Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN một số biện pháp chỉ đạo giáo viên làm đồ dùng đồ chơi từ nguyên vật liệu, phế liệu thiên nhiên cho trẻ trong trường mầm non huyện tam dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.77 MB, 18 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,
chịu trách nhiệm chăm sóc - giáo dục trẻ từ 0-6 tuổi. Đây là gia đoạn đặt nền
móng đầu tiên quan trọng của nhân cách con người. Nếu không lmf tốt việc
chăm sóc - giáo dục trẻ trong những năm này thì việc giáo dục lại hết sức khó
khăn, phức tạp. Trên mọi mặt của đời sống đã có sự thay đổi rõ nét. Cuộc sống
con người ngày càng văn minh hơn, hiện đại hơn. Để bắt nhịp cùng cuộc sống
hiện đại đòi hỏi con gười cần trư duy, năng động, sáng tạo và linh hoạt.
Trong trường mầm non hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ và
đồ chơi là phương tiện giúp trẻ thực hiện các hoạt động đó, đồng thời cũng
chính là cách giúp trẻ tiếp thu bài học một cách sinh động, nhiệt tình hơn. Đồ
dùng, đồ chơi góp phần giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất, nhận thức, ngôn
ngữ, tình cảm, kỹ năng xã hội và thẩm mỹ, khả năng giao tiếp, ứng sử trong
cuộc sống. Bên cạnh đó đồ dùng đồ chơi giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, kích
thích trẻ tính độc lập, sáng tạo …. Bất luận trong hoàn cảnh nào đồ chơi ra đời
sẽ phát triển trí tuệ cho trẻ, đồ chơi phong phú đa dạng bao nhiêu thì kích thích
được tính tò mò ham hiểu biết cùng khám phá của trẻ bấy nhiêu. Đặc biệt trẻ lứa
tuổi mầm non luôn có nhu cầu với đồ chơi mới.
Như chúng ta đã biết đặc điểm của trẻ mầm non là luôn có nhu cầu chơi với
những đồ dùng, đồ chơi có màu sắc đẹp, hấp dẫn và phong phú. Để thỏa mãn
được nhu cầu đó của trẻ, đòi hỏi người giáo viên mầm non phải luôn tìm tòi suy
nghĩ, sáng tạo ra nhiều đồ dùng, đồ chơi mới lạ, hấp dẫn và phù hợp với nội
dung chủ đề chủ điểm nhất là bài dạy, phù hợp với tình huống giáo dục trong các
hoạt động, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ trong trường mầm non.
Đồ dùng học tập, đồ chơi là phương tiện để trẻ hoạt động vui chơi. Ngoài đồ
dùng học tập ra, đồ chơi vốn là thứ trẻ yêu thích nhất, không có đồ chơi trẻ
không có phương tiện, môi trường để hoạt động và thực hiện các trò chơi. Cách
thức chơi với đồ chơi và những thứ đồ chơi mà trẻ yêu thích được thay đổi theo
từng chủ đề, chủ điểm, sự phát triển và hiểu biết của trẻ thì chính đồ chơi đó lại


trở thành đồ dùng học tập giúp trẻ có nhiều cơ hội trải nghiệm, lĩnh hội các kiến
thức. Hiện nay trên thị trường có rất nhiều đồ dùng đồ chơi không rõ nguồn gốc
xuất sứ được bày bán khắp mọi nơi, chúng thu hút trẻ em bởi những kỹ thuật mạ
phẩm màu sặc sỡ, mà giá thành lại không cao. Khiến cho rất nhiều phụ huynh do
chiều chuộng con cái lên đã mua về cho con chơi, làm ảnh hưởng đến sức khỏe
của trẻ.
Thực tế trong cuộc sống hàng ngày của mỗi gia đình chúng ta thấy có rất
nhiều sản phẩm bị loại bỏ sau khi sử dụng, chẳng hạn như vỏ chai dầu gội, sữa
tắm, lon bia, vỏ hộp sữa, lốp xe đạp, xe máy, ô tô, bìa lịch cũ, hộp dầu nhờn ...
đó là nguồn nguyên vật liệu rất phong phú và đa dạng để chúng ta tận dụng nó
tạo ra nhiều sản phẩm, tạo ra nguồn đồ chơi cho trẻ như ô tô, tàu hỏa, tàu thủy,
ngôi nhà, bàn ghế cây cối, lọ hoa... để đưa vào các góc chơi hay đồ dung học tập
cho trẻ ở trường mầm non. Làm như chúng ta sẽ tiết kiệm được tiền mua sắm
1


vật liệu, tạo ra nhiều đồ chơi mang tính sang tạo, phong phú. Qua đó hình thành
ý thức tuyên truyền tới trẻ và phụ huynh học sinh về việc bảo vệ môi trường
góp phần giảm thiểu lượng rác thải và hình thành phát triển trí tuệ và tình cảm
cho trẻ.
Xuất phát từ tầm quan trọng của đồ chơi đối với trẻ mầm non tôi nghĩ việc
trang bị các kiến thức và nâng cao kỹ năng làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho
giáo viên Mầm non trong nhà trường là việc làm hết sức cần thiết và bổ ích vì
làm đồ dùng học tập, đồ chơi tự tạo là một hoạt động mang tính sáng tạo và độc
đáo, phong phú vừa làm tăng số lượng đồ dùng, đồ chơi cho trẻ, vừa an toàn về
sức khỏe mà hiệu quả sử dụng lại khá cao. Đồng thời góp phần làm giảm thiểu
lượng rác thải, giảm chi phí cho công tác vệ sinh môi trường.
Chính vì vậy để phát huy năng lực sẵn có của mỗi giáo viên tôi chọn đề tài
“Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên làm đồ dùng đồ chơi từ nguyên vật liệu,
phế liệu thiên nhiên cho trẻ trong trường mầm non huyện Tam Dương.”

2. Tên sáng kiến
“Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên làm đồ dung đồ chơi từ nguyên vật
liệu, phế liệu thiên nhiên cho trẻ trong trường mầm non huyện Tam Dương”
3. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên: Vũ Thị Nga
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Mầm Non Hợp Hòa
- Số điện thoại: 0397130211. Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
Vũ Thị Nga
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên làm đồ dung đồ chơi từ nguyên vật
liệu, phế liệu thiện nhiên cho trẻ trong trường mầm non huyện Tam Dương.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
Từ tháng 2 - 2018 đến tháng 2-2019
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1. Về nội dung của sáng kiến
7.1.1. Cơ sở lý luận của vấn đề chỉ đạo giáo viên làm đồ dung đồ chơi
từ nguyên vật liệu, phế liệu thiên nhiên cho trẻ trong trường mầm non
huyện Tam Dương
“Những gì sách dạy chúng ta cũng giống như lửa. Chúng ta lấy nó từ nhà
hàng xóm, thắp nó trong nhà ta, đem nó truyền cho người khác, và nó trở thành
tài sản của tất cả mọi người” (Voltaire). Chúng ta hãy cùng nhau chia sẻ những
kinh nghiệm hay trong giáo dục để ngọn lửa tri thức, ngọn lửa nhiệt huyết đối
với giáo dục luôn cháy sáng.
Trẻ em rất yêu thích đồ chơi, ngoài việc giải trí, đồ chơi có tác dụng giáo
dục cao, nhất là trong những năm đầu đời của con người. Mỗi món đồ chơi, ít
nhất cũng cung cấp một cơ hội để trẻ tìm hiểu, khám phá. Các món đồ chơi tốt
sẽ tham gia vào quá trình nhận thức, tác động tích cực tới các giác quan của trẻ,
khuyến khích phát huy trí tưởng tượng và cho trẻ cơ hội học tập kỹ năng tương
tác với người khác và nhiều kỹ năng khác. Trẻ em bất cứ ở đâu, bất cứ dân tộc

nào, cũng mong muốn có đồ chơi để chơi.
2


Đồ chơi giúp phát triển nhận thức của trẻ, với đồ chơi, trẻ được vui chơi
và học tập cùng một lúc. Học thông qua đồ chơi và trò chơi giúp trẻ hình thành
thái độ tích cực với việc học tập. Giáo viên sử dụng nó để dạy các kiến thức về
môi trường xung quanh, văn học, các biểu tượng toán học, tạo hình..., cung cấp
và rèn luyện những kỹ năng xã hội cần thiết cho trẻ và cho sự trưởng thành sau
này của chúng. Nó có ý nghĩa như đồ dùng để dạy và học. Đồ chơi của trẻ và đồ
dùng dạy học của cô giáo tuy hai tên gọi nhưng chung một ý nghĩa. Sử dụng đồ
chơi để dạy học là phù hợp với đặc điểm tâm lý và nhận thức của trẻ em, giúp
cho giáo viên có cơ sở thực hiện tốt chương trình giáo dục mầm non. Lớp học
mầm non không thể không có đồ chơi cũng như giáo viên mầm non không thể
không có đồ dùng dạy học. Do đó, bằng mọi hình thức, nhà trường và các cô
giáo cần cung cấp cho trẻ đồ chơi càng nhiều càng tốt.
7.1.2. Thực trạng về thuận lợi và khó khăn của trường lớp và giáo
viên trường mầm non Hợp Hòa và trường mầm non Tam Dương Huyện
Tam Dương – Tỉnh Vĩnh Phúc.
a. Thuận lợi
*Trường mầm non Hợp Hòa
Nhà trường luôn quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên đi học
nâng cao trình độ chuyên môn. Vào các dịp hè 100% cán bộ giáo viên tham gia
học bồi dưỡng chuyên môn do Sở, Phòng giáo dục và đào tạo tổ chức, bên cạnh
đó là nội dung bồi dưỡng của trường tạo điều kiện cho giáo viên được học tập
nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ.
Hàng năm đầu tư bổ sung cơ sở vật chất - Trang thiết bị - Đồ dùng đồ chơi
cho các nhóm lớp.
Tổ chức cho giáo viên tham quan các trường bạn trong và ngoài huyện để
có nhiều kinh nghiệm tự tạo ra các sản phẩm đồ dung đồ chơi phục vụ công tác

dạy và học của cô và trẻ.
Địa phương có nguồn vật liệu thiên nhiên và phế liệu tương đối dồi dào,
dễ tìm, dễ kiếm.
Nhận thức của phụ huynh ngày càng được nâng cao, đa số phụ huynh
nhiệt tình ủng hộ cho các hoạt động và phong trào của Nhà trường cũng như ủng
hộ các nguyên vật liệu, phế liệu cho giáo viên.
* Trường mầm non Tam Dương
- 100% cán bộ giáo viên trong nhà trường được tham gia học bồi dưỡng
chuyên môn do Sở, Phòng giáo dục và đào tạo tổ chức, nhà trường luôn tạo điều
kiện cho giáo viên được học tập nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ.
- Đầu tư bổ sung cơ sở vật chất - Trang thiết bị - Đồ dùng đồ chơi ngay từ
đầu năm học cho các nhóm lớp.
- Giáo viên được viên tham quan các trường bạn trong và ngoài huyện để
có nhiều kinh nghiệm tự tạo ra các sản phẩm đồ dung đồ chơi phục vụ công tác
dạy và học của cô và trẻ.
- Phụ huynh học sinh nhiệt tình ủng hộ các nguyên vật liệu, phế liệu cho
giáo viên.
b. Khó khăn
*Trường mầm non Hợp Hòa
3


Đa số giáo viên phải đứng lớp một mình, không có nhiều thời gian đầu tư
cho việc làm đồ dùng, đồ chơi. Thời gian dành cho việc tìm kiếm nguyên vật
liệu, phế liệu, làm đồ dùng học tập, đồ chơi còn ít, phần lớn chỉ trong thời gian
hè và ngày nghỉ.
Số cán bộ giáo viên hiểu cách làm, biết vận dụng và khả năng sáng tạo
còn hạn chế, mới chỉ tập trung ở các giáo viên trẻ, khéo tay và có năng khiếu
làm đồ dùng học tập, đồ chơi.
Tính sáng tạo và tính thẩm mỹ trong việc làm đồ dùng, đồ chơi của giáo

viên chưa cao, đặc biệt là việc tận dụng nguyên vật liệu thiên nhiên và phế liệu
để làm đồ dùng, đồ chơi cũng còn hạn chế.
Tài liệu hướng dẫn làm đồ dùng, đồ chơi chưa nhiều.
Một số giáo viên chưa phát huy hết tác dụng của những đồ dùng học tập,
đồ chơi.
Nhận thức của giáo viên
Hiện tại trường mầm non Hợp Hòa có 26 giáo viên đứng lớp. Trong đó có 25
giáo viên có trình độ Đại học, 1 giáo viên có trình độ trung cấp. 100% giáo viên
đều được hưởng mọi chế độ, quyền lợi theo quy định của nhà nước nên đều yên
tâm công tác.
Qua sinh hoạt chuyên môn trao đổi thảo luận với giáo viên về cách làm đồ
dùng đồ chơi theo các chủ đề, chủ điểm phục vụ cho việc dạy và học của cô, trẻ,
mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc hướng dẫn chỉ đạo các giáo viên tự làm
đồ dùng đồ chơi từ các nguyên, vật liệu, phế liệu sẵn có nhưng để đáp ứng được
với yêu cầu thì phần còn hạn chế rất nhiều, số đồ dùng học tập, đồ chơi phục vụ
cho việc học tập, vui chơi và các hoạt động khác có nhưng chưa hấp dẫn phong
phú về hình thức và chủng loại.
* Trường mầm non Tam Dương
- Giáo viên chưa phát huy cao tính sáng tạo và tính thẩm mỹ trong việc
làm đồ dùng, đồ chơi.
- Đa số giáo viên phải đứng lớp một mình, không có nhiều thời gian đầu
tư cho việc làm đồ dùng, đồ chơi.
- Một số giáo viên chưa phát huy hết tác dụng của những đồ dùng học tập,
đồ chơi.
- Tài liệu hướng dẫn làm đồ dùng, đồ chơi chưa nhiều.
Nhận thức của giáo viên
Hiện tại trường mầm non Tam Dương có 14 giáo viên đứng lớp. Trong đó có
12 giáo viên có trình độ Đại học, 1 giáo viên có trình độ cao đẳng, 1 giáo viên
có trình độ trung cấp. 100% giáo viên đều được hưởng mọi chế độ, quyền lợi
theo quy định của nhà nước nên đều yên tâm công tác.

Thực tế qua kết quả khảo sát giáo viên tôi thu được kết quả như sau:

Bảng 1
( Khảo sát lần 1 - MN Hợp Hòa)
4


TT
1
2
3
4
5

TT

Nội dung khảo sát

Mức độ
Đạt
Chưa đạt
Tổng
yêu cầu
yêu cầu
số
Số
Số
%
%
lượng

lượng

Số lớp có đủ đồ dùng học tập, đồ
16
chơi ở mức độ tối thiểu
Số lớp có đủ đồ dùng học tập, đồ
chơi tự làm đảm bảo yêu cầu chất 16
lượng, phong phú, hấp dẫn.
Số GV có ý thức sưu tầm nguyên
vật liệu để làm đồ dùng học tập, 26
đồ chơi.
Số GV biết cách làm và vận dụng
26
sáng tạo.
Số GV sử dụng có hiệu quả đồ
26
dùng học tập, đồ chơi đã làm.
Bảng 1
( Khảo sát lần 1 - MN Tam
Nội dung khảo sát

11

69

5

31

6


38

10

62

16

62

10

38

15

58

11

42

16

62

10

38


Dương)
Mức độ
Đạt
Tổng
yêu cầu
số
Số
%
lượng

Chưa đạt
yêu cầu
Số
%
lượng

1

Số lớp có đủ đồ dùng học tập, đồ
10
6
60
4
40
chơi ở mức độ tối thiểu
2 Số lớp có đủ đồ dùng học tập, đồ
chơi tự làm đảm bảo yêu cầu chất
10
5

50
5
50
lượng, phong phú, hấp dẫn.
3 Số GV có ý thức sưu tầm nguyên
vật liệu để làm đồ dùng học tập,
14
8
57
6
43
đồ chơi.
4 Số GV biết cách làm và vận dụng
14
7
50
7
50
sáng tạo.
5 Số GV sử dụng có hiệu quả đồ
14
7
50
7
50
dùng học tập, đồ chơi đã làm.
Xuất phát từ thực tế trên, làm thế nào để khơi dậy niềm đam mê hứng thú
với đồ chơi và cách làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ, làm thế nào để cán bộ,
giáo viên nâng cao kiến thức, kỹ năng làm đồ dùng học tập, đồ chơi từ nguyên
vật liệu thiên nhiên và phế liệu sẵn có của địa phương để giảm bớt chi phí mua

đồ dùng học tập, đồ chơi có sẵn, đắt tiền mà nhiều khi không phù hợp với lứa
tuổi, làm thế nào để khi có đồ dùng học tập, đồ chơi đẹp, hấp dẫn lôi cuốn trẻ
hứng thú tham gia học tập; khi có đồ chơi phong phú “bắt mắt” trẻ sẽ nghĩ ngay

5


đến trò chơi với đồ chơi đó. Tôi quyết định lựa chọn các giải pháp trọng tâm để
thực hiện có hiệu quả như sau:
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến
7.2.1. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng, chỉ đạo giáo viên làm đồ dùng,
đồ chơi
Tôi cùng thống nhất trong BGH - BCH Công đoàn-Tổ trưởng tổ chuyên
môn của các khối, nhóm, lớp về kế hoạch làm ĐDĐC trong năm học và triển
khai kế hoạch đó trong hội nghị họp hội đồng sư phạm nhà trường. Kết hợp hiệu
phó chuyên môn, tổ trưởng chuyên môn, các đồng chí giáo viên bám sát vào kế
hoạch chung của nhà trường để xây dựng kế hoạch của tổ, của cá nhân sao cho
sát thực với nhóm, lớp của mình và có hiệu quả cao. Sau đó tôi phối kết hợp với
hiệu phó chuyên môn trực tiếp duyệt kế hoạch làm đồ dùng, đồ chơi cả năm học
của các tổ và cá nhân.
7.2.2. Chỉ đạo giáo viên lựa chọn tìm kiếm nguyên vật liệu, tuyên
truyền, phối hợp tốt với phụ huynh đóng góp nguyên vật liệu để làm đồ
dùng đồ chơi.
Để làm được đồ dùng, đồ chơi thì phải có nguyên vật liệu, nguyên vật liệu
đó có ở đâu và tìm như thế nào, bản thân tôi băn khoăn trăn trở bằng cách nào để
giáo viên sưu tầm tìm kiểm được nhiều nguyên vật liệu, phế liệu để làm đồ dùng
đồ chơi, tôi đã kết hợp cùng các đồng chí trong BCH công đoàn, tổ trưởng
chuyên môn chỉ đạo giáo viên cần tích cực, chú trọng đến việc tìm kiếm nguyên
vật liệu ở mọi lúc, mọi nơi và sử dụng các nguyên vật liệu từ thiên nhiên như:
Lá cây khô, tươi, rơm, sỏi… Các nguyên vật liệu là phế thải như: Vỏ hộp dầu

gội đầu, hộp sữa, lon bia, xốp, len vụn, vải vụn, gỗ, giấy gói kẹo,....để làm đồ
dùng, đồ chơi phục vụ công tác giảng dạy và cho trẻ chơi ở các góc chơi.
Bên cạnh đó việc tuyên truyền, phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường là
rất cần thiết. Ngay từ đầu năm học BGH nhà trường đã chỉ đạo giáo viên làm tốt
những việc sau:
Tổ chức họp phụ huynh đầu năm học, thông báo kế hoạch chung của nhà
trường, kế hoạch của nhóm, lớp về việc thực hiện kế hoạch làm đồ dùng, đồ
chơi tự tạo để phục vụ cho các hoạt động của cô và trẻ ở trường mầm non.
Nêu lên tầm quan trọng của việc làm đồ dùng, đồ chơi từ nguyên vật liệu
thiên nhiên và phế liệu để phục vụ công tác dạy và học của cô và trẻ từ đó cùng
đưa ra, thống nhất biện pháp phối kết hợp.
Vận động phụ huynh cùng với giáo viên sưu tầm, ủng hộ nguyên vật liệu
phế liệu, đồ vật sẵn có trong cuộc sống hàng ngày để cô và trẻ làm đồ dùng, đồ
chơi phục vụ cho các hoạt động.
7.2.3. Tuyên truyền về hiệu quả làm đồ dùng đồ chơi từ nguyên vật
liệu, phế liệu đến phụ huynh
Với cuộc sống bề bộn ngày nay làm cho không ít phụ huynh có thời gian
chăm sóc con cái, không có thời gian chơi cùng với con mà thay vào đó là mua
sắm những loại đồ dùng đồ chơi hiện đại được sản xuất theo các dây truyền hiện
đại và nhất là trên thị trường hiện náy đồ chơi Trung Quốc và một số đồ dung đồ
chơi được bày bán trên thị trường koong rõ nguồn gốc sản xuất. Bên cạnh đó các
loại đồ dung đồ chơi này không mang tính giáo dục, không phát huy được trí
6


tuệ, sự thông minh của trẻ mà ngược lại có rất nhiều loại đồ chơi không an toàn,
kích thích tính hiếu chiến, bạo lực ở trẻ như: Súng, gươm…và còn nhiều loại đồ
chơi gây sợ hãi đối với trẻ gây tác hại không nhỏ đến tâm lý trẻ nhỏ.
Từ thực tế trên việc tuyên truyền đến phụ huynh về ý nghĩa và tầm quan
trọng của việc làm đồ dung đồ chơi từ các nguyên vật liệu, phế liệu thiên nhiên

gắn với trò chơi dân gian, gần gũi được sử dụng từ các nguyên vật liệu sẵn có rẻ
tiền. Đó chính là những đò chơi, trò chơi truyền thống mang bản sắc văn hóa của
dân tộc, qua đồ chơi, trò chơi dân gian được phát huy hiện nay trong các nhà
trường góp phần cho trẻ được tiếp cận với nền văn hóa cổ truyền của dân tộc ta.
Ví dụ: các trò chơi ô ăn quan, ném còn, nhảy dây, đánh chài, đá cầu, nhảy
bao bố… không cần phải mua tốn kém mà chỉ cần tận dụng những nguyên vật
liệu sẵn có chỉ cần tốn ít công sức là phụ huynh có thể tạo ra các loại đồ dùng đồ
chơi cho con em mình thật ý nghĩa và mang tính giáo dục cao.
Bên cạnh đó tôi thường hướng cho giáo viên trưng bày các loại đồ dùng
đồ chơi tự làm từ các nguyên vật liệu, phế liệu dễ tìm ở các góc dễ nhìn dễ quan
sát để từ đó tuyên truyền vận động phụ huynh ủng hộ các nguyên vật liệu cho
lớp hoặc giáo viên có thể tuyrn truyền giải thích với phụ huynh về cách làm hay
ý nghĩa của đồ dung đồ chơi tự làm như: Đồ dung đồ chơi tự tạo sẽ an toàn hơn,
vệ sinh hơn và rẻ tiền hơn…Mặt khác đồ dung đồ chơi tự làm có tác dụng giáo
dục trẻ mang tính tíc cực hơn, đồng thời góp phần không nhỏ trong giáo dục bảo
vệ môi trường và phát triển tính sang tạo của trẻ ki được tham gia.
Từ những hoạt động phối hợp với phụ huynh đa số trẻ ở các lớp không
đòi bố mẹ mua đồ dùng đồ chơi bày bán ở hàng quán trên đường đi tới trường,
còn phụ huynh quan tâm và dành nhiều thời gian chơi cùng con hơn đặc biệt hơn
là có rất nhiều phụ huynh còn đem tặng cho lớp của con những đồ dung đồ chơi
mà tự tay phụ huynh cùng con làm ở nhà.
7.2.4. Kết hợp cùng nhà trường tổ chức hướng dẫn giáo viên cách làm
đồ dùng đồ chơi từ nguyên vật liệu thiên nhiên và phế liệu
Để thực hiện kế hoạch hướng dẫn giáo viên làm ĐDĐC tự tạo bằng
nguyên vật liệu thiên nhiên và phế liệu đạt hiệu quả thì trước khi tổ chức cho
giáo viên làm ĐDĐC tự tạo vào các buổi sinh hoạt chuyên môn... tôi cho các lớp
kiểm kê lại ĐDĐC năm trước xem cái gì còn, cái gì đã hỏng, cái gì có và chưa
có để tránh lãng phí thời gian, công sức và tiền bạc. những đồ dùng, đồ chơi mà
thật sự trong lớp không có hoặc không thể thay thế được.
Sau đó tôi chỉ đạo tổ chuyên môn phân công giáo viên tiến hành tái chế,

phân loại, làm sạch nguyên vật liệu để đảm bảo vệ sinh, an toàn trước khi sử
dụng. Mỗi giáo viên tự kiểm kê của lớp mình và làm bổ sung thêm những đồ
dùng đồ chơi còn thiếu trên tinh thần hướng dẫn chung của cả trường.
* Đồ dùng phục vụ hoạt động, vệ sinh, lao động: Tận dụng những can
nước rửa bát, cắt làm thành những chiếc mo hót rác, làm cuốc, xẻng hoặc từ
những can dầu ăn lớn làm những thùng đựng rác hình con vật sau đó phun sơn
cho đẹp, những chiếc chổi lúa từ rơm nếp, làm bình tưới từ những hộp sữa bột
to, …
* Làm nhiều đồ dùng phục vụ hoạt động có chủ đích như:

7


+ Hoạt động khám phá - MTXQ, PT thể chất: Tận dụng xốp nền ghép vào
nhau tạo thành Lăng Bác, Chùa Một Cột, lõi vệ sinh, bóng nhựa cũ hộp sữa tạo
thành mô hình có cổng, có cột đèn 2 bên đi vào lăng, vào chùa,… những hộp
sữa tươi bằng giấy, thùng cát tông, cành cây khô, cát, sỏi hay vải vụn gói lại
thành những quả còn…cho trẻ tìm hiểu, khám phá, chơi trò chơi dân gian như
ném còn, ô ăn quan, bịt mắt bắt dê…Các ĐDĐC phục vụ Hoạt động vui chơi
cho trẻ ở các góc.

Hình ảnh Lăng Bác làm từ thùng xốp

+ Hoạt động LQV Toán, LQV chữ viết: Có thể tận dụng những cây kem,
dây điện hỏng, xốp lỉ để tạo lên những cây ăn quả, cây hoa nhiều màu sắc hoặc
những quả cam, quả táo… Giúp trẻ học số đếm như đếm số quả trên cây và đặt
thẻ số tương ứng, đếm số bông hoa màu đỏ, so sánh số bông hoa màu đỏ với
8



bông hoa màu vàng xem bên nào nhiều hơn bên nào ít hơn, so sánh cây cao cây
thấp, cắt số lượng như ô tô, thuyền buồm, quần áo, hoa quả, con vật để học số
đếm phù hợp theo từng chủ đề.

+ Hoạt động âm nhạc: Tận dụng những lon bia mài nhẵn làm những
chiếc xắc xô, trống lắc, hay những hộp bánh to, nhỏ các loại chất liệu bằng tôn,
sắt, hộp đựng chè để làm nên những chiếc trống tròn, trống cơm, những chiếc
vợt muỗi hỏng làm thành chiếc đàn, giấy bóng kính làm những cánh ong, bướm,
vải vụn có thể làm ra những bộ trang phục lộng lẫy cho trẻ biểu diễn trong
chương trình tổ chức văn nghệ cuối tháng hay các dịp lễ, hội…
+ Góc Bé tập làm nội trợ: Các loại bánh chôi, chay, nem rán, giò, chả, củ
cà rốt: Được làm từ miếng xốp ép, đĩa, cốc nhựa dùng1lần, giấy bóng, xốp màu,
tre gọt làm thành những đôi đũa

Hình ảnh góc nội trợ
+ Góc Bán hàng: Tận dụng các loại chai nhựa phun sơn tạo thành các loại
quả, các loại can rửa bát, hộp sữa chua, dầu ủ tóc, làm nên những bộ đồ dùng gia
đình cho trẻ chơi như ấm chén, phích nước, những đôi dép, cái mũ, cái ô…Hoặc

9


từ các đồ dùng bằng xốp hộp vỏ thuốc, bánh kẹo làm các món ăn quen thuốc để
trẻ chơi ở góc bán hàng.

10


+ Góc Bác sỹ: Tủ thuốc nhỏ được làm bằng những hộp bánh các loại, dây
truyền dịch, xi lanh, vỏ hộp thuốc đã sử dụng hết được vệ sinh sạch sẽ, an toàn

cho trẻ chơi.

Hình ảnh góc bác sỹ
- Bên cạnh đó tôi chỉ đạo giáo viên cần quan tâm đến môi trường trong và
ngoài lớp học, trang trí phù hợp, tạo góc mở khoa học và sáng tạo theo từng chủ
đề bằng những nguyên vật liệu thiên nhiên và phế liệu. Xây dựng môi trường
giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Để môi trường lớp học phong phú, sáng tạo, gần
gũi với trẻ, giúp trẻ hoạt động tốt thì đòi hỏi cô giáo phải có sự quan sát tinh tế,
nghiên cứu, học hỏi và tìm ra những chất liệu phù hợp với những hình ảnh, đồ
vật, con vật…phù hợp với chủ đề.
+ Tạo các góc mở: Như góc toán, góc LQ chữ viết, bé chơi với hình và
màu… tôi gợi ý giáo viên tận dụng những tờ lịch, tranh ảnh cũ…để trang trí và
làm đồ dùng cho trẻ hoạt động ở góc.
* Đồ dùng, đồ chơi trang trí: Những vật liệu phế thải như giỏ cắm hoa,
xốp biển, giấy bọc hoa, dây đồng, chai nước ngọt cô ca, xốp màu, keo nến…làm
nên những lọ hoa, lãng hoa rất đẹp, dùng để trang trí lớp hoặc các hoạt động
khác.
Ngoài ra, tôi còn phát huy tính sáng tạo, chịu khó của giáo viên để làm rất
nhiều các đồ dùng đồ chơi khác phục vụ cho các hoạt động của trẻ như làm các
bộ trang phục, bằng vải vụn, giấy gói hoa, giấy màu vụn, mành nhựa hỏng, để
trẻ hoạt động trong giờ giáo dục Âm nhạc hay biểu diễn thời trang và biểu diễn
văn nghệ của lớp, của trường, những giờ Văn học đóng kịch...trẻ rất hứng thú
tham gia.
Kết quả cụ thể được tính trên sản phẩm của tất cả các giáo viên:
* Đồ dùng phục vụ hoạt động, vệ sinh, lao động: 20 bộ
* Đồ dùng phục vụ hoạt động có chủ đích như:
+ Hoạt động âm nhạc: 16 bộ
+ Hoạt động LQV Toán, LQV chữ viết: 16 bộ
11



+ Hoạt động tạo hình, LQ Văn học: 16 bộ
+ Hoạt động khám phá - MTXQ, PT thể chất: 32 bộ
+ Góc Bé làm họa sỹ: 15 bộ
+ Góc Bán hàng: 45 bộ
+ Đồ dùng đồ chơi sân khấu và âm nhạc: 10 bộ
* Đồ dùng, đồ chơi trang trí: 43 bộ
7.2.5. Tham gia hội thi làm đồ dùng đồ chơi cấp trường
* Cấp trường
Việc tổ chức hội thi “ Làm đồ dùng, đồ chơi tự làm” bằng nguyên vật liệu
thiên nhiên và phế liệu cho toàn thể giáo viên trong trường, là cơ hội để giáo
viên tích cực đi sâu nghiên cứu, học hỏi nâng cao khả năng vận dụng sáng tạo để
làm ĐDĐC, đồng thời học tập được nhiều kinh nghiệm, có nhiều ý tưởng và
sáng kiến hay khi làm ĐDĐC. Qua hội thi giáo viên có thể rút kinh nghiệm cho
bản thân, vận dụng và phát huy kỹ năng, khả năng làm ĐDĐC của mình trước
đồng nghiệp và từ đó có hướng phấn đấu tốt hơn.
Theo kế hoạch thực hiện năm học này, nhà trường đã tổ chức tốt hội thi “
Làm đồ dùng, đồ chơi tự làm” vào ngày 15/ 11/ 2018. Nhằm phát động phong
trào thi đua lập thành tích chào mừng ngày 20/11.
Để hội thi thật sự có ý nghĩa và đạt kết quả cao, nhà trường mời ban đại
diện cha mẹ học sinh của trường, của nhóm, lớp đến dự và cổ vũ phong trào làm
ĐDĐC của nhà trường.

Sản phẩm của giáo viên dự thi làm ĐDĐC cấp trường
12


Sau đợt thi, nhà trường có tổng kết, đánh giá, động viên khen thưởng cho
những giáo viên có những ĐDĐC đạt giải, góp ý những giáo viên chưa có nhiều
sự cố gắng. Thông qua hội thi tôi thấy phụ huynh hiểu được tầm quan trọng của

đồ dùng học tập, đồ chơi đối với sự phát triển của trẻ, đặc biệt là đồ dùng học
tập, đồ chơi này lại được làm chính ngay từ những nguyên vật liệu, phế liệu có
xung quanh mình. Tôi nghĩ đây là một hình thức tuyên truyền nhanh nhất, dễ và
hiệu quả nhất.
Qua hội thi cấp trường chúng tôi lựa chọn những giáo viên xuất sắc bồi
dưỡng để tiếp tục tham gia thi cấp huyện, tỉnh sắp tới.
7.2.6. Quản lý và sử dụng đồ dùng đồ chơi
- Đối với những đồ dùng, đồ chơi được cấp phát cũng như đồ dùng đồ
chơi tự làm của cô và trẻ hoặc của phụ huynh hỗ trợ tôi hướng dẫn giáo viên cập
nhật đầy đủ vào sổ tài sản của nhóm lớp, của nhà trường có ghi chú rõ ràng.
- Với những đồ chơi tự tạo thì nên có mô tả tóm tắt về đồ dùng, chú thích
về cách sử dụng đồ dùng, đồ chơi.
- Sử dụng đồ dùng phù hợp đề tài, đúng lúc, đúng chỗ, khai thác có hiệu quả.
8. Những thông tin cần được bảo mật
Không có
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
- Nâng cao kỹ năng làm đồ dùng đồ chơi tự tạo bằng nguyên vật liệu
thiên nhiên và phế liệu cho giáo viên trường Mầm Non Hợp Hòa - Tam DươngVĩnh phúc và trường MN Tam Dương - Tam Dương- Vĩnh Phúc
- Giáo viên đứng lớp trường mầm non Hợp Hòa - Tam Dương- Vĩnh phúc
và giáo viên đứng lớp trường MN Tam Dương - Tam Dương- Vĩnh Phúc Thời gian bắt đầu nghiên cứu từ tháng 2/2018 kết thúc nghiên cứu tháng
2/2019
- Điều tra thực trạng về khả năng làm đồ dùng đồ chơi tự tạo của giáo
viên trường Mầm Non Hợp Hòa và giáo viên trường MN Tam Dương
- Xây dựng kế hoạch hướng dẫn giáo viên cách làm đồ dùng đồ chơi đủ
về số lượng và đảm bảo về chất lượng
- Lên kế hoạch thực hiện để đạt hiệu quả cao
- Tìm ra nguyên nhân tình trạng, đánh giá kết quả sau khi áp dụng và rút
ra được bài học kinh nghiệm.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân

đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu theo các nội dung sau
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả
Mặc dù vốn kinh nghiệm còn ít trong thời gian qua nhưng bằng sự nỗ lực
của tôi cùng những cố gắng của đội ngũ cán bộ giáo viên, phụ huynh và trẻ
trong nhà trường cũng như tất cả lòng tâm huyết qua áp dụng thực tiễn trong
công tác chỉ đạo làm đồ dung đồ chơi và qua các hội thi làm đồ dung đồ chơi
cấp trường, cấp huyện, tỉnh chúng tôi đã đạt được kết quả như sau:

13


Bảng 2
( Khảo sát lần 2 - MN Hợp Hòa)
TT
1
2
3
4
5

Mức độ
Đạt
Chưa đạt
Tổng
Nội dung khảo sát
yêu cầu
yêu cầu
số
Số

Số
%
%
lượng
lượng
Số lớp có đủ đồ dùng học tập, đồ 16
15
93.8
1
6.2
chơi ở mức độ tối thiểu
Số lớp có đủ đồ dùng học tập, đồ 16
12
75
4
25
chơi tự làm đảm bảo yêu cầu chất
lượng, phong phú, hấp dẫn.
Số GV có ý thức sưu tầm nguyên 26
24
92.3
2
7.4
vật liệu để làm đồ dùng học tập,
đồ chơi.
Số GV biết cách làm và vận dụng 26
22
84.6
4
15.

sáng tạo.
4
Số GV sử dụng có hiệu quả đồ 26
23
88.5
3
11.
dùng học tập, đồ chơi đã làm.
5
Bảng 2
( Khảo sát lần 2 - MN Tam Dương)

TT
1

Mức độ
Đạt
Chưa đạt
Tổng
Nội dung khảo sát
yêu cầu
yêu cầu
số
Số
Số
%
%
lượng
lượng
Số lớp có đủ đồ dùng học tập, đồ

10
8
80
2
20
chơi ở mức độ tối thiểu

2

Số lớp có đủ đồ dùng học tập, đồ
chơi tự làm đảm bảo yêu cầu chất
lượng, phong phú, hấp dẫn.

10

9

90

1

10

3

Số GV có ý thức sưu tầm nguyên
vật liệu để làm đồ dùng học tập,
đồ chơi.

14


12

85.7

2

14.3

4

Số GV biết cách làm và vận dụng
sáng tạo.

14

12

85.7

2

14.3

5

Số GV sử dụng có hiệu quả đồ
dùng học tập, đồ chơi đã làm.

14


11

78.6

3

21.4

14


Qua bảng 1 và bảng 2 ta thấy mức độ đạt yêu cầu được tăng lên rõ rệt
Bảng 3 - MN Hợp Hòa
Nội dung
Cấp độ
Trước khi áp dụng
Sau khi áp dụng
khảo sát
so sánh
Số lớp có đủ đồ dùng Đạt yêu cầu= 69% Đạt yêu cầu= 93.8% Đạt yêu cầu
học tập, đồ chơi ở mức Không ĐYC=31% Không ĐYC= 6.2% tăng 24.8%
độ tối thiểu
Số lớp có đủ đồ dùng Đạt yêu cầu= 38% Đạt yêu cầu= 75%
Đạt yêu cầu
học tập, đồ chơi tự làm Không ĐYC= 62% Không ĐYC=25%
tăng 37%
đảm bảo yêu cầu chất
lượng, phong phú, hấp
dẫn.

Số CBGV có ý thức Đạt yêu cầu= 62% Đạt yêu cầu= 92.3% Đạt yêu cầu
sưu tầm nguyên vật Không ĐYC= 38% Không ĐYC= 7.4% tăng 30.3%
liệu để làm đồ dùng
học tập, đồ chơi.
Số CBGV biết cách Đạt yêu cầu= 58% Đạt yêu cầu= 84.6% Đạt yêu cầu
làm và vận dụng sáng Không ĐYC= 42% Không ĐYC= 15.4% tăng 26.6%
tạo.
Số CBGV sử dụng có Đạt yêu cầu= 62% Đạt yêu cầu= 88.5% Đạt yêu cầu
hiệu quả đồ dùng học Không ĐYC= 38% Không ĐYC= 11.5% tăng 26.5%
tập, đồ chơi đã làm.
Bảng 3 - MN Tam Dương
Nội dung
khảo sát
Số lớp có đủ đồ dùng
học tập, đồ chơi ở mức
độ tối thiểu
Số lớp có đủ đồ dùng
học tập, đồ chơi tự làm
đảm bảo yêu cầu chất
lượng, phong phú, hấp
dẫn.
Số CBGV có ý thức
sưu tầm nguyên vật
liệu để làm đồ dùng
học tập, đồ chơi.
Số CBGV biết cách
làm và vận dụng sáng
tạo.
Số CBGV sử dụng có
hiệu quả đồ dùng học

tập, đồ chơi đã làm.

Trước khi áp dụng

Sau khi áp dụng

Cấp độ
so sánh
Đạt
yêu
cầu tăng
20%
Đạt
yêu
cầu tăng
40%

Đạt yêu cầu= 60%
Không ĐYC=40%

Đạt yêu cầu= 80%
Không ĐYC= 20%

Đạt yêu cầu= 50%
Không ĐYC= 50%

Đạt yêu cầu= 90%
Không ĐYC=10%

Đạt yêu cầu= 57%

Không ĐYC= 43%

Đạt yêu cầu= 85.7%
Không ĐYC= 14.3%

Đạt
yêu
cầu tăng
28.7%

Đạt yêu cầu= 50%
Không ĐYC= 50%

Đạt yêu cầu= 5.7%
Không ĐYC= 14.3%

Đạt yêu cầu= 50%
Không ĐYC= 50%

Đạt yêu cầu= 78.6%
Không ĐYC= 21.4%

Đạt
yêu
cầu tăng
35.7%
Đạt
yêu
cầu tăng
28.6%


15


Việc áp dụng các biện pháp trên không chỉ giúp các cô giáo sáng tạo hơn
trong công tác làm ĐDĐC tự tạo, mà còn giúp các cô giáo phát huy hết tác dụng
của những đồ chơi đó nhằm phát triển ở trẻ một số kỹ năng như:
- Kỹ năng giao tiếp: Khi tham gia chơi những đồ chơi đó trẻ được hoạt
động cùng với bạn, khi chơi trẻ nhập mình vào vai chơi cùng với bạn chơi.
- Kỹ năng thể hiện cảm xúc: Trẻ biết cách thể hiện cảm xúc khi chơi
những đồ chơi mà trẻ thích thú và biết giao lưu tình cảm vói bạn và với đồ chơi đó.
- Kỹ năng thẩm mỹ: Trẻ biết yêu quý cái đẹp. Biết thể hiện những sắc
thái, động tác minh họa khi chơi đồ chơi.
- Kỹ năng nhận thức: Tạo điều kiện để trẻ có thêm những hiểu biết xã
hội, những kiến thức văn hóa, hay môi trường xung quanh trẻ.
Với kết quả trên đã chứng minh rằng đề tài thực nghiệm của tôi đã thành
công, các biện pháp tôi đề ra áp dụng vào thực tiễn là phù hợp và đạt hiệu quả cao.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân
* Bản thân tôi biết cách hướng dẫn chỉ đạo giáo viên làm nhiều loại đồ
dùng đồ chơi từ nguyên vật liệu thiên nhiên và phế liệu, và từ đó chỉ đạo tổ
chuyên môn, giáo viên một số kỹ năng làm ĐDĐC tốt hơn, các sản phẩm tạo ra
ngày càng phong phú, sáng tạo hơn.
* Giáo viên
- 100% giáo viên đã biết tận dụng thời gian như trong dịp nghỉ hè, hoặc
ngày nghỉ cuối tuần, các giờ hoạt động vui chơi trên lớp( hoạt dộng góc) kết hợp
cùng trẻ tạo ra them đồ dung đồ chơi phục vụ các góc chơi và các chủ đề chủ điểm.
- Khi làm đồ dung đồ chơi giáo viên đã chú ý độ bền, màu sắc của đồ
dung đồ chơi và tạo ra các loại đồ dung đồ chơi đẹp hấp dẫn thu hút trẻ.
- 100% giáo viên trong trường đã hưởng ứng cao với phong trào làm đồ

dùng đồ chơi tự tạo do nhà trường phát động, số lượng ĐDĐC trong toàn trường
tăng lên rõ rệt.
- Trong năm học, toàn trường đã làm được 90 thể loại ĐDĐC trong và
ngoài lớp học phục vụ cho hoạt động của các chủ đề. Tiết kiệm được khoảng
10.000.000tr đồng so với đồ dùng đồ chơi mua sẵn.
- 100% các nhóm lớp trang trí lớp phong phú, nổi bật các chủ đề. Đồ dùng
đồ chơi phong phú hấp dẫn trẻ. Những đồ dung, đồ chơi này kích thích trí tưởng
tượng, sự sáng tạo của trẻ. Trẻ có ý thức trân trọng, giữ gìn đồ chơi trong lớp
hơn.
- Chất lượng hoạt động của tổ chuyên môn, giáo viên và của trẻ cao hơn
so với đầu năm học - Đặc biệt là hoạt động tạo sản phẩm của trẻ.
* Phụ huynh:
- Trước đây phụ huynh chưa quan tâm nhiều và hiểu về tầm quan trọng
của việc làm đồ dung đồ chơi từ nguyên vật liệu thiên nhiên thì nay đã đóng góp
các nguyên vật liệu, phế liệu cho cô giáo chủ nhiệm để làm đồ dùng dạy học và
đồ chơi cho trẻ
Phụ huynh quan tâm hơn đến việc học của con và dành nhiều thời gian
làm đồ chơi và chơi cùng con và nhiều phụ huynh mang tặng cô những đồ dùng
đồ chơi mà phụ huynh làm được ở nhà.
16


* Kết quả trên trẻ
Sau khi áp dụng một số biện pháp trên, các lớp có nhiều ĐDĐC tự tạo hơn
giúp trẻ thích thú hơn mỗi khi được đến trường. Hứng thú tham gia vào các tiết
học và hứng thú vào các hoạt động vui chơi trẻ có nề nếp thói quen tốt trong các
giờ hoạt động và có ý thức bảo vệ môi trường, biết yêu quí cảnh vật thiên nhiên
xung quanh trẻ có ý thức cùng bạn giữ gìn, yêu quí đồ dùng đồ chơi của lớp của
trường.
* Về phía nhà trường

Các phong trào văn nghệ, ngày hội, ngày lễ trong năm và qua các hội thi
được phong phú đa dạng hơn về nội dung, hình thức biểu diễn.
10.3. Bài học kinh nghiệm
- Xây dựng kế hoạch hướng dẫn giáo viên làm đồ dùng đồ chơi ngay từ
đầu năm học một cách chi tiết, cụ thể, giao chỉ tiêu tới từng giáo viên, thường
xuyên đôn đốc, đánh giá kết quả của giáo viên. Có động viên kịp thời.
- Là một cán bộ quản lý cần chịu khó nghiên cứu, học hỏi, làm một số
ĐDĐC mẫu để chỉ đạo, phổ biến cho giáo viên.
- Xây dựng ý thức bản thân tìm kiếm, thu gom nguyên, vật liệu sẵn có từ
các lực lượng xã hội bằng nhiều hình thức làm phong phú thêm “ kho nguyên,
vật liệu ” sẵn có để làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ vào bất cứ lúc nào khi
có thời gian và nhu cầu.
- Làm tốt công tác tuyên truyền, phát huy được sức mạnh tổng hợp của
các bậc phụ huynh, các lực lượng xã hội trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu có
sẵn và tham gia làm đồ dùng học tập, đồ chơi tự tạo cho trẻ.
- Hướng dẫn giáo viên làm ĐDĐC từ nguyên vật liệu thiên nhiên và phế liệu.

- Tham mưu tổ chức tốt hội thi “Đồ dùng đồ chơi tự làm” nhằm phát huy
tính tích cực, khả năng sáng tạo…của giáo viên…
- Chỉ đạo giáo viên sử dụng có hiệu quả nguồn đồ dùng học tập, đồ chơi
đã làm được, đồng thời hướng dẫn trẻ chơi linh hoạt bằng nhiều cách chơi với
một đồ chơi, hay nói cách khác một đồ chơi mà có nhiều cách chơi sẽ tạo cơ hội
cho trẻ được trải nghiệm, sáng tạo, linh hoạt trong quá trình sử dụng đồ chơi phù
hợp với mỗi trò chơi, trên cơ sở đó giúp trẻ lĩnh hội được kiến thức, kỹ năng
một cách nhẹ nhàng nhất, hiệu quả nhất ngay chính trong quá trình chơi, quá
trình học tập và các hoạt động khác.
Như chúng ta đã thấy ngày nay đồ dùng học tập, đồ chơi rất đa dạng và
phong phú, cùng với sự phát triển của xã hội, khoa học kỹ thuật, đồ dùng học
tập, đồ chơi cũng hoàn thiện dần cùng với thời đại. Trong tương lai đồ dùng học
tập, đồ chơi hiện đại sẽ giúp trẻ tiếp cận với những tri thức tiên tiến nhưng tôi tin

tưởng rằng với những đồ dùng học tập, đồ chơi tự làm bằng các nguyên vật liệu
sẵn có ở đia phương nó vẫn mãi được phát huy tác dụng và sự sáng tạo của các
cô giáo mầm non được trẻ tiếp nhận một cách hứng thú bên cạnh đó phụ huynh
đồng tình ủng hộ bởi mỗi loại đồ dùng đồ chơi tự tạo mang phong cách, sự sáng
tạo, mầu sắc đa dạng sặc sỡ riêng, của mỗi cô giáo và của chính bản thân trẻ
chứa đựng trong những đồ dùng học tập, đồ chơi tự tạo gần gũi với trẻ được sử
dụng một cách rộng rãi, hứng thú có hiệu quả.

17


11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc
áp dụng sáng kiến lần đầu
Số
Tên tổ chức/cá
Địa chỉ
Phạm vi/lĩnh vực
TT
nhân
áp dụng sáng kiếm
1

Trường mầm non Thị trấn Hợp Hòa – Tam Trường mầm non
Hợp Hòa
Dương- Vĩnh Phúc
Hợp Hòa

Hợp Hòa, ngày tháng năm 2019
HIỆU TRƯỞNG


Hợp Hòa, ngày tháng 02 năm 2019
Tác giả sáng kiến
Vũ Thị Nga

.

18



×