. Sau đó, tôi lại tổ chức cho trẻ chơi trò chơi động như trò
chơi “Hái quả” bằng cách chuẩn bị rất nhiều loại cây ăn quả, sau đó chiâ lớp
thành 3 tổ thi hái quả, mỗi tổ phải hái đúng một loại quả theo yêu cầu của cô


và khi đi hái quả thì phải vượt qua được các chướng ngại vật mà cô đã chuẩn
bị sẵn,…
Có rất nhiều trò chơi đã được biên soạn để cho trẻ chơi như trò ch ơi: “Thi
xem ai nhanh”, “Chiếc túi kỳ lạ”, “Cái gì biến mất, “Gieo h ạt”…. nh ưng cô
phải biết lựa chọn những trò chơi sao cho phù h ợp v ới n ội dung d ạy tr ẻ,
phải luân phiên thay đổi các trò chơi trong tiết học, không lặp đi lặp lại
nhiều lần và có thể cải biến trò chơi, sáng tạo ra nh ững trò ch ơi m ới đ ể
gây hấp dẫn và hứng thú cho trẻ.
Ví dụ: Trò chơi “Chiếc túi kỳ lạ”, cách chơi như sau: Tôi chuẩn bị một cái túi
trong đó đựng những đối tượng mà trẻ vừa học. Tôi cho m ột tr ẻ lên ch ơi
và nhắm mắt lại, khi tôi gọi tên đối tượng gì thì trẻ cho tay vào túi và ch ọn

đúng đối tượng đó giơ lên và gọi tên đối t ượng cho c ả l ớp cùng nghe.
Nhưng tôi đã cải biến trò chơi đi một chút để nó m ới lạ h ơn đó là tôi cho
trẻ chơi trò chơi “Nhà thám hiểm”, cách chơi như sau: Tôi cũng đ ưa ra
những cái túi hoặc hộp mà bên trong đựng các đối t ượng tr ẻ v ừa h ọc, cô
cho 2, 3 trẻ lên chơi cùng một lúc, trẻ lên ch ơi thì đ ược đeo kính màu (do
tôi tự làm) để làm sao chop trẻ không nhìn thấy gì. Trẻ chú ý, khi tôi g ọi
tên đối tượng gì thì trẻ cho tay vào túi sờ để trẻ được tri giác bằng giác
quan về đặc điểm của đồ vật đó và sau đó chọn nhanh đ ược đúng đ ối
tượng đó. Ai chọn nhanh và đúng sẽ là nhà thám hi ểm giỏi, hoặc sẽ là
người dành chiến thắng. Với cách chơi như vậy tôi đã đ ưa y ếu tố thi đua
vào trong trò chơi giúp trẻ sẽ cố gắng chơi thật nhanh, thật giỏi.
Ngoài việc cải biến một số trò chơi theo nh ững trò ch ơi đã biên so ạn đ ể
tạo sự mới mẻ đối với trẻ, tôi còn có thể sáng tạo ra m ột số trò ch ơi m ới
vừa phù hợp với nội dung tiết dạy, vừa gây được sự h ứng thú, chú ý cho
trẻ.
Ví dụ:
* Trò chơi 1: “Bác sửa chữa giỏi”- ( tổ ch ức trong gi ờ h ọc “Làm quen
với một số phương tiện giao thông”)
Cách chơi: Cô đưa ra những bức tranh về ph ương tiện giao thông
nhưng còn thiếu một số bộ phận (bánh xe, cửa sổ, cửa ra vào, thùng xe...)
và cô chuẩn bị sẵn một số bộ phận rời của loại phương tiên giao thông đó.
Cô cho trẻ quan sát tranh để phát hiện ra ph ương tiện giao thông đó còn
thiếu bộ phận gì rồi chọn bộ phận đó và dán vào đúng vị trí (cô có th ể cho
trẻ chơi theo hình thức tổ, nhóm, cá nhân)
* Trò chơi 2: “Hái hoa” - (Tổ chức trong giờ học: “Một số loại hoa”)
- Chuấn bị:


+ Cô chuẩn bị 3 mô hình vườn hoa, có trồng hoa h ồng, hoa cúc, hoa sen (có
thể là hoa thật hoặc cô làm, có màu sắc, rực rỡ, tươi tắn, đẹp)

+ 3 thảm cỏ làm chướng ngại vật, 3 lọ hoa
- Cách bố trí các đồ chơi: Trước mỗi tổ là thảm cỏ, tr ước thảm cỏ là 3
vườn hoa.
- Cách chơi: Cô cho trẻ xếp thành 3 hàng dọc theo 3 t ổ, c ả 3 t ổ cùng
thi đua với nhau bằng cách cô cho lần lượt cảc tr ẻ trong 3 t ổ lên b ật qua
thảm cỏ tới vườn hoa hái một bông hoa mang về cắm vào l ọ hoa c ủa t ổ
mình. Tổ hoa hồng chỉ được hái những bông hoa hồng, tổ hoa cúc chỉ đ ược
hái những bông hoa cúc và tổ hoa sen sẽ hái những bông hoa sen. Trong
một thời gian, sau một hiệu lệnh là bản nhạc không lời của bài hát “Màu
hoa” sáng tác của nhạc sỹ Hồng Đăng thì trò chơi dừng lại. Sau đó cô và tr ẻ
kiểm tra kết quả bằng cách: Cho cả lớp đếm số bông hoa c ủa m ỗi t ổ, t ổ
nào hái đúng loại hoa và hái được số lượng nhiều hơn là thắng cuộc.
Với những trò chơi mới mẻ, sinh động, hấp dẫn được tổ ch ức thay
đổi trong các tiết học vừa có tác dụng củng cố, ôn luyện ki ến th ức cho tr ẻ
vừa làm thoả mãn nhu cầu chơi của trẻ và khắc sâu được kiến th ức cho
trẻ. Kết quả là trẻ rất hứng thú, tích cực tham gia vào trò ch ơi và nắm bắt
kiến thức một cách chính xác hơn.
7.2.7. Biện pháp 7: Làm thí nghiệm.
Trẻ nhỏ có bản năng tò mò, ham thích khám phá thế giới xung quanh.
Tổ chức cho trẻ được làm các thí nghiệm là khuyến khích và nuôi d ưỡng
tính tò mò ấy. Cách tổ chức các thí nghiệm đơn giản, dễ làm, v ừa s ức v ới
trẻ sẽ kích thích khả năng sáng tạo, sự hứng thú và làm tăng v ốn hiểu bi ết
của trẻ về thế giới xung quanh.
Việc tổ chức cho trẻ làm các thí nghiệm như: Sự nảy mầm của h ạt, s ự tan
ra của đá, nước bốc hơi, vật nổi - vật chìm, cây cần ánh sáng… tr ẻ đ ược
nhìn nhận và tìm hiểu qua thực tế sẽ làm trẻ rất hứng thú.
Ví dụ 1: Làm thí nghiệm “Cây cần ánh sáng”
* Vật liệu:
- Một ít đất trồng cây trộn sẵn.
- Giấy thiếc, bạc (Có thể dùng giấy bọc kẹo, giấy gói hoa)

- Nước.
- Chậu trồng cây nhỏ.
- Một ít hạt ngô giống.


* Tiến hành: Cho đất trộn sẵn vào chậu. Hạt giống ngô ngâm n ước
ấm một đêm, sau đó ấn hạt sâu vào đất trong chậu (sâu khoảng 1 - 1,5
cm). Để chậu ở nơi ấm, tối và tưới ẩm vừa phải (nhớ không làm đ ất sũng
nước). Sau vài ngày hạt nảy mầm. Khi nảy mầm lớn khoảng độ 2,5cm thì
mang chậu ra ngoài nơi có ánh sáng như: bậu cửa sổ, ngoài thềm,… c ắt
giấy thiếc thành những mảnh nhỏ và cuộn lại thành hình nh ững cái nón.
Đội những cái nón lên nửa số mầm trong chậu. Khoảng 2 tiếng đ ồng h ồ
sau quan sát kết quả.
* Khi quan sát kết quả cô giáo gợi ý trẻ giải thích: Đi ều gì đã x ảy ra?
Hướng của các mầm trong chậu như thế nào?
Ví dụ 2: Làm thí nghiệm vật chìm vật nổi.
* Chuẩn bị:
- Một chậu nước sạch.
- Những miếng xốp, ống hút, lá cây khô.
- Đá, sỏi, cục sắt.
* Tiến hành:
- Cho trẻ quan sát và gọi tên của các đồ dùng đó.
- Cho trẻ tự tay thả một vật nào đó mà cô đã chu ẩn b ị nh ư: m ột
miếng xốp, hay một viên đá,..vào chậu nước.
sao?

- Cho trẻ quan sát xem những vật nào n ổi? Nh ững v ật nào chìm? Vì

Tôi đã cùng trẻ tiến hành làm những thí nghiệm này và trẻ rất hứng thú,
mong muốn tìm hiểu những điều xảy ra. Và trẻ đã giải thích được các hiện

tượng đó.
Kết quả là: Khi tổ chức cho trẻ được làm những thí nghiệm d ưới s ự
hướng dẫn của cô trẻ rất hứng thú, 100% trẻ đều tích c ực tham gia vào
các hoạt động, kích thích sự tập trung tư duy của trẻ.
7.2.8. Biện pháp 8: Lời nói, thái độ, nét mặt của cô.
Trẻ mẫu giáo rất ưa thích sự nhẹ nhàng, tình cảm nên trong quá trình
dạy trẻ cô phải luôn có thái độ quý mến, gần gũi với trẻ, không đ ược quát
mắng trẻ. Cô luôn đối xử công bằng với tất cả các trẻ trong l ớp, luôn th ể
hiện sự dịu dàng, yêu mến trẻ, thường xuyên giao lưu tình cảm v ới trẻ. Nét
mặt, cử chỉ, ánh mắt dịu hiền với lời nói nhẹ nhàng sẽ giúp cho trẻ có cảm
giác được yêu mến, yên tâm và trẻ sẽ thấy thoải mái, vui tươi khi tham gia
vào các hoạt động. Nhờ vậy mà trẻ sẽ tự tin, vui vẻ, thích thú đ ể tham gia
vào các hoạt động.


Trong khi d ạy trẻ, tôi đã s ử d ụng nh ững l ời nói nh ẹ nhàng, tình
cảm. Cường độ giọng nói của tôi vừa phải, không nói quá to hoặc quá nh ỏ,
nếu nói quá nhỏ thì trẻ sẽ không đủ nghe, nếu nói quá to thì trẻ có c ảm
giác là cô mắng nên trẻ sợ hãi.
Lời nói của cô phải diễn cảm kết hợp với cử chỉ, điệu bô, ánh mắt để
thể hiện đúng nội dung câu nói, đúng hoàn cảnh, nói phải có ng ữ điệu,
ngắt, nghỉ đúng chỗ.
Ví dụ: khi sử dụng lời nói trong phần trò chơi, tôi ph ải nói v ới gi ọng
vui tươi, sôi nổi, thể hiện sự vui nhộn của trò chơi để tạo không khí vui v ẻ
cho quá trình chơi của trẻ từ đó sẽ hấp dẫn lôi cuốn tr ẻ tham gia vào trò
chơi một cách tích cực. Khi tôi nói trong ph ần truy ền đ ạt, cung c ấp ki ến
thức thì tôi phải nói chậm rãi nhưng rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu để trẻ dễ
dàng nắm bắt được kiến thức mà tôi muốn truyền đạt. Hoặc khi k ể m ột
câu chuyện nhỏ trong phần giới thiệu bài thì tôi phải kể diễn cảm th ể
hiện thể hiện được tính cách của nhân vật qua lời nói, k ể phải ch ậm rãi,

rõ ràng để thu hút sự chú ý của trẻ để trẻ cảm nh ận đ ược nội dung câu
chuyện.
Trong quá trình dạy tôi cũng phải th ường xuyên sử d ụng nh ững câu
nói, lời nói có tính chất động viên khích lệ trẻ để lôi cuốn trẻ tham gia vào
hoạt động như: “Cô đố các con biết”, “Chúng mình cùng thi đua xem ai gi ỏi
hơn, ai nhanh hơn, ai thông minh hơn, ai khéo h ơn…”
Trong quá trình dạy, thì tôi cũng đã xử lý những tình huống th ật khéo
léo, tế nhị, vì trẻ mẫu giáo còn nhỏ hay sợ sệt, nhút nhát và trẻ lại rất
thích khen ngợi nên tôi đã thường xuyên khen ngợi, động viên trẻ. Khi trẻ
trả lời đúng và làm tốt những công việc, nhiệm vụ được giao thì tôi luôn
nêu gương, khen ngợi trẻ kịp thời, còn khi trẻ trả l ời chưa đúng hoặc làm
chưa tốt thì tôi không quát mắng trẻ, chê bai trẻ hoặc lờ đi mà tôi đã nhẹ
nhàng động viên trẻ, khéo léo gợi ý để trẻ hiểu ra và trả lời đ ược câu h ỏi
của mình đưa ra.
Với những lời nói nhẹ nhàng, tình cảm, nói diễn cảm thể hiện được
đúng nội dung của câu nói, nói đúng hoàn cảnh, tình huống kết hợp với ánh
mắt, cử chỉ, điệu bộ, thái độ của cô sẽ lôi cuốn trẻ, thu hút sự tập trung chú ý
của trẻ vào việc khám phá đối tượng từ đó trẻ sẽ dễ dàng nắm được những
kiến thức mà cô truyền đạt.
7.2.9. Biện pháp 9: Ứng dụng công nghệ thông tin vào tiết dạy.
Có những sự vật, hiện tượng mà chúng ta muốn cung c ấp kiến th ức
cho trẻ chỉ có thể có được nhờ những hình ảnh sinh động, nh ững c ảnh
quay đẹp mắt và có những kiến thức cần cung cấp trong một quá trình dài
như: sự phát triển, quá trình tuần hoàn,..Do đó, c ần ph ải ứng d ụng công


nghệ thông tin một cách linh hoạt trong tiết dạy sẽ đạt đ ược hi ệu qu ả
giáo dục rất cao.
Để tạo được hứng thú cho trẻ tôi đã tìm kiếm nh ững hình ảnh sinh
động, hấp dẫn trên mạng Internet hoặc trong phầm mềm Vui học m ầm

non để làm giáo án điện tử Microsoft Office PowerPoint và trình chi ếu cho
trẻ xem, những hình ảnh đó đã giúp trẻ hứng thú và giúp trẻ tìm hi ểu
được những quá trình phát triển của sự vật nào đó trong một th ời gian dài.
Ví dụ1: Khi cho trẻ tìm hiểu, khám phá về sự nảy mầm của h ạt hoặc
sự phát triển của con Bướm,…tôi đã tìm và sưu tầm được nh ững video v ề
quá trình đó và trình chiếu cho trẻ quan sát.
Ví dụ 2: Cho trẻ “Tìm hiểu về một số con vật sống trong rừng” tôi đã
tìm những hình ảnh về các con vật như con voi, con báo, con s ư tử, con h ổ,
con gấu,…và đưa vào Microsoft Office PowerPoint, sau đó trình chi ếu cho
trẻ quan sát. Trẻ được nhìn thấy những con vật thật qua màn hình máy
chiếu đã kích thích hứng thú và sự chú ý của trẻ.
Việc sử dụng màn hình, đèn chiếu cũng là một hình th ức s ử d ụng tr ực
quan đồng thời cũng là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong gi ờ
dạy. Thông qua những cảnh quay, đoạn băng được đưa lên màn hình sẽ t ạo
ra sự thay đổi, sự mới lạ cho trẻ bởi vì tất cả các s ự vật hi ện t ượng trên
thực tế đều có thể quay lại, chụp lại để đưa lên màn hình. Nh ững hình ảnh
có thể là tĩnh như ảnh chụp và có thể là động như cảnh quay và qua nh ững
cảnh quay đã diễn tả lại mọi hoạt động của các s ự vật hiện t ượng và v ới
màu sắc đẹp của hình ảnh, tính thực tiễn sẽ lôi cuốn trẻ, giúp trẻ có hứng
thú tham gia vào việc khám phá kiến thức về đối tượng.
Khi tổ chức các hoạt động giáo dục có sử dụng ứng dụng công ngh ệ thông
tin đã làm cho trẻ rất hứng thú, kích thích tính tò mò, ham hiểu bi ết ở tr ẻ.
Mặt khác qua việc sử dụng màn hình sẽ mở rộng được nhiều kiến th ức và
khắc sâu kiến thức cho trẻ hơn.
7.2.10. Biện pháp 10: Tổ chức cho trẻ dạo chơi, tham quan.
Dạo chơi, tham quan là hình thức giáo dục đạt hiệu quả cao. B ởi khi
trẻ được đi dạo chơi, tham quan là trẻ được thay đổi không khí môi
trường trong lớp học, trẻ được thay đổi hình thức hoạt động: đ ược đi,
được chạy,…trẻ sẽ rất hứng thú và lĩnh hội kiến th ức bằng cách trải
nghiệm thực tế. Vì vậy, những kiến th ức mà trẻ thu đ ược sẽ chính xác và

sự ghi nhớ được lâu hơn.
Với các nội dung về: Động vật, thực vật, phương tiện giao thông, thiên
nhiên vô sinh, hiện tượng thiên nhiên hay 1 số hoạt đ ộng c ủa con ng ười
(Lao động của người lớn trong trường mầm non, công việc của công nhân


vệ sinh môi trường, của thợ xây, của người bán hàng….) trong các buổi dạo
chơi, cô giáo giúp trẻ quan sát và đàm thoại nhằm khơi gợi h ứng thú, kích
thích tính tò mò, ham hiểu biết của trẻ, đồng th ời cung cấp kiến th ức cho
trẻ về đối tượng.
Đây là hình thức tôi thường xuyên tổ chức trong quá trình h ướng d ẫn trẻ
khám phá một số nội dung như: “Tìm hiểu về công việc của các cô cấp
dưỡng” thì cho trẻ tham quan khu vực nhà bếp và quan sát các công vi ệc
của cô cấp dưỡng ở trường Mầm non, hay “Tìm hiểu về trường Mầm non”
thì cho trẻ dạo chơi xung quanh trường để quan sát khung c ảnh, các khu
vực của nhà trường,..
8. Những thông tin cần được bảo mật: Không có
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Môn làm quen với môi trường xung quanh như là nguồn sống và h ơi th ở
nuôi dưỡng trẻ từng ngày. Nó giúp trẻ khám phá thế gi ới quan trong ph ạm
vi rộng lớn của vũ trụ, nơi đó có ảnh hưởng tr ực ti ếp gi ữa con ng ười v ới
thiên nhiên và động thực vật. Để gây được hứng thú cho tr ẻ trong quá
trình tổ chức cho trẻ khám phá, tìm hiểu về môi trường xung quanh thì
cần phải chuẩn bị đầy đủ các điều kiện như sau:
- Các loại đồ dùng đồ chơi phải đẹp, hấp dẫn, an toàn v ới trẻ.
- Có đầy đủ các trang thiết bị như: Ti vi, máy tính, máy chi ếu, loa…
- Môi trường học tập thân thiện, sinh động.
10. Đánh giá lợi ích thu được:
10.1. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý ki ến c ủa
tác giả:

Sau khi áp dụng những biện pháp gây hứng thú cho trẻ trong gi ờ làm
quen với môi trường xung quanh vào trong quá trình d ạy trẻ, tôi th ấy có
những kết quả như sau:
+ Về kiến thức: Trẻ đã nắm được tên gọi, cấu tạo, đặc điểm, tính ch ất của
các sự vật hiện tượng. Trẻ phân biệt được sự giống và khác nhau gi ữa các
sự vật hiện tượng, biết được ích lợi, cách bảo quản, cách sử dụng, các mối
liên hệ, quan hệ….giữa các sự vật hiện tượng, trẻ biết đ ược đ ặc đi ểm, ý
nghĩa của một số hiện tượng tự nhiên, hiện tượng xã h ội. T ừ đó tr ẻ lĩnh
hội những kiến thức về khám phá khoa học và khám phá xã h ội m ột cách
tích cực, hứng thú.
+ Về kỹ năng: Trong quá trình cho trẻ làm quen v ới môi tr ường xung quanh
đã hình thành và rèn luyện ở trẻ một số kỹ năng nh ư khả năng quan sát,
khả năng diễn đạt, khả năng phân tích, so sánh, tổng h ợp, phân lo ại, phân


biệt, khả năng ghi nhớ có chủ định. Rèn luyện kỹ năng tô, vẽ, đếm, kỹ năng
vận động nhanh nhẹn, kỹ năng hợp tác,...
+ Về thái độ: Trong quá trình cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh
đã hình thành ở trẻ ý thức học tập, trẻ học ngoan, luôn tập trung chú ý
nghe cô giảng bài, trẻ học rất sôi nổi, hăng hái tham gia phát bi ểu ý ki ến,
nhiệt tình, tích cực tham gia vào các hoạt động, đặc bi ệt là ho ạt đ ộng
nhóm, trẻ luôn có sự phối hợp với nhau, trao đổi, hợp tác tích c ực, ch ủ
động tìm tòi để khám phá những điều mới lạ và lĩnh hội kiến thức một
cách chủ động, tích cực.
Áp dụng các biện pháp gây hứng thú cho trẻ khi tổ ch ức các hoạt động cho
trẻ làm quen với môi trường xung quanh và tổ chức kh ảo sát th ực tế trên
38 trẻ của lớp 5 – 6 tuổi A3 Trường Mầm non Hoa Sen, huy ện L ập Th ạch
về khả năng chú ý và sự hứng thú của trẻ, tôi đã thu được kết quả nh ư
sau:
STT


Khả năng hứng thú, tập trung chú
ý
của trẻ

Kết quả
Số lượng

Tỷ lệ %

1

Loại Tốt

33/38

86,9

2

Loại Khá

5/38

13,1

3

Loại Trung bình


0

0

* Bảng tổng hợp, so sánh khả năng hứng thú, chú ý của tr ẻ:
Khi chưa áp dụng các Sau khi áp dụng các biện
Khả năng hứng thú, biện pháp gây hứng thú pháp gây hứng thú cho
trẻ
TT tập trung chú ý của cho trẻ
trẻ
Số
Số
Tỷ lệ %
T ỷ lệ %
lượng
lượng
1

Loại Tốt

10/38

26,3

33/38

86,9

2


Loại Khá

15/38

39,5

5/38

13,1

3

Loại Trung bình

13/38

34,2

0

0

Với kết quả này, 33/38 trẻ đã hứng thú và chú ý rất tốt trong quá
trình tôi tổ chức cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh, còn 5 cháu
hứng thú chưa nhiều chỉ ở mức độ Khá.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:


Sau khi bản thân tôi đã đề ra “Một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ 5 – 6

tuổi trong giờ làm quen với môi trường xung quanh” thì đã được 3 giáo
viên trong tổ 5 – 6 tuổi của trường mầm non Hoa Sen, huyện Lập Thạch áp
dụng đối với các cháu tại lớp 5 tuổi A1, 5 tuổi A2, 5 tuổi A3 và giáo viên đã
thu được kết quả như sau:
Đã có thêm những kiến thức về đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ
để tạo hứng thú phù hợp cho trẻ.
Biết cách tạo hứng thú cho trẻ trong các hoạt động để phát huy đ ược
tính tích cực, chủ động, sáng tạo, kích thích được tính tò mò, ham hiểu biết
và áp dụng các biện pháp tạo hứng thú cho trẻ theo quan đi ểm “Giáo d ục
lấy trẻ làm trung tâm” khi giáo viên tổ chức các hoạt động.
Biết sử dụng linh hoạt các biện pháp tạo hứng thú cho trẻ theo n ội
dung của bài học.
Có nhiều tiết dạy tổ chức cho trẻ làm quen với môi tr ường xung
quanh được xếp loại Tốt.
Có nhiều kinh nghiệm trong việc gây hứng thú cho trẻ trong gi ờ làm
quen với môi trường xung quanh nói riêng và trong các ti ết dạy, các ho ạt
động khác nói chung.
11. Danh sách những cá nhân đã tham gia áp dụng th ử ho ặc áp d ụng
sáng kiến lần đầu:
Số
TT
1

2

3

Tên tổ chức/

Phạm vi/Lĩnh vực


Địa chỉ

cá nhân

áp dụng sáng kiến

Nguyễn Thị
Phương

Trường mầm non Hoa Sen,
huyện Lập Thạch

Nguyễn Thị Hà

Trường mầm non Hoa Sen,
huyện Lập Thạch

Dương Thị Thùy

Trường mầm non Hoa Sen,
huyện Lập Thạch

Lĩnh vực
Phát triển nhận thức
Lĩnh vực
Phát triển nhận thức
Lĩnh vực
Phát triển nhận thức


Lập Thạch, ngày 02 tháng 3 năm
2017

Lập Thạch, ngày 02 tháng 3 năm
2017

Thủ trưởng đơn vị

Tác giả sáng kiến


Hà Thị Mai Hương

Nguyễn Thị Thế


×