Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

SKKN một số biện pháp xây dựng nề nếp lớp học nhằm nâng cao ý thức học tập cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.76 KB, 22 trang )

TÊN
CƠ QUAN
CHỦ
QUẢN
PHÒNG
GD&ĐT
TAM
DƯƠNG
TÊN
ĐƠN
VỊ
TRƯỜNG TIỂU HỌC HỢP THỊNH
=====***=====

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

BÁO CÁO KẾT QUẢ

NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến: “Một số biện pháp xây dựng nề nếp lớp học nhằm
nâng cao ý thức học tập cho học sinh”
Tác giả sáng kiến: Vũ Thị Huệ
Mã sáng kiến: 8

Tam Dương, năm 2018


1. Lời giới thiệu
Trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, việc đào


tạo thế hệ trẻ trở thành những người lao động có ích cho xã hội là việc làm cấp
bách và cần thiết, đòi hỏi sự dày công của người giáo viên chủ nhiệm, bởi yêu
cầu ngày càng cao của xã hội. Bên cạnh đó những tệ nạn xã hội đang tồn tại và
diễn ra ngay trước mắt các em nó cũng chính là động lực lôi cuốn các em vào
những thói hư tật xấu. Vì vậy, người giáo viên phải vừa là người mẹ dịu dàng,
vừa là người thầy nghiêm khắc, người bạn gần gũi, trọng tài phân minh, ...
Thành công của giáo viên của người giáo viên là làm cho học sinh tôn trọng,
kính yêu, tin tưởng, là xây dựng được một tập thể lớp đoàn kết, gắn bó, có nề
nếp tốt, học tập tốt. Trong thực tế, nếu học sinh không có nề nếp thì việc giáo
dục và dạy học sinh trên lớp sẽ không đạt hiệu quả cao. Đi đôi với chất lượng kết quả học tập, công tác xây dựng nề nếp cho học sinh là một trong những
nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu của giáo viên tiểu học.
Từ tình hình thực tế tôi nhận thấy, người giáo viên chủ nhiệm lớp hết
sức quan trọng trong việc hướng dẫn, chỉ đạo lớp và đào tạo thế hệ trẻ theo mục
đích giáo dục toàn diện. Người giáo viên chủ nhiệm lớp đóng vai trò quan trọng:
Vừa là thầy dạy học vừa là người cha, người mẹ và cũng có lúc phải là người
bạn tốt nhất của các em. Từ đó có thể uốn nắn các em đi theo quỹ đạo của mình.
Giáo viên có chỉ đạo, quản lí lớp tốt thì mới dẫn đến việc giảng dạy tốt. Khi mọi
hoạt động có nề nếp tốt sẽ giúp học sinh có tính tự lập, nghiêm túc, tích cực
trong học tập và lao động, phát huy tính tự giác học tập của các em, nâng cao vai
trò của hội đồng tự quản lớp học. Mặt khác, nề nếp lớp tốt sẽ làm tăng chất
lượng dạy và học, đồng thời rèn luyện cho học sinh đạo đức, tác phong tốt góp
phần hình thành nhân cách con người.
Với các lý do trên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp xây
dựng nề nếp lớp học nhằm nâng cao ý thức học tập cho học sinh” để nghiên cứu
với mục đích tìm ra biện pháp tối ưu để:
- Kích thích sự phát triển mọi mặt, phát triển toàn diện học sinh lớp
mình chủ nhiệm.
- Phát huy tối đa về nâng cao tinh thần tự quản trong lớp, sôi nổi trong
học tập, trong hoạt động vui chơi.
- Phát huy sự mạnh dạn trong giao tiếp, tự tin về bản thân học sinh.

- Giúp học sinh trung thực, đoàn kết.
- Hình thành một số kĩ năng sống cho học sinh.
- Chăm học chăm làm, tích cực tham gia các hoạt động giáo dục, lao
động, thể dục thể thao, văn nghệ.
- Tự giác học tập ở trường cũng như ở nhà.

1


- Phát huy tối đa tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong môi trường
tập thể trường, lớp và bên ngoài.
- Phát huy vai trò phối hợp của phụ huynh học sinh, giáo viên bộ môn
trong công tác giáo dục.
- Tạo sự đoàn kết một lòng trong tập thể học sinh.
- 100 % học sinh của lớp thực hiện đầy đủ năm nhiệm vụ của người học
sinh.
- 100 % học sinh của lớp hoàn thành chương trình tiểu học với kết quả
cao.
Tôi xin được trình bày sáng kiến :“Một số biện pháp xây dựng nề nếp lớp
học nhằm nâng cao ý thức tự học cho học sinh” trước Hội đồng sáng kiến các
cấp. Rất mong các đồng chí đóng góp ý kiến cho tôi để sáng kiến kinh nghiệm
này ngày một hoàn thiện hơn và có chất lượng tốt hơn.
2. Tên sáng kiến
Một số biện pháp xây dựng nề nếp lớp học nhằm nâng cao ý thức tự học
cho học sinh.
3. Tác giả sang kiến
- Họ và tên: Vũ Thị Huệ
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Hợp Thịnh – Tam Dương – Vĩnh
Phúc.
- Số điện thoại: 0349614819 .E_mail:

4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
Nhà giáo viên: Vũ Thị Huệ. Trường Tiểu học Hợp Thịnh – Tam Dương –
Vĩnh Phúc.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Công tác chủ nhiệm lớp ở trường Tiểu học.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
Ngày 05 tháng 9 năm 2017.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1 Nội dung của sáng kiến
7.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh lớp3 trường Tiểu học Hợp Thịnh năm học 2017 – 2018.
2


- Học sinh lớp 4 trường Tiểu học Hợp Thịnh năm học 2018 – 2019.
7.1.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát nhận xét.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá, nhận xét.
- Phương pháp trò chuyện.
- Tuyên dương, khen thưởng.
- Điều tra, tổng hợp.
7.1.3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Một số biện pháp xây dựng nề nếp lớp học nhằm nâng cao ý thức tự học
cho học sinh.
7.1.4. Cơ sở của vấn đề
Nề nếp là thói quen giữ gìn những cách làm việc hợp lí và sự sinh hoạt có
kỉ luật, có trật tự, có tổ chức.
Ngôi trường Tiểu học chính là ngôi nhà chung đầu đời của mỗi con người.
Ở nơi ấy, mỗi một thầy cô giáo lại là người mẹ thứ hai dạy cho học sinh tất cả
những kiến thức đầu tiên, những kỹ năng đầu tiên, trang bị cho các em một hành

trang lớn để các em bước dần đến tương lai. Vậy, người thầy ở đây phải nắm giữ
một vai trò vô cùng quan trọng. Vai trò là một người dìu dắt, người hướng dẫn,
người ảnh hưởng và người trang bị cho học sinh tất cả về kiến thức và kỹ năng
sống hàng ngày của chính các em.
Một nét đặc thù ở cấp Tiểu học là mỗi giáo viên đứng lớp đều là một giáo
viên chủ nhiệm (loại trừ giáo viên bộ môn). Vì thế, để làm tốt công tác chủ
nhiệm lớp, theo tôi việc đầu tiên của mỗi giáo viên chủ nhiệm là phải nhận thức
rõ về vai trò chủ nhiệm của chính mình.
Thầy cô chủ nhiệm các em là những người có uy tín với các em nhất, là
người mà các em luôn yêu quý, tin tưởng nhất, phục tùng nhất, các em nghe lời
thầy cô chủ nhiệm của mình là trên hết. Thầy cô giáo chủ nhiệm có ảnh hưởng
rất lớn đến mọi hoạt động và sự phát triển của học sinh, Bởi vây:
- Người giáo viên chủ nhiệm phải là một người quản lý tốt, quản lý chặt
chẽ, cụ thể, chi tiết và toàn diện. Giáo viên chủ nhiệm phải có tri thức về mọi
mặt kể cả tri thức về tâm lý giáo dục. Giáo viên chủ nhiệm phải có kỹ năng sư
phạm, biết tiếp cận, phán đoán học sinh khéo léo và đúng đắn với học sinh trong
hoạt động dạy học và giáo dục.

3


- Người giáo viên chủ nhiệm phải là người cố vấn cho các hoạt động tự
quản của tập thể học sinh. Để phát huy tốt vai trò cố vấn giáo viên chủ nhiệm
cần có năng lực đánh giá và dự báo chính xác khả năng dự báo của học sinh, có
khả năng kích thích khả năng sáng tạo của các em, lôi cuốn tất cả học sinh tham
gia vào các hoạt động của lớp, hướng dẫn học sinh xây dựng kế hoạch giáo dục
toàn diện, đồng thời theo dõi, giúp đỡ học sinh thực hiện kế hoạch đó. Lưu ý, cố
vấn không có nghĩa là khoán trắng hay đứng ngoài hoạt động của học sinh mà
phải cùng hoạt động, kịp thời giúp học sinh tháo gỡ những khó khăn, tranh thủ
các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm tạo điều kiện thuận lợi

cho học sinh và tập thể học sinh tiến hành thành công các hoạt động, tạo động
lực cho học sinh trong những hoạt động tiếp theo.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp là cầu nối giữa tập thể học sinh với các lực
lượng giáo dục trong nhà trường. Đây là một việc không đơn giản, đòi hỏi giáo
viên chủ nhiệm chẳng những phải có trách nhiệm cao, say sưa với nghề, yêu
thương học sinh mà còn phải có năng lực thuyết phục, có khả năng thiết lập
quan hệ tốt đẹp với các lực lượng giáo dục, biết xây dựng và giữ gìn uy tín, có ý
chí vượt khó, không ngại thử thách, đặc biệt trong những trường hợp cần đấu
tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của học sinh, kiên định thực hiện lý tưởng
giáo dục thế hệ trẻ.
- Giáo viên chủ nhiệm là người tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục
ngoài nhà trường. Hiệu quả giáo dục học sinh phụ thuộc không nhỏ vào khả
năng phối hợp và phát huy tiềm năng của các lực lượng giáo dục ngoài nhà
trường (gia đình, các đoàn thể xã hội, cộng đồng, dân cư, …) về mọi mặt nhằm
thực hiện nội dung giáo dục đối với lớp chủ nhiệm. Dựa vào đặc điểm, điều kiện
của nhà trường, lớp cộng đồng, gia đình học sinh mà giáo viên chủ nhiệm tổ
chức phối hợp các lực lượng giáo dục trên.
Giáo viên chủ nhiệm không chỉ biết cách phối hợp tốt với gia đình học
sinh mà còn là người tổ chức bồi dưỡng nhận thức lý luận giáo dục cho các bậc
cha mẹ khi cần thiết. Gia đình là nơi các em sinh ra và lớn lên từ nhỏ, thời gian
các em ở nhà chiếm nhiều thời gian ở trường. Vì vậy bố mẹ và các thành viên
trong gia đình cần phối hợp để giáo dục các em.
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân tôi thấy rằng: Sản phẩm giáo
dục mà chúng ta tạo ra không thể biết trước chính xác kết quả như bao sản phẩm
của ngành nghề khác. Vì vậy, để làm tốt công tác giáo dục chúng ta cần phải thật
kiên trì, nhẫn nại, chịu khó và phải chịu tốn nhiều thời gian, công sức để tìm
hiểu tâm tư nguyện vọng của học sinh và đặc biệt là phải có tấm lòng yêu
thương, nhân ái của người thầy.
4



7.1.5. Thực trạng của vấn đề
Năm học 2017 - 2018 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công chủ
nhiệm lớp 3A.
a. Thuận lợi
- Đa số học sinh lớp tôi nhà gần trường. Tất các em đi học đúng độ tuổi,
ngoan ngoãn, lễ phép.
- Trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy tương đối đầy đủ cho từng
khối lớp nên giờ học rất sinh động.
- Đội ngũ giáo viên luôn đoàn kết, có tinh thần trách nhiệm cao, thường
xuyên trao đổi và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cùng nhau dạy tốt.
- Được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường tạo mọi điều
kiện thuận lợi để giáo viên an tâm công tác.
- Ban đại diện Hội phụ huynh học sinh của lớp, trường rất nhiệt tình gắn
bó với các hoạt động của nhà trường về mọi mặt, góp phần động viên cán bộ,
giáo viên nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Đa số phụ huynh đã nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của giáo
dục, đặc biệt là giáo dục tiểu học. Họ đã có ý thức tự giác, thái độ tích cực trong
việc giáo dục con em mình.
- Mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình học sinh chặt chẽ, khăng khít.
b. Khó khăn
Là một trường nằm trên địa bàn xã trung du, nên học sinh lớp tôi chủ yếu
là con em nông dân, công nhân, cha mẹ các em còn trẻ ham lao động nên các em
còn thiếu sự quan tâm, nhắc nhở của cha mẹ, đa số các em chưa có ý thức tự học.
Có những em rất ngoan, rất có ý thức, nhưng hoàn cảnh kinh tế gia đình
lại khó khăn, không có thời gian học tập, nên kết quả đạt được không cao.
Một số em gia đình có điều kiện đầy đủ cho các em nhưng các em lại ham chơi,
không chú ý học tập.
Còn có một số phụ huynh học sinh có tư tưởng khoán trắng cho nhà
trường và thầy cô trong việc giáo dục con em mình.

Một số em học yếu không có hứng thú học tập, rụt rè, không tự tin khi đến lớp.
Vẫn không ít học sinh chưa chuẩn bị bài và đồ dùng học tập trước khi đến
lớp.
Học sinh còn nhỏ hay quên và có nhiều học sinh nam nên rất hiếu động.
5


Thầy và trò còn bỡ ngỡ với mô hình trường tiểu học mới.
7.1.6. Một số giải pháp mới
7.1.6.1. Điều tra thực trạng đầu năm học
a. Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh
Nhà giáo dục học K.Đ.Usinxki nói: “Muốn giáo dục cho con người mọi
mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt”. Công tác chủ nhiệm đòi hỏi phải hiểu
học sinh một cách đầy đủ, cụ thể và toàn diện nhằm có thể lựa chọn những tác
động sư phạm phù hợp, có khả năng mang lại hiệu quả cao nhất. Thực tiễn giáo
dục đã cho thấy nhiều trường hợp thất bại đáng tiếc của giáo viên thậm chí gây
thương tổn nặng nề cho cả hai phía do các thầy cô không hiểu biết đầy đủ về học
sinh. Hiểu học sinh còn là điều kiện cần trong việc thiết lập quan hệ giao tiếp
thuận lợi giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh, là tiền đề cho việc hình thành
tình cảm thầy trò thông hiểu, gắn bó.
Năm học 2017 – 2018 này tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3A, sau khi
nhận lớp xong, tôi tiến hành điều tra lí lịch của từng học sinh. Vì muốn hiểu kĩ
học sinh, tôi phải biết rõ gia đình các em.
Lớp 3A có 34 học sinh trong đó có 21 học sinh nữ, 13 học sinh nam.
Không có học sinh lưu ban.
* Trước tiên, tôi tìm hiểu sơ lược về thành phần gia đình từng cá nhân học
sinh. Tôi đã phát cho các em phiếu điều tra:
GIỚI THIỆU BẢN THÂN
1. Họ và tên: ....................................................................................
2. Là con thứ: ...................................................trong gia đình

3. Hoàn cảnh gia đình (Giàu, khá, đủ ăn, nghèo) .......................................
4. Kết quả học tập năm trước: .................................................
5. Họ tên cha: ................................; tuổi: ............... nghề nghiệp .....................
6. Họ tên mẹ: ................................; tuổi: ............... nghề nghiệp .....................
7. Môn học yêu thích: .....................................................................................
8. Môn học còn gặp khó khăn: .......................................................................
9. Góc học tập ở nhà: (có, không) .............................................................
10. Sở thích: ..............................................................................................
11. Địa chỉ gia đình: .................................................................................
12. Số điện thoại của cha hoặc mẹ: ...........................................................
6


Qua phiếu điều tra này tôi có các thông tin sau:
- Cha mẹ làm nông: 17/ 34
- Cha mẹ làm công nhân: 11/ 34
- Cha mẹ buôn bán: 0/ 34
- Cha mẹ làm tự do: 03/ 34
- Cha mẹ là viên chức nhà nước: 0/34
* Hoàn cảnh gia đình:
- Số học sinh sống cùng với bố mẹ: 33/ 34
- Số học sinh sống cùng mẹ: 01/34 (do không có cha)
- Số học sinh sống cùng ông bà: 0/ 33 (do bố mẹ đi làm ăn xa)
- Số học sinh có hoàn cảnh khá: 09/ 34
- Số học sinh có hoàn cảnh đủ ăn: 23/ 34
- Số học sinh có hoàn cảnh khó khăn: 01/ 34
* Sự quan tâm của mỗi gia đình đối với học sinh:
- 25 em có góc học tập riêng, số còn lại không có góc học tập riêng.
- 18 em được bố, mẹ hoặc anh chị kiểm tra, nhắc nhở việc học ở nhà.
- 34 em có đầy đủ sách vở và dụng cụ học tập.

* Về tình trạng sức khỏe:
- Sức khỏe bình thường: 32/34 học sinh.
- Mắt không tốt: 3/34 học sinh.
- Sức khỏe yếu: 02/34 học sinh.
Qua việc tìm hiểu trên có thể giúp tôi lựa chọn được những phương pháp giáo
dục phù hợp đối với từng học sinh. Đặc biệt, sau khi tìm hiểu được hoàn cảnh
của các em, tôi nhận thấy rằng muốn các em thật sự tin yêu và gắn bó với mình
thì bản thân tôi phải đến với các em bằng tấm lòng của người thầy, bằng tình
cảm của một người chị, của một người bạn. Vì trẻ em không phải em nào cũng
có tính cách giống nhau. Có em khi sai phạm ta phải hết sức nghiêm khắc,
nhưng cũng có em thì các hình thức trách phạt không phải là biện pháp tốt để
uốn nắn, sửa chữa mà ta lại phải mềm mỏng, nhẹ nhàng phân tích lỗi lầm của trẻ
mới nhận ra.
b. Điều tra tình hình học tập
7


- Với học sinh, sau ba tháng nghỉ hè, quả là một khoảng thời gian khá dài
khiến các em quên đi kiến thức cũ. Chính vì lẽ đó mà tôi luôn phải có sự chắt
lọc kiến thức đầu năm chính xác, để có phương pháp giáo dục thích hợp nhất với
sự tiếp thu của từng học sinh.
- Kết hợp ngay trong tuần ổn định, tôi kiểm tra phần đọc và viết của học
sinh bằng các bài viết chính tả, đọc văn. Qua đó tôi thấy chữ viết của các em
phần lớn rất xấu, sai chính tả, nhiều em đọc bài rất chậm. Cụ thể như: Quang
Khánh, Ngọc Khánh, Hào, Kiên.
- Sau 1 tuần ổn định, tôi tiếp tục tiến hành kiểm tra kiến thức về Toán học,
dựa vào chương trình mà các em đã học ở lớp 2. Để nắm rõ tình hình học tập
của các em như thế nào? Kết quả như sau:
TSH
S


Giỏi
TS

34

3

%

Khá
TS

0,9

11

%

Trung bình
TS
%

Yếu
TS

%

32,3


11

09

26,4

32,3

Từ kết quả trên, tôi nhận thấy phần lớn các em đã quên kiến thức cũ, có
những em không thực hiện được phép tính đơn giản.
Bên cạnh đó, nề nếp lớp học không có, còn gây mất trật tự trong giờ học,
còn tình trạng học sinh làm việc riêng trong giờ học. Hơn nữa các em chưa tự ý
thức được các việc trong lớp cũng như nội quy ra vào lớp, nội quy của nhà
trường đề ra. Để ổn định học sinh và đưa nề nếp của các em đi vào quỹ đạo của
mình là điều rất khó và phải mất một thời gian dài mới ổn định được.
Bên cạnh đó, ngay trong tuần đầu của năm học, tôi đã gặp gỡ giáo viên
chủ nhiệm năm lớp 2 (năm học trước), giáo viên bộ môn để nắm tình hình, xem
lại kết quả học tập của các em qua sổ chủ nhiệm, nghiên cứu sổ bàn giao của
năm học trước, đặc biệt là phần nhận xét của giáo viên trong việc theo dõi quá
trình học tập, nhằm có kế hoạch rèn luyện cho các em đạt kết quả cao hơn. Tôi
đã thống kê và phân loại như sau:
- Về mặt đạo đức: Bản thân đã điều tra học sinh trong lớp xem em nào đã
thực hiện đầy đủ năm nhiệm vụ của người học sinh, em nào chưa thực hiện đầy
đủ năm nhiệm vụ của người học sinh. Để có kế hoạch bồi dưỡng, giáo dục cho
các em.
- Về tình hình học tập trong giờ học trên lớp:
+ Học khá giỏi, hoạt bát, có ý thức xây dựng bài, ngoan ngoãn: (4 em)
8



+ Học khá, ngoan nhưng thụ động: (10 em)
+ Học trung bình, tiếp thu bài chậm, thụ động: (14 em)
+ Học còn yếu tính toán khá chậm (6 em). Trong trường hợp này có 3 em
đọc còn chậm, đi học không chú ý theo dõi bài và làm bài, gây mất trật tự trong
lớp, 5 em còn viết sai nhiều lỗi chính tả.
Biết được đặc điểm, tính cách, sức học của từng em, tôi đã tiến hành sắp
xếp chỗ ngồi cho phù hợp. Một em nghe kém ngồi phía trên gần bảng hơn
những bạn khác. Những em thấp, nhỏ ngồi trước, những em cao lớn ngồi phía
sau. Tôi sắp xen kẽ giữa những học sinh khá, giỏi là những học sinh trung bình,
yếu. Đặc biệt là những em nghịch được tôi bố trí ở chỗ tôi dễ quan sát và ngồi
cạnh những em hiền ngoan, lễ phép, chăm học để những em này có cơ hội học ở
bạn những điều mình chưa có.
Bản thân tôi luôn xác định rằng, tìm hiểu nắm vững đối tượng giáo dục
không phải là việc làm có thời hạn, chóng vánh trong một, hai ngày, cũng không
phải là công việc chỉ được tiến hành trong giai đoạn đầu mới nhận lớp mà phải
là công việc thường xuyên, liên tục trong suốt năm học sao cho có thể hiểu học
sinh một cách cập nhật, đầy đủ, toàn diện và sâu sắc nhất.
Với những thực trạng trên, để xây dựng nề nếp cho học sinh đòi hỏi người giáo
viên phải nhiệt tình, tính dứt khoát, quan tâm đồng đều đến tất cả học sinh mình
phụ trách. Bên cạnh đó người giáo viên còn phải có tấm lòng bao dung, nhân
hậu, biết thương yêu học sinh như con mình.
7.1.6.2. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp
Sau khi đã điều tra kỹ đối tượng học sinh, tôi bắt đầu xây dựng cho mình
một kế hoạch chủ nhiệm theo đặc điểm của lớp. Để đảm bảo có một kế hoạch
hợp lý, khả thi, khoa học, khi xây dựng kế hoạch chủ nhiệm tôi căn cứ vào
những vấn đề sau:
- Mục tiêu chương trình hành động chung của ngành và cấp học.
- Mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch giáo dục của trường.
- Đặc điểm của lớp chủ nhiệm (bao gồm các đặc điểm về truyền thống,
tập thể, những mặt khó khăn và thuận lợi cơ bản, hoàn cảnh, điều kiện của số

đông học sinh và gia đình học sinh, …).
- Mục tiêu, kế hoạch công tác của các tổ chức đoàn thể trong trường học.
- Đặc điểm tình hình của địa phương.
- Dự báo của giáo viên chủ nhiệm về khả năng phát triển từng mặt của
lớp.
Kế hoạch chủ nhiệm phải thể hiện tính toàn diện, cụ thể, có trọng tâm,
trọng điểm của từng thời gian và từng mặt nội dung giáo dục.

9


Kế hoạch công tác chủ nhiệm được xây dựng theo các thời gian: kế hoạch
tuần, tháng, học kỳ và năm học. Sau khi họp đầu năm học, căn cứ vào chỉ đạo
của ngành và kế hoạch của nhà trường, tôi đề ra kế hoạch năm cho lớp mình chủ
nhiệm. Từ kế hoạch năm, tôi thực hiện phân tích và đưa ra kế hoạch từng tháng.
Ở mỗi tháng, theo thời gian từng tuần, tôi vạch ra kế hoạch cụ thể từng tuần học.
Trong kế hoạch chủ nhiệm của từng tuần, tôi luôn đưa ra dự kiến thời gian thực
hiện từng kế hoạch cụ thể, biện pháp thực hiện và kết quả thực hiện.
Kế hoạch chủ nhiệm càng khoa học thì khả năng thực hiện càng cao và vì
vậy mà bản kế hoạch này có khả năng quyết định to lớn đối với hiệu quả công
tác chủ nhiệm của tôi.
7.1.6.3. Tổ chức các hoạt động trên lớp học
a) Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp và bồi dưỡng học sinh tích cực
Muốn cho ngôi nhà vững vàng, chịu đựng được gió bão thì cái móng nhà
phải vững chắc. Lớp học cũng vậy, phải có ban cán sự lớp vững mạnh thì mọi
hoạt động, mọi phong trào chắc chắn sẽ thực hiện tốt. Qua một tuần tìm hiểu, ổn
định, bước tiếp theo tôi thực hiện ngay việc bình chọn ban cán sự lớp. Vì đây là
lực lượng nòng cốt cùng giáo viên chủ nhiệm đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện
nề nếp học tập của các bạn trong năm học. Để được ban cán sự “Đầu tàu gương
mẫu”, tôi đưa ra tiêu chuẩn lựa chọn là: những em học lực phải đạt giỏi – khá,

hạnh kiểm thực hiện đầy đủ, hăng hái tham gia các hoạt động, các phong trào ở
lớp, ở trường với tinh thần tự giác, có trách nhiệm cao và điều đặc biệt là những
em này luôn được bạn bè tín nhiệm, yêu thương. Để xây dựng đội ngũ cán bộ
lớp giáo viên chủ nhiệm tiến hành những công việc sau:
- Lựa chọn những học sinh tích cực phân công vào các chức danh trong
đội ngũ cán bộ lớp.
- Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng vị trí trong đội ngũ cán bộ
lớp.
- Làm rõ nội dung công tác của từng cán bộ lớp và hướng dẫn cụ thể về
phương pháp công tác. Trong đó, cần lưu ý hướng dẫn các kỹ năng công tác cơ
bản như: cách ghi chép trong sổ ghi chép công tác, kỹ năng điều hành một buổi
sinh hoạt lớp, kỹ năng trình bày thuyết phục, vận động, kỹ năng tổ chức hoạt
động tập thể, …
- Hướng dẫn cho cán bộ lớp tổng kết, khái quát kinh nghiệm qua từng
thành công hay thất bại trong hoạt động thực tiễn.
- Thường xuyên kiểm tra, đánh giá hoạt động của cán bộ lớp, giúp các em
khắc phục khó khăn, động viên kịp thời những cố gắng của các em.
- Xây dựng, củng cố và bảo vệ uy tín của cán bộ lớp trước tập thể.
10


- Không bao che khuyết điểm. Tuyệt đối tránh tạo ra sự đối lập giữa cán
bộ lớp với các thành viên trong lớp.
Việc tổ chức bình chọn được thực hiện công khai bằng cách cho các em
bỏ phiếu tín nhiệm. Sau khi có trong tay danh sách ban cán sự lớp tôi tiến hành
họp và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng em theo đúng khả năng của mình.
Biết được nhiệm vụ cụ thể của ban cán sự, khi có thắc mắc hay trao đổi về vấn
đề gì liên quan đến hoạt động nào thì các bạn trong lớp sẽ trực tiếp gặp gỡ với
bạn phụ trách công việc đó nhanh hơn, tiện lợi hơn.
+ Chủ tịch hội đồng tự quản (An): chịu trách nhiệm bao quát chung các

hoạt động của lớp, điều khiển chung toàn lớp trong giờ tập trung sinh hoạt, kiểm
diện hàng ngày, tổng hợp các báo cáo hoạt động của tổ trong tuần nộp cho giáo
viên chủ nhiệm.
+ Phó chủ tịch hội đồng tự quản (Châm): nắm tình hình chung phần chuẩn
bị bài, truy bài đầu giờ của các tổ hàng ngày, tổng kết điểm thi đua trong tuần.
+ Phó chủ tịch hội đồng tự quản (Tâm): quản lý việc thực hiện nội quy
lớp, trường, ý thức kỷ luật của học sinh, …
+ Trưởng ban văn thể mỹ (lớp phó phong trào): (Thu hà): Chịu trách
nhiệm giờ hát của lớp, cùng các bạn tham gia các tiết mục văn nghệ, tham gia
các phong trào của lớp, ...
+ Trưởng ban lao động (Linh): Chịu trách nhiệm về việc vệ sinh, lao
động.
+ Nhóm trưởng (Linh, Huy, Minh Anh, Thùy, Ly): Là những thành viên
có học lực và năng lực quản lý tốt nhất trong nhóm của mình (Nhóm 4 thành
viên, được chia ra từ tổ). Nhóm trưởng có trách nhiệm hướng dẫn điều hành các
hoạt động nhóm trong từng giờ học.
Sau đó hằng ngày, hàng tuần, hàng buổi học ban cán sự lớp sẽ tiến hành
công việc như sau:
- Đầu giờ (trước giờ truy bài đầu giờ): kiểm tra những việc như sau: Soạn
sách vở theo đúng thời khóa biểu, mang đầy đủ đồ dùng học tập, đi học đúng
giờ, … tổ trưởng chấm điểm thi đua trong tuần theo quy định như sau: (vi phạm
một nội dung trừ 01 điểm)
- Trong giờ học: theo dõi các bạn trong tổ thái độ học tập, phát biểu xây
dựng bài thì được cộng điểm thưởng như sau: phát biểu xây dựng bài cộng 1
điểm/lần, nói chuyện trong giờ học thì bị trừ 2 điểm/lần.
Giáo viên chủ nhiệm chỉ đóng vai trò cố vấn, định hướng cho các em hoạt
động, cùng các em tháo gỡ những vướng mắc khi thực hiện công việc.
11



b) Xây dựng nề nếp tự quản
- Đề cử và gợi ý để học sinh bầu cử ra chủ tịch và các phó chủ tịch hội
đồng tự quản là những em nhanh nhẹn, hoạt bát, mạnh dạn, có uy tín có tinh
thần trách nhiệm cao, đoàn kết và có năng lực học tập để giúp giáo viên điều
hành, phân công nhiệm vụ và hoàn thành nhiệm vụ được giao trong lớp học.
- Giờ sinh hoạt đầu tiên trong 2 tuần sinh hoạt ngoại khoá giáo viên chủ
nhiệm hướng dẫn học sinh cách điều khiển, các bước trong 1 tiết, sinh hoạt lớp
nhận xét một số nề nếp ( học tập, vệ sinh) lớp trong tuần qua.
- Các trưởng ban nhận xét hoạt động của ban mình phụ trách, Chủ tịch
hội đồng điều khiển sau đó giáo viên nêu kế hoạch của tuần đến các em sẽ thảo
luận nêu nhiệm vụ cần làm trong tuần.
- Sau mỗi buổi sinh hoạt tổ chức các trò chơi nhằm tạo sự hứng thú cho
các em để các em thấy được mỗi ngày đến trường là một ngày vui từ đó hạn chế
được tình trạng học sinh bỏ học, nguy cơ bỏ học.
- Cùng các em tổ chức trang trí lớp học thân thiện, mỗi em đề trang trí
từ đó các em có ý thức gìn giữ sản phẩm mình tạo ra
c) Xây dựng nề nếp học tập
Để được giờ học có kết quả tốt thì lớp học phải có nề nếp tốt. Ngay
tuần sinh hoạt ngoại khóa đầu tiên của năm học tôi đã dành thời gian cho học
sinh học nội quy của trường và 10 bước học tập của lớp. Rèn thói quen xin phép
ra, vào lớp, ...
Quy định một số thói quen:
- Giơ tay phát biểu, giơ mặt mếu mặt cười.
- Quy định về các biểu tượng.
- Cách ngồi học ngay ngắn, giữ vở sạch chữ đẹp.
- Trong giờ học không nói chuyện và làm việc riêng.
- Im lặng khi giáo viên kiểm tra vở.
Tôi đã phân loại học sinh ngay từ đầu năm học qua bài khảo sát đầu năm
để hiểu rõ xem các em chưa hoàn thành về mặt nào, môn nào từ đó có biện pháp
bồi dưỡng kịp thời, hợp lý. Phân loại học sinh để có kế hoạch phụ đạo và bồi

dưỡng:
* Đối với học sinh năng khiếu:
Trong các tiết dạy, tôi đưa ra từ 1 đến 2 câu hỏi với yêu cầu cao hơn,
dạng các câu hỏi sao (*) hoặc các bài tập nâng cao. Để ra các câu hỏi này, tôi
luôn nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy, tìm hiểu ở các tài liệu có liên quan nhằm
mục đích hướng dẫn, kích thích học sinh (nhất là học sinh hoàn thành tốt kiến

12


thức kỹ năng môn học) tự tìm ra kiến thức mới, mở rộng tầm hiểu biết của học
sinh.
* Đối với học sinh chưa hoàn thành kiến thức kỹ năng môn học:
Các em chán học do bị mất căn bản ở lớp dưới. Học sinh cảm thấy việc
học rất nặng nề. Qua tìm hiểu theo dõi trong quá trình giảng dạy tôi nắm được
những kiến thức do học sinh bị hổng. Tôi đưa ra bài tập dễ, sử dụng câu hỏi nhỏ,
đơn giản, phù hợp với sức học của mỗi em, gọi các em trả lời hoặc giải bài tập,
đồng thời tuyên dương kịp thời cũng như động viên giúp đỡ các em trong quá
trình thực hiện các bài tập. Từ các bài tập dễ tôi nâng dần lên theo sự tiến bộ của
học sinh.
Bên cạnh đó, thành lập các đôi bạn cùng tiến, xếp cho học sinh khá giỏi
ngồi gần bạn yếu, kém. Qua một thời gian tôi thấy các em này tiến bộ rõ rệt.
Thường xuyên trao đổi học tập kinh nghiệm của đồng nghiệp để bổ sung
phương pháp phụ đạo và bồi dưỡng cho bản thân nhằm nâng cao hiệu quả bồi
dưỡng và phụ đạo mà mình đã đặt ra.
Tạo cho học sinh thói quen và sự say mê đọc sách bằng cách khuyến
khích các em đọc sách báo ở thư viện mỗi tuần 1 – 2 lần vào giờ ra chơi.
Tôi cố gắng xây dựng ở các em những động cơ học tập, khích lệ các em
vượt mọi trở ngại bằng sự quan tâm, nhắc nhở có sự khen thưởng kịp thời.
Trong chương trình Tiểu học, môn toán giữ vị trí quan trọng, thời gian

dành cho môn toán chiếm tỉ lệ khá cao trong toàn bộ quỹ thời gian các môn học
ở Tiểu học. Bởi vì môn toán là một trong những môn khoa học, đối với bậc Tiểu
học, nó góp phần rèn luyện cho học sinh phương pháp suy luận, cách giải quyết
vấn đề giúp các em phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, cách xử lý
tình huống linh hoạt, sáng tạo.
Dạy học Toán ở Tiểu học nhằm giúp học sinh: Có những kiến thức cơ
bản ban đầu về số học các số tự nhiên, các đại lượng thông dụng; một số yếu tố
hình học và thống kê đơn giản. Giải được các bài toán đơn giản có ứng dụng
nhiều trong thực tế xây dựng nền móng toán học để các em học tiếp lên các bậc
học trên đồng thời ứng dụng thiết thực trong cuộc sống hàng ngày của các em.
Góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lý và diễn
đạt đúng (nói và viết) cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần
gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán; góp
phần hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch, khoa
học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo.

13


Muốn lớp mình có nề nếp tốt tôi đã xây dựng kế hoạch chung cho cả
năm học, kế hoạch cụ thể cho từng tháng, từng tuần và cho mỗi kỳ học.
Đối với học sinh chưa hoàn thành, chậm trong học tập thì tôi xếp các em
ngồi lên bàn đầu để các em dễ tiếp thu kiến thức trong mỗi bài học,cũng để cho
giáo viên tiện giúp đỡ và theo dõi sự tiến bộ của các em .
Phân công rõ nhiệm vụ cho từng em và cho các em tự đăng ký thi đua.
Xây dựng nề nếp đội ngũ tự quản cốt cán của lớp. Kết hợp với đội sao đỏ của
liên đội, các em sẽ tự kiểm tra về: Nghi thức đội, mặc đồng phục, việc chuẩn bị
học bài và làm bài ở nhà.
Ví dụ: Các trưởng ban theo dõi các thành viên trong Ban và báo cáo cho
Phó chủ tịch hội đồng tự quản, Phó chủ tịch hội đồng tự quản báo cáo chủ tịch

hội đồng tự quản.
Nêu cao tinh thần tự giác và tăng hứng thú học tập cho học sinh bằng
hình thức thi đua, khen thưởng
Tôi luôn tạo ra tình huống để mỗi học sinh được thể hiện mình trước tập
thể lớp. Từ đó khen ngợi kịp thời với từng tiến bộ nhỏ của các em.
Chủ tịch hội đồng tự quản theo dõi chung trong lớp.
Động viên đúng mực kịp thời để các em phấn khởi tự giác trong học tập
cũng như mọi hoạt động khác.
Ngoài khâu tổ chức lớp, tôi còn vận dụng nhiều phương pháp giáo dục
ngoài giờ lên lớp để nâng cao chất lượng giáo dục có nề nếp như “Nói lời hay,
làm việc tốt”; “Nhặt được của rơi trả lại người đánh mất”; “Đền ơn đáp
nghĩa”; “Lá lành đùm lá rách”
Giáo viên nhắc nhở và tạo thói quen tự giác học tập, giữ gìn sách vở ở
trường cũng như ở nhà.
Phân công ban học tập tự lấy và cất đồ dùng học tập trong giờ học, kiểm
tra bài làm ở nhà, vở bài tập lúc đầu giờ học
Khuyến khích học sinh hăng say phát biểu, tích cực trong học tập.
Tuyên dương, khen thưởng những em có tiến bộ trong tuần, trong tháng.
d) Xây dựng thói quen đoàn kết giúp đỡ bạn cùng lớp
- Phân công giúp đỡ, gần gũi học sinh yếu, rụt rè, ít hoạt động.
- Phân công học nhóm giúp đỡ bạn khi gặp khó khan (nhóm nhà gần
nhau).
- Tạo thói quen để học sinh có ý thức tự giác giúp đỡ bạn bè thông qua các
bài học môn Đạo đức như: “Có ý thức về việc làm của mình”, “Tình bạn”
- Động viên các em tham gia những phong trào đoàn thể, phong trào do
trường tổ chức để rèn luyện thêm sự nhanh nhẹn, bạo dạn và tinh thần đoàn kết

14



như: thi văn nghệ (6 học sinh trong đội văn nghệ của trường), tham gia hội khỏe
Phù Đổng, thi kể chuyện theo sách đạo đức, …
- Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, phòng chống các tệ nạn xã hội
xâm nhập vào nhà trường (ký bản cam kết Chiến sĩ an ninh nhỏ).
- Phối hợp với giáo viên bộ môn dạy cho các em bài hát quy định, trò chơi
dân gian, … nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn.
- Tổ chức sân chơi cho học sinh ở lớp như: Chiếc nón kì diệu, Ai là triệu
phú, Rung chuông vàng, … trong các tiết học và hoạt động ngoài giờ lên lớp để
phát huy và chọn lọc những học sinh có năng khiếu để tham gia các hội thi do
nhà trường tổ chức.
e) Xây dựng nề nếp vệ sinh
*) Vệ sinh cá nhân
- Thường xuyên nhắc nhở học sinh giữ vệ sinh thân thể.
- Phân tích, giảng giải cho học sinh thấy được vai trò của học sinh lớp 5
là lớp lớn nhất trong trường cần phải làm gương cho các em lớp nhỏ học tập
theo.
*) Vệ sinh trường lớp
- Giáo viên gương mẫu thực hiện để học sinh noi theo trong mọi hoạt
động dù là hoạt động nhỏ.
Ví dụ: Giáo viên nhặt giấy vụn hay túi ni lon trên sân trường, lau vết
bẩn trên tường trong lớp học
- Cùng với học sinh lau dọn phòng học 1 tuần 2 lần, quét dọn vệ sinh
xung quanh lớp học và trên sân trường, lau các vết bẩn trên tường từ đó hình
thành ý thức bảo vệ, giữ vệ sinh chung của học sinh.
- Cùng nhau vệ sinh khu vực vệ sinh tự quản của lớp trên sân trường
ngày 2 lần.
*) Trồng và chăm sóc bồn cây của lớp
g) Xây dựng nề nếp giờ ra chơi
- Tạo thói quen cho học sinh xếp hàng tập thể dục ngay từ đầu năm, cử
cán sự lớp giúp các em lớp 1 xếp hàng tập thể dục, phân công đội cờ đỏ theo dõi

để báo cáo với giáo viên kịp thời .
- Phối hợp TPTĐ hướng dẫn và nhắc nhở các em tập thể dục nghiêm túc
trong giờ ra chơi.
- Thường xuyên nhắc các em vui chơi an toàn tránh tai nạn thương tích.
Tạo điện kiện để các em được đọc sách, báo ở thư viện xanh trong giờ ra chơi để
các em tìm hiểu thêm kiến thức đồng thời hạn chế một số tai nạn trong giờ ra
chơi và giữ gìn vệ sinh cá nhân cho các em.
h) Xây dựng nề nếp ra, vào lớp
15


- Ngay từ đầu năm, trong 2 tuần sinh hoạt tập thể hướng dẫn, nhắc nhở
các em xếp hàng ra vào lớp.
- Tôi cho các em đánh số thứ tự cho mình trong buổi xếp hàng đầu tiên và
yêu cầu học sinh phải nhớ số thứ tự.
- Khi xếp hàng ra về các em xếp thành hàng đôi: Lớp trưởng đi đầu hàng,
tiếp theo là thành viên tổ 1 và thành viên tổ hai, ở hàng hai là lớp phó sẽ dẫn đầu
tổ 3 và phía sau là thành viên tổ.
- Mỗi khi xếp hàng vào lớp các em chỉ cần nhớ số thứ tự và vị trí của
mình mà vào ngay hàng ngũ. Cũng như khi ra về ban cán sự lớp đi xen kẽ như
vậy để nhắc nhở các bạn đi cho ngay ngắn, không chen lấn, xô đẩy, đùa giỡn gây
mất trật tự, ảnh hưởng đến thi đua của lớp. Bắt đầu từ tháng 11 về sau các em đã
quen dần và đi vào nề nếp.
Khi việc xếp hàng đã đi vào nề nếp thì thời gian tiến hành sẽ rất nhanh,
tốn ít thời gian và không gây mất trật tự trước lớp học.
- Cùng với giáo viên bộ môn thể dục nhắc nhở các em đi vào lớp theo
hàng sau mỗi tiết học thể dục không để các em chạy vào lung tung gây ồn ào,
mất tập trung cho các lớp học khác.
- Tạo thói quen cho học sinh xếp hàng ra, vào lớp. Phân công đội cờ đỏ
kiểm tra trang phục, khăn quàng, vê sinh ...

i) Xây dựng nề nếp lễ phép
Từ đầu năm nhận lớp lớp 3A tôi thấy học sinh nhận quà hay vật gì từ
người lớn, thầy cô ... đều bằng một tay, nói với người lớn trống không.
Để tạo được nề nếp lễ phép ở học sinh thì trước tiên giáo viên phải
gương mẫu lễ phép để học sinh noi theo, thường xuyên nhắc nhở học sinh lễ
phép với người lớn.
- Kịp thời tuyên dương những biểu hiện lễ phép của học sinh để các bạn
noi theo, học tập theo.
- Giáo dục học sinh qua các bài đạo đức như: “Kính già, yêu trẻ”,
“Hiếu thảo với ông bà, cha mẹ”, “Biết ơn thầy giáo, cô giáo”
- Sau hơn hai tháng thì kết quả đạt được ở lớp tôi là học sinh lễ phép
chào hỏi người lớn không chỉ là giáo viên trong trường mà cả người lớn, người
lạ mặt vào trường, chào hỏi, giúp đỡ người già nhận quà và đồ vật từ người lớn
bằng hai tay
k) Xây dựng thói quen phê và tự phê
- Tôi đã xây dựng dựa trên tiết sinh hoạt lớp cuối tuần cho học sinh. Tập
cho các em biết phê và tự phê một cách hồn nhiên, chân thật. Từng tổ các em sẽ
ngồi lại chọn bạn xuất sắc là bạn học tốt, không vi phạm những điều đã qui định,
bạn nào có chuyển biến hơn so với tuần trước thì được chọn là bạn tiến bộ cũng
16


được tuyên dương (lấy biểu quyết cả tổ). Em nào còn vi phạm cũng được bạn
chỉ ra và nhận sai trước tổ. Tôi đã theo suốt để tuyên dương trước lớp những học
sinh xuất sắc cũng như khéo léo xoa dịu, động viên những em còn sai phạm để
sửa chữa ở tuần sau. - Phải tìm nguyên nhân đối với học sinh vi phạm.
*Ví dụ 1: Một học sinh rất ngoan, nhưng hôm đó em không thuộc bài thì
giáo viên phải tìm hiểu nguyên nhân, nếu do hoàn cảnh khách quan, giáo viên
không nên cho điểm kém ngay mà cần động viên em về học tập cho tốt. Thầy, cô
sẽ kiểm tra em lần khác.

*Ví dụ 2: Nếu có em vi phạm nhiều lần về không học bài và không làm
bài. Giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu nguyên nhân, nếu do học yếu thì sẽ phân
công học sinh khá giỏi giúp đỡ bằng cách giảng bài cho hiểu, động viên em
chăm chỉ học tập để không phụ lòng bạn bè, thầy cô.
- Để hình thành thói quen cho học sinh, tôi đã duy trì thường xuyên, liên
tục và có điều chỉnh cho phù hợp tình hình của lớp. Đặc biệt luôn tạo không khí
gần gũi, thân mật giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau.
- Giáo viên chủ nhiệm kết hợp với giáo viên bộ môn luôn gần gũi các
em, tình thương yêu giữa các em phải công bằng. Chủ yếu là thái độ mềm mỏng,
luôn động viên nhắc nhỡ các em thực hiện tốt. Nhưng cũng cần phải nghiêm
khắc xử lý đối với các em cố tình vi phạm.
- Sắp xếp không để thời gian chết ở lớp, cũng không để tiết học nặng nề,
căng thẳng tôi đã chuẩn bị sẵn những bài toán vui, câu đố và chuyện kể có liên
quan nội dung bài để sử dụng cuối tiết.
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến
7.2.1. Kết quả môn học và các hoạt động giáo dục
* Lớp áp dụng sáng kiến: Lớp 3A - Trường Tiểu học Hợp Thịnh
* Kết quả đạt được cuối học kì I môn Toán, Tiếng Việt như sau:
Môn
Tiếng Việt
Toán

TS
HS

Giỏi

Khá

TS


%

TS

34
34

5
9

21,2
27,3

13
10

Trung bình

Yếu

%

TS

%

TS

%


36,4
30,3

12
12

36,4
39,4

4
3

6,0
3,0

* Kết quả đạt được ở cuối học năm học như sau:
Môn

TS
HS

Giỏi
TS

%

Khá
TS


%

Trung bình

Yếu

TS

TS

%

%
17


Tiếng Việt

34

9

39,4

12

33,3

13


27,3

0

Toán

34

12

45,5

14

33,3

8

21,2

0

7.2.2. Kết quả năng lực và phẩm chất
Năng lực, TS
phẩm chất HS

Tốt

Đạt


Cần cố gắng

TS

%

TS

%

TS

Học kì 1

34

15

44,1

19

55,8

0

Học kì 2

34


18

52,9

16

47,0

0

%

* Lớp không áp dụng sáng kiến: Lớp 3B - Trường Tiểu học Duy Phiên B
* Kết quả đạt được cuối học kì I môn Toán, Tiếng Việt như sau:
Môn
Tiếng Việt
Toán

TS
HS

Giỏi

Khá

TS

%

TS


29
29

4
8

13,7
20,7

8
11

Trung bình

Yếu

%

TS

%

TS

%

27,6
34,5


14
8

48,3
37,9

3
2

10,4
6,9

* Kết quả đạt được ở cuối học năm học như sau:
Môn

TS
HS

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

TS

%


TS

%

TS

%

TS

Tiếng Việt

29

7

24,1

10

34,5

12

41,4

0

Toán


29

12

41,4

7

24,1

10

34,5

0

%

* Kết quả năng lực và phẩm chất
Năng lực, TS
phẩm chất HS

Tốt

Đạt

Cần cố gắng

TS


%

TS

%

TS

Học kì 1

29

12

41,4

17

58,6

0

Học kì 2

29

16

55,1


13

44,9

0

%

7.2.3. Bảng so sánh kết quả
* Kết quả môn Toán cuối học kỳ I.
Lớp

TS

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu
18


HS

TS

%


TS

%

TS

%

TS

%

3A

34

9

14,7

13

21,2

12

33,3

3


36,4

3B

29

8

20,7

11

34,5

8

37,9

2

6,9

* Kết quả môn Tiếng Việt cuối học kỳ I.
Lớp

TS
HS

Giỏi


Khá

Trung bình

Yếu

TS

%

TS

%

TS

%

TS

%

3A

34

5

6,1


13

30,3

12

36,3

4

27,3

3B

29

6

20,7

10

34,5

11

37,9

2


6,9

* Kết quả môn Toán cuối năm.
Lớp

TS
HS

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

TS

%

TS

%

TS

%

TS


3A

34

12

45,5

14

33,3

8

21,2

0

3B

29

12

41,4

7

24,1


10

34,5

0

%

* Kết quả môn Tiếng Việt cuối năm
Lớp

TS
HS

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

TS

%

TS

%


TS

%

TS

3A

34

9

39,4

12

33,3

13

27,3

0

3B

29

7


27,6

11

37,9

11

34,5

0

%

- Phân tích, ta thấy kết quả của hai lớp
+ Tỉ lệ điểm dưới 5 của cả hai môn của lớp 3A giảm mạnh so với đầu
năm: Từ 36,4 % xuống còn 0 % . Tỉ lệ giảm được 36,4 %
+ Tỉ lệ điểm dưới 5 của cả hai môn của lớp 3b cũng giảm so với đầu năm:
Từ 6,9 % xuống còn 0 % . Tỉ lệ giảm được 6,9 %
+ Tỉ lệ điểm 9 - 10 của cả hai môn của lớp 3B tăng mạnh so với đầu năm:
Môn Tiếng Việt từ 6,1% tăng lên 39,4% tăng thêm 3,33 %
Môn Toán từ 9,1 % tăng lên 45,4 % tăng thêm 36,3 %
19


+ Tỉ lệ điểm 9 - 10 của cả hai môn của lớp 3B tăng so với đầu năm:
Môn Tiếng Việt từ 20,7 % tăng lên 27,7 % tăng thêm 7 %
Môn Toán từ 20,7 % tăng lên 41,4 % tăng thêm 20,7 %
Qua kết quả cụ thể ở trên, tôi nhận thấy rằng sáng kiến của tôi đưa vào áp
dụng không những giúp các em năng động, sáng tạo có kết quả học tập tốt hơn

mà còn giúp các em say mê môn học, biết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, cùng
giúp nhau tiến bộ, các em biết nhường nhịn nhau và ngoan hơn trước rất nhiều.
Sáng kiến này không chỉ đem lại thành công cho công tác chủ nhiệm mà còn
đem lại thành công cho tất cả các giờ học và các hoạt động giáo dục khác. Nó
không chỉ áp dụng cho một nhà trường mà nó còn có thể áp dụng trong phạm vi
toàn tỉnh.
8. Những thông tin cần được bảo mật (không có)
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
Cơ sở vật chất: Điều kiện thường.
Nhân lực: Mọi giáo viên tiểu học.
Kinh tế: Điều kiện thường.
10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến
10.1. Đánh giá lợi ích thu được của bản thân
Từ những biện pháp giáo dục nề nếp trên đây từ đầu năm đến nay lớp tôi
đã đạt được những kết quả đáng kể :
- Hăng say học tập, hoạt động nhóm trong tiết học thích ứng với cách
học của mô hình trường học mới VNEN.
- Hăng say trong học tập, mạnh dạn trao đổi những khó khăn vướng mắc
với giáo viên chủ nhiệm.
- Các em học sinh trong lớp đều ngoan ngoãn lễ phép, kính thầy yêu
bạn, lễ phép với người lớn chăm chỉ học tập, có tinh thần chia sẻ khó khăn với
người khác qua các đợt ủng hộ đồng bào miền Trung, các bạn học sinh vùng lũ
lụt và cả các bạn học sinh trong trường có hoàn cảnh khó khăn hoặc các bạn gặp
tai nạn rủi ro trong năm học
- Học sinh biết giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung, tham gia mọi hoạt
động của trường của lớp một cách nhiệt tình và có hiệu quả.
- Học sinh mạnh dạn trong giao tiếp và không nói tiếng địa phương
trong trường, trong lớp.
- Nghiêm túc tập thể dục đầu giờ và giữa giờ, xếp hàng ra vào lớp một
cách trật tự.

20


10.2. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của
tổ chức, cá nhân
- Sáng kiến này khi triển khai trong tổ chuyên môn, trong nhà trường
được tập thể giáo viên đón nhận, hưởng ứng nhiệt tình, đánh giá cao. Các giáo
viên đều có nhận xét là sáng kiến hay và có thể áp dụng rộng rãi trong huyện,
trong tỉnh và trong toàn ngành để đổi mới phương pháp dạy học.
11. Danh sách những cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng
sáng kiến lần đầu
Số Tên tổ chức/cá nhân
TT

Địa chỉ

1

GV lớp 3A
trường Tiểu học Công tác chủ nhiệm lớp
Hợp Thịnh

Vũ Thị Huệ

Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến

2

Hợp Thịnh, ngày.....tháng 10 năm 2018


Hợp Thịnh, ngày 20 tháng 10 năm 2018

HIỆU TRƯỞNG

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

Trần Thị Nga Lan

Vũ Thị Huệ

21



×