Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

SKKN ứng dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực theo định hướng phát triển năng lực học sinh vào dạy học truyện ngắn chữ người tử tù của nguyễn tuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.18 KB, 33 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Nhà văn Nam Cao khi bàn về vai trò và trách nhiệm của người nghệ sĩ đã viết
rằng: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu
mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Hiểu theo nghĩa rộng,
người thầy giáo cũng là người nghệ sĩ, và cũng không thể đi ngoài quy luật của ấy
của nghệ thuật. Để mang đến cho học sinh những bài học hữu ích, để tạo được sự mới
mẻ, hấp dẫn cho bài giảng và đặc biệt để có thể phát huy được một cách tốt nhất năng
lực của học sinh, người thầy luôn cần trau dồi cần đổi mới phương pháp giảng dạy
cho phù hợp.
Có thể nói, các tác phẩm văn học hiện đại thuộc thể loại tự sự luôn là sự chờ
đợi của các thế hệ học sinh. Trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông, các tác
phẩm thuộc thể loại này được giới thiệu ngay từ khi học Khái quát văn học Việt Nam
từ thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945. Cùng với Hai đứa trẻ của Thạch
Lam, Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là tác phẩm tiêu biểu cho dòng văn học lãng
mạn được giới thiệu cho học sinh. Tác phẩm này đem đến thú vị cho học sinh không
chỉ ở cốt truyện hấp dẫn mà còn chứa đựng những giá trị văn hóa cổ truyền của dân
tộc. Tuy nhiên, để học sinh hiểu được và trân quý những con người đã có công với
đất nước và những giá trị văn hóa tinh thần đang dần bị mai một là điều không dễ
dàng. Nguyên nhân chính dẫn đến điều này là học sinh ít hiểu biết về lịch sử, về
những nét đẹp văn hóa xưa kia. Hơn thế, thời đại công nghệ sôi nổi, hiện đại khiến
các em có quá nhiều những những thu hút mà ít quan tâm đến những giá trị thuộc về
quá khứ. Vì thế, người thầy phải có trách nhiệm khơi gợi hứng thú cho học sinh về
những điều mà lâu nay học sinh ít quan tâm, từ đó giáo dục được tinh thần yêu nước
và gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc. Để làm được điều đó, người
thầy cần đổi mới trong phương pháp dạy học để những giá trị ấy thấm vào hiểu biết,
nhận thức của học sinh một cách tự nhiên. Một trong những cách thức thực hiện là tổ
chức hoạt động học tập cho học sinh theo các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích
cực, phát triển năng lực của người học.


Để minh họa cho hiệu quả của việc đổi mới phương pháp dạy học theo định
hướng triển năng lực học sinh đối với môn Ngữ văn, người viết thực hiện tổ chức dạy
học bài Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân- một truyện ngắn tiêu biểu cho dòng văn
học lãng mạn 1930- 1945. Với lựa chọn này, người viết hi vọng ứng dụng thực tiễn
của mình sẽ đóng góp cho con đường đổi mới phương pháp dạy học văn còn nhiều
tranh biện trong nhà trường hiện nay.
1


2. Tên sáng kiến: Ứng dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực theo định
hướng phát triển năng lực học sinh vào dạy học truyện ngắn Chữ người tử tù của
Nguyễn Tuân.
3. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên: Phạm Thị Toàn
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Khu 2- Thị trấn Vĩnh Tường- Vĩnh Tường- Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0335533681
Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác giả sáng kiến
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Ngữ văn 11
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 06/11/2018
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Về nội dung sáng kiến:
7.1.1. Thực trạng của việc tổ chức dạy học theo kiểu truyền thống nói chung và
thực trạng của việc dạy học Ngữ văn hiện nay
Phương pháp dạy học truyền thống là những cách thức dạy học quen thuộc
được truyền từ lâu đời và được bảo tồn, duy trì qua nhiều thế hệ. Phương pháp dạy
học này lấy người thầy là trung tâm, thầy là người thuyết trình, diễn giảng, là “kho tri
thức” sống, học sinh là người nghe, nhớ, ghi chép và suy nghĩ theo. Giáo án dạy theo
phương pháp truyền thống được thiết kế theo chiều dọc từ trên xuống. Với phương
pháp này, kiến thức chuyển tải đến học sinh có tính hệ thống và lôgic cao. Tuy nhiên,

học sinh là người thụ động tiếp thu kiến thức, giờ học dễ trở nên đơn điệu, buồn tẻ,
không phát huy được tính sáng tạo và khả năng thực hành của học sinh.
Có thể nhận thấy, dưới sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường, niềm yêu
thích dành cho môn Văn của học sinh hiện nay ngày càng có chiều hướng suy giảm.
Học sinh học tập với tâm lý khá thực dụng học gì thì nấy phần nào chưa nhận thấy
được một chức năng vô cùng quan trọng của văn chương là bồi đắp tâm hồn, rèn kĩ
năng giao tiếp, để tạo lập văn bản, trau dồi vốn sống và nhân cách con người. Hơn
thế, tất cả các môn đều thi theo hình thức trắc nghiệm, riêng môn Văn thi theo hình
thức tự luận vừa không có điều kiện hỗ trợ rèn kĩ năng viết bài vừa rất dễ gây tâm lí
“áp lực” cho học sinh. Vì thế, cách dạy thụ động, truyền tải theo hướng một chiều
không phù hợp với sự nhạy bén của học sinh và yêu cầu của xã hội.
7.1.2. Phương pháp dạy học và kĩ thuật dạy học tích cực theo định hướng phát
triển năng lực học sinh
Phương pháp dạy học hiện đại xuất hiện ở các nước phương Tây (ở Mỹ, ở
Pháp...) từ đầu thế kỷ XX và được phát triển mạnh từ nửa sau của thế kỷ, có ảnh
hưởng sâu rộng tới các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đó là cách thức dạy
học theo lối phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Vì thế thường gọi phương
pháp này được gọi là phương pháp dạy học tích cực. Với phương pháp này, giáo viên
là người giữ vài trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho người học tự tìm kiếm, khám
2


phá những tri thức mới theo kiểu tranh luận, thảo luận theo nhóm. “Người thầy có vai
trò là trọng tài, cố vấn điều khiển tiến trình giờ dạy. Phương pháp dạy học này rất
đáng chú ý đến đối tượng học sinh, coi trọng việc nâng cao quyền năng cho người
học. Giáo viên là người nêu tình huống, kích thích hứng thú, suy nghĩ và phân xử các
ý kiến đối lập của học sinh; từ đó hệ thống hoá các vấn đề, tổng kết bài giảng, khắc
sâu những tri thức cần nắm vững (Tiến sĩ Võ Hoàng Ngọc). Giáo án dạy học theo
phương pháp này được thiết kế kiểu chiều ngang theo hai hướng song hành giữa hoạt
động dạy của thầy và học của trò. Phương pháp dạy học tích cực rất chú trọng kỹ

năng thực hành, vận dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự
học cho học sinh, giảm bớt thuyết trình, diễn giải của người thầy.
Một số phương pháp dạy học tích cực:
(1) Thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm là một trong những phương pháp dạy học tạo được sự tham
gia tích cực của học sinh trong học tập. Trong thảo luận nhóm, học sinh được tham
gia trao đổi, bàn bạc, chia sẻ ý kiến về một nhóm vấn đề cả nhóm cùng quan tâm.
Thảo luận nhóm còn là phương tiện học hỏi có tính cách dân chủ, mọi cá nhân được
tự do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận quan điểm
bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân, giúp học sinh rèn luyện kĩ năng giải quyết
vấn đề khó khăn. Thảo luận nhóm được tiến hành theo các hình thức: nhóm nhỏ (cặp
đôi, cặp ba), nhóm trung bình (4 đến 6 người) hoặc nhóm lớn (8 đến 10 người trở
lên). Trong lớp học sinh được chia làm từng nhóm từ 4 đến 6 người. Tùy mục đích,
yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định,
được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học được giao cùng một
nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.
Khi thực hiện nhiệm vụ trong thảo luận nhóm, nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu
thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi người một phần việc. Trong nhóm mỗi
thành viên đều phải làm việc tích cực, không ỉ nại vào một vài thành viên hiểu biết,
năng động hơn… Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau hiểu vấn đề, nêu ra trong
không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm đóng góp vào
kết quả học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn
lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện học phân công mỗi thành viên trình bày một
phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp.
Để tổ chức một hoạt động dạy học theo hình thức thảo luận nhóm, giáo viên
cần tiến hành các bước sau:
- Chuẩn bị (giao nhiệm vụ):
+ Chuẩn bị đề tài, mục tiêu hay bài học thông qua thảo luận nhóm, câu hỏi,
hình thức trình bày, vận dụng, thời gian.


3


+ Nội dung thảo luận nhóm: thướng là những câu hỏi/ bài tập gắn với những
tình huống dạy học mang tính phức hợp và có tính vấn đề cần huy động sự suy nghĩ
chia se của nhiều học sinh để tìm được giải pháp, phương pháp giải quyết.
+ Phương tiện hỗ trợ: giấy A0, bút dạ, thẻ màu… tùy theo yêu cầu của nhiệm
vụ cần thực hiện.
- Thực hiện nhiệm vụ:
+ Chia nhóm theo yêu cầu của nhiệm vụ, các nhóm tự phân công vị trí của các
thành viên, nhóm trưởng, thư kí, người trình bày, người quan sát…
+ Trong quá trình các nhóm thảo luận, giáo viên quan sát, điều chỉnh chỗ
ngồi….
- Trình bày kết quả:
+ Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận, các thành viên của nhóm có thể
bổ sung thêm.
+ Các nhóm khác nhận xét, bổ sung, hỏi thêm…
+ Giáo viên đúc kết, bổ sung ý kiến, nhấn mạnh nội dung quan trọng, tóm tắt…
(kết luận)
(2) Đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành để trình bày những
suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo một “giả định”. Đây là phương pháp giảng dạy
nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách đứng từ chỗ đứng, góc
nhìn của người trong cuộc tập trung vào một sự kiện cụ thể mà các em quan sát được
từ vai của mình.
Trong môn học Ngữ văn, phương pháp đóng vai được thực hiện trong một số
nội dung học tập sau: vào vai một nhân vật kể lại câu chuyện đã học, chuyển thể một
văn bản văn học thành kịch bản sân khấu, xử lí một tình huống giao tiếp giả định,
trình bày một vấn đề, một ý kiến từ các góc nhìn khác nhau….
Phương pháp đóng vai có một ưu điểm như sau:

- Học sinh được rèn luyện, thực hành những kĩ năng ứng xử và bày tỏ thái độ
trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
- Gây hứng thú và chú ý cho học sinh.
- Học sinh hình thành kĩ năng giao tiếp, có cơ hội bộc lộ cảm xúc.
- Tạo điều kiện làm phát triển óc sáng tạo của học sinh.
- Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo hướng tích cực.
Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói và việc làm của các vai diễn.
Bên cạnh đó có thể có một số học sinh nhút nhát, thiếu tự tin khi đứng trước tập thể,
vốn từ ít, khó thực hiện vai của mình, giáo viên cần động viên, khuyến khích, tạo cơ
hội cho đối tượng học sinh này tham gia bắt đầu từ những tình huống đơn giản. Giáo
viên tiến hành tổ chức cho học sinh đóng vai theo các bước cơ bản sau:
4


- Giáo viên nêu chủ đề, yêu cầu của nhiệm vụ, chia nhóm, giao tình huống và
yêu cầu đóng vai cho từng nhóm. Trong đó có quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời
gian đóng vai của mỗi nhóm.
- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai, phân vai, dàn cảnh, cách thể hiện
nhân vật, diễn thử.
- Các nhóm lên đóng vai.
- Thảo luận, nhận xét.
- Giáo viên kết luận giúp học sinh rút ra bài học cho bản thân.
(3) Nghiên cứu tình huống
Phương pháp nghiên cứu tình huống là một phương pháp dạy học trong đó
trọng tâm của quá trình dạy học là làm việc phân tích và giải quyết các vấn đề của
một trường hợp (tình huống) được lựa chọn trong thực tiễn. Với phương pháp này,
học sinh tự lực nghiên cứu một tình huống thực tiễn và giải quyết một vấn đề của tình
huống đặt ra. Hình thức làm việc chủ yếu là làm việc nhóm. Các tình huống đưa ra là
những tình huống xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, tình huống đó đã gặp hoặc có thể
gặp hàng ngày. Những tình huống đó chứa đựng vấn đề cần giải quyết. Để giải quyết

các vấn đề đó đòi hỏi phải có những quyết định dựa trên cơ sở những giải pháp được
đưa ra để giải quyết. Trong nghiên cứu trường hợp, học sinh phải ghi nhớ lí thuyết mà
quan trọng là vận dụng kiến thức đã được học vào một tình huống cụ thể.
Trong môn học Ngữ văn, nghiên cứu tình huống thường được thực hiện ở một
số nội dung sau: phân tích tình huống giao tiếp, tìm hiểu một số văn bản văn học tiêu
biểu cho một kiểu loại, tìm hiểu một vấn đề thực tiễn cuộc sống để tạo lập một văn
bản nói/ viết….
Phương pháp nghiên cứu tình huống được thực hiện theo các bước sau:
- Nhận biết tình huống: giáo viên nêu tình huống, yêu cầu học sinh nhận diện
vấn đề trong tâm được nêu ra trong tình huống.
- Thu thập các thông tin liên quan đến tình huống, yêu cầu học sinh huy động
các nguồn thông tin liên quan đến tình huống chọn lọc, hệ thống hóa và sắp xếp các
thông tin phù hợp và sắp xếp các thông tin phù hợp.
- Tìm phương án giải quyết: đưa ra các phương án, trao đổi, thảo luận để tìm
phương án tối ưu. Đây là bước thể hiện tư duy sáng tạo theo nhiều hướng của học
sinh, huy động khả năng làm việc của nhóm.
- Phân tích, đánh giá:
+ Đối chiếu và đánh giá các phương án giải quyết trên cơ sở tiêu chuẩn đánh
giá đã được lập luận.
+ Bảo vệ các quyết định với những luận cứ rõ ràng, trình bày các quan điểm
một cách rõ ràng, phát hiện các điểm yếu trong cách lập luận.
+ Cân nhắc mối quan hệ theo các phương án giải quyết các vấn đề khác nhau.
(4) Dạy học theo dự án
5


Dạy học theo dự án là một phương pháp hay, một hình thức dạy học trong đó
người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp có sự kết hợp giữa lí thuyết và
thực tiễn. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lập cao trong toàn bộ
quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kết hoạch đến việc thực hiện dự án,

kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện.
Qúa trình thực hiện một dự án học tập diễn ra theo các bước cơ bản sau:
- Chọn đề tài và mục đích của dự án: giáo viên và học sinh lựa chọn. Cần tạo ra
một tình huống xuất phát chứa đựng một vấn đề hoặc đặt một nhiệm vụ cần giải
quyết. Cần chú ý đến hứng thú của người học với ý nghĩa xã hội của đề tài. Giáo viên
có thể giới thiệu một số đề tài để học sinh lựa chọn và cụ thể hóa.
- Xây dựng đề cương, kế hoạch thực hiện: Cần xác định những công việc cần
làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và phân công công
việc trong nhóm.
- Thực hiện dự án: Học sinh thực hiện các hoạt động trí tuệ và hoạt động thực
tiễn, thực hành, những hoạt động này xen kẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Kiến thức
lí thuyết, các phương án giải quyết vấn đề được thử nghiệm qua thực tiễn. Trong quá
trình đó, sản phẩm của dự án và thông tin mới được tạo ra.
- Thu thập kết quả và công bố sản phẩm: Kết quả thực hiện dự án có thể được
viết dưới dạng thu hoạch, báo cáo, luận văn… Trong nhiều dự án, các sản phẩm của
dự án có thể là hành động phi vật chất (biểu diễn một vở kịch, tổ chứa một hoạt động
xã hội). Sản phẩm có thể được trình bày giữa các nhóm hoặc giới thiệu trong nhà
trường, ngoài xã hội.
- Đánh giá dự án: giáo viên và học sinh đánh giá quá trình thực hiện và kết quả
cũng như kinh nghiệm đạt được. Từ đó rút ra những kinh nghiệm cho những dự án
tiếp theo.
Một số kĩ thuật dạy học tích cực:
(1) Kĩ thuật chia nhóm
Khi tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm, giáo viên nên sử dụng nhiều
cách chia nhóm khác nhau để gây hứng thú cho học sinh, đồng thời tạo cơ hội cho
các em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác nhau trong lớp. Dưới đây là một số
cách chia nhóm:
*Chia nhóm theo số điểm danh, theo các màu sắc, theo các loài hoa, các mùa trong
năm,...:
- Giáo viên yêu cầu học sinh điểm danh từ 1 đến 4/5/6...(tùy theo số nhóm giáo viên

muốn có là 4,5 hay 6 nhóm,...); hoặc điểm danh theo các màu (xanh, đỏ, tím,
vàng,...); hoặc điểm danh theo các loài hoa (hồng, lan, huệ, cúc,...); hay điểm danh
theo các mùa (xuân, hạ, thu, đông,...)
- Yêu cầu các học sinh có cùng một số điểm danh hoặc cùng một mầu/cùng một loài
hoa/cùng một mùa sẽ vào cùng một nhóm.
*Chia nhóm theo hình ghép
6


- Giáo viên cắt một số bức hình ra thành 3/4/5... mảnh khác nhau, tùy theo số học
sinh muốn có là 3/4/5... Học sinh trong mỗi nhóm. Lưu ý là số bức hình cần tương
ứng với số nhóm mà giáo viên muốn có.
- Học sinh bốc ngẫu nhiên mỗi em một mảnh cắt.
- Học sinh phải tìm các bạn có các mảnh cắt phù hợp để ghép lại thành một tấm hình
hoàn chỉnh.
- Những học sinh có mảnh cắt của cùng một bức hình sẽ tạo thành một nhóm.
*Chia nhóm theo sở thích
Giáo viên có thể chia học sinh thành các nhóm có cùng sở thích để các em có
thể cùng thực hiện một công việc yêu thích hoặc biểu đạt kết quả công việc của nhóm
dưới các hình thức phù hợp với sở trường của các em. Ví dụ: Nhóm Họa sĩ, Nhóm
Nhà thơ, Nhóm Hùng biện,...
*Chia nhóm theo tháng sinh: Các học sinh có cùng tháng sinh sẽ làm thành một
nhóm.
Ngoài ra còn có nhiều cách chia nhóm khác như: nhóm cùng trình độ, nhóm
hỗn hợp, nhóm theo giới tính,...
(2) Kĩ thuật động não
Động não (công não) là một kỹ thuật nhằm huy động những tư tưởng mới mẻ,
độc đáo về một chủ đề của các thành viên trong thảo luận. Các thành viên được cổ vũ
tham gia một cách tích cực, không hạn chế các ý tưởng (nhằm tạo ra “cơn lốc” các ý
tưởng).

Quy tắc của động não
- Không đánh giá và phê phán trong quá trình thu thập ý tưởng của các thành viên;
- Liên hệ với những ý tưởng đã được trình bày;
- Khuyến khích số lượng các ý tưởng;
- Cho phép sự tưởng tượng và liên tưởng.
Các bước tiến hành
- Người điều phối dẫn nhập vào chủ đề và xác định rõ một vấn đề;
- Các thành viên đưa ra những ý kiến của mình: trong khi thu thập ý kiến, không đánh
giá, nhận xét. Mục đích là huy động nhiều ý kiến tiếp nối nhau;
- Kết thúc việc đưa ra ý kiến;
- Đánh giá:
+ Lựa chọn sơ bộ các suy nghĩ, chẳng hạn theo khả năng ứng dụng
++ Có thể ứng dụng trực tiếp;
++ Có thể ứng dụng nhưng cần nghiên cứu thêm;
++ Không có khả năng ứng dụng.
+ Đánh giá những ý kiến đó lựa chọn.
+ Rút ra kết luận hành động.
(3) Kĩ thuật tia chớp
Kỹ thuật tia chớp là một kỹ thuật huy động sự tham gia của các thành viên đối
với một câu hỏi nào đó, hoặc nhằm thu thông tin phản hồi nhằm cải thiện tình trạng
7


giao tiếp và không khí học tập trong lớp học, thông qua việc các thành viên lần lượt
nêu ngắn gọn và nhanh chóng (nhanh như chớp!) ý kiến của mình về câu hỏi hoặc
tình trạng vấn đề.
Quy tắc thực hiện:
- Có thể áp dụng bất cứ thời điểm nào khi các thành viên thấy cần thiết và đề nghị;
- Lần lượt từng người nói suy nghĩ của mình về một câu hỏi đã thoả thuận, ví dụ:
Hiện tại tôi có hứng thú với chủ đề thảo luận không?

- Mỗi người chỉ nói ngắn gọn 1-2 câu ý kiến của mình;
- Chỉ thảo luận khi tất cả đã nói xong ý kiến.
(4) Kĩ thuật “3 lần 3”
Kỹ thuật “3 lần 3“ là một kỹ thuật lấy thông tin phản hồi nhằm huy động sự
tham gia tích cực của học sinh.
Cách làm như sau:
- Học sinh được yêu cầu cho ý kiến phản hồi về một vấn đề nào đó (nội dung buổi
thảo luận, phương pháp tiến hành thảo luận...).
- Mỗi người cần viết ra: - 3 điều tốt; - 3 điều chưa tốt; - 3 đề nghị cải tiến.
- Sau khi thu thập ý kiến thì xử lý và thảo luận về các ý kiến phản hồi.
(5) Lược đồ tư duy
Lược đồ tư duy (còn được gọi là bản đồ khái niệm) là một sơ đồ nhằm trình
bày một cách rõ ràng những ý tưởng mang tính kế hoạch hay kết quả làm việc của cá
nhân hay nhóm về một chủ đề. Lược đồ tư duy có thể được viết trên giấy, trên bản
trong, trên bảng hay thực hiện trên máy tính.
Cách làm
- Viết tên chủ đề ở trung tâm, hay vẽ một hình ảnh phản ánh chủ đề.
- Từ chủ đề trung tâm, vẽ các nhánh chính. Trên mỗi nhánh chính viết một khái niệm,
phản ánh một nội dung lớn của chủ đề, viết bằng CHỮ IN HOA. Nhánh và chữ viết
trên đó được vẽ và viết cùng một màu. Nhánh chính đó được nối với chủ đề trung
tâm. Chỉ sử dụng các thuật ngữ quan trọng để viết trên các nhánh.
- Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc nhánh
chính đó. Các chữ trên nhánh phụ được viết bằng chữ in thường.
- Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.
(6) Kĩ thuật khăn trải bàn
Là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá
nhân và hoạt động nhóm nhằm:
- Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực
- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân học sinh.
- Phát triển mô hình có sự tương tác giữa học sinh với học sinh.

Cách tiến hành
- Hoạt động theo nhóm (4 người / nhóm) (có thể nhiều người hơn)
- Mỗi người ngồi vào vị trí xung quanh tờ giấy A0 có chia các phần tương ứng với số
người, ở giữa là phần để cả nhóm ghi ý kiến chung nhất.
8


- Tập trung vào câu hỏi (hoặc chủ đề,...)
- Viết vào ô mang số của bạn câu trả lời hoặc ý kiến của bạn (về chủ đề...). Mỗi cá
nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút
- Kết thúc thời gian làm việc cá nhân, các thành viên chia sẻ, thảo luận và thống nhất
các câu trả lời
- Viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn trải bàn (giấy A0).
(7) Kĩ thuật “Các mảnh ghép”
Là hình thức học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các
nhóm nhằm:
- Giải quyết một nhiệm vụ phức hợp (có nhiều chủ đề)
- Kích thích sự tham gia tích cực của học sinh:
- Nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác (Không chỉ hoàn thành nhiệm
vụ ở Vòng 1 mà còn phải truyền đạt lại kết quả vòng 1 và hoàn thành nhiệm vụ ở
Vòng 2).
Cách tiến hành kĩ thuật “Các mảnh ghép”
VÒNG 1: Nhóm chuyên gia
- Hoạt động theo nhóm 3 đến 8 người [số nhóm được chia = số chủ đề x n (n = 1,2,
…)]
- Mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ [Ví dụ : nhóm 1 : nhiệm vụ A; nhóm 2: nhiệm
vụ B, nhóm 3: nhiệm vụ C, … (có thể có nhóm cùng nhiệm vụ)]
- Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, suy nghĩ về câu hỏi, chủ đề và
ghi lại những ý kiến của mình
- Khi thảo luận nhóm phải đảm bảo mỗi thành viên trong từng nhóm đều trả lời được

tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao và trở thành “chuyên gia” của lĩnh vực đã
tìm hiểu và có khả năng trình bày lại câu trả lời của nhóm ở vòng 2
VÒNG 2: Nhóm các mảnh ghép
- Hình thành nhóm 3 đến 6 người mới (1 – 2 người từ nhóm 1, 1 – 2 người từ nhóm
2, 1 – 2 người từ nhóm 3…)
- Các câu trả lời và thông tin của vòng 1 được các thành viên trong nhóm mới chia sẻ
đầy đủ với nhau
- Khi mọi thành viên trong nhóm mới đều hiểu được tất cả nội dung ở vòng 1 thì
nhiệm vụ mới sẽ được giao cho các nhóm để giải quyết
- Các nhóm mới thực hiện nhiệm vụ, trình bày và chia sẻ kết quả.
7.1.3. Một số năng lực cần phát triển cho học sinh
Năng lực là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ và
vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lí vào thực hiện thành công nhiệm vụ hoặc
giải quyết hiệu quả vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
Để hình thành và phát triển năng lực cần xác định các thành phần và cấu trúc
chung. Chúng có nhiều loại năng lực khác nhau. Việc mô tả cấu trúc và các thành
phần năng lực cũng khác nhau.
9


Cách tiếp cận thứ nhất: Cấu trúc chung của năng lực hành động được mô tả là sự kết
hợp của 4 năng lực thành phần: năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp, năng
lực xã hội, năng lực cá thể. Mô hình bốn thành phần năng lực trên phù hợp với bốn
trụ cột giáo dục theo UNESCO là học để biết, học để làm, học để cùng chung sống,
học để tự khẳng định.
Cách tiếp cận thứ hai: Năng lực bao gồm năng lực chung và năng lực chuyên
môn. Năng lực chung bao gồm năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp
tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Năng lực chuyên môn cần hình thành cho
học sinh là năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã
hội, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất.

Những năng lực được nêu ở cách tiếp cận thứ hai cũng là những năng lực được
xác định trong mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông mới được thông qua
ngày 27/7/2017. Khi tổ chức hoạt động dạy học bài Chữ người tử tù, người viết cũng
hướng vào các năng lực này để hình thành cho học sinh.
7.1.4. Biện pháp để giải quyết vấn đề
7.1.4.1. Xác định phương pháp và các kiến thức chung về tác phẩm
Trên cơ sở khảo sát thực trạng trên, người viết đề xuất biện pháp giải quyết vấn
đề bằng việc áp dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học theo định hướng phát triển
năng lực học sinh vào việc soạn giảng và tổ chức hoạt động học tại lớp cho học sinh.
Để tổ chức tốt một giờ dạy theo định hướng nói trên, trước hết giáo viên cần xác định
người học đóng vai trò trung tâm, định hướng những năng lực mà học sinh cần phát
huy. Sau đó, hình dung các nhiệm vụ mà học sinh có thể thực hiện, phân công công
việc cụ thể cho các nhóm và cá nhân. Cuối cùng là kiểm tra, đánh giá kết quả.
Văn xuôi lãng mạn ra đời vào những năm 30 của thế kỉ XX, mang đặc trưng
của chủ nghĩa lãng mạn phương Tây đầu thế kỉ XIX. Văn xuôi lãng mạn là tiếng nói
của giai cấp tư sản khẳng định cái tôi cá nhân trong cái nghĩa tuyệt đối của nó. Ở đó,
con người là trung tâm của vũ trụ, con người được đề cao là con người thế tục với
những số phận cá nhân và quan hệ riêng tư. Trong hoàn cảnh bất hòa nhưng bất lực
trước thực tại, các nhà thơ luôn tìm đến các đề tài tình yêu, thiên nhiên, quá khứ để
vượt lên cuộc sống hiện tại chật chội, tù túng, dung tục, tầm thường. Thủ pháp nghệ
thuật nổi bật được sử dụng là tương phản, đối lập, cách xây dựng kiểu nhân vật
hướng nội, phi thường với những ước mơ và khát vọng cao đẹp. Nghệ thuật trần thuật
đa dạng, linh hoạt. Ngôn ngữ tinh tế, gợi cảm giàu chất thơ, giàu hình ảnh.
Chữ người tử tù là một truyện ngắn xuất sắc nhất trong tập truyện Vang bóng
một thời của Nguyễn Tuân. Những nhân vật chính diện trong tập truyện này thường
là những con người tài hoa bất đắc chí, tuy bất lực nhưng bất hòa sâu sắc với xã hội
Việt Nam đương thời. Trong thế giới của những con người tài hoa, tài tử ấy nổi bật
lên hình tượng nhân vật Huấn Cao (có nguyên mẫu ngoài đời là Cao Bá Quát- người
đã khởi nghĩa Mĩ Lương chống lại triều đình nhà Nguyễn để đem lại cuộc sống bình
yên cho nhân dân), một người vừa có tài, vừa có tâm, vừa có khí phách.

10


Khi hướng dẫn tìm hiểu truyện ngắn Chữ người tử tù, giáo viên cần chú trọng
hướng học sinh vào hình tượng nhân vật Huấn Cao, nhân vật viên quản ngục và cảnh
cho chữ. Qua đó làm sáng tỏ quan niệm nghệ thuật tiến bộ của Nguyễn Tuân. Mặt
khác, cũng cần chú ý đến đặc điểm và sức mạnh của bút pháp lãng mạn.
7.1.4.2. Các bước tiến hành
Quy trình tổ chức dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh đòi hỏi
phải có sự đầu tư công phu của cả người dạy và người học. Trong đó giáo viên vừa
như người biên kịch, vừa lên kế hoạch xây dựng kịch bản, vừa là đạo diễn. Học sinh
chính là các diễn viên, là kĩ thuật âm thanh, ánh sáng, đạo cụ, hóa trang…Có điều vai
trò của đạo diễn là phải biết “phân vai”, phải nắm bắt được năng lực của từng người
để giao việc cho phù hợp. Quy trình dạy học theo hướng phát triển năng lực trên lớp
được tôi triển khai theo quy trình sau:
7.1.4.2.1. Chuẩn bị giáo án dạy học trên lớp
Tiết 40 (Đọc văn): CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
(Nguyễn Tuân)
Hoạt động của giáo viên
Nội dung cần đạt
và học sinh
I. Khởi động
- Giáo viên cho học sinh
xem video nghệ sĩ Quốc
Anh ngâm bài thơ Ông đồ
của Vũ Đình Liên.
- Giáo viên đặt câu hỏi:
- Học sinh trả lời được:
+ Em có nhận ra bài thơ này + Đó là bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên.
không? Đó là bài thơ nào, + Bài thơ khắc họa hình ảnh ông đồ đã bị xã hội bỏ

của ai?
quên và dần vắng bóng với niềm ngậm ngùi, day dứt
+ Bài thơ đó nói về điều gì? của tác giả Vũ Đình Liên về cảnh cũ, người xưa.
- Giáo viên dẫn vào bài mới:
Từ đầu thế kỉ XX, Tây học
du nhập vào Việt Nam, nền
văn hóa Hán học ngày càng
suy vi, những thú vui tao
nhã, những nét đẹp văn hóa - Học sinh nhận diện được nội dung trọng tâm của bài
dần bị mai một. Cùng với học.
Vũ Đình Liên và nhiều nhà
văn khác, Nguyễn Tuân tiếc
nuối về những vẻ đẹp của
một thời đã qua nay chỉ còn
vang bóng. Chữ người tử tù
là một tác phẩm tiêu biểu
viết về vẻ đẹp của nghệ
11


thuật thư pháp.
II. Hình thành kiến thức
mới
Sử dụng phương pháp
đóng vai
Thực hiện một cuộc trao đổi
giữa phóng viên và tác giả
trong chương trình Nhà văn
và độc giả.
Trước khi thực hiện, giáo

viên viết các yêu cầu lên
bảng, yêu cầu HS hoàn thiện
các nội dung đó trong khi
theo dõi cuộc đối thoại. Một
HS khác lên hoàn thiện trên
bảng.
Nội dung yêu cầu:
Bút danh
Quê
Gia đình
Các giai đoạn sáng tác
Thành công
Phong cách
Tác phẩm chính
Sau khi hoàn thiện, giáo
viên chốt kiến thức.

I. Tiểu dẫn
1. Tác giả (1910 – 1987)
- Nhiều bút danh: Thanh Hà, Ngô Nhất Lang, Ngột
Lôi Quật, Ân Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa Sắc.
- Quê: Hà Nội.
- Gia đình: nhà nho khi Hán học đã suy tàn.
- Giai đoạn sáng tác:
+ Trước Cách mạng tháng Tám: nhà văn lãng mạn.
+ Sau Cách mạng tháng Tám: nhà văn cách mạng.
- Quan điểm sáng tác: Nguyễn Tuân là người suốt đời
đi tìm và khám phá cái đẹp.
- Thành công:
+ Thể loại: Truyện ngắn

Tùy bút, bút ký- ông vua của thể tùy bút.
+ Ngôn ngữ: làm giàu vốn ngôn ngữ dân tộc –
người thợ kim hoàn của chữ.
- Phong cách tài hoa, độc đáo.
- Những tác phẩm chính: SGK Tr. 107
2. Văn bản
- Vị trí: Rút trong tập Vang bóng một thời (1940)- tác
phẩm kết tinh tài năng của Nguyễn Tuân, là một văn
phẩm đạt tới sự toàn thiện, toàn mĩ (Vũ Ngọc Phan).
- Tên ban đầu: Dòng chữ cuối cùng, in 1938 trên tạp
chí Tao đàn.
=> Tác phẩm xuất sắc nhất trong Vang bóng một thời.

Giới thiệu về Vang bóng
một thời
- Gồm 11 truyện ngắn viết
về một thời đã xa nay chỉ
còn vang bóng.
- Nhân vật chính: Phần lớn
là nho sĩ cuối mùa - những
con người tài hoa, bất đắc
chí, dùng cái tôi tài hoa
ngông nghênh và thiên
lương để đối lập với xã hội II. Đọc- hiểu
phàm tục.
1. Tình huống truyện:
- Cuộc gặp gỡ khác thường:
Trong tác phẩm, Nguyễn
+ Ở chốn ngục tù.
Tuân đã xây dựng được tình

+ Chỉ còn ít ngày nữa là Huấn Cao ra pháp trường
huống nào? Tình huống đó chịu án tử hình.
12


có gì đặc biệt (thời gian, - Của hai con người khác thường
không gian và đặc điểm của + Viên quản ngục đại diện cho triều đình phong kiến
con người)?
Yêu cái đẹp
+ Huấn Cao
tử tù- chống lại triều đình phong kiến.
? Em thường nhìn thấy các
có tài viết chữ đẹp.
kiểu viết chữ nho ở đâu? Có => Hai con người
2 vị thế đối lập nhau- kẻ thù.
hình dáng như thế nào?
đều yêu cái đẹp- tri âm, tri kỉ.
“Chữ” ở đây là chữ Hán – => Tình huống độc đáo, kịch tính góp phần thể hiện
thứ chữ khối vuông, được tính cách nhân vật và nét phong cách của nhà văn.
viết bằng bút lông, vừa có
tính chất tạo hình vừa ít
nhiều mang dấu ấn cá tính,
nhân cách người viết.
Người viết chữ đẹp được coi
là nghệ sĩ và viết chữ được
xem là một hành vi sáng tạo
nghệ thuật, một hoạt động
sản sinh cái đẹp. Bộ môn
nghệ thuật ấy được gọi là
thư pháp.

=> Thú chơi đài các, thanh
tao, lịch sự của những người
có văn hoá và khiếu thẩm
mĩ, thường diễn ra ở thư
phòng sang trọng.
Giáo viên trình chiếu hình
ảnh về thư pháp để giúp học
sinh cảm nhận rõ hơn.
2. Hình tượng nhân vật Huấn Cao
? Qua phần đọc văn bản, a. Vẻ đẹp tài hoa
đọc Tiểu dẫn, em nhận thấy - Người khắp vùng tỉnh Sơn khen Huấn Cao là người
nhân vật Huấn Cao mang có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp- nghệ sĩ trong
những vẻ đẹp nào?
nghệ thuật thư pháp.
Giáo viên định hướng theo - Chữ ông Huấn Cao
đẹp lắm, vuông lắm.
ba khía cạnh.
Nói lên cái hoài bão tung
hoành của một đời con người.
Giáo viên chia lớp thành 6 => Đẹp cả ở hình thức và nội dung của con chữ.
nhóm. Các nhóm thảo - Thái độ của thầy thơ lại và viên quản ngục (vị thế
luận theo nội dung:
XH- kẻ thù) trước cái tài của Huấn Cao:
- Huấn Cao có tài nào?
+ Thán phục: Thế ra y văn võ ... chà, chà!
- Tài đó được giới thiệu như
+ Tiếc: giả thử tôi là đao phủ....tiêng tiếc => đánh
thế nào?
thức lương tri của những người vốn làm nghề tàn
- Tìm những chi tiết trong nhẫn.

tác phẩm nói về thái độ của
+ Kiêng nể: trái với phong tục...lòng kiêng nể ...quá
thầy thơ lại và viên quản rồi => Khi Huấn Cao xuất hiện, trật tự nhà tù phong
13


ngục trước cái tài của Huấn kiến đã bị đảo lộn.
Cao.
+ Ao ước: có được chữ ông Huấn mà treo là có
một báu vật trên đời.
- Em nhận xét gì về tài năng => Tài năng của Huấn Cao hết sức khác thường, mang
của Huấn Cao? Qua đây em tính lí tưởng.
hiểu gì về quan niệm và tư - Quan niệm và tư tưởng nghệ thuật:
tưởng nghệ thuật của
+ Ngưỡng vọng người tài, tìm đến cái đẹp tuyệt vời.
Nguyễn Tuân?
+ Trân trọng nghệ thuật thư pháp cổ truyền của dân
tộc.
Đại diện một nhóm trình
bày.
Các nhóm khác bổ sung,
phản biện hoàn thiện sản
phẩm.
Giáo viên đánh giá và chốt
ý.
Tiết 41 (Đọc văn): CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
(Nguyễn Tuân)
Hoạt động của giáo viên và học
Nội dung cần đạt
sinh

II. Hình thành kiến thức mới
b. Vẻ đẹp khí phách
- Là thủ lĩnh của phong trào khởi nghĩa
Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm. chống lại triều đình để tạo dựng một cuộc
Các nhóm thảo luận theo nội dung: sống tốt đẹp hơn cho nhân dân.
Tìm những chi tiết trong tác phẩm - Ngay khi đặt chân vào nhà ngục
và phân tích để chứng minh vẻ đẹp
+ Trước câu nói của tên lính áp giải: không
khí phách của Huấn Cao?
thèm để ý.
Gợi ý:
+ Thản nhiên rũ rệp trên thang gông: Huấn
- Vì sao ông phải chịu án tử hình?
Cao lạnh lùng … nâu đen.
- Thái độ của ông khi đặt chân vào => Đó là khí phách, tiết tháo của nhà Nho uy
nhà ngục?
vũ bất năng khuất (không chịu khuất phục
- Cách cư xử đối với quản ngục?
trước quyền lực).
Đại diện một nhóm trình bày.
Các nhóm khác bổ sung, phản biện - Khi được viên quản ngục biệt đãi: Thản
nhiên nhận rượu thịt như việc vẫn làm trong
hoàn thiện sản phẩm.
cái hứng bình sinh => phong thái tự do, ung
dung, xem nhẹ cái chết.
- Trả lời quản ngục bằng thái độ khinh miệt
đến điều Ngươi hỏi ta muốn gì ...vào đây =>
Không quy luỵ trước cường quyền đến cái
14



Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm.
Các nhóm thảo luận theo nội dung:
Tìm những chi tiết trong tác phẩm
chứng tỏ vẻ đẹp thiên lương của
Huấn Cao?
(Sử dụng phiếu học tập)
Gợi ý:
? Là người có tài viết chữ đẹp
nhưng Huấn Cao chỉ mới cho chữ
cho những ai? Vì sao như vậy?
? Tại sao Huấn Cao lại nhận lời cho
chữ quản ngục? Điều đó nói lên vẻ
đẹp nào trong con người ông?
? Nêu cảm nhận về câu nói của
Huấn Cao với quản ngục Thiếu chút
nữa ta đã phụ mất một tấm long
trong thiên hạ?
? Trong cảnh cho chữ, việc Huấn
Cao cảm nhận được mùi thơm của
thoi mực cho em hiểu gì về con
người nhân vật?

? Huấn Cao đã khuyên viên quản
ngục điều gì? Em cảm nhận được
điều gì về quan điểm của nhân vật
Huấn Cao?

chết ta còn không sợ nữa là những trò tiểu
nhân thị oai.

=> Đó là khí phách của một người anh hùng.
c. Vẻ đẹp thiên lương
* Việc cho chữ:
- Không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép
mình viết câu đối bao giờ.
- Chỉ mới cho chữ ba người bạn thân.
=> Trọng nghĩa, khinh lợi, chỉ cho chữ
những người tri kỉ.
* Cách ứng xử với viên quản ngục
- Khi chưa biết tấm lòng của quản ngục: xem
y là kẻ tiểu nhân => đối xử coi thường, cao
ngạo.
- Khi biết tấm lòng biệt nhỡn liên tài và hiểu
ra Sở thích cao quý của quản ngục, Huấn Cao
nhận lời cho chữ => Chỉ cho chữ những
người biết trân trọng cái tài và quý cái đẹp.
- Lời trách mình của Huấn Cao: Thiếu chút
nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên
hạ => Sự trân trọng đối với những người có
sở thích thanh cao, có nhân cách cao đẹp.
* Trong cảnh cho chữ
- Vào cái giây phút mà cái chết đang đón đợi,
Huấn Cao vẫn cảm nhận được mùi thơm của
thoi mực, của tâm hồn con người.
- Ông luôn hướng về người đang sống để
cảm hóa và giáo dục. Ông khuyên viên quản
ngục:
+ Thay đổi chỗ ở để giữ thiên lương cho
lành vững => cái đẹp, cái xấu không thể cùng
tồn tại.

+ Thay đổi nghề nghiệp rồi hãy nghĩ đến
chuyện chơi chữ => yêu cái đẹp thì không
thể làm điều xấu, điều ác.
=> Huấn Cao là một anh hùng - nghệ sĩ, một
thiên lương trong sáng.
15


? Em hãy rút ra quan điểm thẩm mĩ - Quan điểm của Nguyễn Tuân: Cái tài phải
của Nguyễn Tuân?
đi đôi với cái tâm, cái đẹp và cái thiện không
thể tách rời nhau.
=> Quan niệm thẩm mỹ tiến bộ.
3. Nhân vật viên quản ngục
a. Nghề nghiệp và hoàn cảnh sống
Học sinh làm việc theo cặp:
- Sống chốn ngục tù, nơi người ta sống bằng
? Tại sao tác giả lại đặt tên nhân vật tàn nhẫn, bằng lừa lọc => có thể làm người
là viên quản ngục?
ta nhem nhuốc cả đời lương thiện.
? Môi trường sống của ông ở nơi - Là người đứng đầu ngục tù- công cụ để
thực thi tội ác cho triều đình phong kiến.
như thế nào?
=> Bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô
bồ.
Tiết 42 (Đọc văn): CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
(Nguyễn Tuân)
Hoạt động của giáo viên và học
Nội dung cần đạt
sinh

II. Hình thành kiến thức mới
b. Vẻ đẹp tâm hồn
Sử dụng phương pháp thảo luận * Tấm lòng biệt nhỡn liên tài- yêu quý cái
nhóm, kĩ thuật mảnh ghép
đẹp, trân trọng người tài.
Giáo viên chia lớp làm 4 nhóm
- Hướng về cái đẹp ở ngoài đời để biết được
Giáo viên giao cho mỗi nhóm một Huấn Cao là người viết chữ đẹp nổi tiếng.
bộ câu hỏi, mỗi câu hỏi được ghi - Có sở nguyện cao quý một ngày kia được treo
vào một mảnh ghép với các hình ở nhà riêng mình một đôi câu đối do ông Huấn
thù khác nhau được cắt ra từ một Cao viết.
mảnh bìa hoặc từ một dạng hình - Tiêu chí nhìn người (thầy thơ lại): yêu tài hoa,
nào đó.
trân trọng cái đẹp, kính mến khí phách, biết
Mỗi học sinh nhận một mảnh ghép tiếc, biết trọng người có tài.
và thực hiện nhiệm vụ ghi trong - Thái độ, tâm trạng của viên quản ngục:
đó.
+ Đăm chiêu nghĩ ngợi thao thức giữa đêm
Cả nhóm ghép các mảnh ghép tạo khuya, kín đáo nghĩ về một ngôi sao chính vị
thành một hình phù hợp và hiệu muốn từ biệt vũ trụ=> ngậm ngùi nuối tiếc.
chỉnh câu trả lời của cả nhóm mình
+ Nhìn Huấn Cao bằng ánh mắt “kiêng nể”
khiến lính và ngay tử tù cũng ngạc nhiên.
Đại diện một nhóm trình bày.
+ Chân thành, cung kính khi biệt đãi Huấn
Các nhóm khác bổ sung, phản biện
Cao để xin chữ và để cho ông Huấn đỡ cực
hoàn thiện sản phẩm.
(mến khí phách).
16



Giáo viên đánh giá kết quả làm
+ Nhún nhường “xin lĩnh ý” khi bị Huấn
việc của các nhóm theo thứ tự và Cao đuổi khỏi phòng giam.
chốt ý.
+ Lo khi Huấn Cao bị hành hình mà không
xin được chữ thì ân hận suốt đời.
Học sinh làm việc cá nhân:
* Là người có bản lĩnh, không sợ cường
? Để xin được chữ, viên quản ngục quyền
+ Dám chơi chữ của một kẻ đại nghịch.
đã làm những việc gì vượt qua
+ Dám đảo lộn trật tự lao tù để biệt nhỡn,
quyền hạn, chức trách của mình?
biệt đãi Huấn Cao, tôn trọng cái tài cái đẹp.
+ Dám xin chữ tử tù ngay trong nhà ngục.
Học sinh làm việc cặp đôi:
* Là người có thiên lương
- Trước khi làm việc tại nhà tù,
+ Biết đọc vỡ sách thánh hiền, là người
viên quản ngục là người như thế lương thiện, tử tế.
nào?
+ Có tính cách dịu dàng, lòng biết giá người.
- Sống trong hoàn cảnh đề lao,
+ Khúm núm trước Huấn Cao - kính cẩn,
viên quản ngục có giữ được vẻ đẹp nghiêng mình trước cái đẹp.
nào?
+ Vái lạy Huấn Cao, nước mắt nghẹn ngào,
- Tại sao trong cảnh cho chữ viên

quản ngục lại khúm núm trước tử kẻ mê muội này xin bái lĩnh => sự thức tỉnh,
biết phục thiện.
tù Huấn Cao?
=> Quản ngục là một thanh âm trong trẻo chen
- Thái độ của viên quản ngục trước
giữa một bản đàn mà nhạc luật của nó đều hỗn
lời khuyên của Huấn Cao?
loạn, xô bồ.
- Em có hi vọng, tin tưởng điều gì
qua câu nói của viên quản ngục kẻ
mê muội này xin bái lĩnh?
=> Quan điểm sáng tác: nhìn nhận con người ở
Liên hệ với cái cúi đầu trước cái
phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
đẹp của Cao Bá Quát: Nhất sinh đê
thủ bái mai hoa (Cả đời chỉ biết
cúi đầu trước hoa mai)
Giáo viên bình: Viên quản ngục là
người sống hai vai, hai cuộc đời.
Tất cả những đe nẹt, mánh khóe
chỉ là tấm bình phong để giữ mình
cho an toàn. Đến khi chỉ có một
mình, ông lại trở về với vẻ đẹp của
con người thực.
4. Cảnh cho chữ
Cho học sinh xem video cảnh cho
a. Là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có
chữ để học sinh thấy được đặc
- Không gian:
17



điểm của cảnh cho chữ thông
thường.
Sử dụng kĩ thuật mảnh ghép.
Giáo viên chia lớp làm 4 nhóm,
giao cho mỗi nhóm một bộ câu
hỏi.
Mỗi học sinh trả lời một câu hỏi.
Nếu thừa học sinh thì ghép vào trả
lời cùng câu hỏi của một bạn trong
nhóm.
Cả nhóm ghép các câu trả lời vào
một phiếu chung.
Vẽ vòng tròn giữa giấy A0, ghi
Cảnh cho chữ- một cảnh tượng
xưa nay chưa từng có. Kẻ từ vòng
tròn 6 ô ứng với các câu hỏi.
- Thời gian
- Không gian
- Tư thế của người cho chữ.
- Tư thế của người xin chữ.
- Lời nói của người cho chữ
- Lời nói của người xin chữ.
Các đặc điểm trên trong cảnh cho
chữ của Huấn Cao có gì khác với
cảnh cho chữ thông thường?
Đại diện một nhóm trình bày.
Các nhóm khác bổ sung, phản biện
hoàn thiện sản phẩm.

Giáo viên đánh giá và chốt ý.
Giáo viên bình: Trong cảnh cho
chữ thông thường, người xin được
chữ thì hả hê, sung sướng nhưng ở
đây người xin được chữ lại nghẹn
ngào xúc động. Đó là sự xúc động
trước tài năng, tấm lòng và khí
phách của Huấn Cao.

+ Buồng giam chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy
mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián.
+ Bó đuốc sáng rực, mùi thơm của lụa, của
mực.
- Thời gian: Gần về sáng- đêm trước ngày
Huấn Cao ra pháp trường để chịu án tử hình.
- Người cho chữ và xin chữ:
+ Tư thế:
Người cho chữ: Tử tù cổ đeo gông, chân
vướng xiềng, mất quyền tự do >< uy nghi lồng
lộng.
Người xin chữ: Tự do, có quyền hành ><
Khúm núm
+ Lời nói:
Huấn Cao: Tử tù- bị giáo dục>< khuyên
viên quản ngục thay đổi chỗ ở và nghề nghiệp
để giữ thiên lương.
Viên quản ngục- người giáo dục tù
nhân>< Nghẹn ngào, xúc động, bái lĩnh tử tù.
=> Sự đảo lộn ghê gớm trong vị thế của các
nhân vật.


b. Ý nghĩa tư tưởng
- Khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, tài
năng và nhân cách.
- Quan điểm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân
+ Cái đẹp phải gắn liền với cái thiện.
18


Qua Huấn Cao thể hiện sự trân
trọng những giá trị văn hóa cổ
truyền; sự ngưỡng vọng với người
anh hùng của đất nước. Cần xem
Chữ người tử tù là một áng văn
yêu nước.

? Nội dung cơ bản của tác phẩm?

? Những đặc sắc nghệ thuật của
truyện?

III. Luyện tập
Câu 1: Trong Đọc Tiểu Thanh kí
của Nguyễn Du có đề cập đến hai
nhân vật là Tiểu Thanh và chính
tác giả? Em có thể so sánh hai
nhân vật này với nhân vật Huấn
Cao trong Chữ người tử tù?

Câu 2: Cái vái lạy Huấn Cao của

viên quản ngục khiến ta liên tưởng
tới cái thẹn của Phạm Ngũ Lão
trong Tỏ lòng. Em có thể nhận xét
gì về chi tiết, hình ảnh này?

Câu 3: So sánh cảnh cho chữ (Chữ
người tử tù- Nguyễn Tuân) với
cảnh đợi tàu (Hai đứa trẻ- Thạch
Lam).

+ Cái đẹp có sức mạnh cảm hóa.
+ Cái đẹp là bất tử.
- Lòng yêu nước thầm kín mà không kém phần
sâu sắc.
III. TỔNG KẾT
1. Nội dung
- Ca ngợi con người tài hoa, kiêu bạc.
- Thể hiện quan niệm: CÁI ĐẸP luôn bất diệt
và trân trọng truyền thống văn hoá của dân tộc.
4. Đặc sắc về nghệ thuật
- Tạo tình huống truyện độc đáo, đặc sắc.
- Nghệ thuật dựng cảnh, khắc họa tính cách
nhân vật, tạo không khí cổ kính.
- Sử dụng thành công thủ pháp đối lập tương
phản.
- Ngôn ngữ góc cạnh, giàu hình ảnh, có tính tạo
hình, vừa cổ kính vừa hiện đại.
Gợi ý câu trả lời
Câu 1:
Giống: Tiểu Thanh, Nguyễn Du đều là người

có tài.
Khác: Tiểu Thanh và Nguyễn Du không được
trân trọng ở xã hội đương thời. Huấn Cao
không chỉ được người đời mà còn ngay cả kẻ
thù của mình cũng trân trọng.
Câu 2:
- Giống: đều thể hiện sự trân trọng, ngưỡng mộ
trước những người tài, người có nhân cách.
- Khác:
+ Phạm Ngũ Lão giống với Gia Cát Lượng ở
tinh thần trách nhiệm cao đối với đất nước
(cùng phía).
+ Viên quản ngục lại trân trọng người đã từng
là kẻ thù của mình.
Câu 3:
- Giống:
19


+ Xuất hiện ở cuối truyện, vào lúc đêm
khuya, không gian hẹp, thể hiện tư tưởng nhà
văn.
+ Sử dụng bút pháp nghệ thuật tương phản
đối lập gay gắt giữa ánh sáng và bóng tối.
- Khác:
+ Cảnh đợi tàu của chị em Liên diễn ra như
một hoạt động thường nhật, một điệp khúc.
+ Cảnh cho chữ của Huấn Cao chỉ diễn ra
một lần vào đêm cuối cùng trước khi Huấn Cao
vào kinh lĩnh án tử hình.

IV. Vận dụng, mở rộng
Câu 1: Theo em, người tài có vai
trò gì với đất nước? Nhà nước ta
đã có những chính sách nào để
trọng dụng người tài? Làm thế nào
để có được cái tài và để cái tài
được tỏa sáng?
Câu 2: Em quan niệm như thế nào
về cái đẹp? Em học được gì qua
nhân vật viên quản ngục?

Câu 1: Học sinh chia sẻ tự do
Câu 2:
- Học sinh chia sẻ quan điểm riêng của mình
- Bài học:
Dù rơi vào hoàn cảnh éo le nhưng luôn phải giữ
mình trong sáng.
Dù có lầm đường lạc lối, có sai lầm nhưng phải
biết nhận ra và sửa chữa.
Câu 3: Nêu được thực trạng những giá trị văn
hóa truyền thống đang dần bị mai một.
Câu 3: Cuộc sống hiện đại ngày - Cần trân trọng hơn những vẻ đẹp truyền thống
nay, những giá trị văn hóa truyền của dân tộc.
thống có còn được xem trọng? Suy - Đưa ra được một số giải pháp cụ thể để góp
nghĩ về trách nhiệm của tuổi trẻ phần lưu giữ những giá trị văn hóa truyền
trong việc giữ gìn giữ gìn và phát thống của dân tộc (tuyên truyền, tổ chức những
huy những giá trị truyền thống ấy? hoạt động nhằm lưu giữ những giá trị văn hóa).
7.1.4.2.2. Tổ chức dạy theo định hướng phát triển năng lực trên lớp
7.1.4.2.2.1. Xác định mục tiêu
Ở bài học này, mục tiêu trọng tâm là học sinh cần cảm nhận được vẻ đẹp của

hình tượng nhân vật Huấn Cao. Bên cạnh đó, cần hiểu được đặc điểm của nhân vật
viên quản ngục và cảnh cho chữ- một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Tất cả đều
làm sáng tỏ quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Cùng với đó, học sinh cần hiểu
và phân tích được nghệ thuật của thiên truyện như tình huống truyện độc đáo, nghệ
thuật tạo không khí cổ xưa, thủ pháp đối lập, ngôn ngữ góc cạnh giàu giá trị tạo hình.
Qua bài học, giáo viên còn giúp học sinh phát triển được những năng lực chung và
năng lực chuyên biệt của môn ngữ văn.
20


7.1.4.2.2.2. Giao nhiệm vụ
Trong quá trình thực hiện dạy học truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn
Tuân, giáo viên cần phân lớp ra thành các cặp, các nhóm và giao việc cho từng cặp,
nhóm chuẩn bị. Khi giao việc cho học sinh điều quan trọng nhất là giáo viên phải mô
tả cụ thể về sản phẩm đầu ra, thời gian trình bày trước lớp tránh tình trạng người dạy
không kiểm soát được phần trình bày của học sinh sẽ cháy giáo án. Nên giao cho các
nhóm cùng một nhiệm vụ cụ thể để học sinh đều được tìm hiểu và hoàn thiện được
nội dung theo yêu cầu. Khi sử dụng kĩ thuật mảnh ghép, giáo viên cần chú ý lựa chọn
nhóm câu hỏi có tính tương đương để mỗi học sinh có thể thực hiện nhiệm vụ của
mình trong cùng một khoảng thời gian.
Hoạt động khởi động:
- Giáo viên cho học sinh xem video nghệ sĩ Quốc Anh ngâm bài thơ Ông đồ của Vũ
Đình Liên.
- Giáo viên đặt câu hỏi:
+ Em có nhận ra bài thơ này không? Đó là bài thơ nào, của ai?
+ Bài thơ đó nói về điều gì?
- Giáo viên sử dụng phương pháp nêu câu hỏi, giúp học sinh nhớ lại bài thơ Ông đồ
của Vũ Đình Liên với hình ảnh ông đồ đã bị xã hội bỏ quên và dần vắng bóng cùng
niềm ngậm ngùi, day dứt của tác giả Vũ Đình Liên về cảnh cũ, người xưa. Đó cũng là
thực trạng của xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX, Tây học được du nhập, nền văn hóa

Hán học ngày càng suy vi, những thú vui tao nhã, những nét đẹp văn hóa dần bị mai
một. Cùng với Vũ Đình Liên và nhiều nhà văn khác, Nguyễn Tuân tiếc nuối về những
vẻ đẹp của một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng. Chữ người tử tù là một tác phẩm
tiêu biểu viết về vẻ đẹp của nghệ thuật thư pháp.
Hoạt động hình thành kiến thức mới:
*Hoạt động 1: Tìm hiểu những nét chính về tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Chữ
người tử tù
- Giáo viên sử dụng phương pháp đóng vai. Thực hiện một cuộc trao đổi giữa phóng
viên và tác giả trong chương trình Nhà văn và độc giả. Một học sinh đóng vai biên
tập viên (người dẫn chương trình), một học sinh đóng vai nhà văn Nguyễn Tuân. Các
học sinh khác đóng vai khán giả cùng trao đổi với nhà văn Nguyễn Tuân về cuộc đời,
sự nghiệp văn chương và tác phẩm Chữ người tử tù. Trước khi thực hiện, giáo viên
viết các yêu cầu lên bảng, yêu cầu học sinh hoàn thiện các nội dung đó trong khi theo
dõi cuộc đối thoại. Một học sinh khác lên hoàn thiện trên bảng.
Nội dung yêu cầu: Bút danh, quê, gia đình, các giai đoạn sáng tác, thành công, phong
cách, tác phẩm chính.
- Kết thúc chương trình, học sinh nhận xét về phần diễn xuất và nội dung kiến thức
yêu cầu. Giáo viên chốt kiến thức.
- Với hoạt động này, giáo viên hình thành cho các em năng lực tự học, hợp tác, giao
tiếp, sáng tạo.
21


KỊCH BẢN CHƯƠNG TRÌNH NHÀ VĂN VÀ ĐỘC GIẢ
Biên tập viên Xin chào mừng các quý vị đến với chương trình Nhà văn và độc
giả. Xin chào nhà văn Nguyễn Tuân. Cảm ơn ông đã đến tham dự
chương trình.
Nguyễn Tuân Xin chào anh, chào tất cả khán giả đang theo dõi chương trình.
Biên tập viên Thưa ông, ông được sinh trưởng trong một gia đình nhà nho khi
Hán học suy tàn ở làng Mọc, Thanh Xuân, Hà Nội và nay tên của

ông được đặt cho một con đường ở chính quận này.
Nguyễn Tuân Vâng, đó là nơi hội tụ tên tuổi của cả những nhà văn khác như
Nguyễn Trãi, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Tưởng.
Biên tập viên Phía dưới khán giả có câu hỏi nào dành cho nhà văn?
Khán giả 1
Xin chào nhà văn Nguyễn Tuân. Thưa ông, theo dõi các sáng tác
của ông, tôi thấy ông có sử dụng nhiều bút danh. Ông có thể lí giải
về các bút danh này không ạ?
Nguyễn Tuân Trong cuộc đời cầm bút, tôi có sử dụng một số bút danh:
+ Thanh Hà (Thanh Hoá- Hà Nội) nơi khởi nghiệp sự nghiệp văn
chương của tôi.
+ Ngột Lôi Quật: Ngột ngạt quá muốn làm Thiên lôi quật phá
lung tung
+ Ân Ngũ Tuyên: Nguyễn Tuân
+ Nhất Lang: Chàng trai số 1
+ Tuấn Thừa Sắc: Tuân.
Khán giả 1
Qua cách lí giải về tên các bút danh, tôi nhận ra ông là người:
- Rất trân trọng văn chương.
- Có cá tính.
- Yêu nước nhưng bất hòa trước hiện thực cuộc sống
Xin cảm ơn ông!
Biên tập viên Có khán giả nào có câu hỏi thêm không ạ?
Khán giả 2
Xin nhà văn chia sẻ về quan điểm sáng tác văn chương của mình?
Nguyễn Tuân Đối với tôi, sáng tác văn chương là quá trình đi tìm và khám phá cái
đẹp.
Tôi luôn quan sát, khám phá, diễn tả sự vật và con người trên
phương diện thẩm mĩ. Và tôi luôn tìm kiếm những cái độc đáo, đặc
biệt, nếu là cái đẹp thì phải là cái đẹp tuyệt vời, nếu là cái dữ dội

phải là cực kì dữ dội.
Biên tập viên - Như vậy, có thể nói ông là người đem đến cho nền văn xuôi hiện
đại một phong cách tài hoa và độc đáo.
- Thưa nhà văn, sự nghiệp văn học của ông chia làm hai thời kì,
trước và sau cách mạng tháng Tám. Ông có thể giới thiệu cho khán
giả về một số tác phẩm mà ông tâm đắc nhất?
Nguyễn Tuân Các bạn có thể tìm đọc các tác phẩm trước cách mạng: Một chuyến
đi (1938), Vang bóng một thời (1940), Thiếu quê hương (1940)…
Sau cách mạng: Tùy bút Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi
(1972)
22


Khán giả 3

Thưa nhà văn! Vang bóng một thời là tập truyện rất nổi tiếng trước
cách mạng. Ông có thể nói thêm về tập truyện này không ạ?
Nguyễn Tuân - Vang bóng một thời gồm 11 truyện ngắn viết về một thời đã xa nay
chỉ còn vang bóng.
- Nhân vật chính của truyện phần lớn là nho sĩ cuối mùa - những
con người tài hoa, bất đắc chí, dùng cái tôi tài hoa ngông nghênh và
thiên lương để đối lập với xã hội phàm tục.
Biên tập viên Nhận xét về tập truyện này, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cho rằng
đây là “một văn phẩm đạt tới sự toàn thiện, toàn mĩ”. Trong tập
truyện này, Chữ người tử tù có thể nói là một truyện ngắn xuất sắc
nhất. Ông có thể giới thiệu đôi nét về truyện ngắn này?
Nguyễn Tuân - Truyện ngắn này, lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng, in 1938
trên tạp chí Tao đàn, sau đó được tuyển in trong Vang bóng một thời
và đổi tên thành Chữ người tử tù.
- Truyện kể về nhân vật Huấn Cao (có nguyên mẫu ngoài đời là Cao

Bá Quát) là một tử tù từng chống lại triều đình phong kiến có tài
viết chữ rất đẹp được giải đến nhà tù tỉnh Sơn trước khi ra pháp
trường chịu án tử hình. Ở đây có viên quản ngục rất say mê con chữ
của Huấn Cao đã tìm cách biệt đãi ông với mong muốn xin được
chữ. Ban đầu Huấn Cao khinh bạc và sỉ nhục viên quản ngục.
Nhưng rồi ông đã cảm tấm lòng yêu quý cái đẹp và trân trọng người
tài của viên quản ngục nên đã sẵn sàng cho chữ. Cuối cùng là cảnh
cho chữ, “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đã diễn ra ngay
trong nhà ngục đêm trước ngày Huấn Cao chịu án tử hình.
Biên tập viên Như vậy, buổi gặp gỡ này đã đem đến cho khán giả những thông tin
hữu ích về con người, quan điểm sáng tác, phong cách của nhà văn
và truyện ngắn Chữ người tử tù. Xin cảm ơn nhà văn và các quý vị.
Hoạt động 2: Đọc – hiểu văn bản
* Tìm hiểu tình huống truyện
- Sử dụng phương pháp nêu vấn đề, kĩ thuật động não:
+ Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân đã xây dựng được tình huống nào? Tình huống
đó có gì đặc biệt (thời gian, không gian và đặc điểm của con người)?
+ Em thường nhìn thấy các kiểu viết chữ nho ở đâu? Có hình dáng như thế nào?
- Giáo viên chốt lại về nghệ thuật thư pháp và chiếu hình ảnh cho học sinh cảm nhận
rõ hơn.
- Với hoạt động này, giáo viên hình thành cho các em năng lực tìm hiểu tự nhiên và
xã hội.
* Tìm hiểu về nhân vật Huấn Cao
Phương pháp chủ đạo: thảo luận nhóm
Khi soạn giáo án phần này, giáo viên chú ý đến năng lực hợp tác, năng lực giao
tiếp và giải quyết vấn đề của học sinh.
Để đạt được mục tiêu đó, giáo viên tăng cường cho học sinh thảo luận nhóm
trên lớp. Làm thế nào để đảm bảo kiến thức cơ bản theo chuẩn kiến thức- kĩ năng mà
23



giáo viên không phải là người truyền thụ một chiều; làm thế nào để các em có cơ hội
hợp tác, thể hiện quan điểm của mình mà giờ học không bị “cháy giáo án”; làm thế
nào để các nhóm học sinh có sự tương tác, tự rút ra bài học cho mình từ phần làm
việc của bạn? Với trăn trở ấy, cần tổ chức hoạt động dạy học theo các nguyên tắc sau:
Xác định đúng trọng tâm kiến thức, đưa ra những câu hỏi nêu vấn đề để định hướng
học sinh tìm hiểu những vấn đề trọng tâm. Các câu hỏi thảo luận phải rõ ràng, lô gic
để học sinh có thể khái quát được bản chất của sự việc.
- Với hoạt động này, giáo viên hình thành cho các em năng lực tự học, hợp tác, ngôn
ngữ, giao tiếp, sáng tạo.
- Khi tìm hiểu vẻ đẹp tài hoa của Huấn Cao, giáo viên chia lớp làm 4 nhóm. Các
nhóm trao đổi, thảo luận theo các nội dung:
+ Huấn Cao có tài nào?
+ Tài đó được giới thiệu như thế nào?
+ Tìm những chi tiết trong tác phẩm nói về thái độ của thầy thơ lại và viên quản
ngục trước cái tài của Huấn Cao.
+ Em nhận xét gì về tài năng của Huấn Cao? Qua đây em hiểu gì về quan niệm và
tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Tuân?
Khi hết thời gian thảo luận (3 phút), đại diện một nhóm trình bày. Các nhóm
khác bổ sung, phản biện hoàn thiện sản phẩm. Sau đó, giáo viên đánh giá và chốt ý.
- Khi tìm hiểu vẻ đẹp khí phách của nhân vật Huấn Cao, giáo viên vẫn chia lớp làm 4
nhóm. Các nhóm thảo luận theo nội dung: Tìm những chi tiết trong tác phẩm và phân
tích để chứng minh vẻ đẹp khí phách của Huấn Cao?
Gợi ý:
+ Vì sao ông phải chịu án tử hình?
+ Khi vào nhà ngục, thông thường con người có thái độ nào? Thái độ của Huấn
Cao khi đặt chân vào nhà ngục có gì khác?
+ Cách cư xử đối với quản ngục trong suốt thời gian ở trong nhà tù tỉnh Sơn? Tại
sao ông lại có thái độ ấy?
Khi hết thời gian thảo luận (3 phút), đại diện một nhóm trình bày. Các nhóm

khác bổ sung, phản biện hoàn thiện sản phẩm. Sau đó, giáo viên đánh giá và chốt ý.
- Khi tìm hiểu vẻ đẹp khí phách của nhân vật Huấn Cao, giáo viên vẫn chia lớp làm 4
nhóm, sử dụng kĩ thuật động não. Các nhóm thảo luận theo nội dung: Tìm những chi
tiết trong tác phẩm chứng tỏ vẻ đẹp thiên lương của Huấn Cao? (Sử dụng phiếu học
tập)
PHIẾU HỌC TẬP
Tiết 41: Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
Nội dung: Vẻ đẹp thiên lương của Huấn Cao
Câu hỏi
Trả lời
Là người có tài viết chữ đẹp nhưng Huấn Cao chỉ mới
cho chữ cho những ai? Vì sao như vậy?
24


Tại sao Huấn Cao lại nhận lời cho chữ quản ngục?
Điều đó nói lên điều gì ở con người ông?
Câu nói của Huấn Cao với quản ngục Thiếu chút nữa
ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ? cho thấy
thái độ nào của Huấn Cao?
Trong cảnh cho chữ, việc Huấn Cao cảm nhận được
mùi thơm của thoi mực cho em hiểu gì về con người
nhân vật?
Huấn Cao đã khuyên viên quản ngục điều gì? Em cảm
nhận được điều gì về quan điểm của nhân vật Huấn
Cao?
Em hãy rút ra quan điểm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân?
* Tìm hiểu nhân vật viên quản ngục
- Giáo viên chia học sinh trong lớp thành các cặp (hai học sinh ngồi gần nhau thành
một cặp). Các cặp trao đổi về các nội dung sau:

+ Tại sao tác giả lại đặt tên nhân vật là viên quản ngục?
+ Môi trường sống của ông ở nơi như thế nào?
+ Ở trong môi trường ấy, viên quản ngục có hoàn toàn là người xấu, kẻ ác
không? Hãy chỉ ra câu văn thể hiện điều đó?
Khi hết thời gian thảo luận (3 phút), đại diện một cặp trình bày. Các cặp khác
bổ sung, phản biện hoàn thiện sản phẩm. Sau đó, giáo viên đánh giá và chốt ý.
- Khi tìm hiểu vẻ đẹp biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục, giáo viên sử dụng
phương pháp thảo luận nhóm, kĩ thuật mảnh ghép:
+ Giáo viên chia lớp làm 4 nhóm
+ Giáo viên giao cho mỗi nhóm một bộ câu hỏi, mỗi câu hỏi được ghi vào một
mảnh ghép với các hình thù khác nhau được cắt ra từ một mảnh bìa hoặc từ một dạng
hình nào đó.
+ Mỗi học sinh nhận một mảnh ghép và thực hiện nhiệm vụ ghi trong đó. Nếu
thừa học sinh trong trong mỗi nhóm thì có thể ghép hai học sinh làm cùng một nhiệm
vụ.
+ Cả nhóm ghép các mảnh ghép tạo thành một hình phù hợp và hiệu chỉnh câu trả
lời của cả nhóm mình.
BỘ CÂU HỎI SỬ DỤNG KĨ THUẬT MẢNH GHÉP
Nội dung: Tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục
T
Câu hỏi
T
1 Khi Huấn Cao chưa được giải đến nhà tù, Viên quản ngục có biết Huấn Cao
không? Hãy chỉ ra chi tiết đó.
25


×