Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

SKKN một số giải pháp để nâng cao chất lượng đại trà lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.64 KB, 30 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

HỒ SƠ XÉT CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN

- Tên sáng kiến: “Một số giải pháp để nâng cao chất lượng đại trà lớp 5”
- Tác giả: Phạm Thị Tịch
- Đơn vị công tác: Trường tiểu học Hương Sơn, huyện Bình Xuyên,
tỉnh Vĩnh Phúc.
- Chức vụ: Giáo viên.
- Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Tiểu học.

Hương Sơn, tháng 01 /2019
1


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện Bình Xuyên.
1.Tác giả sáng kiến: Phạm Thị Tịch
- Ngày tháng năm sinh:

26/08/1975

Nữ

- Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Hương Sơn.
- Chức danh: Giáo viên Tiểu học.
- Trình độ chuyên môn: Đại học Tiểu học.
- Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến : 100%


2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Phạm Thị Tịch
3. Tên sáng kiến; lĩnh vực áp dụng; mô tả bản chất của sáng kiến; các
thông tin cần được bảo mật (nếu có):
a. Tên sáng kiến: “ Một số giải pháp để nâng cao chất lượng đại trà lớp 5”
b. Lĩnh vực áp dụng: Áp dụng trong giảng dạy học sinh lớp 5.
c. Mô tả sáng kiến:
*Về nội dung của sáng kiến:
- Nhiều năm nay tôi được Ban giám hiệu phân công giảng dạy lớp 5, nhìn
chung chất lượng học tập của khối 5 chưa cao. Tỉ lệ học sinh hoàn thành tốt chỉ
đạt trên 30%, còn lại là số hoàn thành và chưa hoàn thành. Nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến thực trạng trên đó là:
- Về phía học sinh: Bản thân các em chưa có ý thức tự học, tự rèn luyện
ngại khó, ngại khổ. Học sinh không có khái niệm học bài và chuẩn bị bài trước
khi đến lớp. Khi đến trường chỉ tiếp thu được một ít kiến thức từ thầy cô, về nhà
xếp cặp vào xó để đi chơi hoặc đi làm giúp gia đình.
- Về phía phụ huynh học sinh: Trình độ dân trí không đồng đều, kinh tế
khó khăn, đa số phụ huynh chỉ mải lo kiếm sống, ít quan tâm đến việc học của
con cái. Tất cả đều phó mặc cho nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp.
- Về phía nhà trường: Cơ sở vật chất nhà trường còn thiếu nhiều: Trang
thiết bị dạy học, sách giáo khoa được cấp nhưng đã quá cũ và hư hỏng nhiều; tài
liệu, sách tham khảo chưa nhiều.
* Nội dung các bước thực hiện và giải pháp:
2


1. Xây dựng động cơ học tập cho học sinh.
2. Nâng cao công tác chủ nhiệm lớp.
3. Lựa chọn các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp.
1. Các biện pháp để tổ chức thực hiện:
Biện pháp 1: Xây dựng động cơ học tập cho học sinh:

Mục đích của biện pháp: Giúp học sinh hiểu rõ ý nghĩa và tầm quan trọng
của việc học tập – Đồng thời giáo dục các em lòng say mê ham học, tìm tòi kiến
thức, để từng bước nâng cao chất lượng học tập.
Học sinh Tiểu học nói chung học sinh các vùng nông thôn nói riêng, tinh
thần, thái độ học tập chưa cao. Các em chưa có ý thức học tập, lại rất ham chơi,
ít được sự quan tâm chăm sóc, chỉ bảo của gia đình. Bởi vậy giáo viên phải xây
dựng cho học sinh thái độ, tinh thần, động cơ học tập đúng đắn, nâng cao nhận
thức cho học sinh về tầm quan trọng của chuyện học, qua đó giáo dục cho các
em lòng say mê học tập, tự bản thân mình muốn khám phá, tìm tòi kiến thức.
*Cách thực hiện:
Qua các giờ lên lớp tôi thường lồng ghép phân tích cho học sinh hiểu về ý
nghĩa và tầm quan trọng của việc học. Giảng giải cho học sinh biết: hiện nay
loài người đã bước vào thế kỉ XXI, thế kỉ của khoa học công nghệ thông tin, nếu
không học thì sẽ bị tụt hậu không thể theo kịp với thời đại. Phân tích cho học
sinh hiểu từ những điều rất đơn giản như: sau này khi đã trưởng thành mà
không biết đọc, không biết viết hay không biết làm tính thì khó kiếm được việc
làm; không đọc được biển chỉ đường; không thể đọc sách, báo để biết thông tin;
không thể nuôi con khoẻ mạnh, dạy cho con cái mình học được; không thể sử
dụng được internet hoặc không thể gửi tin nhắn, không thể mua hoặc bán hàng
vì không biết tính.v.v. Sống trong thời đại công nghiệp hoá – hiện đại hoá, công
nghệ thông tin bùng nổ mà mù chữ thì con người ấy sẽ chìm trong bóng tối suốt
đời. Vì xã hội ngày một tiến lên, nông thôn cũng dần phát triển, cuộc sống sẽ
hiện đại hơn, đòi hỏi phải có trình độ văn hoá. Bây giờ và tương lai sẽ không
còn cảnh “Con trâu đi trước cái cày theo sau” nữa mà thay vào đó là chiếc máy
cày, máy bừa. Người nông dân sẽ cày ruộng, bừa ruộng bằng máy. Hay đơn giản
như vót đũa dùng để ăn hàng ngày, người ta không còn dùng tay vót đũa như
3


trước nữa, mà dùng bằng máy. Hay như trong chăn nuôi giờ đây các hộ gia đình

đều chuyển sang chăn nuôi quy mô lớn theo hướng hiện đại hóa, nếu không có
kiến thức, hiểu biết thì không thể áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất được.
Liên hệ tới các hộ chăn nuôi lớn ở trong xã. Vậy nếu không học thì làm sao biết
lái máy cày, máy bừa hoặc làm sao biết đứng máy để sản xuất ra đũa bán,chăn
nuôi để tăng thu nhập cho gia đình. Không có trình độ văn hoá thì sẽ khó phát
triển được kinh tế làm giàu cho chính mình và cho xã hội. Tôi thường diễn giải
cho học sinh rằng: chăn nuôi trồng trọt cũng cần đòi hỏi phải có trình độ văn hoá
mới áp dụng được khoa học kĩ thuật vào sản xuất, để tăng năng xuất cây trồng
v.v.. Chứng minh cho học sinh thấy được sự thiệt thòi khi không được đến
trường đi học. Không được học hành thì sau này cuộc sống sẽ vô cùng vất vả vì
không biết làm gì. Bởi vậy rất cần phải học, “Học - học nữa và học mãi”
Học sinh cần phải xác định được: Học để làm gì? Và làm sao phải học.
Được học sẽ mở mang được nhiều kiến thức: Biết giữ gìn, bảo vệ sức khoẻ bản
thân. Tôi giải thích, tâm sự những điều này trước giờ vào lớp, trong các giờ ra
chơi hoặc lồng ghép qua các tiết học. Hàng ngày tôi thường đến lớp sớm trước
khi vào lớp khoảng 10-15 phút. Trong quãng thời gian này, tôi thường hay ngồi
chơi đùa, tâm sự cùng các em tạo ra sự gần gũi, thân thiết giữa cô và trò. Vì vậy
các em rất quí mến tôi, nói chyện cùng tôi rất cởi mở, tôi dần dần khai thác
được những tình cảm, những suy nghĩ, những băn khoăn thắc mắc trong quá
trình học tập cũng như trong cuộc sống đời thường của các em. Nhiều học sinh
đã chủ động hỏi bài , hỏi về cách giải toán, hỏi cách làm một bài văn. Học sinh
hồ hởi, phấn khởi học tập, chỉ một thời gian ngắn chất lượng học tập của lớp
tôi được nâng lên rõ rệt. Như vậy việc học sinh chưa có ý thức học tập tốt, học
yếu có một phần không nhỏ là do các em chưa có động cơ học tập đúng. Chưa
hiểu hết ý nghĩa và tầm quan trọng của việc học tập. Chính vì vậy giáo viên phải
là người dẫn dắt giúp các em hiểu, xây dựng cho các em động cơ học tập tốt.Tuy
nhiên giáo viên không nên gây áp lực mà phải khéo léo gợi mở để học sinh tự
giác học tập. Với sự ân cần chỉ bảo tận tình cho các em những điều các em chưa
biết, không những giáo viên xây dựng được cho các em có ý thức học tập tốt mà
còn gây được trí tò mò tạo niềm hứng thú trong học tập cho học sinh.Chính vì

4


vậy, biện pháp: Xây dựng động cơ học tập cho học sinh là biện pháp khá quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh lớp 5.
Biện pháp 2: Nâng cao công tác chủ nhiệm lớp:
Mục đích của biện pháp: Giáo dục học sinh có tinh thần học tập tốt, yêu
trường, yêu lớp. Tăng cường mối liên hệ giữa giáo viên chủ nhiệm với gia đình
để tạo điều kiện cho học sinh có đủ đồ dùng học tập nâng cao chất lượng học
tập.
- Học sinh trong huyện nói chung , học sinh trường Tiểu học Hương Sơn
nói riêng có nhiều em khi đi học không học bài cũ, còn hay quên sách vở, đồ
dùng học tập. Cha mẹ các em do trình độ dân trí còn hạn chế, kinh tế khó khăn ,
đa số phụ huynh chỉ lo mải kiếm sống, ít quan tâm đến việc học của con cái. Tất
cả đều phó mặc cho nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp. Bởi vậy để nâng cao
được chất lượng học tập, cần phải làm tốt công tác chủ nhiệm lớp.
*Cách thực hiện:
- Ngay từ đầu năm học , cần phân loại học sinh , tìm hiểu hoàn cảnh của
từng em , phân tích lý do học yếu là do đâu.
- GV cần nghiên cứu kỹ mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học, nắm
chắc chuẩn kiến thức của khối lớp mình đang dạy , biết được khi học xong lớp
đó, các em cần nắm được chuẩn kiến thức và kĩ năng môn học và hoạt động giáo
dục.
- Nghiên cứ bài học và chuẩn bị kĩ bài trước khi lên lớp ; tự học hỏi đồng
nghiệp, những người đi trước, tự bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ để
tìm ra những biện pháp, hình thức tổ chức cho phù hợp với đối tượng học sinh
của lớp mình.
Tìm hiểu về đặc điểm tâm lí, hoàn cảnh gia đình, tính tình, sở thích từng
học sinh, nắm được quá trình tiếp thu bài của từng em. Nắm rõ trong lớp có bao
nhiêu học sinh học còn yếu, yếu ở đâu; có bao nhiêu học sinh chưa biết đặt tính:

cộng, trừ, nhân, chia... Đồng thời phát hiện những em có năng khiếu để phân
loại đối tượng học sinh, lập kế hoạch bồi dưỡng ngay từ đầu năm học, đề ra
mục tiêu cần đạt từng tháng, từng kì. Ví dụ: tháng 9;10 mục tiêu đề ra cần phụ
5


đạo bao nhiêu học sinh học lực yếu lên trung bình, từ trung bình lên khá và bồi
dưỡng bao nhiêu học sinh có học lực khá lên giỏi.
Với những học sinh học lực yếu; chưa có ý thức học tập; gia đình có hoàn
cảnh khó khăn. Đối với những đối tượng này, giáo viên cần phải hiểu được đặc
điểm của đối tượng này là: có tính rụt rè xa lánh bạn bè, thầy cô, thích quậy phá
hoặc ủ rũ , lủi thủi chơi một mình, thường hay nghỉ học, không có đủ đồ dùng
học tập. Với những học sinh này phải dùng tình cảm để cảm hoá, chẳng hạn: rủ
các em đến nhà chơi,cho em quyển vở hoặc cái bút, uốn nắn khuyên bảo em
nhẹ nhàng. Quan tâm chú ý tới cách ăn mặc của các em. Ngoài ra phải tìm ra
được nguyên nhân em học yếu để có cách bồi dưỡng.
Phối hợp chặt chẽ với gia đình, để theo dõi việc học sinh học bài cũ,
chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Hàng kỳ, tôi xin ý kiến với Ban Giám Hiệu để tổ
chức họp phụ huynh một lần, trong mỗi cuộc họp tôi nhẹ nhàng nhắc nhở
những trường hợp học sinh còn yếu, không nói trước cuộc họp mà gặp riêng phụ
huynh để trao đổi. Cuộc họp phụ huynh là những buổi nói chuyện tâm tình trao
đổi tình hình học tập, rèn luyện của các em ở trường đồng thời tôi khéo léo
tìm hiểu thêm về việc học của học sinh ở nhà. Việc tổ chức họp phụ huynh hàng
kì, là rất cần thiết vì không những thông báo kết quả học tập, rèn luyện của học
sinh ở trường mà còn làm công tác tuyên truyền nhắc nhở phụ huynh quan tâm
mua sắm đồ dùng học tập. Việc thiết lập được mối quan hệ giữa giáo viên chủ
nhiệm với gia đình xoá bỏ được tình trạng học sinh đi học quên sách vở, quên
bút. Học sinh đi học đầy đủ, lại có đủ đồ dùng học tập. Đây là yếu tố quan trọng
giúp giáo viên nâng cao được chất lượng học tập của học sinh.
Tóm lại: Công tác chủ nhiệm lớp giữ vị trí vai trò đặc biệt quan trọng vì

giáo viên không những tiến hành giảng dạy kiến thức mà còn làm nhiệm vụ giáo
dục học sinh thông qua giảng dạy và tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp, là người dạy chủ yếu của lớp đồng thời tổ chức lãnh đạo, điều hành,
kiểm tra, đánh giá mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử trong phạm vi lớp
mình phụ trách, cũng là người thay mặt Hội đồng nhà trường, cha mẹ quản lí
tập thể học sinh và là cầu nối giữa nhà trường với gia đình để nâng cao chất
lượng toàn diện để làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục. Tình thương và sự ân
6


cần của giáo viên chủ nhiệm là liều thuốc đặc trị giúp cho học sinh có niềm tin,
có lòng say mê học tập. Khi học sinh đã có niềm tin với thầy cô, có lòng say mê
học tập thì các em sẽ có tinh thần tự giác trong học tập và đạt được kết quả cao.
Biện pháp 3: Lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp:
Mục đích của biện pháp: Giúp cho học sinh nhanh hiểu , tiếp thu bài tốt,
hứng thú học tập.
Đặc trưng của học sinh yếu là: rụt rè, e thẹn, không mạnh dạn trước đám
đông, đặc biệt là tiếp thu bài chậm vì các em còn rụt rè trong giao tiếp. Vì vậy
Phương pháp, hình thức tổ chức dạy học đa dạng, phong phú là biện pháp không
thể thiếu trong việc nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh vùng nông thôn.
Giáo viên không chỉ cung cấp cho học sinh những tri thức, kĩ năng cần thiết mà
còn phải truyền tải đến cho các em cả lương tâm, tình cảm và trách nhiệm của
chính mình.
*Cách thực hiện: Chuẩn bị bài chu đáo trước khi lên lớp. Tìm phương
pháp dạy từng môn, từng bài học phù hợp với đối tượng học sinh. Hình thức tổ
chức dạy học đa dạng phong phú nhằm thu hút được tất cả đối tượng học sinh
tham gia học tập. Giáo viên phải nắm chắc cách dạy từng loại bài của từng phân
môn, chẳng hạn dạy môn Toán:
* Đối với bài lí thuyết:
- Phần lí thuyết: tôi thường dành thời gian tối đa khoảng 20 phút ( Có thể

nhiều thời gian hơn tuỳ từng bài học): mỗi đơn vị kiến thức cơ bản, tôi tổ chức
thành một hoạt động (kể cả hoạt động củng cố kiến thức, kĩ năng chuẩn bị cho
học nội dung mới), tạo điều kiện cho học sinh chủ động tham gia các hoạt động(
có sự hỗ trợ của đồ dùng học tập) giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức. Để học
sinh dễ tiếp thu bài, khi ghi bảng chỉ cần trình bày bảng đơn giản cụ thể như:
Ghi đầu bài dạy, tóm tắt đề, hình vẽ, công thức, bài giải các bài tập.
- Phần luyện tập: Học sinh chủ yếu làm việc cá nhân, giáo viên quan sát
tổng thể cả lớp, giúp đỡ những học sinh còn lúng túng, tránh giao việc bình
quân, hướng dẫn chi tiết, tránh sử dụng học sinh khá giỏi làm việc thay cả
lớp.Yêu cầu tất cả học sinh đều phải hoàn thành ít nhất hai bài tập.
7


* Đối với bài luyện tập thực hành: Cách dạy như dạy phần luyện tập trong
tiết lí thuyết.
* Đối với bài: Dạy đại lượng và đơn vị đo đại lượng. Hình thành biểu
tượng cho học sinh bằng cách sử dụng đồ dùng trực quan và kinh nghiệm thực
tiễn, sau đó mới dẫn dắt học sinh đọc , viết đơn vị đo, khắc sâu mối quan hệ giữa
đơn vị đo mới với các đơn vị đo đã học trong cùng một đại lượng, dành thời
gian cho học sinh thực hành đo và ước lượng.
* Đối với bài: Dạy các yếu tố hình học: - Hình thành biểu tượng hình học
trên cơ sở quan sát thực tiễn và các hình học đã biết, yêu cầu học sinh ban đầu
nắm được dạng tổng thể, sau nâng dần mức độ, đi sâu vào đặc điểm và các yếu
tố của hình. Chú ý rèn kĩ năng vẽ hình cho học sinh.
* Đối với bài: Dạy giải toán có lời văn: tôi thường cho học sinh tự tìm và
nêu được yêu cầu của đề bài, sau đó tự tóm tắt đề, tự trình bày bài giải, chỉ gợi ý,
trợ giúp khi thực sự cần thiết. Chữa bài tỉ mỉ và chính xác.
Giáo viên nắm được mục tiêu bài học, thiết kế bài dạy, xây dựng hình thức tổ
chức dạy học phù hợp với lớp học.
Đối với các em học sinh có lực học còn yếu, phải tìm hiểu một lượng

kiến thức lớn và khó như vậy là rất khó khăn cho các em. Với cách làm như trên
học sinh rất ham học, thu hút được tất cả các trình độ học tập trong lớp, học sinh
học yếu cũng hồ hởi tham gia. Tôi thường tạo điều kiện cho những học sinh yếu
trả lời những câu hỏi mà các em có thể trả lời được, ưu tiên cho đối tượng này
những câu hỏi dễ, bài tập phù hợp để dần dần đưa các em vào guồng máy hoạt
động của cả lớp. Dùng cách “ mưa dầm thấm lâu” không nóng vội kết quả.
Ngoài ra cần phải động viên khen ngợi, tuyên dương trước lớp về sự tiến bộ của
các em. Qua mỗi bài học, mỗi phân môn cần có những hình thức tổ chức dạy
học khác nhau, biết dẫn dắt học sinh đi từ cái hay này đến tri thức mới lạ khác,
gây trí tò mò tạo niềm hứng thú học tập. Ngoài phương pháp, hình thức tổ chức
dạy học phù hợp, giáo viên phải hướng dẫn các em cách học trên lớp cũng như ở
nhà sao cho đạt hiệu quả.
Đối với việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp:
8


Tôi thường hướng dẫn học sinh lập thời gian biểu, ghi rõ từng công việc
gắn liền với thời gian cụ thể. Chuẩn bị bài theo thời khoá biểu,cụ thể như sau:
-Xem thời khóa biểu, chuẩn bị kĩ nội dung bài học của tiết học hôm trước,
nếu không xem lại nội dung bài hôm trước thì sẽ quyên mất kiến thức đã học và
cũng không thể tiếp thu được bài mới.
- Sắp xếp sách, vở, đồ dùng học tập mà tiết trước giáo viên nhắc chuẩn bị
cho giờ học tới.
Việc học trên lớp:
- Duy trì nề nếp kiểm tra bài cũ, chữa bài tập thường xuyên, kiểm tra đồ
dùng học tập với nhiều hình thức: giáo viên kiểm tra hoặc cán sự lớp, bạn cùng
bàn kiểm tra lẫn nhau.
- Xây dựng đôi bạn cùng tiến để giúp đỡ lẫn nhau, tổ chức thi đua từng
cặp đôi bạn, cuối tháng cho học sinh bình chọn cặp đôi bạn tiến bộ nhất ghi vào
sổ theo dõi. Cuối kì bình chọn đôi bạn nào học tiến bộ, và ghi được nhiều thành

tích nhất trao giải thưởng, để động viên. Giải thưởng bằng hiện vật đơn giản
như: quyển vở, quyển sách truyện hoặc chiếc bút. Tuy đơn giản nhưng có sức
thuyết phục hấp dẫn, lôi cuốn học sinh tích cực học tập, các cặp đôi bạn thi đua
và giúp đỡ lẫn nhau học tập tốt. Theo dõi sự tiến bộ của học sinh qua từng tuần,
từng tháng, từng kì. Thay đổi phương pháp dạy theo hướng tích cực phù hợp
từng môn, từng bài. Tuần cuối cùng của tháng, tôi thường phối hợp với tổ khối
tổ chức cho học sinh trong khối giao lưu tìm hiểu về các kiến thức đã học như:
thi giải toán nhanh, thi kể chuyện, thi đọc thơ, thi tìm hiểu về kiến thức Khoa,
Sử, Địa. Với cách làm này không những học sinh lớp tôi chủ nhiệm mà học sinh
của cả khối đều phấn khởi hồ hởi học tập. Ngoài ra phải đặc biệt chú trọng dạy
học sinh cách học,
Ví dụ: Đối với môn Toán: Hướng dẫn học sinh cách chuẩn bị bài ở nhà, tôi
thường yêu cầu học sinh nghiên cứu kĩ bài và xem trước bài tập trong sách giáo
khoa.
Còn khi học trên lớp: Dành nhiều thời gian cho học sinh được thực hành.
Tổ chức thi giải toán nhanh, đố vui, thi điền nhanh điền đúng kết quả. Đảm bảo
tất cả học sinh được tham gia, tạo không khí lớp học vui vẻ, thoải mái .
9


Đối với học sinh còn yếu:
- Giáo viên luôn quan tâm , gần gũi để tìm hiểu tâm lý của các em , yêu
thương các em bằng cả tấm lòng của người cha, người mẹ, người thầy làm sao
để các em tin tưởng tâm sự những khúc mắc mà các em mắc phải trong quá
trình học.Vì hầu hết các em học yếu thường rất tự ti, rụt rè, nhút nhát.Giáo viên
cần để các em xóa đi những mặc cảm, sợ, sệt, làm sao để các em thấy thầy cô
như một người bạn , một chỗ dựa vững chắc khi các em cần.
- Cần lựa chọn các hình thức tổ chức gây hứng thú đối với các em, lôi
cuốn các em vào bài học bằng các trò chơi, các câu đố… quan tâm đến các em
trong từng giờ học .

- Giáo viên cần lựa chọn đưa những bài tập đơn giản , phù hợp với nhận
thức của các em để gây hứng thú, sau đó mới nâng dần độ khó lên. Hướng dẫn
các em biết cách đọc yêu cầu , phân tích đề , nhận dạng đề vì những em học yếu
thường hay nhầm các dạng bài hoặc không nhận dạng được bài đó thuộc dạng
nào.
- Hướng dẫn các em cách tự học, nếu gặp bài khó hoặc những điều chưa
hiểu có thể hỏi thầy , hỏi bạn.
- Cần động viên khuyến khích học sinh dù đó là những tiến bộ rất
nhỏ.Một lời khen đúng lúc sẽ rất hiệu quả .Cần tránh thái độ miệt thị với các em
học yếu để tránh làm cho các em chán học , và cần tế nhị khi nhắc nhở để tránh
làm tổn thương các em.
- Thường xuyên nhận xét , chữa bài thường xuyên để phát hiện những lỗi
sai của các em dù đó là những lỗi nhỏ như trình bày khi nói hoặc viết.
- Phối kết hợp các phương pháp và hình thức tổ chức giờ học phù hợp với
từng môn học , từng bài học.
- GV cố gắng đảm bảo kiên trì và liên tục phụ đạo cho các em có thể vào
đầu giờ hoặc cuối giờ …
- Phối hợp với các giáo viên cùng khối mình để bàn bạc, tìm cách tháo gỡ.
- Tổ chức các nhóm học tập, phối hợp giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, tổ chức
đôi bạn cùng tiến.
10


- Tổ chức các cuộc thi đua giữa các tổ , các cá nhân trong lớp để các em
có cơ hội thể hiện mình , động viên các em chuẩn bị tốt đồ dùng , sách vở khi
đến lớp.
- Khéo léo kết hợp với gia đình để có biện pháp giáo dục tốt nhất .
- Phối kết hợp tốt 3 môi trường giáo dục: gia đình, nhà trường , xã hội..
Đối với môn Tiếng Việt:
Hướng dẫn học sinh học bài mới ở nhà, tôi thường yêu cầu học sinh:

+) Với phân môn Tập đọc: Tôi yêu cầu học sinh đọc bài trước vài lần, tìm
hiểu kĩ cách đọc, tập đọc diễn cảm và tập trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa.
+) Phân môn Chính tả : Yêu cầu học sinh đọc trước bài cần viết vài lần,
tập chép bài đó vào vở nhà.
Khi giảng bài mới: Sử dụng tích cực các hình thức dạy học theo mô hình
trường học mới như: Hoạt động nhóm, thảo luận nhóm, hoạt động chung cả lớp.
GV chỉ là người tổ chức , học sinh là người thực hiện.
Mỗi môn học, mỗi bài học phải có những hình thức tổ chức học tập khác nhau
thì mới thu hút được học sinh học tập tốt. Khi giao nhiệm vụ học tập cho học
sinh phải vừa sức, không rập khuôn trong sách giáo khoa. Vì những học sinh
học yếu thường ngại suy nghĩ, ngại học. Đối với những HS khá giỏi ngoài bài tập
trong sách giáo khoa cần phải giao thêm bài tập nâng cao.
Tóm lại: Giáo viên cần phải biết lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp
với lớp, quan tâm chú trọng tới những em học sinh có lực học còn yếu, tạo điều
kiện để học sinh tích cực chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức.Với biện pháp
này , tôi đã giúp được học sinh hứng thú học tập, biết cách học từng phân môn
sao dễ nhớ, dễ thuộc. Rèn được thói quen học bài cũ ở nhà và sự chuẩn bị bài
trước khi đến lớp. Xây dựng cho học sinh ý thức học tập tốt biết tự rèn luyện
phấn đấu vươn lên, học tập đạt hiệu quả cao.
* NGHIỆM THU KẾT QUẢ:
Qua quá trình giảng dạy, tìm hiểu về tình hình thực tế của lớp, của địa
phuơng và điều kiện thực tế của nhà trường tôi đã suy nghĩ tìm tòi vận dụng
phối hợp nhiều phương pháp dạy học. Tổ chức đa dạng các hoạt động dạy và
học, đồng thời đúc rút kinh nghiệm từ bản thân, từ bạn bè đồng nghiêp, áp dụng
11


triệt để những biện pháp tôi trình bày ở trên nên kết quả chất lượng lớp tôi phụ
trách nhiều năm nay luôn là lớp nằm trong tốp đầu toàn trường về mọi mặt (học
lực, hạnh kiểm). Kết quả học tập khả quan: Những học sinh học yếu có sự tiến bộ

rõ rệt, nhiều học sinh học lực trung bình đã đạt được khá, giỏi.
Dưới đây là bảng số liệu chất lượng học tập cuối học kì I và kết quả khảo sát
giữa học kì II của khối 5 với sĩ số 116 học sinh.
* Năm học :2017-2018
Kết quả khảo sát cuối học kì I

10 - 9
8-7
SL
TL
SL
TL
Toán
27 23,3%
35
30,1%
T. V
25 21,6%
32
26,6%
Kết quả khảo sát giữa học kì II:
Môn

Môn
Toán
T. V

10 - 9
SL
TL

30
25,9%
28
24,1%

6-5
SL
TL
50
43,2%
54 47,5%

8-7
SL
37
35

TL
31,9%
30,1%

Dưới 5
SL
TL
4
3,4%
5 4,3%

6-5
SL

49
52

Dưới 5
TL
SL
TL
41,3% 1
0,9%
44,9% 1
0,9%

d. Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Ngay từ đầu năm học, Ban giám hiệu nhà trường đã tổ chức các buổi sinh
hoạt chuyên môn để giáo viên bày tỏ và chia sẻ những khó khăn trong quá trình
dạy học rồi từ đó có biện pháp tháo gỡ sao cho việc dạy và học đạt hiệu quả.
Xác định việc “ Nâng cao chất lượng đại trà” trong nhà trường là một vấn đề rất
khó khăn, nhà trường phối hợp với tổ chuyên môn trong trường học tập sáng
kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp nâng cao chất lượng đại trà lớp 5. Qua
nghiên cứu nội dung sáng kiến, giáo viên trong trường nhận thấy tính thực tiễn,
cần thiết và hiệu quả mà sáng kiến mang lại. Do vậy sáng kiến đã được áp dụng
trong dạy và học của học sinh toàn trường của năm học 2017 – 2018.
2. Những thông tin cần bảo mật: không
3. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Bản thân mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp ngay từ những buổi học đầu tiên
cần phải nắm được tình hình học tập, hoàn cảnh của mỗi học sinh trong lớp, để
có biện pháp dạy học cụ thể đối với mỗi học sinh.
12



- Kiểm tra sách vở và đồ dùng học tập của học sinh để có biện pháp bổ
sung sách vở, đồ dùng học tập ngay từ đầu năm học. Vì nếu thiếu sách,vở và đồ
dùng học tập thì các em không học tốt được.
- Giáo viên cần nắm vững nội dung, chương trình sách giáo khoa; lựa
chọn các phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tăng
cường khuyến khích giáo viên tự làm đồ dùng học tập, sử dụng đồ dùng, thiết bị
và ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình giảng dạy trên lớp. Thêm vào đó,
người giáo viên phải nhiệt tình, yêu nghề, yêu trẻ, có tinh thần trách nhiệm cao
trong giảng dạy.
4. Khả năng áp dụng sáng kiến cho những đối tượng: Học sinh các khối lớp 5
trong trường tiểu học.
Tôi làm đơn này trân trọng đề nghị Hội đồng sáng kiến xem xét và công nhận
sáng kiến. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự
thật, không xâm phạm quyền sử hữu trí tuệ của người khác và hoàn toàn chịu
trách nhiệm về thông tin đã nêu trong đơn.
Hương Sơn, ngày 16 tháng 01năm 2019.
Người viết đơn:

Phạm Thị Tịch

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG TH HƯƠNG SƠN
Số:02/NX-THHS

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hương Sơn, ngày 25 tháng 1 năm 2019

BẢN NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ

13


VÀ ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện Bình Xuyên
Trường tiểu học Hương Sơn nhận được đơn đề nghị công nhận sáng kiến
của bà Phạm Thị Tịch
- Ngày tháng năm sinh:

26/08/1975

Nữ

- Đơn vị công tác: Trường tiểu học Hương Sơn- Bình Xuyên- Vĩnh Phúc.
- Chức danh: Giáo viên.
- Trình độ chuyên môn: Đại học Sư Phạm Tiểu học.
- Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến (ghi rõ đối với từng đồng
tác giả, nếu có): 100%
- Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến (nếu có):Phạm Thị Tịch
- Tên sáng kiến: “Một số giải pháp để nâng cao chất lượng đại trà lớp 5”
- Lĩnh vực áp dụng: Áp dụng trong giảng dạy học sinh lớp 5.
Sau khi nghiên cứu đơn đề nghị công nhận sáng kiến.
- Tôi tên là………..
- Chức vụ………
Thay mặt (phòng, ban, trường…) nhận xét, đánh giá như sau:
1.Đối tượng được công nhận sáng kiến: Là giải pháp nào trong các giải
pháp nêu dưới đây:
- Giải pháp kỹ thuật:………………………………………………….
- Giải pháp quản lý:…………………………………………………..
- Giải pháp tác nghiệp:……………………………………………….

- Giải pháp ứng dụng tiến bộ kỹ thuật:………………………………
2. Nhận xét, đánh giá về nội dung sáng kiến: Nêu rõ quan điểm của cá
nhân theo các nội dung (bằng cách trả lời các câu hỏi sau đây):
a) Đảm bảo tính mới, tính sáng tạo: ….vì
- Không trùng với nội dung của giải pháp trong đơn đăng ký sáng kiến
nộp trước;
- Chưa bị bộc lộ công khai trong các văn bản, sách báo, tài liệu kỹ thuật
đến mức căn cứ vào đó có thể thực hiện ngay được;
- Không trùng với giải pháp của người khác đã được áp dụng hoặc áp
dụng thử, hoặc đưa vào kế hoạch áp dụng, phổ biến hoặc chuẩn bị các điều kiện
để áp dụng, phổ biến;
- Chưa được quy định thành tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm bắt buộc
phải thực hiện.
14


(Trường hợp chưa đảm bảo tính mới, tính sáng tạo thì trả lời rõ chưa đạt,
lý do)
b) Giải pháp có khả năng mang lại lợi ích thiết thực:
- Mang lại hiệu quả kinh tế: (nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí
sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, nâng cao hiệu quả kỹ thuật)
- Mang lại lợi ích xã hội: (nâng cao điều kiện an toàn lao động, cải thiện
điều kiện sống, làm việc, bảo vệ môi trường, sức khỏe con người)
c) Về khả năng áp dụng của sáng kiến cho những đối tượng, cơ quan, tổ
chức nào....
3. Kiến nghị đề xuất:
- Nêu rõ đề xuất của mình (công nhận hay không công nhận sáng kiến)
- Phòng, ban (Trường)….Đề nghị Hội đồng sáng kiến xét công nhận (hoặc
không công nhận) sáng kiến
Xin trân trọng cảm ơn./.

HIỆU TRƯỞNG
(Ký ghi rõ họ và tên)

.

Nguyễn Quỳnh Liên.

Mã số

15


- Tên sáng kiến: “Một số giải pháp để nâng cao chất lượng đại trà lớp 5”
- Lĩnh vực áp dụng: Áp dụng trong giảng dạy học sinh lớp 5.
- Họ tên tác giả: Phạm Thị Tịch
- Đơn vị công tác: Trường tiểu học Hương Sơn.

Hương Sơn, tháng 01/2019

Họ tên, chữ ký người chấm điểm

Điểm

Mã số

16


Người số 1:……………………………………….
Người số 2:……………………………………….

-Tên sáng kiến: “ Một số giải pháp để nâng cao chất lượng đại trà lớp 5”
- Mô tả sáng kiến:
* Về nội dung của sáng kiến:
- Nhiều năm nay tôi được Ban giám hiệu phân công giảng dạy lớp 5, nhìn
chung chất lượng học tập của khối 5 chưa cao. Tỉ lệ học sinh hoàn thành tốt chỉ
đạt trên 30%, còn lại là số hoàn thành và chưa hoàn thành. Nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến thực trạng trên đó là:
- Về phía học sinh: Bản thân các em chưa có ý thức tự học, tự rèn luyện
ngại khó, ngại khổ. Học sinh không có khái niệm học bài và chuẩn bị bài trước
khi đến lớp. Khi đến trường chỉ tiếp thu được một ít kiến thức từ thầy cô, về nhà
xếp cặp vào xó để đi chơi hoặc đi làm giúp gia đình.
- Về phía phụ huynh học sinh: Trình độ dân trí không đồng đều, kinh tế
khó khăn, đa số phụ huynh chỉ mải lo kiếm sống, ít quan tâm đến việc học của
con cái. Tất cả đều phó mặc cho nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp.
- Về phía nhà trường: Cơ sở vật chất nhà trường còn thiếu nhiều: Trang
thiết bị dạy học, sách giáo khoa được cấp nhưng đã quá cũ và hư hỏng nhiều; tài
liệu, sách tham khảo chưa nhiều.
* Nội dung các bước thực hiện và giải pháp:
1. Xây dựng động cơ học tập cho học sinh.
2. Nâng cao công tác chủ nhiệm lớp.
3. Lựa chọn các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp.
1. Các biện pháp để tổ chức thực hiện:
Biện pháp 1: Xây dựng động cơ học tập cho học sinh:
Mục đích của biện pháp: Giúp học sinh hiểu rõ ý nghĩa và tầm quan trọng
của việc học tập – Đồng thời giáo dục các em lòng say mê ham học, tìm tòi kiến
thức, để từng bước nâng cao chất lượng học tập.
Học sinh Tiểu học nói chung học sinh các vùng nông thôn nói riêng, tinh
thần, thái độ học tập chưa cao. Các em chưa có ý thức học tập, lại rất ham chơi,
ít được sự quan tâm chăm sóc, chỉ bảo của gia đình. Bởi vậy giáo viên phải xây
17



dựng cho học sinh thái độ, tinh thần, động cơ học tập đúng đắn, nâng cao nhận
thức cho học sinh về tầm quan trọng của chuyện học, qua đó giáo dục cho các
em lòng say mê học tập, tự bản thân mình muốn khám phá, tìm tòi kiến thức.
*Cách thực hiện:
Qua các giờ lên lớp tôi thường lồng ghép phân tích cho học sinh hiểu về ý
nghĩa và tầm quan trọng của việc học. Giảng giải cho học sinh biết: hiện nay
loài người đã bước vào thế kỉ XXI, thế kỉ của khoa học công nghệ thông tin, nếu
không học thì sẽ bị tụt hậu không thể theo kịp với thời đại. Phân tích cho học
sinh hiểu từ những điều rất đơn giản như: sau này khi đã trưởng thành mà
không biết đọc, không biết viết hay không biết làm tính thì khó kiếm được việc
làm; không đọc được biển chỉ đường; không thể đọc sách, báo để biết thông tin;
không thể nuôi con khoẻ mạnh, dạy cho con cái mình học được; không thể sử
dụng được internet hoặc không thể gửi tin nhắn, không thể mua hoặc bán hàng
vì không biết tính.v.v. Sống trong thời đại công nghiệp hoá – hiện đại hoá, công
nghệ thông tin bùng nổ mà mù chữ thì con người ấy sẽ chìm trong bóng tối suốt
đời. Vì xã hội ngày một tiến lên, nông thôn cũng dần phát triển, cuộc sống sẽ
hiện đại hơn, đòi hỏi phải có trình độ văn hoá. Bây giờ và tương lai sẽ không
còn cảnh “Con trâu đi trước cái cày theo sau” nữa mà thay vào đó là chiếc máy
cày, máy bừa. Người nông dân sẽ cày ruộng, bừa ruộng bằng máy. Hay đơn giản
như vót đũa dùng để ăn hàng ngày, người ta không còn dùng tay vót đũa như
trước nữa, mà dùng bằng máy. Hay như trong chăn nuôi giờ đây các hộ gia đình
đều chuyển sang chăn nuôi quy mô lớn theo hướng hiện đại hóa, nếu không có
kiến thức, hiểu biết thì không thể áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất được.
Liên hệ tới các hộ chăn nuôi lớn ở trong xã. Vậy nếu không học thì làm sao biết
lái máy cày, máy bừa hoặc làm sao biết đứng máy để sản xuất ra đũa bán,chăn
nuôi để tăng thu nhập cho gia đình. Không có trình độ văn hoá thì sẽ khó phát
triển được kinh tế làm giàu cho chính mình và cho xã hội. Tôi thường diễn giải
cho học sinh rằng: chăn nuôi trồng trọt cũng cần đòi hỏi phải có trình độ văn hoá

mới áp dụng được khoa học kĩ thuật vào sản xuất, để tăng năng xuất cây trồng
v.v.. Chứng minh cho học sinh thấy được sự thiệt thòi khi không được đến
18


trường đi học. Không được học hành thì sau này cuộc sống sẽ vô cùng vất vả vì
không biết làm gì. Bởi vậy rất cần phải học, “Học - học nữa và học mãi”
Học sinh cần phải xác định được: Học để làm gì? Và làm sao phải học.
Được học sẽ mở mang được nhiều kiến thức: Biết giữ gìn, bảo vệ sức khoẻ bản
thân. Tôi giải thích, tâm sự những điều này trước giờ vào lớp, trong các giờ ra
chơi hoặc lồng ghép qua các tiết học. Hàng ngày tôi thường đến lớp sớm trước
khi vào lớp khoảng 10-15 phút. Trong quãng thời gian này, tôi thường hay ngồi
chơi đùa, tâm sự cùng các em tạo ra sự gần gũi, thân thiết giữa cô và trò. Vì vậy
các em rất quí mến tôi, nói chyện cùng tôi rất cởi mở, tôi dần dần khai thác
được những tình cảm, những suy nghĩ, những băn khoăn thắc mắc trong quá
trình học tập cũng như trong cuộc sống đời thường của các em. Nhiều học sinh
đã chủ động hỏi bài , hỏi về cách giải toán, hỏi cách làm một bài văn. Học sinh
hồ hởi, phấn khởi học tập, chỉ một thời gian ngắn chất lượng học tập của lớp
tôi được nâng lên rõ rệt. Như vậy việc học sinh chưa có ý thức học tập tốt, học
yếu có một phần không nhỏ là do các em chưa có động cơ học tập đúng. Chưa
hiểu hết ý nghĩa và tầm quan trọng của việc học tập. Chính vì vậy giáo viên phải
là người dẫn dắt giúp các em hiểu, xây dựng cho các em động cơ học tập tốt.Tuy
nhiên giáo viên không nên gây áp lực mà phải khéo léo gợi mở để học sinh tự
giác học tập. Với sự ân cần chỉ bảo tận tình cho các em những điều các em chưa
biết, không những giáo viên xây dựng được cho các em có ý thức học tập tốt mà
còn gây được trí tò mò tạo niềm hứng thú trong học tập cho học sinh.Chính vì
vậy, biện pháp: Xây dựng động cơ học tập cho học sinh là biện pháp khá quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh lớp 5.
Biện pháp 2: Nâng cao công tác chủ nhiệm lớp:
Mục đích của biện pháp: Giáo dục học sinh có tinh thần học tập tốt, yêu

trường, yêu lớp. Tăng cường mối liên hệ giữa giáo viên chủ nhiệm với gia đình
để tạo điều kiện cho học sinh có đủ đồ dùng học tập nâng cao chất lượng học
tập.
- Học sinh trong huyện nói chung , học sinh trường Tiểu học Hương Sơn
nói riêng có nhiều em khi đi học không học bài cũ, còn hay quên sách vở, đồ
dùng học tập. Cha mẹ các em do trình độ dân trí còn hạn chế, kinh tế khó khăn ,
19


đa số phụ huynh chỉ lo mải kiếm sống, ít quan tâm đến việc học của con cái. Tất
cả đều phó mặc cho nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp. Bởi vậy để nâng cao
được chất lượng học tập, cần phải làm tốt công tác chủ nhiệm lớp.
*Cách thực hiện:
- Ngay từ đầu năm học , cần phân loại học sinh , tìm hiểu hoàn cảnh của
từng em , phân tích lý do học yếu là do đâu.
- GV cần nghiên cứu kỹ mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học, nắm
chắc chuẩn kiến thức của khối lớp mình đang dạy , biết được khi học xong lớp
đó, các em cần nắm được chuẩn kiến thức và kĩ năng môn học và hoạt động giáo
dục.
- Nghiên cứ bài học và chuẩn bị kĩ bài trước khi lên lớp ; tự học hỏi đồng
nghiệp, những người đi trước, tự bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ để
tìm ra những biện pháp, hình thức tổ chức cho phù hợp với đối tượng học sinh
của lớp mình.
Tìm hiểu về đặc điểm tâm lí, hoàn cảnh gia đình, tính tình, sở thích từng
học sinh, nắm được quá trình tiếp thu bài của từng em. Nắm rõ trong lớp có bao
nhiêu học sinh học còn yếu, yếu ở đâu; có bao nhiêu học sinh chưa biết đặt tính:
cộng, trừ, nhân, chia... Đồng thời phát hiện những em có năng khiếu để phân
loại đối tượng học sinh, lập kế hoạch bồi dưỡng ngay từ đầu năm học, đề ra
mục tiêu cần đạt từng tháng, từng kì. Ví dụ: tháng 9;10 mục tiêu đề ra cần phụ
đạo bao nhiêu học sinh học lực yếu lên trung bình, từ trung bình lên khá và bồi

dưỡng bao nhiêu học sinh có học lực khá lên giỏi.
Với những học sinh học lực yếu; chưa có ý thức học tập; gia đình có hoàn
cảnh khó khăn. Đối với những đối tượng này, giáo viên cần phải hiểu được đặc
điểm của đối tượng này là: có tính rụt rè xa lánh bạn bè, thầy cô, thích quậy phá
hoặc ủ rũ , lủi thủi chơi một mình, thường hay nghỉ học, không có đủ đồ dùng
học tập. Với những học sinh này phải dùng tình cảm để cảm hoá, chẳng hạn: rủ
các em đến nhà chơi,cho em quyển vở hoặc cái bút, uốn nắn khuyên bảo em
nhẹ nhàng. Quan tâm chú ý tới cách ăn mặc của các em. Ngoài ra phải tìm ra
được nguyên nhân em học yếu để có cách bồi dưỡng.
20


Phối hợp chặt chẽ với gia đình, để theo dõi việc học sinh học bài cũ,
chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Hàng kỳ, tôi xin ý kiến với Ban Giám Hiệu để tổ
chức họp phụ huynh một lần, trong mỗi cuộc họp tôi nhẹ nhàng nhắc nhở
những trường hợp học sinh còn yếu, không nói trước cuộc họp mà gặp riêng phụ
huynh để trao đổi. Cuộc họp phụ huynh là những buổi nói chuyện tâm tình trao
đổi tình hình học tập, rèn luyện của các em ở trường đồng thời tôi khéo léo
tìm hiểu thêm về việc học của học sinh ở nhà. Việc tổ chức họp phụ huynh hàng
kì, là rất cần thiết vì không những thông báo kết quả học tập, rèn luyện của học
sinh ở trường mà còn làm công tác tuyên truyền nhắc nhở phụ huynh quan tâm
mua sắm đồ dùng học tập. Việc thiết lập được mối quan hệ giữa giáo viên chủ
nhiệm với gia đình xoá bỏ được tình trạng học sinh đi học quên sách vở, quên
bút. Học sinh đi học đầy đủ, lại có đủ đồ dùng học tập. Đây là yếu tố quan trọng
giúp giáo viên nâng cao được chất lượng học tập của học sinh.
Tóm lại: Công tác chủ nhiệm lớp giữ vị trí vai trò đặc biệt quan trọng vì
giáo viên không những tiến hành giảng dạy kiến thức mà còn làm nhiệm vụ giáo
dục học sinh thông qua giảng dạy và tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp, là người dạy chủ yếu của lớp đồng thời tổ chức lãnh đạo, điều hành,
kiểm tra, đánh giá mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử trong phạm vi lớp

mình phụ trách, cũng là người thay mặt Hội đồng nhà trường, cha mẹ quản lí
tập thể học sinh và là cầu nối giữa nhà trường với gia đình để nâng cao chất
lượng toàn diện để làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục. Tình thương và sự ân
cần của giáo viên chủ nhiệm là liều thuốc đặc trị giúp cho học sinh có niềm tin,
có lòng say mê học tập. Khi học sinh đã có niềm tin với thầy cô, có lòng say mê
học tập thì các em sẽ có tinh thần tự giác trong học tập và đạt được kết quả cao.
Biện pháp 3: Lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp:
Mục đích của biện pháp: Giúp cho học sinh nhanh hiểu , tiếp thu bài tốt,
hứng thú học tập.
Đặc trưng của học sinh yếu là: rụt rè, e thẹn, không mạnh dạn trước đám
đông, đặc biệt là tiếp thu bài chậm vì các em còn rụt rè trong giao tiếp. Vì vậy
Phương pháp, hình thức tổ chức dạy học đa dạng, phong phú là biện pháp không
thể thiếu trong việc nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh vùng nông thôn.
21


Giáo viên không chỉ cung cấp cho học sinh những tri thức, kĩ năng cần thiết mà
còn phải truyền tải đến cho các em cả lương tâm, tình cảm và trách nhiệm của
chính mình.
*Cách thực hiện: Chuẩn bị bài chu đáo trước khi lên lớp. Tìm phương
pháp dạy từng môn, từng bài học phù hợp với đối tượng học sinh. Hình thức tổ
chức dạy học đa dạng phong phú nhằm thu hút được tất cả đối tượng học sinh
tham gia học tập. Giáo viên phải nắm chắc cách dạy từng loại bài của từng phân
môn, chẳng hạn dạy môn Toán:
* Đối với bài lí thuyết:
- Phần lí thuyết: tôi thường dành thời gian tối đa khoảng 20 phút ( Có thể
nhiều thời gian hơn tuỳ từng bài học): mỗi đơn vị kiến thức cơ bản, tôi tổ chức
thành một hoạt động (kể cả hoạt động củng cố kiến thức, kĩ năng chuẩn bị cho
học nội dung mới), tạo điều kiện cho học sinh chủ động tham gia các hoạt động(
có sự hỗ trợ của đồ dùng học tập) giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức. Để học

sinh dễ tiếp thu bài, khi ghi bảng chỉ cần trình bày bảng đơn giản cụ thể như:
Ghi đầu bài dạy, tóm tắt đề, hình vẽ, công thức, bài giải các bài tập.
- Phần luyện tập: Học sinh chủ yếu làm việc cá nhân, giáo viên quan sát
tổng thể cả lớp, giúp đỡ những học sinh còn lúng túng, tránh giao việc bình
quân, hướng dẫn chi tiết, tránh sử dụng học sinh khá giỏi làm việc thay cả
lớp.Yêu cầu tất cả học sinh đều phải hoàn thành ít nhất hai bài tập.
* Đối với bài luyện tập thực hành: Cách dạy như dạy phần luyện tập trong
tiết lí thuyết.
* Đối với bài: Dạy đại lượng và đơn vị đo đại lượng. Hình thành biểu
tượng cho học sinh bằng cách sử dụng đồ dùng trực quan và kinh nghiệm thực
tiễn, sau đó mới dẫn dắt học sinh đọc , viết đơn vị đo, khắc sâu mối quan hệ giữa
đơn vị đo mới với các đơn vị đo đã học trong cùng một đại lượng, dành thời
gian cho học sinh thực hành đo và ước lượng.
* Đối với bài: Dạy các yếu tố hình học: - Hình thành biểu tượng hình học
trên cơ sở quan sát thực tiễn và các hình học đã biết, yêu cầu học sinh ban đầu
nắm được dạng tổng thể, sau nâng dần mức độ, đi sâu vào đặc điểm và các yếu
tố của hình. Chú ý rèn kĩ năng vẽ hình cho học sinh.
22


* Đối với bài: Dạy giải toán có lời văn: tôi thường cho học sinh tự tìm và
nêu được yêu cầu của đề bài, sau đó tự tóm tắt đề, tự trình bày bài giải, chỉ gợi ý,
trợ giúp khi thực sự cần thiết. Chữa bài tỉ mỉ và chính xác.
Giáo viên nắm được mục tiêu bài học, thiết kế bài dạy, xây dựng hình thức tổ
chức dạy học phù hợp với lớp học.
Đối với các em học sinh có lực học còn yếu, phải tìm hiểu một lượng
kiến thức lớn và khó như vậy là rất khó khăn cho các em. Với cách làm như trên
học sinh rất ham học, thu hút được tất cả các trình độ học tập trong lớp, học sinh
học yếu cũng hồ hởi tham gia. Tôi thường tạo điều kiện cho những học sinh yếu
trả lời những câu hỏi mà các em có thể trả lời được, ưu tiên cho đối tượng này

những câu hỏi dễ, bài tập phù hợp để dần dần đưa các em vào guồng máy hoạt
động của cả lớp. Dùng cách “ mưa dầm thấm lâu” không nóng vội kết quả.
Ngoài ra cần phải động viên khen ngợi, tuyên dương trước lớp về sự tiến bộ của
các em. Qua mỗi bài học, mỗi phân môn cần có những hình thức tổ chức dạy
học khác nhau, biết dẫn dắt học sinh đi từ cái hay này đến tri thức mới lạ khác,
gây trí tò mò tạo niềm hứng thú học tập. Ngoài phương pháp, hình thức tổ chức
dạy học phù hợp, giáo viên phải hướng dẫn các em cách học trên lớp cũng như ở
nhà sao cho đạt hiệu quả.
Đối với việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp:
Tôi thường hướng dẫn học sinh lập thời gian biểu, ghi rõ từng công việc
gắn liền với thời gian cụ thể. Chuẩn bị bài theo thời khoá biểu,cụ thể như sau:
-Xem thời khóa biểu, chuẩn bị kĩ nội dung bài học của tiết học hôm trước,
nếu không xem lại nội dung bài hôm trước thì sẽ quyên mất kiến thức đã học và
cũng không thể tiếp thu được bài mới.
- Sắp xếp sách, vở, đồ dùng học tập mà tiết trước giáo viên nhắc chuẩn bị
cho giờ học tới.
Việc học trên lớp:
- Duy trì nề nếp kiểm tra bài cũ, chữa bài tập thường xuyên, kiểm tra đồ
dùng học tập với nhiều hình thức: giáo viên kiểm tra hoặc cán sự lớp, bạn cùng
bàn kiểm tra lẫn nhau.
23


- Xây dựng đôi bạn cùng tiến để giúp đỡ lẫn nhau, tổ chức thi đua từng
cặp đôi bạn, cuối tháng cho học sinh bình chọn cặp đôi bạn tiến bộ nhất ghi vào
sổ theo dõi. Cuối kì bình chọn đôi bạn nào học tiến bộ, và ghi được nhiều thành
tích nhất trao giải thưởng, để động viên. Giải thưởng bằng hiện vật đơn giản
như: quyển vở, quyển sách truyện hoặc chiếc bút. Tuy đơn giản nhưng có sức
thuyết phục hấp dẫn, lôi cuốn học sinh tích cực học tập, các cặp đôi bạn thi đua
và giúp đỡ lẫn nhau học tập tốt. Theo dõi sự tiến bộ của học sinh qua từng tuần,

từng tháng, từng kì. Thay đổi phương pháp dạy theo hướng tích cực phù hợp
từng môn, từng bài. Tuần cuối cùng của tháng, tôi thường phối hợp với tổ khối
tổ chức cho học sinh trong khối giao lưu tìm hiểu về các kiến thức đã học như:
thi giải toán nhanh, thi kể chuyện, thi đọc thơ, thi tìm hiểu về kiến thức Khoa,
Sử, Địa. Với cách làm này không những học sinh lớp tôi chủ nhiệm mà học sinh
của cả khối đều phấn khởi hồ hởi học tập. Ngoài ra phải đặc biệt chú trọng dạy
học sinh cách học,
Ví dụ: Đối với môn Toán: Hướng dẫn học sinh cách chuẩn bị bài ở nhà, tôi
thường yêu cầu học sinh nghiên cứu kĩ bài và xem trước bài tập trong sách giáo
khoa.
Còn khi học trên lớp: Dành nhiều thời gian cho học sinh được thực hành.
Tổ chức thi giải toán nhanh, đố vui, thi điền nhanh điền đúng kết quả. Đảm bảo
tất cả học sinh được tham gia, tạo không khí lớp học vui vẻ, thoải mái .
Đối với học sinh còn yếu:
- Giáo viên luôn quan tâm , gần gũi để tìm hiểu tâm lý của các em , yêu
thương các em bằng cả tấm lòng của người cha, người mẹ, người thầy làm sao
để các em tin tưởng tâm sự những khúc mắc mà các em mắc phải trong quá
trình học.Vì hầu hết các em học yếu thường rất tự ti, rụt rè, nhút nhát.Giáo viên
cần để các em xóa đi những mặc cảm, sợ, sệt, làm sao để các em thấy thầy cô
như một người bạn , một chỗ dựa vững chắc khi các em cần.
- Cần lựa chọn các hình thức tổ chức gây hứng thú đối với các em, lôi
cuốn các em vào bài học bằng các trò chơi, các câu đố… quan tâm đến các em
trong từng giờ học .
24


- Giáo viên cần lựa chọn đưa những bài tập đơn giản , phù hợp với nhận
thức của các em để gây hứng thú, sau đó mới nâng dần độ khó lên. Hướng dẫn
các em biết cách đọc yêu cầu , phân tích đề , nhận dạng đề vì những em học yếu
thường hay nhầm các dạng bài hoặc không nhận dạng được bài đó thuộc dạng

nào.
- Hướng dẫn các em cách tự học, nếu gặp bài khó hoặc những điều chưa
hiểu có thể hỏi thầy , hỏi bạn.
- Cần động viên khuyến khích học sinh dù đó là những tiến bộ rất
nhỏ.Một lời khen đúng lúc sẽ rất hiệu quả .Cần tránh thái độ miệt thị với các em
học yếu để tránh làm cho các em chán học , và cần tế nhị khi nhắc nhở để tránh
làm tổn thương các em.
- Thường xuyên nhận xét , chữa bài thường xuyên để phát hiện những lỗi
sai của các em dù đó là những lỗi nhỏ như trình bày khi nói hoặc viết.
- Phối kết hợp các phương pháp và hình thức tổ chức giờ học phù hợp với
từng môn học , từng bài học.
- GV cố gắng đảm bảo kiên trì và liên tục phụ đạo cho các em có thể vào
đầu giờ hoặc cuối giờ …
- Phối hợp với các giáo viên cùng khối mình để bàn bạc, tìm cách tháo
gỡ.
- Tổ chức các nhóm học tập, phối hợp giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, tổ chức
đôi bạn cùng tiến.
- Tổ chức các cuộc thi đua giữa các tổ , các cá nhân trong lớp để các em
có cơ hội thể hiện mình , động viên các em chuẩn bị tốt đồ dùng , sách vở khi
đến lớp.
- Khéo léo kết hợp với gia đình để có biện pháp giáo dục tốt nhất .
- Phối kết hợp tốt 3 môi trường giáo dục: gia đình, nhà trường , xã hội..
Đối với môn Tiếng Việt:
Hướng dẫn học sinh học bài mới ở nhà, tôi thường yêu cầu học sinh:
+) Với phân môn Tập đọc: Tôi yêu cầu học sinh đọc bài trước vài lần, tìm
hiểu kĩ cách đọc, tập đọc diễn cảm và tập trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa.
25



×