Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

SKKN một số biện pháp để công tác chủ nhiệm lớp đạt kết quả cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.01 MB, 30 trang )

PHÒNG GD&ĐT TAM DƯƠNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC HỢP THỊNH

HỒ SƠ ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
CẤP TỈNH NĂM HỌC 2018-2019

Tên sáng kiến: Một số biện pháp để công tác chủ nhiệm lớp đạt kết
quả cao
Tác giả sáng kiến: Bùi Thị Hồng Quý
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: trường Tiểu học Hợp Thịnh, huyện Tam Dương, tỉnh
Vĩnh Phúc.
HỒ SƠ GỒM CÓ:
1. Đơn đề nghị công nhận Sáng kiến cấp tỉnh.
2. Báo cáo kết quả nghiên cứu, ứng dụng sáng kiến.
3. Giấy chứng nhận Sáng kiến cấp cơ sở.

Tam Dương, năm 2019


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

ĐƠN ĐỀ NGHỊ
CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN CẤP HUYỆN

Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến huyện Tam Dương

Tên tôi là: BÙI THỊ HỒNG QUÝ
Chức vụ: Giáo viên


Đơn vị: trường Tiểu học Hợp Thịnh, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.
Điện thoại: 0972702628
Tôi làm đơn này trân trọng đề nghị Hội đồng Sáng kiến huyện Tam
Dương xem xét và công nhận sáng kiến cấp huyện cho tôi đối với sáng kiến đã
được Hội đồng Sáng kiến cấp trường công nhận sau đây:
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp để công tác chủ nhiệm lớp đạt kết quả
cao
(Có Báo cáo Báo cáo kết quả nghiên cứu, ứng dụng sáng kiến
và Giấy chứng nhận Sáng kiến cấp trường kèm theo)
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật,
không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và hoàn toàn chịu trách
nhiệm về thông tin đã nêu trong đơn.
Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị
(hoặc Chính quyền địa phương)
(Ký tên, đóng dấu)

Tam Dương, ngày 04 tháng 3 năm 2019
Người nộp đơn

Bùi Thị Hồng Quý

0


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN ĐỀ NGHỊ
CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN CẤP TỈNH


Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến tỉnh Vĩnh Phúc

Tên tôi là: BÙI THỊ HỒNG QUÝ
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: trường Tiểu học Hợp Thịnh, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.
Điện thoại: 0972702628
Tôi làm đơn này trân trọng đề nghị Hội đồng Sáng kiến tỉnh Vĩnh phúc
xem xét và công nhận sáng kiến cấp tỉnh cho tôi đối với sáng kiến đã được Hội
đồng Sáng kiến cơ sở công nhận sau đây:
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp để công tác chủ nhiệm lớp đạt kết quả
cao
(Có Báo cáo Báo cáo kết quả nghiên cứu, ứng dụng sáng kiến
và Giấy chứng nhận Sáng kiến cấp trường kèm theo)
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật,
không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và hoàn toàn chịu trách
nhiệm về thông tin đã nêu trong đơn.
Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị
(hoặc Chính quyền địa phương)
(Ký tên, đóng dấu)

Tam Dương, ngày 04 tháng 3 năm 2019
Người nộp đơn

Bùi Thị Hồng Quý

1


PHÒNG GD&ĐT TAM DƯƠNG


TRƯỜNG
TIỂU
THỊNH
Trong quá trình
thực hiện
bảnHỌC
thânHỢP
đã nhận
được sự giúp đỡ

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến: Một số biện pháp để công tác chủ nhiệm lớp
đạt kết quả cao.
Tác giả sáng kiến: Bùi Thị Hồng Quý

Duy Phiªn , th¸ng 5 n¨m 2014
Ngêi viÕt s¸ng kiÕ
2


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, việc đào tạo
thế hệ trẻ trở thành những người lao động có ích cho xã hội là việc làm cấp bách
và cần thiết, đòi hỏi sự dày công của người giáo viên, bởi yêu cầu ngày càng cao
của xã hội. Bên cạnh đó những tệ nạn xã hội đang tồn tại và diễn ra ngay trước
mắt các em nó cũng chính là động lực lôi cuốn các em vào những thói hư tật

xấu. Do đó, đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ, có năng lực phẩm chất đạo
đức tốt, tâm huyết với nghề, yêu thương tận tụy với học sinh. Muốn vậy phải
qua cả một quá trình lâu dài và có sự kết hợp của nhiều ngành, nhiều bộ phận có
liên quan. Trong đó, giáo dục đóng vai trò quan trọng vì mọi kiến thức, hành vi
và phẩm chất đạo đức được hình thành ở nhà trường đặc biệt là cấp tiểu học.
Tiểu học được xác định là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc
dân, là bậc học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát
triển đúng đắn về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản.
Hơn nữa giáo viên tiểu học là người đại diện cho nhà trường trực tiếp giảng
dạy và giáo dục các em học sinh, ngoài việc cung cấp kiến thức, văn hoá còn
dạy các em về nề nếp, cách sống, cách làm người và làm chủ tương lai của đất
nước.
Từ nhận thức trên, người giáo viên chủ nhiệm lớp hết sức quan trọng trong
việc hướng dẫn, chỉ đạo lớp và đào tạo thế hệ trẻ theo mục đích giáo dục toàn
diện. Người giáo viên chủ nhiệm lớp đóng vai trò quan trọng: Vừa là thầy dạy
học vừa là người cha, người mẹ và cũng có lúc phải là người bạn tốt nhất của
các em. Từ đó có thể uốn nắn các em đi theo quỹ đạo của mình. Giáo viên có chỉ
đạo, quản lí lớp tốt thì mới dẫn đến việc giảng dạy tốt. Khi mọi hoạt động của
lớp đã đi vào nề nếp thì việc học tập của các em chắc chắn sẽ tốt hơn. Hơn thế
nữa: Họ là người thay mặt Hiệu trưởng quản lý, giáo dục toàn diện học sinh một
lớp học, là cố vấn cho những hoạt động tự quản của tập thể học sinh, người tổ
chức phối hợp các lực lượng trong giáo dục trong và ngoài nhà trường. Vì vậy
tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp để công tác chủ nhiệm lớp đạt hiệu quả”
Qua nhiều năm dạy học, đặc biệt với vai trò là giáo viên chủ nhiệm lớp. Tôi
thấy kết quả áp dụng thực tế của đề tài: “Một số biện pháp để công tác chủ
nhiệm lớp đạt hiệu quả” là rất tốt. Trong năm học 2017 - 2018 tôi tiếp tục mở
rộng đề tài trên với mục đích:
- Kích thích sự phát triển mọi mặt, phát triển toàn diện học sinh lớp mình chủ
nhiệm.
1



- 100 % học sinh của lớp thực hiện đầy đủ năm nhiệm vụ của người học sinh.
- 100 % học sinh của lớp hoàn thành chương trình tiểu học với kết quả cao.
- Phát huy tối đa vai trò tự quản, tự học của từng học sinh và tập thể học sinh.
- Phát huy vai trò phối hợp của phụ huynh học sinh, giáo viên bộ môn trong
công tác giáo dục.
- Tạo sự đoàn kết một lòng trong tập thể học sinh.
- Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Tôi xin được trình bày sáng kiến “Một số biện pháp để công tác chủ nhiệm lớp
đạt hiệu quả” trước Hội đồng sáng kiến các cấp. Rất mong các đồng chí đóng
góp ý kiến cho tôi để sáng kiến kinh nghiệm này ngày một hoàn thiện hơn và có
chất lượng tốt hơn.
2. Tên sáng kiến
Một số biện pháp để công tác chủ nhiệm lớp đạt kết quả cao.
3. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên: Bùi Thị Hồng Quý
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Hợp Thịnh – Tam Dương – Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại: 0972 702 628.
Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Bùi Thị Hồng Quý
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Công tác chủ nhiệm lớp ở trường Tiểu học.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
Ngày 06 tháng 9 năm 2017.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1. Về nội dung của sáng kiến
Ngôi trường Tiểu học chính là ngôi nhà chung đầu đời của mỗi con người. Ở
nơi ấy, mỗi một thầy cô giáo lại là một người mẹ thứ hai dạy cho học sinh tất cả
những kiến thức đầu tiên, những kỹ năng đầu tiên, trang bị cho các em một hành

trang lớn để các em bước dần đến tương lai. Vậy, người thầy ở đây phải nắm giữ
một vai trò vô cùng quan trọng. Vai trò là một người dìu dắt, người hướng dẫn,
người ảnh hưởng và người trang bị cho học sinh tất cả về kiến thức và kỹ năng
sống hàng ngày của chính các em.
2


Một nét đặc thù ở cấp Tiểu học là mỗi giáo viên đứng lớp đều là một giáo
viên chủ nhiệm (loại trừ giáo viên bộ môn). Vì thế, để làm tốt công tác chủ
nhiệm lớp, theo tôi việc đầu tiên của mỗi giáo viên chủ nhiệm là phải nhận thức
rõ về vai trò chủ nhiệm của chính mình.
- Ở trường, thầy cô chủ nhiệm các em là những người có uy tín với các em
nhất, là người mà các em luôn yêu quý, tin tưởng nhất, phục tùng nhất, các em
nghe lời thầy cô chủ nhiệm của mình là trên hết. thầy cô giáo chủ nhiệm có ảnh
hưởng rất lớn đến mọi hoạt động và sự phát triển của học sinh.
- Trước hết, người giáo viên chủ nhiệm phải là một người quản lý tốt, quản lý
chặt chẽ, cụ thể, chi tiết và toàn diện. Giáo viên chủ nhiệm phải có tri thức về
mọi mặt kể cả tri thức về tâm lý giáo dục. Giáo viên chủ nhiệm phải có kỹ năng
sư phạm, biết tiếp cận, phán đoán học sinh khéo léo và đúng đắn với học sinh
trong hoạt động dạy học và giáo dục.
- Người giáo viên chủ nhiệm phải là người cố vấn cho các hoạt động tự quản
của tập thể học sinh. Để phát huy tốt vai trò cố vấn giáo viên chủ nhiệm cần có
năng lực đánh giá và dự báo chính xác khả năng dự báo của học sinh, có khả
năng kích thích khả năng sáng tạo của các em, lôi cuốn tất cả học sinh tham gia
vào các hoạt động của lớp, hướng dẫn học sinh xây dựng kế hoạch giáo dục toàn
diện, đồng thời theo dõi, giúp đỡ học sinh thực hiện kế hoạch đó. Lưu ý, cố vấn
không có nghĩa là khoán trắng hay đứng ngoài hoạt động của học sinh mà phải
cùng hoạt động, kịp thời giúp học sinh tháo gỡ những khó khăn, tranh thủ các
lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
học sinh và tập thể học sinh tiến hành thành công các hoạt động, tạo động lực

cho học sinh trong những hoạt động tiếp theo.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp là cầu nối giữa tập thể học sinh với các lực lượng
giáo dục trong nhà trường. Đây là một việc không đơn giản, đòi hỏi giáo viên
chủ nhiệm chẳng những phải có trách nhiệm cao, say sưa với nghề, yêu thương
học sinh mà còn phải có năng lực thuyết phục, có khả năng thiết lập quan hệ tốt
đẹp với các lực lượng giáo dục, biết xây dựng và giữ gìn uy tín, có ý chí vượt
khó, không ngại thử thách, đặc biệt trong những trường hợp cần đấu tranh bảo
vệ quyền lợi chính đáng của học sinh, kiên định thực hiện lý tưởng giáo dục thế
hệ trẻ.
- Giáo viên chủ nhiệm là người tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục ngoài
nhà trường. Hiệu quả giáo dục học sinh phụ thuộc không nhỏ vào khả năng phối
hợp và phát huy tiềm năng của các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường (gia
đình, các đoàn thể xã hội, cộng đồng, dân cư, …) về mọi mặt nhằm thực hiện
nội dung giáo dục đối với lớp chủ nhiệm. Dựa vào đặc điểm, điều kiện của nhà
trường, lớp cộng đồng, gia đình học sinh mà giáo viên chủ nhiệm tổ chức phối
hợp các lực lượng giáo dục trên.
3


Giáo viên chủ nhiệm không chỉ biết cách phối hợp tốt với gia đình học sinh
mà còn là người tổ chức bồi dưỡng nhận thức lý luận giáo dục cho các bậc cha
mẹ khi cần thiết. Gia đình là nơi các em sinh ra và lớn lên từ nhỏ, thời gian các
em ở nhà chiếm nhiều thời gian ở trường. Vì vậy bố mẹ và các thành viên trong
gia đình cần phối hợp để giáo dục các em.
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân tôi thấy rằng: Sản phẩm giáo dục
mà chúng ta tạo ra không thể biết trước chính xác kết quả như bao sản phẩm của
ngành nghề khác. Vì vậy, để làm tốt công tác giáo dục chúng ta cần phải thật
kiên trì, nhẫn nại, chịu khó và phải chịu tốn nhiều thời gian, công sức để tìm
hiểu tâm tư nguyện vọng của học sinh và đặc biệt là phải có tấm lòng yêu
thương, nhân ái của người thầy.

Đầu năm học 2017 - 2018 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công chủ
nhiệm lớp 2C. Tuy trường nằm ở vùng dân cư phần lớn là người lao động chân
tay, trình độ văn hóa của người dân chưa cao nhưng được sự quan tâm của Ban
giám hiệu nên trường lớp khang trang, cơ sở vật chất đầy đủ tôi nhận thấy có
những điều kiện thuận lợi và khó khăn như sau:
7.1.1. Thuận lợi
- Đa số học sinh lớp tôi nhà gần trường. Tất các em đi học đúng độ tuổi, ngoan
ngoãn, lễ phép.
- Trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy tương đối đầy đủ cho từng khối
lớp nên giờ học rất sinh động.
- Đội ngũ giáo viên luôn đoàn kết, có tinh thần trách nhiệm cao, thường xuyên
trao đổi và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cùng nhau dạy tốt.
- Được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường tạo mọi điều kiện
thuận lợi để giáo viên an tâm công tác.
- Ban đại diện Hội phụ huynh học sinh của lớp, trường rất nhiệt tình gắn bó
với các hoạt động của nhà trường về mọi mặt, góp phần động viên cán bộ, giáo
viên nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Đa số phụ huynh đã nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của giáo dục,
đặc biệt là giáo dục tiểu học. Họ đã có ý thức tự giác, thái độ tích cực trong việc
giáo dục con em mình.
- Mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình học sinh chặt chẽ, khăng khít.
7.1.2. Khó khăn
Là một trường nằm trên địa bàn xã trung du, nên học sinh lớp tôi chủ yếu là
con em nông dân, công nhân, cha mẹ các em còn trẻ ham lao động nên các em
còn thiếu sự quan tâm, nhắc nhở của cha mẹ, đa số các em chưa có ý thức tự học.
4


Có những em rất ngoan, rất có ý thức, nhưng hoàn cảnh kinh tế gia đình lại
khó khăn, không có thời gian học tập, nên kết quả đạt được không cao.

Một số em gia đình có điều kiện đầy đủ cho các em nhưng các em lại ham
chơi, không chú ý học tập.
Còn có một số phụ huynh học sinh có tư tưởng khoán trắng cho nhà trường và
thầy cô trong việc giáo dục con em mình.
Một số em học yếu không có hứng thú học tập, rụt rè, không tự tin khi đến lớp.
Vẫn không ít học sinh chưa chuẩn bị bài và đồ dùng học tập trước khi đến lớp.
Học sinh còn nhỏ hay quên và có nhiều học sinh nam nên rất hiếu động.
Thầy và trò còn bỡ ngỡ với mô hình trường tiểu học mới.
7.1.3. Thực trạng đầu năm học
7.1.3.1. Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh
Nhà giáo dục học K.Đ.Usinxki nói: “Muốn giáo dục cho con người mọi mặt
thì phải hiểu con người về mọi mặt”. Công tác chủ nhiệm đòi hỏi phải hiểu học
sinh một cách đầy đủ, cụ thể và toàn diện nhằm có thể lựa chọn những tác động
sư phạm phù hợp, có khả năng mang lại hiệu quả cao nhất. Thực tiễn giáo dục
đã cho thấy nhiều trường hợp thất bại đáng tiếc của giáo viên thậm chí gây
thương tổn nặng nề cho cả hai phía do các thầy cô không hiểu biết đầy đủ về học
sinh. Hiểu học sinh còn là điều kiện cần trong việc thiết lập quan hệ giao tiếp
thuận lợi giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh, là tiền đề cho việc hình thành
tình cảm thầy trò thông hiểu, gắn bó.
Năm học 2017 – 2018 này tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2C, sau khi nhận
lớp xong, tôi tiến hành điều tra lí lịch của từng học sinh. Vì muốn hiểu kĩ học
sinh, tôi phải biết rõ gia đình các em.
Lớp 2C có 32 học sinh trong đó có 11 học sinh nữ, 21 học sinh nam. Không có
học sinh lưu ban.
* Trước tiên, tôi tìm hiểu sơ lược về thành phần gia đình từng cá nhân học
sinh. Tôi đã phát cho các em phiếu điều tra:
GIỚI THIỆU BẢN THÂN
1. Họ và tên: ......................................................................................................
2. Là con thứ: .......................................trong gia đình
3. Hoàn cảnh gia đình (Giàu, khá, đủ ăn, nghèo) ..............................................

4. Kết quả học tập năm trước: ...........................................................................
5. Họ tên cha: ................................; tuổi: ............... nghề nghiệp: ....................
5


Số điện thoại:……………………..
6. Họ tên mẹ: ................................; tuổi: ............... nghề nghiệp: .....................
Số điện thoại:……………………..
7. Môn học yêu thích: .......................................................................................
8. Môn học còn gặp khó khăn: ..........................................................................
9. Góc học tập ở nhà: (có, không) .....................................................................
10. Sở thích: ......................................................................................................
11. Địa chỉ gia đình: ..........................................................................................
12. Gia đình thuộc diện ưu tiên nào: .................................................................
Qua phiếu điều tra này tôi có các thông tin sau:
- Cha mẹ làm nông: 8/ 32
- Cha mẹ làm công nhân: 14/ 32
- Cha mẹ buôn bán: 3/ 32
- Cha mẹ làm tự do: 3/ 32
- Cha mẹ là viên chức nhà nước: 4/32
* Hoàn cảnh gia đình:
- Số học sinh sống cùng với bố mẹ: 30/ 32
- Số học sinh sống cùng mẹ: 0/32
- Số học sinh sống cùng ông bà: 2/ 32 (do bố mẹ đi làm ăn xa)
- Số học sinh có hoàn cảnh khá: 12/ 32
- Số học sinh có hoàn cảnh đủ ăn: 20/ 32
- Số học sinh có hoàn cảnh khó khăn: 1/ 32
* Sự quan tâm của mỗi gia đình đối với học sinh:
- 25 em có góc học tập riêng, số còn lại không có góc học tập riêng.
- 18 em được bố, mẹ hoặc anh chị kiểm tra, nhắc nhở việc học ở nhà.

- 32 em có đầy đủ sách vở và dụng cụ học tập.
* Về tình trạng sức khỏe:
- Sức khỏe bình thường: 32/32 học sinh.
- Mắt không tốt: 3/32 học sinh.
- Sức khỏe yếu: 1/32 học sinh.
6


Qua việc tìm hiểu trên có thể giúp tôi lựa chọn được những phương pháp
giáo dục phù hợp đối với từng học sinh. Đặc biệt, sau khi tìm hiểu được hoàn
cảnh của các em, tôi nhận thấy rằng muốn các em thật sự tin yêu và gắn bó với
mình thì bản thân tôi phải đến với các em bằng tấm lòng của người thầy, bằng
tình cảm của một người chị, của một người bạn. Vì trẻ em không phải em nào
cũng có tính cách giống nhau. Có em khi sai phạm ta phải hết sức nghiêm khắc,
nhưng cũng có em thì các hình thức trách phạt không phải là biện pháp tốt để
uốn nắn, sửa chữa mà ta lại phải mềm mỏng, nhẹ nhàng phân tích lỗi lầm của trẻ
mới nhận ra.
7.1.3.2 Tình hình học tập
Với học sinh, sau ba tháng nghỉ hè, quả là một khoảng thời gian khá dài
khiến các em quên đi kiến thức cũ. Chính vì lẽ đó mà tôi luôn phải có sự chắt
lọc kiến thức đầu năm chính xác, để có phương pháp giáo dục thích hợp nhất với
sự tiếp thu của từng học sinh.
- Kết hợp ngay trong tuần ổn định, tôi kiểm tra phần đọc và viết của học sinh
bằng các bài viết chính tả, đọc văn. Qua đó tôi thấy chữ viết của các em phần
lớn rất xấu, sai chính tả, nhiều em đọc bài rất chậm. Cụ thể như: Thành Đạt,
Diệu Linh, Toàn, Quốc Huy.
Sau 1 tuần ổn định, tôi tiếp tục tiến hành kiểm tra kiến thức về Toán học, dựa
vào chương trình mà các em đã học ở lớp 1. Để nắm rõ tình hình học tập của các
em như thế nào? Kết quả như sau:
Môn


Giỏi

Khá

Trung bình
TS
%

TS

%

TS

%

Tiếng
Việt

3

9,3

7

21,9

15


Toán

5

15,6

8

25

14

Yếu
TS

%

46,9

7

21,9

43,8

5

15,6

Từ kết quả trên, tôi nhận thấy phần lớn các em đã quên kiến thức cũ, có

những em không thực hiện được phép tính đơn giản.
Bên cạnh đó, nề nếp lớp học không có, còn gây mất trật tự trong giờ học, còn
tình trạng học sinh làm việc riêng trong giờ học. Hơn nữa các em chưa tự ý thức
được các việc trong lớp cũng như nội quy ra vào lớp, nội quy của nhà trường đề
ra. Để ổn định học sinh và đưa nề nếp của các em đi vào quỹ đạo của mình là
điều rất khó và phải mất một thời gian dài mới ổn định được.
7


Ngay trong tuần đầu, tôi đã gặp gỡ giáo viên chủ nhiệm năm lớp 1 (năm học
trước), giáo viên bộ môn để nắm tình hình, xem lại kết quả học tập của các em
qua sổ chủ nhiệm, nghiên cứu sổ bàn giao của năm học trước, đặc biệt là phần
nhận xét của giáo viên trong việc theo dõi quá trình học tập, nhằm có kế hoạch
rèn luyện cho các em đạt kết quả cao hơn. Tôi đã thống kê và phân loại như sau:
- Về mặt đạo đức: Bản thân đã điều tra học sinh trong lớp xem em nào đã
thực hiện đầy đủ năm nhiệm vụ của người học sinh, em nào chưa thực hiện đầy
đủ năm nhiệm vụ của người học sinh. Để có kế hoạch bồi dưỡng, giáo dục cho
các em.
- Về tình hình học tập trong giờ học trên lớp:
+ Học khá giỏi, hoạt bát, có ý thức xây dựng bài, ngoan ngoãn: (4 em )
+ Học khá, ngoan nhưng thụ động: (10 em)
+ Học trung bình, tiếp thu bài chậm, thụ động: (12 em)
+ Học còn yếu tính toán khá chậm (6 em). Trong trường hợp này có 3 em đọc
còn chậm, đi học không chú ý theo dõi bài và làm bài, gây mất trật tự trong lớp,
5 em còn viết sai nhiều lỗi chính tả.
Biết được đặc điểm, tính cách, sức học của từng em, tôi đã tiến hành sắp xếp
chỗ ngồi cho phù hợp. Một em nghe kém ngồi phía trên gần bảng hơn những
bạn khác. Những em thấp, nhỏ ngồi trước, những em cao lớn ngồi phía sau. Tôi
sắp xen kẽ giữa những học sinh khá, giỏi là những học sinh trung bình, yếu. Đặc
biệt là những em nghịch được tôi bố trí ở chỗ tôi dễ quan sát và ngồi cạnh những

em hiền ngoan, lễ phép, chăm học để những em này có cơ hội học ở bạn những
điều mình chưa có.
Bản thân tôi luôn xác định rằng, tìm hiểu nắm vững đối tượng giáo dục không
phải là việc làm có thời hạn, chóng vánh trong một, hai ngày, cũng không phải là
công việc chỉ được tiến hành trong giai đoạn đầu mới nhận lớp mà phải là công
việc thường xuyên, liên tục trong suốt năm học sao cho có thể hiểu học sinh một
cách cập nhật, đầy đủ, toàn diện và sâu sắc nhất.
7.2 Giải pháp mới
7.2.1. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp
Sau khi đã điều tra kỹ đối tượng học sinh, tôi bắt đầu xây dựng cho mình
một kế hoạch chủ nhiệm theo đặc điểm của lớp. Để đảm bảo có một kế hoạch
hợp lý, khả thi, khoa học, khi xây dựng kế hoạch chủ nhiệm tôi căn cứ vào
những vấn đề sau:
- Mục tiêu chương trình hành động chung của ngành và cấp học.
- Mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch giáo dục của trường.
- Đặc điểm của lớp chủ nhiệm (bao gồm các đặc điểm về truyền thống, tập
8


thể, những mặt khó khăn và thuận lợi cơ bản, hoàn cảnh, điều kiện của số đông
học sinh và gia đình học sinh,…).
- Mục tiêu, kế hoạch công tác của các tổ chức đoàn thể trong trường học.
- Đặc điểm tình hình của địa phương.
- Dự báo của giáo viên chủ nhiệm về khả năng phát triển từng mặt của lớp.
Kế hoạch chủ nhiệm phải thể hiện tính toàn diện, cụ thể, có trọng tâm, trọng
điểm của từng thời gian và từng mặt nội dung giáo dục.
Kế hoạch công tác chủ nhiệm được xây dựng theo các thời gian: kế hoạch
tuần, tháng, học kỳ và năm học. Sau khi họp đầu năm học, căn cứ vào chỉ đạo
của ngành và kế hoạch của nhà trường, tôi đề ra kế hoạch năm cho lớp mình chủ
nhiệm. Từ kế hoạch năm, tôi thực hiện phân tích và đưa ra kế hoạch từng tháng.

Ở mỗi tháng, theo thời gian từng tuần, tôi vạch ra kế hoạch cụ thể từng tuần học.
Trong kế hoạch chủ nhiệm của từng tuần, tôi luôn đưa ra dự kiến thời gian thực
hiện từng kế hoạch cụ thể, biện pháp thực hiện và kết quả thực hiện.
Kế hoạch chủ nhiệm càng khoa học thì khả năng thực hiện càng cao và vì
vậy mà bản kế hoạch này có khả năng quyết định to lớn đối với hiệu quả công
tác chủ nhiệm của tôi.
7.2.2 Tổ chức các hoạt động trên lớp học
7.2.2.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp và bồi dưỡng em học sinh tích cực
Muốn cho ngôi nhà vững vàng, chịu đựng được gió bão thì cái móng nhà phải
vững chắc. Lớp học cũng vậy, phải có ban cán sự lớp vững mạnh thì mọi hoạt
động, mọi phong trào chắc chắn sẽ thực hiện tốt. Qua một tuần tìm hiểu, ổn
định, bước tiếp theo tôi thực hiện ngay việc bình chọn ban cán sự lớp. Vì đây là
lực lượng nòng cốt cùng giáo viên chủ nhiệm đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện
nề nếp học tập của các bạn trong năm học. Để được ban cán sự “Đầu tàu gương
mẫu”, tôi đưa ra tiêu chuẩn lựa chọn là: những em học lực phải đạt giỏi – khá,
hạnh kiểm thực hiện đầy đủ, hăng hái tham gia các hoạt động, các phong trào ở
lớp, ở trường với tinh thần tự giác, có trách nhiệm cao và điều đặc biệt là những
em này luôn được bạn bè tín nhiệm, yêu thương. Để xây dựng đội ngũ cán bộ
lớp giáo viên chủ nhiệm tiến hành những công việc sau:
* Lựa chọn những học sinh tích cực phân công vào các chức danh trong đội
ngũ cán bộ lớp.
* Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng vị trí trong đội ngũ cán bộ lớp.
* Làm rõ nội dung công tác của từng cán bộ lớp và hướng dẫn cụ thể về
phương pháp công tác. Trong đó, cần lưu ý hướng dẫn các kỹ năng công tác cơ
bản như: cách ghi chép trong sổ ghi chép công tác, kỹ năng điều hành một buổi
sinh hoạt lớp, kỹ năng trình bày thuyết phục, vận động, kỹ năng tổ chức hoạt
động tập thể, …
9



* Hướng dẫn cho cán bộ lớp tổng kết, khái quát kinh nghiệm qua từng thành
công hay thất bại trong hoạt động thực tiễn.
* Thường xuyên kiểm tra, đánh giá hoạt động của cán bộ lớp, giúp các em
khắc phục khó khăn, động viên kịp thời những cố gắng của các em.

Giáo viên chủ nhiệm đang họp với hội đồng tự quản

* Xây dựng, củng cố và bảo vệ uy tín của cán bộ lớp trước tập thể.
* Không bao che khuyết điểm. Tuyệt đối tránh tạo ra sự đối lập giữa cán bộ
lớp với các thành viên trong lớp.
Việc tổ chức bình chọn được thực hiện công khai bằng cách cho các em bỏ
phiếu tín nhiệm. Sau khi có trong tay danh sách ban cán sự lớp tôi tiến hành họp
và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng em theo đúng khả năng của mình. Biết
được nhiệm vụ cụ thể của ban cán sự, khi có thắc mắc hay trao đổi về vấn đề gì
liên quan đến hoạt động nào thì các bạn trong lớp sẽ trực tiếp gặp gỡ với bạn
phụ trách công việc đó nhanh hơn, tiện lợi hơn.
+ Chủ tịch hội đồng tự quản (Hà Anh): chịu trách nhiệm bao quát chung các
hoạt động của lớp, điều khiển chung toàn lớp trong giờ tập trung sinh hoạt, kiểm
diện hàng ngày, tổng hợp các báo cáo hoạt động của tổ trong tuần nộp cho giáo
viên chủ nhiệm.
+ Phó chủ tịch hội đồng tự quản (Thùy Trang): nắm tình hình chung phần
chuẩn bị bài, truy bài đầu giờ của các tổ hàng ngày, tổng kết điểm thi đua trong
tuần.
+ Phó chủ tịch hội đồng tự quản (Hiếu): quản lý việc thực hiện nội quy lớp,
trường, ý thức kỷ luật của học sinh, …
10


+ Trưởng ban văn thể mỹ (lớp phó phong trào): (Huyền Trang): Chịu trách
nhiệm giờ hát của lớp, cùng các bạn tham gia các tiết mục văn nghệ, tham gia

các phong trào của lớp, ...
+ Trưởng ban lao động (Hiếu): Chịu trách nhiệm về việc vệ sinh, lao động.
+ Nhóm trưởng (Châu, My, Thành, Thủy, Minh): Là những thành viên có học
lực và năng lực quản lý tốt nhất trong nhóm của mình (Nhóm 4 thành viên, được
chia ra từ tổ). Nhóm trưởng có trách nhiệm hướng dẫn điều hành các hoạt động
nhóm trong từng giờ học.

Giáo viên chủ nhiệm đang cùng học sinh thảo luận theo nhóm

Sau đó hằng ngày, hàng tuần, hàng buổi học ban cán sự lớp sẽ tiến hành công
việc như sau:
- Đầu giờ (trước giờ truy bài đầu giờ): kiểm tra những việc như sau: Soạn
sách vở theo đúng thời khóa biểu, mang đầy đủ đồ dùng học tập, đi học đúng
giờ,… tổ trưởng chấm điểm thi đua trong tuần theo quy định như sau: (vi phạm
một nội dung trừ 2 điểm)
- Trong giờ học: theo dõi các bạn trong tổ thái độ học tập, phát biểu xây dựng
bài thì được cộng điểm thưởng như sau: phát biểu xây dựng bài cộng 1 điểm/lần,
nói chuyện trong giờ học thì bị trừ 2 điểm/lần.
Giáo viên chủ nhiệm chỉ đóng vai trò cố vấn cho các em, định hướng cho các
em hoạt động cùng các em tháo gỡ những vướng mắc khi thực hiện công việc.
7.2.2.2. Xây dựng nề nếp lớp học
Trong học tập không những chỉ chú trọng rèn luyện cho học sinh bằng nhiều
hình thức khác nhau mà còn chú trọng khâu nề nếp ngay từ đầu năm như truy
bài đầu giờ, trật tự nghe giảng trong giờ học, trong lớp tổ tự quản kiểm tra bài
tập về nhà của các bạn trong tổ ... Vì nề nếp tốt là cực kì quan trọng, nó góp một
11


phần lớn quyết định kết quả học tập của học sinh. Chính vì thế ngay từ đầu năm
học giáo viên phải quán triệt nề nếp bằng cách:

- Cho cả lớp học nội quy lớp học, và mọi quy định của giáo viên. Nội quy của
nhà trường.
- Giáo viên hướng dẫn các em làm quen với kí hiệu của giáo viên để tập trung
sự chú ý của học sinh trong khi nghe giảng bài.
Ví dụ: Phía trên tay trái góc bảng ghi rõ lớp, sĩ số học sinh, dưới sĩ số là các kí
hiệu ở góc bảng: +, B, V, S
Chỉ vào + là cả lớp trật tự lắng nghe giáo viên giảng bài.
Khi viết kí hiệu B là cả lớp lấy bảng con cá nhân làm bài.
Khi viết kí hiệu S là học sinh mở sách, kí hiệu V là lấy vở ra để ghi hoặc làm
bài tập tại lớp. Sau khi học sinh làm xong thì giáo viên xoá các kí hiệu đó đi, học
sinh sẽ cất sách hoặc vở đi.
- Thường xuyên giáo dục các em có nề nếp tốt trong mọi hoạt động, sinh hoạt
ngoài giờ.
Ví dụ: Bắt đầu có trống báo là các em có mặt đầy đủ ở lớp để lớp trưởng, lớp
phó, tổ trưởng kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà sau đó các em ngồi vào truy bài
dưới sự chỉ đạo của lớp trưởng, tổ chức cho các em đi vào nề nếp truy bài, tuy
giáo viên không có mặt ở lớp các em vẫn làm tốt.
- Không phó mặc cho cán bộ lớp, giáo viên phải kiểm tra đột xuất 1, 2 bài
của học sinh trong mỗi tổ. Áp dụng biện pháp này đỡ tốn thời gian, không chiếm
mất giờ dạy mà còn rèn cho học sinh tính tự giác cao, đồng thời hạn chế việc
mất trật tự của các em khi chưa vào học.
- Giao quyền tự quản cho Ban cán sự lớp trong những hoạt động mà các em
đã được hướng dẫn để phát huy tính năng động cho học sinh (thể dục giữa giờ,
sinh hoạt đội, nhặt rác,…).

Học sinh nhặt rác
12


- Tuyên dương, nhắc nhở kịp thời với những cá nhân tiến bộ và chưa tiến bộ

trong việc thực hiện nề nếp chung của lớp. Ví dụ: Đi học đúng giờ, nghỉ học
phải xin phép. Các em đi học mặc đồng phục, vệ sinh cá nhân, để dép đúng nơi
quy định,… Từ đó tạo cho các em sự tự giác biết tự lo cho bản thân, tự giác học
tập, thi đua để tạo thành tích giữa các thành viên trong lớp và thi đua giữa các
khối lớp trong toàn trường.
Khi kết hợp chặt chẽ những hoạt động trên thì nề nếp lớp học sẽ đi vào khuôn
khổ và điều đó sẽ là một phần quan trọng giúp giáo viên tiến hành các hoạt động
học tập dễ dàng hơn.
7.2.2.3. Xây dựng nề nếp xếp hàng vào lớp và khi ra về

Học sinh xếp hàng ra về
- Nề nếp này phải được tiến hành thường xuyên theo từng buổi học. Đây là nề
nếp mang tính trật tự, kỉ luật cần được duy trì suốt năm học. Để làm tốt công tác
này, tôi đã tiến hành từng bước như sau:
- Tôi quy định khi các em xếp hàng vào lớp các em đứng thành 2 hàng ứng với
2 tổ (tổ trưởng đứng đầu, tổ phó đứng cuối).
- Tôi cho các em đánh số thứ tự cho mình trong buổi xếp hàng đầu tiên và yêu
cầu học sinh phải nhớ số thứ tự.
- Khi xếp hàng ra về các em xếp thành hàng một: Chủ tích hội đồng đi đầu
hàng, tiếp theo là thành viên tổ 1 và thành viên tổ hai và tổ 3 và phía sau là hai
phó chủ tịch hội đồng tự quản.
13


- Mỗi khi xếp hàng vào lớp các em chỉ cần nhớ số thứ tự và vị trí của mình mà
vào ngay hàng ngũ. Cũng như khi ra về ban cán sự lớp đi xen kẽ như vậy để
nhắc nhở các bạn đi cho ngay ngắn, không chen lấn, xô đẩy, đùa giỡn gây mất
trật tự, ảnh hưởng đến thi đua của lớp. Bắt đầu từ tháng 11 về sau các em đã
quen dần và đi vào nề nếp.
Khi việc xếp hàng đã đi vào nề nếp thì thời gian tiến hành sẽ rất nhanh, tốn ít

thời gian và không gây mất trật tự trước lớp học.
7.2.2.4. Xây dựng nề nếp chuẩn bị đồ dùng
Thường ngày các em thường phải mang tất cả đồ dùng học tập mà các em có
đến lớp, đôi lúc cặp không còn chỗ chứa, rất nặng nề so với thể trạng của các
em. Nhưng bên cạnh đó còn một số em lại quên mang sách vở đã gây khó khăn
cho việc dạy – học. Vì thế tôi từng bước hướng dẫn các em mang sách, vở đúng
theo quy định phân môn và thời khóa biểu.
- Ghi thời khóa biểu dán ngay góc học tập ở nhà.
- Sách vở học để ngay ngắn, không vức lung tung. Bao và ghi nhãn vở đầy đủ.
- Cuối mỗi buổi học trước khi về nhà tôi dành vài phút để hướng dẫn các em
đem theo sách, vở gì cho ngày mai và gọi học sinh nhắc lại.
- Dặn học sinh tối học bài xong phải chuẩn bị sách, vở và đồ dùng học tập cho
ngày mai. Tránh sáng dậy trễ các em lúng túng nên soạn không đầy đủ .
- Vào đầu buổi học các tổ trưởng kiểm tra lại, nếu em nào thực hiện không
đúng tôi sẽ hướng dẫn lại, sai phạm nhiều lần sẽ báo phụ huynh nhờ sự giúp đỡ.
Với các bước thực hiện như trên cho đến học kì một thì các em đã có thói quen
chuẩn bị sách vở đúng theo quy định, các em cảm thấy thoải mái không còn lo
sợ khi đến lớp mà quên mang sách, vở nên việc học tập diễn ra nhẹ nhàng hơn.
7.2.2.5. Xây dựng nề nếp học tập
Tổ chức có kế hoạch hoạt động học tập cho học sinh nhằm nâng cao kết quả
học tập là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của giáo viên chủ
nhiệm. Kết quả hoạt động học tập không những thể hiện ở kết quả nắm tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo mà còn thể hiện ở kết quả phát triển năng lực của trí tuệ, năng
lực tư duy sáng tạo ở học sinh.
- Mỗi ngày tôi đều đến lớp sớm (15 phút) dành thời gian để quan tâm tới các
em, tạo cho các em sự gần gũi, tin cậy, hướng dẫn các em truy bài. Khi tôi gần
gũi với các em thì các em không còn e dè, các em đã biết hoạt động học tập ở
trường là vì thích hơn là vì nghĩa vụ.
- Tôi yêu cầu các em viết cụ thể thời gian biểu ở nhà của mình
14



- Kiểm tra sự chuẩn bị bài ở nhà của học sinh qua việc kiểm tra bài cũ.
- Hướng dẫn cha mẹ học sinh quản lý học sinh học tập ở nhà (có góc học tập
ở nhà và thời gian biểu cho học sinh)
Tôi tích cực đổi mới phương pháp dạy và học phù hợp với đối tượng học sinh
mình phụ trách, để tăng cường tính tự học của học sinh, thường xuyên sử dụng
tranh ảnh, đồ dùng học tập mang tính minh họa cao để tạo hứng thú học tập cho
các em.
Tạo cho học sinh có thói quen tự lực, không dựa dẫm vào bạn khi làm bài ở
lớp, khi kiểm tra. Trong các kì kiểm tra học sinh làm bài nghiêm túc, không có
hiện tượng quay cóp, gian lận.
Phân loại học sinh để có kế hoạch phụ đạo và bồi dưỡng:
*Đối với học sinh năng khiếu: Trong các tiết dạy, tôi đưa ra từ 1 đến 2 câu
hỏi với yêu cầu cao hơn, dạng các câu hỏi sao (*) hoặc các bài tập nâng cao. Để
ra các câu hỏi này, tôi luôn nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy, tìm hiểu ở các tài
liệu có liên quan nhằm mục đích hướng dẫn, kích thích học sinh (nhất là học
sinh hoàn thành tốt kiến thức kỹ năng môn học) tự tìm ra kiến thức mới, mở
rộng tầm hiểu biết của học sinh.
*Đối với học sinh chưa hoàn thành kiến thức kỹ năng môn học: Các em
chán học do bị mất căn bản ở lớp dưới. Học sinh cảm thấy việc học rất nặng nề.
Qua tìm hiểu theo dõi trong quá trình giảng dạy tôi nắm được những kiến thức
do học sinh bị hổng. Tôi đưa ra bài tập dễ, sử dụng câu hỏi nhỏ, đơn giản, phù
hợp với sức học của mỗi em, gọi các em trả lời hoặc giải bài tập, đồng thời
tuyên dương kịp thời cũng như động viên giúp đỡ các em trong quá trình thực
hiện các bài tập. Từ các bài tập dễ tôi nâng dần lên theo sự tiến bộ của học sinh.
Bên cạnh đó, thành lập các đôi bạn cùng tiến, xếp cho học sinh khá giỏi ngồi
gần bạn yếu, kém. Qua một thời gian tôi thấy các em này tiến bộ rõ rệt.
Thường xuyên trao đổi học tập kinh nghiệm của đồng nghiệp để bổ sung
phương pháp phụ đạo và bồi dưỡng cho bản thân nhằm nâng cao hiệu quả bồi

dưỡng và phụ đạo mà mình đã đặt ra.
Tạo cho học sinh thói quen và sự say mê đọc sách bằng cách khuyến khích
các em đọc sách báo ở thư viện mỗi tuần 1 – 2 lần vào giờ ra chơi.
Tôi cố gắng xây dựng ở các em những động cơ học tập, khích lệ các em vượt
mọi trở ngại bằng sự quan tâm, nhắc nhở có sự khen thưởng kịp thời.
Trong chương trình Tiểu học, môn toán giữ vị trí quan trọng, thời gian dành
cho môn toán chiếm tỉ lệ khá cao trong toàn bộ quỹ thời gian các môn học ở
Tiểu học. Bởi vì môn toán là một trong những môn khoa học, đối với bậc Tiểu
15


học, nó góp phần rèn luyện cho học sinh phương pháp suy luận, cách giải quyết
vấn đề giúp các em phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, cách xử lý
tình huống linh hoạt, sáng tạo.
Dạy học Toán ở Tiểu học nhằm giúp học sinh: Có những kiến thức cơ bản ban
đầu về số học các số tự nhiên, các đại lượng thông dụng; một số yếu tố hình học
và thống kê đơn giản. Giải được các bài toán đơn giản có ứng dụng nhiều trong
thực tế xây dựng nền móng toán học để các em học tiếp lên các bậc học trên
đồng thời ứng dụng thiết thực trong cuộc sống hàng ngày của các em. Góp phần
bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lý và diễn đạt đúng
(nói và viết) cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi
trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán; góp phần
hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch, khoa học,
chủ động, linh hoạt, sáng tạo.
7.2.3. Hoạt động ngoài giờ lên lớp
Căn cứ vào kế hoạch chung của nhà trường và dựa vào tình hình cụ thể của
lớp, giáo viên chủ nhiệm cần xây dựng kế hoạch lao động cụ thể như: lao động
vệ sinh làm sạch đẹp trường lớp, lao động sản xuất, lao động công ích, … Bên
cạnh hoạt động học tập, giáo viên chủ nhiệm còn phải quan tâm tổ chức cho học
sinh vui chơi, giải trí, rèn luyện thể lực, bảo vệ sức khỏe nhằm giúp học sinh mở

mang trí tuệ, phát triển thể chất, tăng cường sức khỏe, sảng khoái tinh thần nhằm
bảo đảm thực hiện yêu cầu phát triển toàn diện cho học sinh đồng thời tạo ra
những điều kiện thuận lợi để học tập, rèn luyện và tu dưỡng tốt. Tôi luôn tạo ra
những khoảng không gian thư giãn, giải trí đó là những hoạt động ngoài giờ lên
lớp như: sinh hoạt tập thể, tìm hiểu truyền thống nhà trường, chương trình văn
nghệ, …
- Giáo dục học sinh có ý thức xây dựng trường lớp “Xanh – Sạch – Đẹp”
thường xuyên chăm sóc cây xanh trong trường học.

16


Giáo viên chủ nhiệm cùng học sinh chăm sóc cây xanh

- Giáo dục học sinh biết lao động tự phục vụ.
- Giáo dục học sinh có ý thức rèn luyện thể dục thể thao như tập thể dục mỗi
buổi sáng, thể dục giữa giờ ở trường.

Chủ tịch hội đồng tự quản tự cho lớp tập các động tác thể dục

- Tham gia các hoạt động y tế để bảo vệ sức khỏe như uống thuốc tẩy giun,
phòng chống sốt xuất huyết, cúm, khám sức khỏe định kỳ, …
- Giáo dục học sinh giữ vệ sinh thân thể, trang phục đến lớp luôn gọn gàng
sạch sẽ (rửa tay trước khi ăn trưa, đánh răng sau khi ăn ở trường, …).
- Động viên các em tham gia những phong trào đoàn thể, phong trào do
trường tổ chức để rèn luyện thêm sự nhanh nhẹn, bạo dạn như: Thi viết chữ đẹp
(đạt giải nhất cấp trường), thi văn nghệ (6 học sinh trong đội văn nghệ của
trường), tham gia hội khỏe Phù Đổng (đạt giải nhất nhảy dây và kéo co), thi kể
chuyện theo sách đạo đức (giải nhất cấp trường),…
- Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, phòng chống các tệ nạn xã hội

xâm nhập vào nhà trường (ký bản cam kết Chiến sĩ an ninh nhỏ).
- Phối hợp với giáo viên bộ môn dạy cho các em bài hát quy định, trò chơi
dân gian (đạt giải nhất hát cấp trường),… nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn.
- Tổ chức sân chơi cho học sinh ở lớp như: Chiếc nón kì diệu, Ai là triệu phú,
Rung chuông vàng ,… trong các tiết học và hoạt động ngoài giờ lên lớp để phát
huy và chọn lọc những học sinh có năng khiếu để tham gia các hội thi do nhà
trường tổ chức.
7.2.4 Công tác xã hội hóa giáo dục kết hợp với các lực lượng giáo dục

17


Đây là công tác mà bản thân tôi cảm thấy vô cùng quan trọng. Nó quan
trọng bởi lẽ, nếu chỉ có một mình tôi ảnh hưởng, giáo dục, chỉ bảo,… các em thì
kết quả giáo dục của tôi không chắc mang lại kết quả cao. Do đó trong suốt
những năm làm công tác chủ nhiệm, tôi luôn có sự phối hợp chặt chẽ với các lực
lượng giáo dục như: tổ chức Đoàn, Đội, với giáo viên bộ môn, Ban giám hiệu
nhà trường, phụ huynh học sinh, …
7.2.5. Phối hợp với tổ chức Đoàn, Đội
Trong trường luôn có rất nhiều hoạt động vui chơi, giải trí nhằm bổ trợ cho
hoạt động học tập của học sinh. Ví dụ: Tổ chức thi thể thao, chơi các trò chơi
dân gian, thi Rung chuông vàng,.... Khi chi đội 2C của tôi tham gia, tôi luôn là
người hướng dẫn tổ chức, tôi ủng hộ tất cả những ý tưởng của chi đội, gợi ý để
các em tự giác tham gia một cách có hiệu quả.
Tôi luôn coi tổ chức Đội là lực lượng nòng cốt hỗ trợ trong việc giáo dục học
sinh. Phối hợp với Đoàn, Đội để giáo dục học sinh, khuyến khích các em tích
cực học tập và làm theo 5 điều Bác Hồ dạy.
7.2.6. Phối hợp với các giáo viên bộ môn
Hàng ngày lên lớp, tôi luôn có sự trao đổi cùng các giáo viên bộ môn, giáo viên
của các năm học trước để tạo thành một tập thể sư phạm có tác động đồng bộ tới

từng học sinh và tập thể học sinh. Tôi luôn lắng nghe và tiếp thu ý kiến của giáo
viên bộ môn về tình hình của lớp, đặc biệt là những học sinh có hoàn cảnh khó
khăn, những em còn rụt rè trong giờ học cũng như những học sinh chưa ngoan
trong giờ học bộ môn. Ví dụ: Với tiết Âm nhạc, tôi thường xuyên trao đổi với
giáo viên để nắm được những em học tốt, đặc biệt những em học chưa tốt, tìm
hiểu nguyên nhân để giúp học sinh đó tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn.
Qua việc làm đó tôi đã giúp những em này mạnh dạn hơn rất nhiều trong tiết
Âm nhạc. Trong các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp, tôi thường xuyên cho
những tiết mục văn nghệ xen kẽ, để tạo cho các em sự tự tin hơn trong môn Âm
nhạc. Kết quả là lớp tôi đã có rất nhiều em hát hay, múa đẹp, 2 học sinh nằm
trong đội văn nghệ của trường, thi múa hát văn nghệ đạt giải nhất.
7.2.7. Phối hợp với Ban giám hiệu của trường và các lực lượng giáo dục khác
Tôi là người được Ban giám hiệu phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 2C.
Trên tinh thần đó, tôi vẫn thường xuyên báo cáo, tâm sự cùng Ban giám hiệu về
tình hình học tập, kết quả học tập, nguyện vọng của học sinh để tìm ra những
biện pháp thích hợp để giáo dục các em một cách tốt hơn.
Ngoài ra, tôi còn có sự phối hợp cùng với giáo viên thư viện, bảo vệ, phục
vụ, … để nắm được tinh thần chấp hành kỷ luật, nội quy của nhà trường như thế
nào? Đặc biệt với những học sinh quá hiếu động. Ví dụ: Lớp tôi có một học sinh
rất hay đi muộn, em luôn có lý do rất hợp lý khiến tôi không thể trách em. Bên
cạnh việc nhắc nhở em, tôi trao đổi với bảo vệ, nhờ bảo vệ quan sát giúp xem
18


mỗi lần em đi muộn vì lí do gì, do ai chở đi. Từ đó, giúp tôi tìm được nguyên
nhân chính xác hơn để giáo dục em.
Những sự phối hợp trên đã cho tôi rất nhiều sự thành công trong quá trình
giáo dục nề nếp, học tập của học sinh.
7.2.8. Phối hợp với gia đình học sinh
Gia đình là trường học đầu tiên của trẻ. Ảnh hưởng giáo dục của gia đình là

rất lớn. Là giáo viên chủ nhiệm, tôi thiết nghĩ, nếu việc liên lạc với phụ huynh
học sinh chỉ đơn thuần là để thông tin một chiều, về những sai phạm của học
sinh thì sẽ làm giảm sút hiệu quả giáo dục. Cho nên, ngay sau khi khảo sát chất
lượng đầu năm học tôi tiến hành họp phụ huynh học sinh. Trước tiên tôi phải
giúp cho phụ huynh học sinh hiểu được mục đích và yêu cầu giáo dục cần đạt
của lớp 2 là gì? Từ đó tôi cùng phụ huynh trao đổi, bàn bạc để tìm ra biện pháp,
hình thức giáo dục cho học sinh.
Mỗi buổi họp phụ huynh, tôi đều cố gắng báo cáo rõ về ưu điểm và tránh nói
về nhược điểm của các em một cách cụ thể. Từ đó giúp phụ huynh học sinh cảm
thấy mỗi buổi học thật sự cần thiết và nhận thức được rằng tương lai của con em
mình muốn rạng rỡ thì phải tập trung vào việc học tập. Có lẽ vì thế mà sau này
cha mẹ các em đã tạo điều kiện rất nhiều cho các em trong việc học tập, họ
không còn có ý nghĩ việc dạy học và giáo dục trẻ là trách nhiệm của riêng nhà
trường và thầy cô mà họ đã luôn liên hệ với thầy cô để có biện pháp giúp con em
mình học tiến bộ.
Thường xuyên thăm hỏi gia đình học sinh cá biệt, học sinh có hoàn cảnh khó
khăn để kịp thời động viên, giúp đỡ tạo điều kiện cho các em đến lớp học đều
đặn. Ví dụ: Trong lớp tôi chủ nhiệm, có một học sinh học rất tốt nhưng trong
thời gian cuối kì I vừa qua, kết quả kiểm tra của em không được như tôi mong
đợi. Để tìm hiểu lý do, tôi phải cùng tâm sự với em, tìm hiểu em từ nhiều nguồn
thông tin. Tôi hiểu được vì sao học sinh của tôi lại như thế. Tôi đã cố gắng trở
thành một người chị thân thiết của em để giúp em vượt qua. Sau một thời gian
ngắn, tôi liên lạc với cha em cùng trao đổi về việc học của em. Cha em có lời
nhận lỗi trong việc giáo dục em và từ đó tinh thần của em đã tốt hơn. Em đã học
tốt trở lại. Điều đấy khiến tôi cảm thấy việc liên lạc cùng gia đình học sinh là vô
cùng quan trọng.
Để sĩ số không bị giảm tôi thường động viên các em đến lớp đều, nếu thấy em
nào vắng mặt 2 -3 ngày là tôi tìm đến nhà tìm hiểu nguyên nhân và động viên
em ra lớp, thường xuyên tạo không khí vui vẻ, hòa nhập cho các em trong giờ học.
7.2.9. Kết hợp linh hoạt, khéo léo các phương pháp dạy học

Công tác chủ nhiệm lớp đòi hỏi giáo viên có khả năng vận dụng một cách linh
hoạt, khéo léo tất cả các phương pháp giáo dục nói chung đồng thời có hiểu biết
đầy đủ và có kỹ năng sử dụng tốt các phương pháp tác động đặc thù trong công
tác chủ nhiệm.
19


7.3. Về khả năng áp dụng của sáng kiến
Sau khi sáng kiến được áp dụng tại trường, tôi nhận thấy rằng sáng kiến của
tôi đưa vào áp dụng không những giúp các em năng động, sáng tạo có kết quả
học tập tốt hơn mà còn giúp các em say mê môn học, biết thương yêu giúp đỡ
lẫn nhau, cùng giúp nhau tiến bộ, các em biết nhường nhịn nhau và ngoan hơn
trước rất nhiều. Vì vậy tôi nhận thấy sáng kiến này rất cần thiết cho công tác chủ
nhiệm. Sáng kiến này đã đem lại thành công cho lớp tôi. Nó không chỉ áp dụng
cho một lớp học trong trường mà nó còn có thể áp dụng đối với trường khác.
Sau khi áp dụng tôi thấy các môn học và các hoạt động giáo dục được nâng cao
7.3.1. Kết quả môn học và các hoạt động giáo dục
* Lớp áp dụng sáng kiến: Lớp 2C - Trường Tiểu học Hợp Thịnh
* Kết quả đạt được cuối học kì I môn Toán, Tiếng Việt như sau:
Môn
Tiếng Việt
Toán

TS
HS

Giỏi
TS

32

32

7
8

Khá

%

TS

21,9
25

%

12
10

37,5
31,3

Trung bình
TS
11
13

%

Yếu

TS

34,4
40,6

%

2
1

6,2
3,1

* Kết quả đạt được ở cuối học năm học như sau:

Môn

TS
HS

Giỏi
TS

Khá

%

TS

%


Trung bình
TS

%

Yếu
TS

Tiếng Việt

32

15

46,9

11

34,4

6

18,7

0

Toán

32


12

37,5

15

46,9

5

15,6

0

%

7.3.2. Kết quả năng lực và phẩm chất
Năng lực,
phẩm chất
Học kì 1
Học kì 2

TS
HS
32
32

Tốt
TS

15
21

%
46,9
65,6

Đạt
TS
%
17
53,1
11
34,4

Cần cố gắng
TS
%
0
0

* Lớp không áp dụng sáng kiến: Lớp 2B - Trường Tiểu học Duy Phiên B
Sĩ số: 27.
* Kết quả khảo sát đầu năm môn Toán, Tiếng Việt như sau:
Môn
Giỏi
Khá
Trung bình
TS
%

TS
%
TS
%

20

Yếu
TS

%


Tiếng
Việt

6

22,2

7

25,9

10

37,1

4


14,8

Toán

5

18,6

8

29,6

12

44,4

2

7,4

* Kết quả đạt được cuối học kì I môn Toán, Tiếng Việt như sau:
Môn

TS
HS

Giỏi
TS

Khá


%

TS

Trung bình

%

TS

Yếu

%

TS

%

Tiếng Việt

27

4

14,8

7

25,9


14

51,9

2

7,4

Toán

27

6

22,2

9

33,3

10

37,1

2

7,4

* Kết quả đạt được ở cuối học năm học như sau:


Môn

TS
HS

Giỏi

Khá

TS

Tiếng Việt

27

7

25,9

10

37,05

10

37,05

0


Toán

27

10

37,05

7

25,9

10

37,05

0

%

TS

Trung bình

%

TS

%


Yếu
TS

%

* Kết quả năng lực và phẩm chất
Năng lực,
phẩm chất

TS
HS

Tốt

Học kì 1

27

13

48,1

14

51,9

0

Học kì 2


27

15

55,5

12

44,5

0

TS

Đạt
%

TS

Cần cố gắng

%

TS

%

7.3.3. Bảng so sánh kết quả của 2 lớp
* Kết quả môn Toán đầu năm.
Lớp


TS
HS

Giỏi
TS

2C

32

5

15,6

8

25

14

43,8

5

15,6

2B

27


5

18,6

8

29,6

12

44,4

2

7,4

%

Khá
TS

* Kết quả môn Tiếng Việt đầu năm.
21

%

Trung bình
TS


%

Yếu
TS

%


×